- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
PHẨM "THẬT TẾ"
Phần sau quyển 473, cho đến phần đầu quyển 374, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Bất Khả Động”, phần cuối quyển 386
cho đến phần đầu quyển 390, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
(Hữu tình tế không khác với thật tế)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình và thi thiết (an lập) hữu tình hoàn toàn chẳng thể được. Vậy, các đại Bồ Tát vì ai mà hành sâu Bát Nhã?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát chỉ lấy thật tế làm (định) lượng, mà hành sâu Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết! Nếu hữu tình tế khác với thật tế thì không nên hành sâu Bát nhã Ba la mật. Vì hữu tình tế không khác với thật tế nên chúng đại Bồ Tát vì các hữu tình mà hành sâu Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, không hoại pháp thật tế, an lập hữu tình khiến cho trụ pháp thật tế.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu hữu tình tế tức là thật tế thì tại sao đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, không hoại pháp thật tế, an lập hữu tình khiến trụ thật tế?
Bạch Thế Tôn! Nếu khi đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ hữu tình, khiến cho trụ thật tế thì tức là an trụ thật tế, khiến cho trụ thật tế.
Bạch Thế Tôn! Nếu khi đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, an lập thật tế, khiến cho trụ thật tế thì tức là an lập tự tánh, khiến cho trụ tự tánh. Nhưng đúng lý thì không nên an lập tự tánh khiến cho an trụ tự tánh, vậy tại sao có thể nói khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, không hoại pháp thật tế, an lập hữu tình, khiến trụ thật tế?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Không thể an lập thật tế khiến trụ thật tế, cũng không thể an lập tự tánh, khiến trụ tự tánh. Nhưng khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì có phương tiện thiện xảo, nên có khả năng an lập hữu tình khiến trụ thật tế, mà hữu tình không khác với thật tế, hữu tình tế và thật tế không hai, không khác.
(Sáu Ba la mật là phương tiện thiện xảo để an lập hữu tình,
khiến trụ thật tế mà không hoại tướng thật tế)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo của các đại Bồ Tát, khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhờ lực phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình, khiến trụ thật tế mà không hoại tướng thật tế?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình, khiến trụ bố thí. Sau khi an lập xong, vì họ mà nói tướng trước, sau, giữa của bố thí không có khác nhau. Nghĩa là nói bố thí như vậy thì trước, sau, giữa hoàn toàn đều là không. Người thí, người thọ thí và kết quả thí cũng đều là không. Tất cả pháp như vậy ở trong thật tế, đều vô sở hữu, đều chẳng thể đắc. Các ông chớ cho rằng sự bố thí, người thí, người thọ thí và quả thí, mỗi mỗi khác nhau. Nếu các ông không chấp sự bố thí, người thí, người thọ thí và quả thí đều khác nhau thì việc tu thí phước sẽ hướng đến cam lồ, được quả cam lồ, nhất định lấy Cam lồ làm hậu cứ.
Lại nói như vầy: Các ông dụng pháp tu bố thí này, chớ nắm giữ sắc cho đến thức; chớ nắm giữ mười hai xứ cho đến mười tám giới; chớ nắm giữ nhãn xúc cho đến ý xúc; chớ nắm giữ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chớ nắm giữ địa giới cho đến thức giới; chớ nắm giữ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; chớ nắm giữ từ duyên sanh ra các pháp; chớ nắm giữ vô minh cho đến lão tử; chớ nắm giữ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; chớ nắm giữ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chớ nắm giữ bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; chớ nắm giữ giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện; chớ nắm giữ nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chớ nắm giữ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; chớ nắm giữ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo… cho đến chớ nắm giữ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; chớ nắm giữ quả Dự lưu cho đến quả Độc giác; chớ nắm giữ tất cả Bồ Tát hạnh; chớ nắm giữ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; chớ nắm giữ pháp thiện, pháp ác; chớ nắm giữ pháp hữu ký, vô ký; chớ nắm giữ pháp hữu lậu, vô lậu; chớ nắm giữ pháp thế gian, xuất thế gian; chớ nắm giữ pháp hữu vi, vô vi. Vì sao? Vì tất cả sự bố thí, tánh bố thí đều không. Tất cả người thí, tánh người thí đều không. Tất cả quả thí, tánh quả thí đều không. Trong không ấy, sự thí, người thí, người thọ thí và các quả thí đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh sai biệt của các pháp như vậy, hoàn toàn không. Trong không rốt ráo ấy, các pháp như vậy đều không thể được. Do các pháp đây chẳng thể được, nên nắm giữ pháp khác cũng chẳng thể được.
Lại nữa Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình khiến trụ tịnh giới. Sau khi an lập xong, lại nói như vầy: Ngày nay, đối với các hữu tình, các ông nên hết lòng thương yêu, lìa bỏ sự giết hại sanh mạng, cho đến lìa bỏ tà kiến, tu hành chánh kiến. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều không có tự tánh. Các ông không nên phân biệt chấp trước. Các ông phải nên như thật quán sát pháp nào gọi là sanh, sao muốn đoạn mạng sống ấy, lại dùng nhân duyên gì mà đoạn mạng sống ấy, nói rộng cho đến pháp nào gọi là cảnh tà kiến, sao muốn khởi tà kiến! Lại vì nhân duyên gì mà khởi tà kiến! Tất cả pháp như vậy, tự tánh đều không.
Này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát ấy hành sâu Bát Nhã, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, hay khéo thành thục các loài hữu tình, dùng vô lượng môn giảng nói bố thí và quả tịnh giới đều chẳng thể được, khiến cho họ biết tự tánh của sự bố thí và quả tịnh giới đều không. Họ đã biết tự tánh của sự tu bố thí và quả tịnh giới đều không rồi, nên ở trong ấy không sanh chấp trước. Do không chấp trước nên tâm không tán loạn. Do tâm không tán loạn nên có khả năng phát sanh diệu tuệ. Nhờ diệu tuệ này mà đoạn trừ vĩnh viễn tùy miên và các triền phược, rồi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn.
Này Thiện Hiện! Như vậy, nương vào thế tục mà nói, chẳng phải nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong không, không có một chút pháp nào có thể nắm bắt được. Hoặc đã Niết bàn, hoặc sẽ Niết bàn, hoặc nay Niết bàn, hoặc người Niết bàn, hoặc do đây nên được bát Niết bàn; tất cả pháp như vậy, đều không thật có, đều rốt ráo không. Tánh không rốt ráo tức là Niết bàn, lìa Niết bàn này không có pháp khác.
Lại nữa Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Nhờ lực phương tiện thiện xảo này, nên thấy tâm các hữu tình nhiều sân hận, liền hết lòng thương yêu dạy bảo, điều phục tâm họ khiến cho nhận hạnh an nhẫn, nói như vầy: Nay các ông nên tu an nhẫn, vui với pháp an nhẫn. Pháp mà các ông sân, tự tánh đều không. Vì sao đối với pháp ấy lại sanh tâm sân hận? Các ông nên như thật quán sát, do pháp nào mà ta sanh sân hận, ai sân hận, sân hận với ai. Các pháp như vậy đều là bản tánh không. Pháp bản tánh không chưa từng chẳng không. Tánh không như vậy, chẳng phải Phật tạo ra, chẳng phải Bồ Tát tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Thanh văn tạo ra; cũng chẳng phải trời, rồng, các thần Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn, phi nhơn tạo ra; cũng chẳng phải trời Tứ đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại tạo ra, cũng chẳng phải trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh tạo ra, cũng chẳng phải trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ tạo ra.
Các ông lại nên như thật quán sát, sân hận như vậy do đâu sanh, thuộc về ai, ai khởi, sẽ được quả gì, hiện tại được lợi gì! Tất cả pháp này đều là bản tánh không, chẳng phải trong tánh không mà có sân hận, cho nên an nhẫn để tự được lợi ích.
Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu, thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng, an lập hữu tình nơi lý tánh không, nhân quả của tánh không, dần dần đem pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chỉ dạy, vui vẻ khuyến khích cổ vũ khiến cho an trụ, sớm được chứng đắc.
Này Thiện Hiện! Như vậy là nương vào thế tục mà nói, chẳng phải nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong bản tánh không, tất cả năng đắc, sở đắc, xứ đắc, thời đắc đều chẳng có.
Thiện Hiện nên biết! Đó gọi là lý thật tế bản tánh không. Các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên nương vào lý thật tế bản tánh không này mà hành Bát Nhã thẳm sâu, chẳng thấy có hữu tình và pháp tạo ra. Vì sao? Vì tất cả pháp lìa hữu tình. Vì lìa hữu tình nên pháp chẳng thể đắc. Pháp và hữu tình an lập đối đãi mà có.
Lại nữa Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này, nên thấy thân tâm của các hữu tình biếng nhác, thối mất tinh tấn, mới liền khích lệ làm cho phát khởi thân tâm tinh tấn, tu các thiện pháp, bằng những lời như vầy: Này các thiện nam! Các ông nên ghi nhận, tin sâu: Trong bản tánh không, không có pháp biếng nhác, không có người biếng nhác, không có xứ biếng nhác, không có thời biếng nhác, không do pháp đây mà phát sanh biếng nhác. Tất cả pháp như vậy, bản tánh đều không, không vượt qua lý không. Các ông nên phát khởi thân tâm tinh tấn, xả bỏ các sự biếng nhác, chuyên cần tu thiện pháp. Đó là tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc tu môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc trụ nội Không cho đến vô tính tự tính Không. Hoặc trụ chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Hoặc trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo… cho đến hoặc tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Hoặc tu quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Hoặc tu tất cả Bồ Tát hạnh. Hoặc tu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc tu vô lượng các pháp Phật khác.
Đại Bồ Tát nên khuyên họ tinh tấn, chớ sanh biếng nhác. Nếu sanh biếng nhác thì thọ khổ vô cùng.
Này các thiện nam! Tất cả pháp này đều bản tánh không, không có các chướng ngại. Các ông nên quán lý bản tánh không. Trong ấy, không có chướng ngại, không có pháp biếng nhác, không có người biếng nhác. Duyên xứ (chỗ), thời (thời gian) cũng chẳng thể được.
Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, an lập hữu tình, khiến cho trụ lý bản tánh không của các pháp. Tuy làm cho an trụ, nhưng không có hai tưởng. Vì sao? Vì lý bản tánh không không có hai, không phân biệt, chẳng thể ở trong pháp không hai mà tác hai tưởng.
Lại nữa Thiện Hiện! đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, nương vào bản tánh không mà giáo giới dạy bảo các loài hữu tình, khiến cho tinh cần tu học, bằng những lời như vầy: “Này các thiện nam! Đối với thiện pháp, các ông nên chuyên cần tinh tấn tu tập. Như khi tu tập bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Hoặc khi trụ chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Nói rộng ra, hoặc khi tu vô lượng các Phật pháp khác, đối với các pháp này, các ông không nên tư duy phân biệt hai tướng hay không hai tướng. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì các pháp như vậy đều bản tánh không. Trong lý bản tánh không, không nên tư duy phân biệt hai hay không hai.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, hành Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình. Các loài hữu tình sau khi được thành thục, tùy theo sự ứng hợp với mình mà được an lập dần theo thứ lớp. Như làm cho họ trụ quả Dự lưu, hoặc làm cho trụ quả Nhất Lai, quả Bất Hoàn, quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc làm cho trụ ngôi vị thù thắng của Bồ Tát, hoặc làm cho trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, do lực phương tiện này nên thấy tâm của các hữu tình rất tán loạn. Đối với các cảnh dục, hữu tình chẳng thể thu nhiếp các căn, phát sanh đủ loại nghiệp chẳng tịch tĩnh. Thấy vậy, đại Bồ Tát dùng phương tiện làm cho họ nhập vào định thù thắng và dạy như vầy: Lại đây thiện nam! Ông nên tu tập Tam ma địa thù thắng, chớ khởi tâm tán loạn và tưởng thắng định. Vì sao? Vì tất cả pháp này đều là bản tánh không. Trong bản tánh không, không có pháp để được, không có tên gọi tán loạn hay tên gọi nhất tâm. Nếu các ông trụ định thù thắng này, làm các việc thiện thì đều sớm được thành tựu viên mãn, cũng tùy theo sở dục mà trụ bản tánh không.
Thế nào gọi là làm các việc thiện? Đó là phát khởi thân, ngữ, ý nghiệp thanh tịnh thù thắng. Như tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc trụ nội Không cho đến vô tính tự tính Không. Hoặc trụ chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì. Nói rộng ra, hoặc tu hoặc trụ tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật. Tất cả thiện pháp thù thắng như vậy đều do định lực thù thắng mà sớm thành tựu, và tùy theo sở nguyện mà trụ bản tánh không.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu, từ sơ phát tâm cho đến cứu cánh, mong làm điều thiện lợi ích thường không gián đoạn. Vì muốn làm lợi lạc cho các hữu tình, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, đại Bồ Tát gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn; ở chỗ chư Phật, nghe nhận giáo pháp, bỏ thân, thọ thân, trải qua vô lượng kiếp cho đến khi thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong thời gian ấy, đại Bồ Tát không bao giờ quên mất. Đại Bồ Tát này đắc Đà la ni, các căn không giảm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này thường khéo tu đầy đủ Nhất thiết trí trí, nên các việc làm đều được tư duy chơn chánh. Do khéo tu đầy đủ Nhất thiết trí trí, các việc làm đều tư duy chơn chánh, nên đối với tất cả đạo, đều có thể tu tập. Đó là đạo Thanh văn, hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Bồ Tát, hoặc đạo chư Phật, hoặc thiên đạo thù thắng, hoặc nhơn đạo thù thắng, hoặc đạo thần thông thù thắng của chư Bồ Tát.
Các đại Bồ Tát này, do trụ đạo thần thông thù thắng, nên thường làm các việc lợi ích cho các hữu tình. Tuy trải qua các cõi sanh tử luân hồi, nhưng thần thông thù thắng vẫn không thối giảm. Do thần thông dị thục không thối giảm, nên thường làm việc lợi ích thù thắng cho mình và người.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu, trụ bản tánh không, bằng phương tiện thiện xảo, khéo làm lợi lạc cho các loài hữu tình, sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do lực phương tiện thiện xảo này nên trụ bản tánh không, thấy các hữu tình trí tuệ kém mỏng, ngu si điên đảo, tạo các ác nghiệp, đại Bồ Tát phương tiện dẫn họ nhập vào Bát Nhã thẳm sâu, bằng lời dạy như vầy: “Lại đây thiện nam tử! Các ông nên tu Bát Nhã thẳm sâu, quán bản tánh không tịch của tất cả pháp. Nếu các ông khéo tu tập Bát nhã Ba la mật đây, quán bản tánh không tịch của tất cả pháp, thì thân ngữ ý nghiệp mà các ông tu hành đều hướng đến Cam lồ, được quả Cam lồ, nhất định lấy Cam lồ làm hậu cứ. Này các thiện nam! Tất cả pháp này đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và pháp tuy chẳng thể đắc được, nhưng việc tu hành không có thối mất. Vì sao? Này thiện nam tử! Vì lý bản tánh không chẳng tăng, chẳng giảm. Trong bản tánh không, pháp cũng không tăng, không giảm. Vì sao? Vì lý bản tánh không lấy vô tánh làm tánh, lìa phân biệt, tuyệt hý luận, nên ở trong đây, pháp không tăng giảm. Do đây, việc làm cũng không thối mất. Vì vậy, các ông phải nên tu tập Bát nhã Ba la mật, quán bản tánh không, làm việc nên làm.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phương tiện khéo léo dạy bảo, trao truyền cho các hữu tình, khiến cho nhập vào Bát nhã Ba la mật, trụ bản tánh không, tu các thiện nghiệp.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy dạy bảo, trao truyền cho các hữu tình như vậy, thường không biếng nhác phế bỏ. Nghĩa là tự mình thường hành mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác thường hành mười thiện nghiệp đạo. Tự mình thường thọ trì năm giới cận sự, cũng khuyên người khác thường thọ trì năm giới cận sự. Tự mình thường thọ trì tám giới cận trụ, cũng khuyên người khác thọ trì tám giới cận trụ. Tự mình thường thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người khác thường thọ trì giới xuất gia. Tự mình thường tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng khuyên người khác thường tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tự mình thường tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng khuyên người khác thường tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tự mình thường tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện, cũng khuyên người khác thường tu giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện. Tự mình thường tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người khác thường tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Tự mình thường trụ nội không cho đến vô tính tự tính không, cũng khuyên người khác thường trụ nội không cho đến vô tính tự tính không. Tự mình thường an trụ chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, cũng khuyên người khác thường an trụ chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Nói rộng ra, tự mình tu hành tất cả pháp Phật cũng khuyên người khác thường tu hành tất cả pháp Phật. Như vậy, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thẳm sâu, tự tu nghiệp thiện, thường không biếng nhác phế bỏ, dạy bảo truyền trao cho các loài hữu tình, khiến tu nghiệp thiện thường không biếng nhác phế bỏ.
Này Thiện Hiện! Đó gọi là các đại Bồ Tát khi hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật do lực phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình ở trong thật tế, mà chẳng hoại tướng thật tế.
(Hữu tình và tất cả pháp đều không thể nắm bắt)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều bản tánh không, thì trong bản tánh không này, hữu tình và pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Do đây không có phi pháp. Vậy, tại sao đại Bồ Tát vì loài hữu tình mà cầu chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn làm lợi ích cho đến tận đời vị lai?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Tất cả các pháp đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Do đây không có phi pháp.
Thiện Hiện nên biết! Nếu tất cả pháp chẳng phải bản tánh không, thì khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, chẳng nên an trụ lý bản tánh không, cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích hữu tình, nói pháp bản tánh không. Vì tất cả pháp đều bản tánh không, cho nên khi đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu, trụ lý bản tánh không của tất cả pháp, cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích hữu tình, mà nói pháp bản tánh không.
Này Thiện Hiện! Những pháp nào bản tánh đều không, mà khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, như thật hiểu biết bản tánh không rồi, trụ bản tánh không vì người nói pháp?
Này Thiện Hiện! Sắc cho đến thức, bản tánh đều không. Mười hai xứ cho đến mười tám giới, bản tánh đều không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, bản tánh đều không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, bản tánh đều không. Địa giới cho đến thức giới, bản tánh đều không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, bản tánh đều không. Các pháp từ duyên sanh ra, bản tánh đều không. Vô minh cho đến lão tử, bản tánh đều không. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, bản tánh đều không. Nội không cho đến vô tính tự tính không, bản tánh đều không. Chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, bản tánh đều không. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật bản tánh đều không. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, như thật hiểu biết các uẩn, xứ, giới…cho đến tất cả pháp Phật bản tánh không rồi, liền trụ bản tánh không, vì các hữu tình mà tuyên thuyết pháp bản tánh không như vậy.
Lại nữa Thiện Hiện! Nếu tánh nội Không bản tánh chẳng không; hoặc tánh ngoại Không, nội ngoại Không, không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán vô tán Không, bản tánh Không, tự cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tánh Không, tự tánh Không, vô tánh tự tánh Không, bản tánh cũng chẳng không, thì khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu, chẳng vì các hữu tình mà nói tất cả pháp bản tánh đều không. Nếu nói như vậy là hoại bản tánh không, nhưng lý bản tánh không chẳng thể hoại, chẳng phải thường cũng chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh không vô phương, vô xứ, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Lý không như vậy cũng gọi là pháp trụ. Trong ấy, không có pháp, không tụ, không tán, không giảm, không tăng, không sanh, không diệt, không sạch, không dơ. Tất cả pháp ấy, vốn trụ tánh như vậy. Các đại Bồ Tát an trụ trong ấy, cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng không thấy có pháp, có chỗ mong cầu hướng đến. Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ nên gọi là trụ pháp.
Các đại Bồ Tát an trụ trong ấy, hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy bản tánh không của tất cả pháp rồi, nhất định đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được bất thối chuyển. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát này không thấy có pháp hay làm chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không có chướng ngại, nên đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không sanh nghi ngờ, mà được bất thối chuyển.
(Bản tánh không đều không có chỗ đắc)
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát trụ trong bản tánh không của tất cả pháp, quán bản tánh không đều không có chỗ đắc. Nghĩa là ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, người sanh, sự dưỡng dục, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, người làm, người thọ, người biết, người thấy, tất cả đều chẳng thể đắc. Sắc cho đến thức cũng chẳng thể đắc. Mười hai xứ cho đến mười tám giới cũng chẳng thể đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng chẳng thể đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng thể đắc. Địa giới cho đến thức giới cũng chẳng thể đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng chẳng thể đắc. Các pháp từ duyên sanh ra cũng chẳng thể đắc. Vô minh cho đến lão tử cũng chẳng thể đắc. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thể đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng chẳng thể đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng thể đắc. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật cũng không thể đắc. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, pháp sắc phi sắc chẳng thể đắc; pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi cũng chẳng thể đắc. Ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp cũng chẳng thể đắc. (Q.473, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết, như có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm bốn chúng, đó là Bí sô, Bí sô ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ; giả sử hóa Phật trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp, tuyên thuyết chánh pháp cho bốn chúng ấy. Ý ngươi nghĩ sao? Hóa chúng như vậy có thể đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng được! Bạch Thiện Huệ! Chẳng được! Vì sao? Vì các hóa chúng này đều không thật. Chẳng phải pháp không thật có thể đắc, có thể được thọ ký.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các pháp cũng vậy, đều bản tánh không, đều không thật. Trong ấy, đại Bồ Tát nào, vì hữu tình nào, nói pháp nào để cho họ chứng được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Thiện Hiện phải biết! Các đại Bồ Tát tuy vì hữu tình tuyên nói pháp không, nhưng các hữu tình thật bất khả đắc. Vì thương xót họ đọa pháp điên đảo nên cứu vớt khiến trụ pháp không điên đảo. Không điên đảo ấy là không phân biệt. Không phân biệt là không điên đảo. Nếu có phân biệt thời có điên đảo.
Thiện Hiện nên biết! Điên đảo tức là pháp không điên đảo. Trong pháp không điên đảo không có ngã, không có hữu tình; nói rộng cho đến không có người biết, không có người thấy; cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cũng không có nhãn xứ cho đến ý xứ; cũng không có sắc xứ cho đến pháp xứ; cũng không có nhãn giới cho đến ý giới; cũng không có sắc giới cho đến pháp giới; cũng không có nhãn thức giới cho đến ý thức giới; cũng không có nhãn xúc cho đến ý xúc; cũng không có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; cũng không có địa giới cho đến thức giới; cũng không có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; cũng không có các pháp từ duyên sanh ra; cũng không có bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; cũng không có nội không cho đến vô tánh tự tánh không; cũng không có chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn; nói rộng ra, cũng không có tất cả pháp Phật.
(Bản tánh không) (1)
Thiện Hiện! Không sở hữu đây tức bản tánh không. Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã an trụ trong đây thấy các hữu tình đọa tưởng điên đảo, phương tiện khéo léo khiến được giải thoát. Nghĩa là khiến giải thoát không ngã tưởng ngã, không hữu tình tưởng hữu tình, nói rộng cho đến không tri giả tưởng tri giả, không kiến giả tướng kiến giả. Cũng khiến giải thoát không thường tưởng thường, không lạc tưởng lạc, không ngã tưởng ngã, bất tịnh tưởng tịnh. Cũng khiến giải thoát không sắc thọ tưởng hành thức, tưởng sắc thọ tưởng hành thức. Cũng khiến giải thoát không mười hai xứ mười tám giới, tưởng mười hai xứ mười tám giới. Cũng khiến giải thoát không nhãn xúc cho đến ý xúc tưởng nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng khiến giải thoát không nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng khiến giải thoát không địa giới cho đến thức giới, tưởng địa giới cho đến thức giới. Cũng khiến giải thoát không nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, tưởng nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng khiến giải thoát không theo duyên sanh ra các pháp, tưởng theo duyên sanh ra các pháp. Cũng khiến giải thoát không bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tưởng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng khiến giải thoát không nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tưởng nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng khiến giải thoát không chơn như cho đến bất tư nghì giới, tưởng chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, cũng khiến giải thoát không tất cả pháp Phật, tưởng tất cả pháp Phật. Cũng khiến giải thoát không năm thủ uẩn cùng các pháp hữu lậu. Cũng khiến giải thoát không bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vì sao? Bốn niệm trụ cùng các pháp vô lậu chẳng phải như thắng nghĩa không sanh không diệt, không tướng không vi, không hý luận, không phân biệt, vậy nên cũng phải giải thoát. Chân thắng nghĩa ấy tức bản tánh không. Bản tánh không đây tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chư Phật đã chứng.
Thiện Hiện nên biết, trong đây không có ngã cho đến người thấy có thể được; cũng không có sắc cho đến thức có thể được; cũng không có mười hai xứ cho đến mười tám giới có thể được; cũng không có nhãn xúc cho đến ý xúc có thể được; cũng không có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có thể được; cũng không có địa giới cho đến thức giới có thể được; cũng không có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể được; cũng không có các pháp từ duyên sanh ra có thể được; cũng không có vô minh cho đến lão tử có thể được; cũng không có bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật có thể được; cũng không có nội không cho đến vô tánh tự tánh không có thể được; cũng không có chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn có thể được; nói rộng ra cũng không có tất cả pháp Phật có thể được.
Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát chẳng vì đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chỉ vì các pháp bản tánh không nên cầu tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bản tánh không ngằn mé trước sau giữa thường bản tánh không, chưa từng chẳng không.
Các đại Bồ Tát trụ bản tánh không Ba la mật, vì muốn độ thoát các loại hữu tình chấp tưởng hữu tình và tưởng pháp nên hành Đạo tướng trí. Đại Bồ Tát này khi hành Đạo tướng trí tức được tất cả đạo, là đạo Thanh văn, hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Bồ Tát, hoặc đạo chư Phật.
Thiện Hiện phải biết: Đại Bồ Tát này đối tất cả đạo được viên mãn rồi, mới năng thành thục giáo hóa hữu tình, cũng năng nghiêm tịnh sở cầu cõi Phật, gạt bỏ các thọ hành, tới chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, năng khiến Phật nhãn thường không đoạn hoại.
Sao gọi Phật nhãn? Nghĩa là bản tánh không. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trụ mười phương cõi, vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, không có vị nào mà không dùng bản tánh không làm Phật nhãn.
Thiện Hiện phải biết: Nhất quyết không thể có chư Phật nào lìa bản tánh không mà xuất hiện ở đời. Chư Phật ra đời không vị nào chẳng thuyết nghĩa bản tánh không. Hữu tình được hóa cần nghe Phật thuyết bản tánh không mới vào Thánh đạo, đắc Thánh quả. Lìa bản tánh không không có phương tiện nào khác. (Q.474, ĐBN)
Vì vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải nên an trụ chơn chánh lý bản tánh không, tu hành sáu Ba la mật và các hạnh khác của đại Bồ Tát. Nếu an trụ chơn chánh lý bản tánh không, tu hành sáu Ba la mật và các hạnh khác của đại Bồ Tát thì chẳng bao giờ thối mất Nhất thiết trí trí, thường làm lợi lạc cho tất cả hữu tình.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thật là hiếm có, tuy hành tất cả pháp đều là bản tánh không, nhưng đối với bản tánh không, thường không hoại mất. Nghĩa là không chấp sắc cho đến thức khác với bản tánh không. Cũng không chấp mười hai xứ cho đến mười tám giới khác với bản tánh không. Cũng không chấp nhãn xúc cho đến ý xúc khác với bản tánh không. Cũng không chấp nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ khác với bản tánh không. Cũng không chấp địa giới cho đến thức giới khác với bản tánh không. Cũng không chấp nhân duyên cho đến tăng thượng duyên khác với bản tánh không. Cũng không chấp các pháp từ duyên sanh ra khác với bản tánh không. Cũng không chấp vô minh cho đến lão tử khác với bản tánh không. Cũng không chấp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật khác với bản tánh không. Cũng không chấp nội không cho đến vô tính tự tính không khác với bản tánh không. Cũng không chấp chơn như cho đến cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn khác với bản tánh không. Nói rộng ra, cũng không chấp tất cả pháp Phật khác với bản tánh không.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, các đại Bồ Tát thật là hiếm có. Tuy hành tất cả pháp đều bản tánh không, nhưng đối với bản tánh không thường không hoại mất.
Thiện hiện nên biết, sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc. Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không không khác tất cả pháp Phật. Tất cả pháp Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp Phật.
Thiện Hiện nên biết, nếu sắc khác bản tánh không, bản tánh không khác sắc, sắc chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng phải sắc; như vậy cho đến tất cả pháp Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không khác tất cả pháp Phật, tất cả pháp Phật chẳng phải bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả pháp Phật, thì khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, không cần phải quán tất cả pháp đều bản tánh không, cũng chẳng cần chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc, sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc; như vậy cho đến tất cả pháp Phật chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác tất cả pháp Phật. Tất cả pháp Phật tức là bản tánh không, bản tánh không tức là tất cả pháp Phật, nên khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp đều bản tánh không, mà chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì lìa bản tánh không, không có một pháp nào là thật, là thường, có thể hoại, có thể đoạn. Trong bản tánh không, cũng không có một pháp nào là thật, là thường, có thể hoại, có thể đoạn. Nhưng các kẻ ngu si mê muội, điên đảo khởi tưởng phân biệt khác. Nghĩa là phân biệt sắc khác bản tánh không; hoặc phân biệt thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh không. Như vậy, cho đến phân biệt tất cả pháp Phật khác bản tánh không. Các kẻ ngu si này phân biệt các pháp khác với bản tánh không, nên chẳng như thật biết sắc; chẳng như thật biết thọ, tưởng, hành, thức. Do không biết nên liền chấp trước sắc; chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Do chấp trước nên đối với sắc, thấy có ngã, ngã sở; đối với thọ, tưởng, hành, thức, thấy có ngã, ngã sở. Do thấy sai lầm nên chấp vật trong ngoài, lãnh thọ sắc, thọ, tưởng, hành, thức ở thân sau. Do đây, nên không thể thoát khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, sầu, ưu, khổ, não trong các cõi, lưu chuyển qua lại trong ba cõi không cùng tận. Do nhân duyên đây, nên các đại Bồ Tát trụ bản tánh không Ba la mật, hành sâu Bát Nhã, không chấp thủ sắc, cũng không hoại sắc hoặc không, hoặc chẳng không; không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức, cũng không hoại thọ, tưởng, hành, thức hoặc không, hoặc chẳng không. Như vậy, cho đến chẳng chấp thủ tất cả tất cả pháp Phật, cũng chẳng hoại tất cả pháp Phật hoặc không, hoặc chẳng không. Vì sao? Vì sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc. Tức đây là sắc, đây là không. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng hoại không; không chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức. Tức đây là thọ, tưởng, hành, thức, đây là không. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật chẳng hoại không; không chẳng hoại tất cả pháp Phật. Tức đây là tất cả pháp Phật, đây là không. Thí như hư không chẳng hoại hư không. Cõi hư không nội chẳng hoại cõi hư không ngoại. Cõi hư không ngoại chẳng hoại cõi hư không nội.
Như vậy Thiện Hiện! Sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hoại không, không chẳng hoại thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều không có tự tánh, không thể phân biệt. Tức đây là không, đây là bất không. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật chẳng hoại không, không chẳng hoại tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều không có tự tánh, không thể phân biệt. Tức đây là không, đây là bất không.
(Bồ đề không hai, không hành hai tướng, không phân biệt)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều bản tánh không, hoàn toàn không sai khác, thì các đại Bồ Tát trụ nơi nào để hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có hai hành tướng. Do chẳng có hai hành tướng nên có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cúi xin đức Thế Tôn vì con mà giảng nói.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ngươi nói! Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có hai hành tướng. Do chẳng có hai hành tướng nên có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ đề không hai, không phân biệt. Nếu đối với Bồ đề, mà phân biệt, hành hai tướng thì nhất định chẳng thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát đối với Bồ đề chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt; đều không trụ mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với tất cả pháp, các đại Bồ Tát chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt, cũng không có sở hành thì có thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết, Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà Bồ Tát mong cầu, chẳng hành hai tướng năng chứng được. Các đại Bồ Tát có bao Bồ đề đều vô sở hành. Nghĩa là chẳng hành đối với sắc; cũng chẳng hành đối với thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến chẳng hành nơi tất cả hạnh Bồ Tát, cũng chẳng hành nơi chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát có bao Bồ đề, chẳng duyên danh thân, chấp ngã và ngã sở. Nghĩa là chẳng nghĩ nay: Ta hành nơi sắc; ta hành nơi thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến chẳng nghĩ này: Ta hành nơi tất cả hạnh Bồ Tát, ta hành nơi chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát có bao Bồ đề, chẳng thủ nên hành, chẳng xả nên hành.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ Tát có bao Bồ đề, chẳng thủ nên hành, chẳng xả nên hành. Vậy, các đại Bồ Tát có bao Bồ đề sẽ hành ở đâu?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Hóa thân của Như Lai có bao Bồ đề sẽ hành ở đâu? Vì thủ nên hành, hay vì xả nên hành?
Thiện Hiện đáp:
- Không. Bạch Thế Tôn. Hóa thân của Như Lai thật vô sở hữu. Làm sao có thể nói có bao Bồ đề, có hành xứ hoặc thủ, hoặc xả!
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Bồ đề trong mộng của các A la hán sẽ hành ở đâu? Vì thủ nên hành, hay vì xả nên hành?
Thiện Hiện đáp:
- Không. Bạch Thế Tôn. Các A la hán đã dứt hẳn các lậu; hôn trầm, thụy miên, chướng cái, triền phược đều đã diệt sạch, tuyệt đối không có mộng, làm sao có Bồ đề trong mộng, có hành xứ, hoặc thủ, hoặc xả!
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ngươi nói! Các A la hán tuyệt đối không có mộng; hôn trầm, thụy miên, phân biệt không còn. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có bao Bồ đề cũng lại như vậy, chẳng thủ nên hành, chẳng xả nên hành, hoàn toàn không có hành xứ, vì thấu đạt bản tánh không của tất cả pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, có bao Bồ đề chẳng thủ nên hành, chẳng xả nên hành, hoàn toàn không có hành xứ(chỗ hành), nghĩa là không hành nơi sắc; cũng không hành nơi thọ, tưởng, hành, thức; như vậy cho đến không hành nơi tất cả pháp Phật, thì há chẳng phải các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên chẳng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; chẳng hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng hành chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì; nói rộng ra, chẳng hành tất cả pháp Phật chẳng hành Nhất thiết trí trí; chẳng trụ thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật mà được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sao?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát có bao Bồ đề, tuy không có hành xứ, nhưng các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên phải hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; như vậy cho đến phải hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; phải trụ thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có bao Bồ đề chẳng thủ nên hành, chẳng xả nên hành đều không chỗ hành. Nghĩa là chẳng hành nơi sắc, cũng chẳng hành nơi thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến chẳng hành Bồ Tát hạnh, cũng chẳng hành nơi chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng phải đại Bồ Tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình, mà chẳng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng hành chơn như cho đến bất tư nghì giới. Chẳng hành khổ tập diệt đạo Thánh đế. Chẳng hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Chẳng hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ Chẳng hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng hành năm nhãn, sáu thần thông. Chẳng hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Chẳng hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng trụ Bồ Tát thần thông thù thắng, thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật, mà được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát có bao Bồ đề, tuy không có chỗ hành, nhưng các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên phải trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tu lâu dài cho đến viên mãn; như vậy cho đến phải trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tu lâu dài cho đến viên mãn; phải trụ thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu lâu dài cho đến viên mãn thì mới chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các đại Bồ Tát tu các căn lành chưa được viên mãn đầy đủ thì chẳng bao giờ đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà mình mong cầu.
Thiện Hiện nên biết! Nếu các đại Bồ Tát muốn chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải trụ bản tánh không của sắc; phải trụ bản tánh không của thọ, tưởng, hành, thức; như vậy cho đến phải trụ bản tánh không của tất cả pháp Phật; phải trụ bản tánh không của tất cả pháp; phải trụ bản tánh không của tất cả hữu tình; phải tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cho được viên mãn; như vậy, cho đến phải tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, làm cho được viên mãn; phải tu thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật làm cho được viên mãn rồi, thì mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết: Tất cả pháp này lý bản tánh không và các hữu tình lý bản tánh không rất cực vắng lặng, không có chút pháp năng tăng năng giảm, năng sanh năng diệt, năng đoạn năng thường, năng nhiễm năng tịnh, năng đắc quả năng hiện quán. (Q.474, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nương vào thế tục nên nói tu Bát nhã Ba la mật, như thật liễu tri bản tánh không rồi, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chẳng nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong chơn thắng nghĩa không có sắc có thể đắc; cũng không có thọ, tưởng, hành, thức có thể đắc. Như vậy, cho đến không có tất cả pháp Phật có thể đắc.
Thiện Hiện! Các pháp như thế đều nương ngôn thuyết thế tục thi thiết, chẳng nương thắng nghĩa.
(Hành Bồ đề mà chẳng đắc Bồ đề)
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ sơ phát tâm, tuy rất dũng mãnh vì các hữu tình mà hành hạnh Bồ đề, nhưng đối với tâm này đều không có chỗ đắc; đối với các hữu tình cũng không có chỗ đắc; đối với đại Bồ đề cũng không có chỗ đắc; đối với Phật, Bồ Tát cũng không có chỗ đắc. Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều chẳng thể đắc được.
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, đều không thể đắc thì vì sao đại Bồ Tát hành hạnh Bồ đề? Vì sao đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà mình mong cầu? Ai hành hạnh Bồ đề? Ai chứng đắc?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Vào thời gian trước đây, ngươi nương vào đâu để đoạn trừ các cõi, đoạn trừ các phiền não, được căn vô lậu; trụ định vô gián, được quả Dự lưu cho đến quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Vào thời gian ấy, ngươi có thấy có hữu tình, hoặc có tâm, hoặc có đạo, hoặc có các đạo quả, có chứng đắc không?
Thiện Hiện đáp:
- Không! Bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Nếu lúc ấy, ngươi nương vào đâu để đoạn trừ các cõi, đoạn các phiền não, được căn vô lậu; đối với hữu tình, tâm, đạo và đạo quả đều không có chỗ đắc thì vì sao nói đắc quả A la hán được?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Con nương thế tục mà nói, chứ chẳng nương thắng nghĩa.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ngươi nói! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, nương vào thế tục mà nói hành đạo Bồ đề và đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng nương vào thắng nghĩa vậy.
Thiện Hiện nên biết! Vì nương vào thế tục nên giả nói có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; như vậy cho đến vì nương vào thế tục nên giả nói có tất cả pháp Phật; vì nương vào thế tục nên giả nói có hữu tình, Bồ Tát và chư Phật, chẳng nương vào thắng nghĩa.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát không thấy có pháp đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có tăng, có giảm, có ích, có tổn. Vì tất cả pháp đều bản tánh không.
Thiện Hiện nên biết! Đối với tất cả pháp, các đại Bồ Tát quán bản tánh không, còn chẳng thể được, huống nữa là sơ phát tâm mà có thể đắc. Tối sơ phát tâm còn chẳng thể được, huống nữa là tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà có thể được; huống nữa là trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không mà có thể được; huống nữa là trụ chơn như cho đến cảnh giới bất khả tư nghì mà có thể được; huống nữa là trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà có thể được; huống nữa là tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo mà có thể được; huống nữa là tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà có thể được; tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ; tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà có thể được; huống nữa là tu Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà có thể được; huống nữa là tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu tất cả Bồ Tát hạnh cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà có thể được.
Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối với sở tu, trụ được tất cả Phật pháp nếu có sở đắc, thì không lẽ ấy.
Như vậy Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phương tiện tu Bồ đề hạnh, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lợi lạc hữu tình thường không gián đoạn.
Thích nghĩa:
(1). Bản tánh không: Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 51, Hội thứ I; phẩm “Tam Ma Địa” quyển 417, Hội thứ II và phẩm “Thiện Hiện” quyển 488, Hội thứ III, ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch, định nghĩa “bản tánh không” như sau:
“Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là bản tánh không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Bản tánh nghĩa là bản tánh của tất cả pháp, hoặc tánh của pháp hữu vi, hoặc tánh của pháp vô vi, đều chẳng phải Thanh văn làm ra, chẳng phải Độc giác làm ra, chẳng phải Bồ Tát làm ra, chẳng phải Như Lai làm ra, cũng chẳng phải ai khác làm ra. Bản tánh này gắn liền với cái không của bản tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là bản tánh không”.
Định nghĩa này quá tổng quát, khó nắm.
Thiền sư DT. Suzuki định nghĩa khái quát bản tánh không là:
“Prakriti (bản tánh) là cái làm cho lửa nóng và nước lạnh, nó là bản chất nguyên sơ của mỗi vật thể cá biệt. Khi nói rằng nó Không, có nghĩa không có Tự ngã (Atman) bên trong nó để tạo ra bản chất nguyên sơ của nó, và ý niệm đích thực về bản chất nguyên sơ là một ý niệm Không. Chúng ta đã ghi nhận rằng không có tự ngã cá biệt nơi hậu cứ của cái chúng ta coi như vật thể cá biệt, bởi vì vạn hữu là những sản phẩm của vô số nhân và duyên và chẳng có gì đáng gọi một bản chất nguyên sơ nó độc lập, đơn độc, tự hữu. Tất cả là Không triệt để và nếu thật sự có thứ bản chất nguyên sơ nào đó, thì bằng cách nào cũng vẫn là Không”.
Thấy như thế mới khế hợp với tư tưởng của Phật, khế hợp với tư tưởng “nhất thiết pháp không”của Bát nhã Ba la mật.
(2). Hành xứ: (行處) Chỗ hành, đối tượng của sự tu hành quán tưởng.
(3). Hành tướng: (行相) Chỉ cho tác dụng nhận thức hoặc trạng thái của bóng dáng ảnh hiện trong tâm và tâm sở. Về danh từ Hành tướng, giữa tông Câu xá và tông Duy thức có sự giải thích khác nhau. Tông Câu xá chủ trương tâm có thể trực tiếp duyên theo cảnh ngoài tâm, nên cho tâm và tâm sở là năng duyên, cho cảnh ngoài tâm là sở duyên. Khi duyên cảnh, cảnh hiện ra trong tâm và tâm sở tức là hành tướng. Câu xá luận ký quyển 1 phần cuối (Đại 41, 26 hạ), nói: Hành tướng nghĩa là thể của tâm và tâm sở thanh tịnh, khi đối trước cảnh không có tác ý, nhậm vận tự nhiên mà hiện ra hình tượng, giống như ao nước trong, tấm gương sáng, các hình bóng đều hiện rõ . Cũng Câu xá luận ký quyển 4 còn tiến thêm bước nữa mà nói rõ rằng: Hành nghĩa là hành giải, như tác dụng liễu biệt; Tướng nghĩa là tướng mạo, như hình tượng, cho nên lấy tướng mạo của sự vật được liễu biệt làm hành tướng. Nhưng tông Duy thức thì cho rằng tâm không thể trực tiếp duyên theo cảnh bên ngoài, mà tất cả ảnh tượng đều hiển hiện trong tâm và tâm lấy đó làm sở duyên, rồi sinh khởi tướng năng duyên. Tức là trong tâm có 2 tướng năng duyên và sở duyên. Tướng năng duyên gọi là kiến phần, tướng sở duyên gọi là tướng phần. Kiến phần chính là hành tướng thuộc về tác dụng nhận thức chứ không phải hình ảnh sự vật. Cho nên, nói theo quan điểm của tông Duy thức, cái mà tông Câu xá gọi là hành tướng thực ra là hành tướng tướng phần, khác xa với hành tướng kiến phần của tông Duy thức. Thành Duy thức luận thuật ký quyển 3 (Đại 43, 318 hạ), nói: Tiểu thừa cho rằng ngoài tâm có cảnh và lấy đó làm sở duyên; vì Đại thừa không chủ trương ngoài tâm có cảnh nên lấy hành tướng của Tiểu thừa làm tướng phần của Đại thừa. Đại thừa cho tâm có thể tự duyên nên lập riêng phần tự thể và lấy đó làm cảnh, vì vậy gọi kiến phần là hành tướng. [X. luận Thành duy thức Q.2; luận Nhập a tỳ đạt ma Q. hạ; Thành duy thức luận chưởng trung xu yếu Q. thượng, Q. hạ; Câu xá luận yếu giải Q.1]. - Tự điển Phật Quang. Đã thích nghĩa rồi, nay nhắc lại cho nhớ.
Lược giải:
Phải nói tất cả giáo pháp của phẩm “Thật Tế” này được xem là tuyệt đỉnh của Bát Nhã. Vì thật tế với chơn như hay pháp giới chỉ là một. Chúng ta cũng nhiều lần phát biểu người nào thâm hiểu chơn như được xem như là giác ngộ. Vì vậy, mới nói giáo pháp của phẩm này hết sức khó khăn. Phật phải đứng trên cái nhìn của Thắng nghĩa đế để thuyết giảng phẩm này.
Phẩm “Thật tế” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Bất Khả Động” cuối quyển 386 cho đến đầu quyển 390, Hội thứ I, ĐBN. Đây là một phẩm khó, rất dễ lẫn lộn nhất từ cách dịch cho đến cách dùng danh từ. Sau khi tham khảo nhiều bản dịch, chúng tôi dùng phẩm “Thật Tế” quyển thứ 28, Kinh MHBNBLMĐ tương đương với phẩm “Bất Khả Động” của ĐBN phù hợp với bản gốc bằng chữ Hán trong Hoavouu.com, ghi lại cuộc đối thoại giữa Ngài Tu Bồ đề và đức Phật, để mở đầu cho phần chiết giải này:
Ngài Tu Bồ Đề bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh rốt ráo bất khả đắc thì Bồ Tát vì ai mà thực hành Bát nhã Ba la mật?”.
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Bồ Tát vì thật tế (1) mà hành Bát nhã Ba la mật.
Này Tu Bồ Đề! Nếu thật tế cùng chúng sanh tế (2) dị biệt thì Bồ Tát chẳng hành Bát nhã Ba la mật. Nhưng vì thật tế, chúng sanh tế chẳng dị biệt nên đại Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh mà hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát vì chẳng (phá) hoại thật tế mà kiến lập chúng sanh trong thật tế.
- Bạch Thế Tôn! Nếu thật tế tức là chúng sanh tế thì đại Bồ Tát kiến lập thật tế ở nơi thật tế. Nếu kiến lập thật tế ở nơi thật tế có nghĩa là kiến lập tự tánh ở nơi tự tánh. Nhưng chẳng thể kiến lập tự tánh nơi tự tánh. Bạch Thế Tôn! Tại sao lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát kiến lập chúng sanh nơi thật tế?
- Này Tu Bồ Đề! Thật tế chẳng thể kiến lập thật tế, tự tánh chẳng thể kiến lập tự tánh. Nay đại Bồ Tát lúc hành Bát nhã Ba la mật vì sức phương tiện nên kiến lập chúng sanh ở thật tế. Thật tế chẳng khác chúng sanh tế. Thật tế cùng chúng sanh tế không hai, không khác”.
“… các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì có phương tiện thiện xảo, nên có khả năng an lập hữu tình khiến trụ thật tế, mà hữu tình không khác với thật tế, hữu tình tế và thật tế không hai, không khác”.
Đoạn Kinh này không khác với các đoạn Kinh được dịch trong Tuvienquangduc.com, hay bản dịch đã củ soát trong Quang duc.com. Sở dĩ, chúng tôi dùng đoạn Kinh này là vì chúng tôi thấy các từ trong đoạn Kinh này hợp với nguyên bản bằng chữ Hán và dễ hiểu hơn.
1. Thật tế và chúng sanh tế:
Để giải thích cho đoạn kinh mở đầu ở trên, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 80, “Thật Tế”, tập 5, quyển 90, luận rằng:
“Lại nữa, kinh dạy: Nếu thật tế và chúng sanh sai khác nhau, thì Bồ Tát chẳng hành Bát nhã Ba la mật. Nhưng vì thật tế và chúng sanh đều là rốt ráo không, nên Bồ Tát mới vì lợi ích chúng sanh mà hành Bát nhã Ba la mật.
Nếu chúng sanh là thật có, thì Bồ Tát chẳng có thể vì chúng sanh tu thật tế được. Vì chúng sanh là rốt ráo không, và thật tế cũng là rốt ráo không, chúng sanh và thật tế chẳng có sai khác, nên Bồ Tát mới có thể vì chúng sanh mà hành thật tế vậy.
Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật mới có thể đưa chúng sanh ra khỏi điên đảo, kiến lập họ nơi thật tế, mà chẳng phá hoại thật tế vậy.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu chúng sanh tế và thật tế chẳng có sai khác nhau, thì kiến lập chúng sanh nơi thật tế là kiến lập thật tế nơi thật tế vậy.
Thật chẳng thể là như vậy được. Ví như ngón tay chẳng có thể tự chỉ ngón tay được vậy.
Phật dạy: Đúng như vậy. Chẳng có thể kiến lập thật tế nơi thật tế. Thế nhưng Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng các lực phương tiện mà kiến lập chúng sanh nơi thật tế. Ở nơi thật tế, thì chúng sanh tế cùng thật tế chẳng sai khác nhau, vì đều là bất khả đắc cả.
Chúng sanh và thật tế chỉ là một tánh, nên chúng sanh tế chẳng phá hoại thật tế vậy.
Bồ Tát biết rõ hai pháp đó chẳng phải một, chẳng phải hai, là rốt ráo thanh tịnh, chẳng có hý luận.
Bởi vậy nên Bồ Tát vì thương xót chúng sanh mà muốn giáo hóa họ, nhằm đưa họ ra khỏi các chấp điên đảo”.
Luận Đại Trí Độ đã giải thích xong “Chẳng có thể kiến lập thật tế nơi thật tế. Thế nhưng Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng các lực phương tiện mà kiến lập chúng sanh nơi thật tế. Ở nơi thật tế, thì chúng sanh tế cùng thật tế chẳng sai khác nhau”.
Thật tế là biên tế chân thật tận cùng của tất cả pháp, vậy làm sao kiến lập cái tận cùng cho được. Đó là lý do tại sao Đại trí Độ Luận nói: “Ví như ngón tay chẳng có thể tự chỉ ngón tay được vậy”.
Bây giờ, chúng ta thuyết tiếp tại sao Chúng sanh tế cùng Thật tế chẳng sai khác nhau?
Thế nào là Chúng sanh tế, thế nào là Thật tế?
1- Cái thấy biết của người chưa chứng ngộ (nói theo Tục đế):
Tri kiến của mỗi người về nhân sinh và vũ trụ khác nhau hay nói theo thuật ngữ ngày nay gọi chung tri kiến đó là văn hóa. Thứ văn hóa (bao gồm khoa học kỹ thuật, văn chương, mỹ thuật, luân lý, đạo đức, thói quen tập tục cũng như quan điểm sống v.v...) của mỗi cá nhân đều khác nhau tùy theo hoàn cảnh sống và sự thâu thập hay học hỏi của mỗi cá nhân đó.
Người ít học, quê mùa thì có văn hóa thấp; người thông minh, lanh lợi, chịu khó học hỏi thâu lượm có văn hóa cao hơn. Ta có thể biểu thị văn hóa của mỗi phần tử đó trong xã hội bằng những vòng tròn khác nhau: Các vòng tròn đều có giới hạn của nó: Vòng tròn nhỏ tiêu biểu cho người ít học và vòng tròn lớn tiêu biểu cho người học rộng hiểu nhiều. Giới hạn của các vòng tròn lớn nhỏ đó có thể xem là “biên tế tri thức” của mỗi người. Danh từ tri thức có thể xem là sự hiểu biết của mỗi cá nhân mà thiền ngữ thường gọi là kiến văn giác tri(thấy nghe hay biết), cái giác tri của hữu sư trí, lượm lặt từ ngoài vào để tạo thành văn hóa riêng cho từng cá thể:
- Hai vòng tròn có thể lớn hay nhỏ, rộng hay hẹp tùy theo văn hóa của mỗi người, có thể không gặp nhau, không đồng quan điểm với nhau (Hình 1).
- Hai vòng tròn có thể giao thoa ở một điểm, chỗ giao thoa duy nhất đó là chỗ tư tưởng gặp nhau (Hình 2). Chỗ gặp nhau này rất là hạn hẹp.
- Hai vòng tròn có thể tiếp xúc với nhau ở nhiều điểm, đó là chỗ tương đồng văn hóa (Hình 3). Chỗ của hai thứ văn hóa này tuy tương đồng ở một số điểm, nhưng cũng rất giới hạn.
- Hai vòng tròn có thể chồng lên nhau, nghĩa là văn hóa gặp gở tương thông rất nhiều điễm (Hình 4), nhưng chắc chắn là hai vòng tròn không thể chập khít lên nhau và có cùng một tâm điểm, trừ hợp các chư Như Lai với nhau.
Chỗ mà hai vòng tròn không tiếp xúc với nhau (không chập lên nhau) đó là chỗ sai biệt tư tưởng của hai cá thể. Sự sai biệt trở thành tất nhiên trong thế giới Tục đế này. Giới hạn của các tư tưởng tương đồng và dị biệt đó có thể tạm gọi là biên tế tri kiến của hữu tình hay gọi là chúng sanh tế trong thế giới đa thù đa dạng này. Đó là quan niệm về cái nhìn của chúng sanh hay Tục đế.
2- Cái thấy biết của bậc chứng ngộ pháp không, pháp như (nói theo Đệ nhất nghĩa đế):
Chư Phật, chư Bồ Tát do sự tu tập và hành trì các diệu pháp chứng Bát Nhã Trí, nên thấy biết được cái bản thể rốt ráo chân thường của vạn pháp (thật pháp hay chơn như thật tướng của tất cả pháp) là “không”, là “như” nên bảo là chứng được giới hạn chung cùng của hết thảy thực tại, gọi là thật tế. Ngộ rồi thì cùng có một thứ tri kiến như như, như pháp giới, như pháp tánh, như thật tế v.v... không sai khác. Đó là nói theo Đệ nhất nghĩa đế (Chân đế), vì chơn như hay thật tế không phải hai không phải khác.
“Biên tế của Thực tại”, bhùta: Thực (thực tại), và koti: Tế (biên tế). Không phải chiết tự là như thế, nhưng chư Phật bằng Phật nhãn (đồng hóa với trí Bát Nhã, tiêu biểu bằng con mắt thứ ba giữa trán) soi thấy cái biên tế chung cùng thực tại tuyệt đối của vạn hữu không ngoài bản tánh Không, hay Như như. Bản tánh Không hay Như như là thật tướng của tất cả pháp, nó chính là cái biên tế tuyệt đối cùng đích của hết thảy thực tại. Thật tế (Bhutakoti) cũng là một dụng ngữ khác chỉ cho Tuyệt Đối. Vậy thật tế tức là “Không” tức là “Như như” và “Không” hay “Như như” tức là thật tế.(3)
Cái thấy biết của chư Phật với chư Phật đối với mọi vật thể trần gian là bình đẳng. Cái thấy biết trong sát na chứng ngộ của chư Phật rộng lớn như hư không, không có biên giới, không có tiền tế, không có trung tế, không có hậu tế, vô giới hạn... tạm gọi là thật tế. Biên tế của Phật này không khác với biên tế của Phật kia hay nói khác biên tế của tất cả chư Phật không hai không khác.
Cái thấy biết của chúng sanh do nghiệp dư nói theo đạo Phật hay do hoàn cảnh huân tập nói theo Tục đế, biểu hiện bằng những vòng tròn có giới hạn lớn nhỏ khác nhau, tạm gọi là chúng sanh tế như diễn tả trên.
Sự phân biệt giữa thật tế và chúng sanh tế là do chúng sanh sống trong mê muội, còn chư Bồ Tát, chư Phật cũng là chúng sanh, nhưng khác với chúng sanh là giác ngộ nên được gọi là hữu tình giác ngộ. Do đâu mà chư Bồ Tát chư Phật giác ngộ, vì chư Bồ Tát chư Phật không còn phân biệt chấp trước nữa, tâm như như bất động nên nhìn thấy muôn sự muôn vật trong chơn như thật tướng (bhùtatathatà) của nó hay nói khác là nhìn thấy biên tế tột cùng của thực tại nên nói là chứng thật tế.
Nếu hữu tình có cái thấy biết cùng đích trên hết thảy mọi thực tại như chư Phật thì hữu tình không còn là hữu tình nữa. Vì chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, tánh không, thật tướng, Như Lai tạng, pháp thân, Phật tính, tự tính thanh tịnh thân, nhất tâm, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, cảnh giới Niết bàn, bổn vô, bản thể, thật tế, v.v… của hữu tình và chư Phật không hai, không khác. Bổn thể(4) tức Lý và hiện thực(5) tức Sự chỉ là một, trong một thế giới mà ở đó tất cả các pháp hoàn toàn dung hợp trong pháp không và pháp như. Đó là nói theo Đệ nhất nghĩa đế. Vì pháp không, pháp như là không, Phật cũng không, Bồ Tát không, chúng sanh không, không hai không khác. Chỉ có chúng sanh không nhập được pháp không, pháp như nên phân biệt chấp trước mà thấy có sai khác nên sanh nhiều khổ lụy, nên chư Phật chư Bồ Tát thuyết Bát Nhã Tánh Không cứu độ chúng sanh ra khỏi.(6)
***
Phàm phu trong cõi mê nếu lột được cái vỏ triền phược, cũng có khả năng thể hiện cảnh giới mà chư Phật giác ngộ, trong đó hiện tượng tức thực tại, sai biệt tức bình đẳng, nghĩa là “thật tế cũng đồng nghĩa với chúng sanh tế” nếu tu học Bát nhã Ba la mật, chứng được chơn như thật tướng của tất cả pháp.
Trên thực tế, cảnh giới mà chư Phật đạt được là do tu tập Bát nhã Ba la mật trong nhiều kiếp... không ai có thể kiến lập cho chư Phật và khi chư vị chứng đắc giác ngộ cũng không thể kiến lập cho chúng hữu tình. Chỉ có hữu tình, không ai khác hơn hữu tình tự kiến chiếu vào tự tánh, vươn lên trong ánh sánh giác ngộ để chứng lấy thật tế. Đó là đứng về tư sinh, thế tục trí mà nói.
***
Chúng sanh phân biệt nên lúc nào cũng thấy thế giới phân hai có mê là có ngộ, có chúng sanh là có Phật, có Tục đế là có Thắng nghĩa đế v.v... Vì vậy, Bát Nhã lúc nào cũng chỉ cho chúng sanh thấy hai chiều đối lập để chúng sanh tự tìm lấy lối thoát giữa những bế tắt đó. Còn chư Phật chư Bồ Tát có trí tuệ thanh tịnh, sống trong Đệ nhất nghĩa đế nên vượt qua và vượt trên cả 2 nên không còn ngăn ngại.
--o0o--
Nhưng, Phật với cái nhìn bao dung khi thuyết pháp nói rằng hữu tình tâm đồng tâm Phật, cảnh giới của hữu tình đồng với cảnh giới Phật, thật tế chẳng khác hữu tình tế để khuyến tấn chúng sanh tu học Bát nhã Ba la mật để trở về với cái bản hữu bình đẳng của chính mình.
Phần “Mạn Thù Thất lợi”(7), quyển 574, Hội thứ VII, ĐBN. Mạn Thù bạch Phật:
- “Bạch Thế tôn! Hữu tình tâm đồng tâm Phật, tánh chẳng nghĩ bàn ư?
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:
- Đồng Tử! Như vậy, như ngươi đã nói. Vì sao? Vì Phật, hữu tình, tâm và tất cả pháp thảy đều bình đẳng chẳng nghĩ bàn vậy”.
Trong Thắng nghĩa đế không có phân biệt. Tất cả đều cùng một Phật tánh, bản hữu bình đẳng như nhau nên nói hữu tình sanh ra từ bào thai của vũ trụ hay cùng trong một Như Lai tạng vì cùng là anh em với nhau.
***
Tất cả dẫn chứng trên cốt thâu vào một mối: Khi thâm nhập Bát nhã Ba la mật rồi thì không phân biệt phàm Thánh, thật tế hay chúng sanh tế. Tất cả đều bình đẳng như như nằm trong cùng pháp giới, cũng gọi là chơn như, pháp tánh, thật tế v.v...
Để dẫn chứng cho luận giải này tôi lấy một đoạn Kinh trong phẩm “Các Tướng Bình Đẳng”, quyển 384, ĐBN làm thí dụ: “Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả pháp đều nhập vào pháp giới. Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp vẫn như vậy, đều nhập pháp giới, không có tướng sai biệt, chẳng phải do Phật thuyết. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới tánh không, vô tướng, vô vi. Cho nên, đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, muốn học pháp giới, nên học tất cả pháp. Nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới. Nếu phân biệt pháp tức là phá hoại pháp”.
Như vậy, pháp giới cũng là chơn như, là pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… Hữu tình tế hay chúng sanh tế cũng phải nằm gọn trong đó, vì tất cả pháp đều cùng trong pháp giới. Tất cả pháp đều nhập vào pháp giới, bình đẳng, vì như trên đã nói là anh em với nhau trong cùng bào thai của Như Lai Tạng nên nói thật tế tức hữu tình tế không hai không khác.
2. Tất cả pháp bản tánh không:
Phần trên phẩm này đã luận xong về “Thật tế và Chúng sanh tế”, phần dưới của phẩm này nói về bản tánh không, giống như phẩm “Bất Khả Động” của Hội thứ I, ĐBN. Nội dung như sau:
1- Những pháp nào bản tánh đều không?
“Phật bảo cụ thọ:
- Thiện Hiện! Sắc bản tánh không, thọ, tưởng, hành, thức bản tánh không; đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã như thật rõ biết các uẩn bản tánh không như thế rồi, an trụ bản tánh không, vì các hữu tình, tuyên thuyết bản tánh không; mười hai xứ, mười tám giới bản tánh không, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao bản tánh không; đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã, như thật rõ biết bản tánh không rồi, an trụ bản tánh không, vì các hữu tình, tuyên thuyết bản tánh không như thế.
Nếu bản tánh của tất cả pháp chẳng không, thì các đại Bồ Tát chẳng vì các hữu tình thuyết tất cả pháp đều bản tánh không; thuyết như thế là hoại bản tánh không. Nhưng bản tánh không, lý chẳng thể hoại, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh không không phương hướng, không xứ sở, không từ đâu đến, cũng không về đâu. Lý không như thế cũng gọi là pháp tánh. Trong ấy không có pháp tụ-tán, tăng-giảm, sanh-diệt, nhiễm-tịnh; tất cả pháp ấy vốn là tánh an trụ. Các đại Bồ Tát an trụ trong đó, cầu đạt quả vị Giác ngộ tối cao chẳng thấy các pháp có chỗ hướng đến, không chỗ hướng đến, vì tất cả pháp hoàn toàn không sở trụ, cho nên gọi là pháp trụ. Các đại Bồ Tát an trụ trong đó, tu hành Bát Nhã, thấy tất cả pháp bản tánh không rồi, nhất định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, được bất thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp có thể gây chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không chướng ngại nên đối với quả vị Giác ngộ tối cao chẳng sanh nghi hoặc, vì vậy nên không bao giờ thối thất.
Trong bản tánh không, ngã chẳng thể nắm bắt được, hữu tình chẳng thể nắm bắt được, sự an lập hữu tình chẳng thể nắm bắt được; dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi... cho đến cái biết, cái thấy cũng chẳng thể nắm bắt được.
Trong bản tánh không, sắc chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng thể nắm bắt được; mười hai xứ, mười tám giới chẳng thể nắm bắt được; tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng thể nắm bắt được. Trong bản tánh không, pháp sắc-phi sắc chẳng thể nắm bắt được; pháp hữu kiến-vô kiến, hữu đối-vô đối, hữu lậu-vô lậu, hữu vi-vô vi cũng chẳng thể nắm bắt được.
Thiện Hiện! Như bốn chúng mà Phật hóa ra là Tỳ kheo nam, Tỳ kheo nữ, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ, giả sử có hóa Phật, trải qua trăm ngàn, triệu kiếp, vì bốn chúng ấy tuyên thuyết pháp yếu, hóa chúng ấy cũng chẳng thể đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc đắc quả vị Độc giác, hay quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì hóa chúng đó hoàn toàn không phải thật, nên không thể đắc quả. Các pháp cũng vậy, đều bản tánh không, hoàn toàn không thật có thì làm sao có thể quả đắc. Đại Bồ Tát, vì hữu tình gì, nói pháp gì khiến hữu tình có thể đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn v.v…?
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp bản tánh không, nhưng các hữu tình, thật chẳng thể hiểu biết được, thương xót họ rơi vào điên đảo, nên cứu vớt khiến an trụ pháp không điên đảo, không điên đảo nghĩa là không phân biệt; không phân biệt thì không điên đảo, nếu có phân biệt thì có điên đảo vì chúng đồng loại.
Thiện Hiện! Trong cái không phân biệt, không điên đảo, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi… cho đến cái biết, cái thấy; cũng không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; cũng không có mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Cũng không có pháp sắc-phi sắc, không có pháp hữu kiến-vô kiến, hữu đối-vô đối, hữu lậu-vô lậu, hữu vi-vô vi; cũng không có ba mươi hai tướng Đại sĩ, không có tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc.
Như vậy, nói (tóm)lược là “tất cả đều không”: Không ngã, không chúng sanh, không mạng giả… cho đến không có cái thấy cái biết; không có sắc thọ tưởng hành thức; không có xứ giới; không có tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, không có tập diệt đạo, không có vô minh cũng không hết vô minh, không có già chết cũng không hết già chết, cũng không có pháp không nội, không có pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn... cho đến pháp không không tánh tự tánh, cũng không có đạo, không có quả, cũng không có chứng đắc v.v… Tất cả đều không có sở hữu, nếu không có sở hữu thì gọi là bản tánh không. Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã, an trụ trong đó thấy các hữu tình đọa vào tưởng điên đảo, phương tiện thiện xảo khiến được giải thoát. Giải thoát những gì? Giải thoát những trói buộc: “Không có ngã, tưởng có ngã; không có chúng sanh, tưởng có chúng sanh… cho đến không có cái thấy cái biết, tưởng có thấy biết. Cũng giải thoát những trói buộc: Không có sắc, tưởng có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, tưởng có thọ, tưởng, hành, thức. Cũng khiến giải thoát những trói buộc: Không có xứ, giới, tưởng có xứ, giới, không có tất cả pháp Phật, tưởng có tất cả pháp Phật. Cũng khiến giải thoát những trói buộc: Không có pháp sắc-phi sắc mà tưởng có pháp sắc-phi sắc; không có pháp hữu kiến-vô kiến, hữu đối-vô đối, hữu lậu-vô lậu, hữu vi-vô vi, mà tưởng có pháp hữu kiến-vô kiến cho đến hữu vi-vô vi”.
Tất cả pháp đều không, cho đến cái thấy cái biết cũng không. Vì thấy biết không nên mới được giải thoát. Giải thoát không có nghĩa đi lên thiên đàng hay đi đâu cả mà giải thoát có nghĩa là chặt đứt được những trói buộc do cảm thọ hay thức vọng gây ra. Nếu thấy biết của chúng sanh (Tục đế) là không thì cái thấy biết này ngang đồng với cái thấy biết của Thánh giả (Thắng nghĩa đế). Nên Phật bảo:
“Còn Đệ nhất nghĩa đế thì không sanh, không diệt, không tướng, không tác, không hý luận, không phân biệt. Thắng nghĩa đế tức là bản Tánh Không. Bản Tánh Không này tức là sở chứng của chư Phật, cũng gọi là Phật đạo. Trong ấy chúng sanh bất khả đắc, cho đến người thấy, người biết bất khả đắc; sắc, thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc cho đến tám mươi tùy hình hảo bất khả đắc. Tại sao? Vì đại Bồ Tát chẳng phải vì đạo pháp mà cầu Vô Thượng Bồ Đề. Đại Bồ Tát vì chư pháp thật tướng tánh không mà cầu Vô Thượng Bồ Đề. Tánh không ấy, tiền tế, hậu tế và trung tế đều tánh không! Thường là tánh không, chưa từng chẳng không”.
Để giải thích đoạn kinh này, phẩm “Thật Tế” của Đại Trí Độ Luận, nói:
“Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu hết thảy pháp đều là tánh không, mà trong tánh không thì chẳng có pháp, chẳng có phi pháp, cũng chẳng có chúng sanh; Như vậy, Bồ Tát làm sao có thể trú trong tánh không, mà cầu Nhất thiết chủng trí được?
Phật dạy: Do Bồ Tát thường an trú trong tánh không nên mới thường hành bố thí.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Ở trong tánh không thì hết thảy pháp đều bị phá, chẳng còn gì nữa cả. Như vậy Bồ Tát làm sao có thể an trú trong tánh không để thường hành bố thí?
Phật dạy: Do nhân duyên, Bồ Tát biết rõ thật tướng của các pháp và an trú trong đó, tức là an trú trong tánh không, mà được Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát vì chúng sanh thuyết pháp, nói hết thảy các pháp đều là tánh không; nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tánh không... dẫn đến nói Nhất thiết chủng trí là tánh không.
Tánh không chẳng có trú xứ, nên được gọi là pháp tánh thường trú, chẳng có sanh diệt, chẳng có cấu tịnh, chẳng có tăng giảm. Tánh không cũng được gọi là thật tướng pháp. Bồ Tát trú nơi tánh không chẳng thấy có chướng ngại, chẳng thấy có pháp chướng ngại, nên dù biết rõ chúng sanh là rốt ráo không, mà vẫn có thể dùng các lực phương tiện độ thoát chúng sanh.
Hỏi: Nếu pháp và chúng sanh bản lai đều là không, thì ai dùng lực phương tiện? Ai được độ thoát?
Đáp: “Tánh không” chẳng có tánh tướng. Nếu chấp “tánh không” có tánh tướng, mới nên nạn hỏi.
Lại nữa, khi đã vào được thật tướng pháp rồi, thì vào được tánh không; Biết rõ trong tánh không là chẳng có pháp, chẳng có chúng sanh.
Chỉ vì phàm phu chưa vào được thật tướng, nên mới ức tưởng phân biệt, chấp thật có các pháp hữu vi. Bồ Tát vì chúng sanh mà nói có các pháp, có phân biệt, rồi dần dần đưa chúng sanh vào nơi thật tướng pháp, tức là nơi tánh không vậy. Bồ Tát an trú trong tánh không, mà chẳng chấp tánh không, nên mới dùng lực phương tiện độ thoát chúng sanh.
Trong kinh, Phật dạy: Trong tánh không đó, thì chúng sanh là bất khả đắc, sắc... dẫn đến 80 vẻ đẹp đều là bất khả đắc cả.
Thế nhưng vì muốn kiến lập chúng sanh nơi thật tế, nên Bồ Tát phải vì chúng sanh nói thế đế, chẳng phải là đệ nhất nghĩa đế vậy.
--o0o--
Phật hỏi: Các người hóa có được đạo chăng?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng được vậy. Vì các người hóa chẳng có căn bản thật sự. Hết thảy pháp đều là tánh không, nên cũng chẳng có căn bản thật sự.
Phật dạy: Bồ Tát hóa độ chúng sanh cũng là như vậy. Chúng sanh và các pháp đều chẳng có căn bản thật sự, mà chúng sanh điên đảo chấp là có. Nay Bồ Tát muốn đưa chúng sanh ra khỏi các chấp điên đảo, nên vì họ nói pháp “không điên đảo”. Ở nơi chỗ “không điên đảo” chẳng có ngã, chẳng có chúng sanh... dẫn đến chẳng có trí giả, chẳng có kiến giả.
Các pháp tuy chỉ một tướng (nhất tướng) mà chúng sanh điên đảo chấp có rất nhiều tướng.
Bồ Tát trú trong tánh không, phá các vọng chấp của chúng sanh mà chẳng phá chúng sanh; Ở ngay nơi tướng chúng sanh điên đảo, mà độ chúng sanh ra khỏi tướng điên đảo, ra khỏi các pháp hữu lậu, và an trú họ trong pháp vô lậu.
Các pháp vô lậu mà Bồ Tát dùng để giáo hóa chúng sanh, như bốn niệm xứ... dẫn đến tám thánh đạo v.v..., đều y theo thế đế sanh diệt mà nói ra, nên chẳng bằng được đệ nhất nghĩa đế vậy”.
2- Bản tánh không là sở chứng của chư Phật, cũng gọi là Phật đạo.
“Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại mười phương đều dùng bản tánh không, làm Phật nhãn. Nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời. Chư Phật xuất thế đều thuyết bản tánh không; hữu tình được giáo hóa cần phải lắng nghe Phật thuyết lý bản tánh không, mới có thể nhập Thánh đạo, chứng quả Thánh đạo; lìa bản tánh không, không có phương tiện nào khác”.
“... Nếu đại Bồ Tát muốn đắc Vô Thượng Bồ đề thì phải an trụ tất cả pháp Phật, mà an trụ tất cả pháp Phật tức là an trụ bản tánh không... “Bản tánh không là sở chứng của chư Phật, cũng gọi là Phật đạo”. “Nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời”. Vậy, bản tánh không là Như Lai Ứng Cúng Đẳng giác, là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, là Phật Đạo”.
Kết luận:
Nếu thấy tất cả pháp bản tánh không thì không phân biệt, vì trong không có gì để phân biệt, không phân biệt tức không chấp. Không chấp tức vô thức thì được vô niệm vô tâm, nên nói là chứng tánh. Chứng tánh đó là tánh gì? Tánh đó tức là Tánh không. Chỗ cao nhất của Bát Nhã. Nhưng thật ra chứng mà chẳng có gì để chứng nên bảo là không. Tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc, rỗng không, trong suốt. Đỉnh cao của giáo lý Bát Nhã ở chỗ đó! Tất cả nổ lực của chúng ta là học ở cái rỗng không trong suốt này. Câu nói trong Truyền Đăng Lục “Vin vào cái có mà chẳng có, tựa vào cái không mà chẳng không” chỉ là câu nói trào lộng đối với hành giả Bát Nhã mà thôi! Nói Có nói Không đối với Đệ nhất nghĩa đế là hý luận.
Đây là bài pháp rất mắc mỏ, khó nuốt khó tiêu hóa nhưng hay vô cùng. Tất cả Bát Nhã Tánh Không đều được gói trọn trong đó. Cố gắng đọc tụng thọ trì thôi!
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Thật tế: Bản dịch ĐBN của HT Thích Trí Nghiêm trong Tuvienquangduc.com dùng từ thật tế, bản dịch của cùng một tác giả nhưng được củ soát trong thuvienhoasen.org dịch là Niết bàn. Nguyên bản bằng chữ Hán trong hoavouu.com âm là thật tế (實際). Chúng tôi dùng từ thật tế, vì từ này cũng được HT Thích Trí Tịnh dùng để dịch Kinh MHBNBLMĐ, tức là kinh Đại Bát Nhã do Phật thuyết ở Hội thứ II cũng còn gọi là đại bản như nhiều lần giải thích.
Thực tế hay thật tế là một trong những từ khó giải thích nhất mà Bát nhã Ba la mật thường lặp đi lặp lại nhiều lần. Tùy các tông phái, tùy theo trình độ tu tập, công phu hành trì của mỗi cá nhân, mỗi nhà, mỗi tông có những nhận định khác nhau. Trong văn chương Phật học thường đặt từ này ngang hàng hay có thể thay thế với các từ như chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, hư không giới, bất tư nghì giới, Phật tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, như như, Niết bàn, Như lai tạng v.v… như đã giải thích ở trên.
Từ điển Phật học Việt Anh - Minh Thông giải thích Thật tế (S: Bhùtakoti): Reality-limit. Chân thật tế cực, chỉ Niết bàn thật chứng lìa hẳn hư vọng. Từ này được thích nghĩa nhiều lần ở các phẩm trước. Ở đây giải thích này của từ điển Minh Thông rất phù hợp với các bản Việt dịch ĐBN, nên được nêu ra để độc giả nắm vững vấn đề.
(2). Chúng sanh tế: Từ này được HT. Thích Trí Tịnh dùng khi dịch Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa; Tuvienquangduc.com dịch là hữu tình tế; Quangduc.com cũng dịch là hữu tình tế, trong khi thuvienhoasen.org dịch là cõi hữu tình; nguyên văn bản chữ Hán trong hoavouu.com âm là hữu tình tế 有情際. Chúng tôi dùng cụm từ chúng sanh tế vì thuận tai hơn.
Cái cùng đích biên tế của hết thảy mọi thực tại gọi là thật tế, riêng con người thì gọi là chúng sanh tế hay hữu tình tế. Cũng như nói chơn như của chúng sanh thì gọi là chúng sanh như, thật tế của chúng sanh gọi là chúng sanh tế. Trong phần lược giải trên đã giải thích rộng rồi.
(3). Định nghĩa Thật tế này của Thiền sư D.T. Suzuki trích từ Thiền luận III.
(4). Bản thể, bổn thể, bản chất (本體): Thông thường, các nhà triết học phương Tây giải thích bản thể: Bản thể là cái tự nó tồn tại đích thực đối lập với hiện tượng. Trong Phật giáo, danh từ pháp thể được dùng để diễn đạt ý nghĩ tương đồng như thế, tức chỉ cái thể tính các pháp, hoặc những danh từ như bản chất các pháp, bản tính, pháp tính, chân như v.v... là những dụng ngữ đồng loại. Trước thời Phật giáo, người Ấn độ cổ đại nhận bản thể của vũ trũ là Phạm (Phạm: brahman), bản thể của cá nhân là Ngã (Phạm: àtman) và cho rằng bản chất của Phạm và Ngã là một (Phạm ngã nhất như). Về bản thể ngã của cá nhân, thì Phật giáo lập thuyết Vô ngã, chủ trương hết thảy các pháp đều do mối quan hệ tương y tương hỗ (nhân duyên) mà tồn tại; trong Phật giáo Đại thừa tư tưởng này còn triệt để hơn nữa mà sản sinh tư tưởng không (Phạm:sùnya). Trong các phái thuộc Phật giáo Bộ phái, có những phái như Độc tử, Pháp thượng, Chính lượng v.v... khẳng định sự tồn tại của ngã thể chủ quan (phi tức phi ly uẩn ngã), cũng khẳng định các pháp hiện tượng giới, các phái này thuộc tông Pháp ngã câu hữu (ngã pháp đều có). Lại như Thuyết nhất thiết hữu bộ cho rằng, thể tính của vạn hữu là thường hằng bất diệt suốt trong quá khứ, hiện tại và vị lai, đây tức là thuyết Tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu (ba đời thực có, pháp thể hằng có), nhưng ở một mặt khác, thì lại không thừa nhận sự tồn tại của Ngã, vì thế thuộc tông Ngã không pháp hữu (ngã không pháp có). Còn các phái Kinh lượng, Hóa địa, Pháp tạng, Đại chúng, Kê dận, Tây sơn trụ, Bắc sơn trụ v.v... thì chủ trương các pháp quá khứ và vị lai không có thể tính, duy chỉ pháp hiện tại là thực có, đây tức là thuyết Quá vị vô thể (quá khứ vị lai không có thể tính). Lại như Thuyết giả bộ, thì không những chỉ nhận quá vị vô thể, mà ngay cả đối với các pháp hiện tại cũng chủ trương có giả có thực. Theo Thuyết giả bộ nói, thì vạn hữu chia làm năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, trong đó năm uẩn là thực thể, nhưng mười hai xứ, mười tám giới là những pháp sở y, sở duyên, thuộc pháp tích tụ, là có giả, đây tức là thuyết Hiện pháp giả thực (pháp hiện tại có giả có thực). Ngoài ra, Thuyết xuất thế bộ thì cho các pháp thế gian đều là có giả, duy chỉ pháp xuất thế gian là có thực thể, đây tức là thuyết Tục vọng chân thực (tục đế vọng chân đế thực). Nhất thuyết bộ thì chủ trương hết thảy vạn hữu, dù là pháp thế gian hay xuất thế gian, đều chỉ có giả danh chứ không có thực thể, đây tức là thuyết Chư pháp đãn danh (các pháp chỉ có cái tên). Vào giữa thế kỷ thứ IV Tây lịch, Ha lê bạt ma (Phạm: Harivarman), viết luận Thành thực 16 quyển, nêu cao tư tưởng không, phản đối thuyết Tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu của Nhất thiết hữu bộ, không những chỉ phủ nhận sự tồn tại của ngã thể chủ quan, mà còn bác luôn cả sự tồn tại của pháp thể vạn tượng khách quan, đây tức là thuyết Ngã pháp câu không (cả ngã và pháp đều là không). Giáo hệ Phật giáo có liên quan đến vấn đề bản thể tính tướng, mở đầu tự Hữu không luận của Tiểu thừa, biến chuyển mà thành Hữu không luận của Đại thừa, như giáo nghĩa Duy thức dùng thuyết Tam tính, Tam vô tính để trình bày hữu không quan về vạn hữu, và khảo sát thực lý Hữu, Không, Trung đạo. Tức dựa vào ba tính Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thực, từ phương diện có thuyết minh tự tính của vạn hữu, đồng thời, dựa vào ba vô tính: Tướng vô tính, Sinh vô tính, Thắng nghĩa vô tính, từ phương diện không hiển bày cái chí lý các pháp đều không, cho nên nhấn mạnh hiện tượng tuy là không hoặc có giả, nhưng thực thể thì là có thật, đây tức là luận Hữu Không Trung Đạo. Tông Tam luận thì bác bỏ loại tư tưởng có, không tương đối ấy, mà lấy cái Không tuyệt đối bất khả đắc làm lý tưởng cùng cực, cho nên đem Tứ trùng nhị đế, Bát bất trung đạo để thuyết minh chân đế pháp tính siêu việt tình chấp, bặt hết tư lự, đây tức là luận Vô tướng giai không. Tư tưởng Không này của tông Tam luận bị coi là Bản thể luận tiêu cực; đối lại, được coi là Bản thể luận tích cực, phát huy giáo chỉ cao nhất của Đại thừa, là luận Chư pháp thực tướng của tông Thiên thai. Tông Thiên thai dựa vào Kinh Pháp hoa và mấy câu kệ trong phẩm Quán Tứ đế của Trung luận (Đại 30, 33 trung): Các pháp nhân duyên sinh, Tôi bảo đó là không, cũng tức là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo, và câu nói trong luận Đại trí độ Trong một tâm được ba trí, mà thuyết minh cái lý mầu nhiệm Không, Giả, Trung ba đế viên dung, và nêu tỏ thể tính của các pháp xưa nay vốn viên dung vô ngại. Đồng thời, chủ trương nếu người ta phá tan được khối mê vọng thì lập tức bước vào cảnh giới thông suốt sáng chói, thể nhận hết thảy các pháp thuần là thực tướng, ngoài thực tướng ra, không có một pháp nào khác. Pháp giới muôn tượng la liệt, mỗi mỗi đều là thực tướng, vì thế sai biệt tức là bình đẳng, hiện tượng tức là thực thể, sự tướng và thực thể chẳng hai chẳng khác, muôn pháp là nhất như. Trong Phật giáo Đại thừa, ngoài luận Chư pháp thực tướng của tông Thiên thai ra, như Pháp giới duyên khởi của tông Hoa nghiêm, Lục đại duyên khởi của Mật tông, đều là tư tưởng lí luận chủ trương hiện tượng tức là bản thể. Tóm lại, cái Không mà Phật giáo Đại thừa thuyết minh, tức là cái trạng thái không thể chấp trước. Bát Nhã tâm Kinh (bản dịch của Ngài Huyền trang) dùng những tiếng sau đây để thuyết minh mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng (Đại 8, 848 hạ): Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Trong Kinh Phổ biến trí tạng Bát nhã Ba la mật đa tâm do Ngài Pháp nguyệt dịch, trước hai câu trên đây, còn có hai vế (Đại 8, 849 thượng): Sắc tính là không, không tính là sắc. Thông thường người ta dùng hiện tượng để nắm bắt vật chất tồn tại. Nhưng cái gọi là hiện tượng, tức phải dựa vào vô số nguyên nhân, điều kiện và luôn luôn biến hóa; trên đời tuyệt không có một hiện tượng nào là không biến hóa, vì biến hóa không ngừng nên mới có hiện tượng sản sinh, cho nên người ta mới mong nắm bắt sự tồn tại của chúng, đây tức là thế giơi Sắc tính là không, không tính là sắc, tương đương với cái Không trong ba đế Không Giả Trung do đại Sư Trí khải lập ra. Cái thế giới hỗn độn không chủ thể, chưa chia thành chủ khách, là thế giới duy nhất, toàn nhất, thế giới một tức hết thảy, hết thảy tức một, người ta nên nắm bắt cái thế giới ấy. Nhưng, muốn đạt được cảnh giới ấy, người ta không thể không dựa vào hiện tượng làm cơ sở. Duy có điều là một hiện tượng tuyệt không có bản thể, mà do nhiều hiện tượng và hết thảy pháp hỗ tương quan hệ mới có thể thành lập được; đồng thời, cũng thể nhận được thế giới duyên khởi tất cả đều do nguyên nhân và điều kiện hỗ tương y tồn mà vận hành. Giả sử hiện tượng Ngã không hoạt động, thì hãy quan sát mối liên quan với người khác, lúc đó có thể hiểu hiện tượng Ngã thường không phải do Ngã mà do các nhân tố ngoại lai người khác thêm vào khiên chế mà dần dần khác với cái Ngã hiện tại. Đứng trên lập trường lý luận mà nói, cũng có thể lý giải hết thảy sự vật ngoại tại không ngừng phủ định tự kỷ, hoặc đối lập với tự kỷ, và trong những điều kiện như thế, người ta phải hạn định quan hệ để khẳng định tự kỷ, đây tức là thế giới Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, tương đương với thế giới Giả của tông Thiên thai. Đã có thể nắm bắt được sự thể nghiệm ở giai đoạn thứ nhất, thứ hai trên đây mà bàn đến giai đoạn thứ ba, nếu thuyết minh bằng lời nói, thì hoàn toàn tương đồng với giai đoạn trước. Song, trong Kinh nghiệm sinh động của nhân loại, trên thực cảm, xác thực có cái thế giới có thể nắm bắt được và so với giai đoạn thứ hai thì thế giới ấy cao hơn, đó tức là thế giới Sắc tức là không, không tức là sắc, tương đương với thuyết Trung của tông Thiên thai. Nói theo nghĩa cùng tột thì ba đế Không Giả Trung không có thứ tự trước sau cách lịch, mà là viên dung vô ngại, một tức ba, ba tức một, đó là nghĩa đích thực của Viên giáo tam đế viên dung trong tông Thiên thai. Mà tư tưởng ấy không những chỉ là một trong những giáo nghĩa trung tâm của tông Thiên thai, mà cũng là chứng minh của Phật pháp Đại thừa đối với bản thể viên thục nhất của muôn pháp. (xt. Không, Không Hữu Luận Tranh)- Từ điển Phật Quang.
Lối giải thích này chỉ có người thâm cứu dùng mà thôi. Chúng ta chỉ cần biết bản thể là bản chất của các pháp, bản tính của tất cả pháp. Nhưng theo Bát Nhã thì chẳng có gì là bản chất hay bản tánh nguyên sô,độc lập, sở hữu trong chúng, tất cả đều giả lập cũng tức là không. TB.
(5). Hiện thực hay hiện tượng (現象): Đối lại với Bản thể, bản chất. Cái trạng thái của sự vật mà người ta có thể cảm và biết được hiện bày ra trước mắt (nói theo Sự). Trong Phật giáo, các hiện tượng được xem là giả có, mà bản thể, bản chất, hoặc gọi là tự tính, bản tính mới là có thật (nói theo Lý). Tông Duy thức gọi đối tượng của nhận thức là ảnh tượng (bóng dáng), gọi thực chất của ảnh tượng là bản chất, còn cái hiện tượng biểu hiện trong thực tại thì được gọi là Hiện hành. Những hiện tượng mà người ta thấy chỉ là bóng huyễn do nhận thức sai lầm mà có. Ngoài ra, bản thể nhất như gọi là lý, hiện tượng sai biệt gọi là sự . (xt. Sự Lí)- Từ điển Phật Quang.
Hiểu được hiện thực và bản thể là hiểu được Tục đế (hiện thực-tương đối) và Đệ nhất nghĩa đế (bản thể-tuyệt đối) tức hiểu được sự và lý. Vượt qua và vượt trên lý và sự, tức hiểu được tánh bình đẳng của tất cả pháp tức thâm nhập được Bát nhã Ba la mật.
(6). “Do thế tục pháp, nên nói có Bồ Tát, có hết thảy các sắc pháp. Trái lại, ở nơi Bồ Đề thì chẳng có một định pháp nào cả, chẳng có Phật, chẳng có Bồ Tát, chẳng có chúng sanh, cũng chẳng có Bồ Đề vậy”. Phẩm thứ 80. “Thật Tế”, tập 5, quyển 90, Đại Trí Dộ Luận.
(7). Mạn Thù Thất Lợi có tên khác là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cùng với Phổ Hiền Bồ Tát, hai vị hộ pháp này giúp Phật giáo hóa chúng sanh trong cõi Sa Bà. Mạn Thù Thất Lợi là nhận vật chánh trong Hội thứ VII, ĐBN.
Những thích nghĩa trên tuy dài dòng nhưng rất hữu ích cho sự hiểu biết không những cho phẩm này mà còn cho các phẩm khác nữa./.