- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM “NGHIÊM TỊNH CÕI PHẬT”
Phần sau quyển 393 đến phần đầu quyển 394, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Tịnh Phật Quốc” quyển thứ 29, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghĩ thế này: Những pháp nào gọi là đạo Bồ Tát mà Bồ Tát an trụ trong đó, thường làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình?
Phật biết tâm niệm ấy, bảo với Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Lục độ vạn hạnh, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp không, tứ Thánh đế, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, Tam giải thoát môn là đạo Bồ Tát; thập địa, ngũ nhãn, lục thần thông là đạo Bồ Tát; Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Bồ Tát; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là đạo Bồ Tát; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là đạo Bồ Tát.
- Thiện Hiện! Nói tóm lại, tất cả các pháp Phật đều là đạo Bồ Tát.
Phật hỏi Cụ thọ:
- Này Thiện Hiện! Có pháp nào Bồ Tát không cần phải học mà có thể đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Nhất định không có pháp nào đại Bồ Tát chẳng cần học mà có thể đắc sở cầu Vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì chẳng học thì làm sao có thể đắc quả!
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, thì tại sao đại Bồ Tát cần phải học tất cả pháp? Không lẽ pháp không hý luận mà tạo hý luận cho rằng có pháp này pháp nọ: Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự lưu, đây là pháp Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, đây là pháp Độc giác, là pháp Bồ Tát hay pháp Như Lai?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các pháp sở hữu tự tánh đều không. Nếu tất cả pháp tự tánh chẳng không, thì đáng lẽ các đại Bồ Tát chẳng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì tất cả pháp, tự tánh đều không, cho nên các đại Bồ Tát có thể đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
- Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tất cả pháp đều không có tự tánh, thì các đại Bồ Tát chẳng nên học tất cả pháp. Nhưng vì các hữu tình chẳng biết các pháp đều không có tự tánh, nên các đại Bồ Tát cần phải học tất cả pháp, để chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình an lập, tuyên thuyết.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối với Bồ Tát đạo, khi mới tu học, nên quán sát kỹ, tự tánh các pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, chỉ do hòa hợp tạo ra. Tự tánh các pháp rốt ráo đều không, chẳng nên chấp trước, chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên chấp trước mười hai xứ, mười tám giới; chẳng nên chấp trước tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng; chẳng nên chấp trước Nhất thiết trí… cho đến chẳng nên chấp trước quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều không, tánh không chẳng thể chấp trước tánh không; trong cái không, tánh không còn chẳng thể nắm bắt được huống là có tánh không có thể chấp trước không.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi quán sát tất cả pháp như thế, đối với pháp tánh không chấp trước, và như vậy đối với tất cả pháp, thường học không hề mệt mỏi.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát an trụ trong sự học này, quán sát kỹ tâm hành của hữu tình, nên như thật rõ biết tâm của họ chỉ hành sở chấp hư vọng. Đại Bồ Tát ấy, nghĩ như vậy rồi thi thiết Bát nhã Ba la mật phương tiện thiện xảo, dạy bảo trao truyền cho các hữu tình nên xa lìa sở chấp, hướng vào Chánh pháp tu các hạnh lành: Từ nay nên tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nhưng chớ ỷ vào việc tu này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có gì là chắc thật. Từ nay nên tu mười tám pháp không, ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất bất cộng, Nhất thiết trí… nhưng chớ ỷ lại việc tu này mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Vì trong ấy hoàn toàn không có gì chắc thật. Từ nay nên tu Bồ Tát hạnh, nên tu quả vị Giác ngộ tối cao, nhưng chớ ỷ lại việc tu này mà sanh kiêu mạn. Vì trong ấy hoàn toàn không có gì chắc thật!
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, an trụ Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo, khi dạy bảo trao truyền cho các hữu tình, hành đạo Bồ đề không nên chấp trước. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp chẳng thể chấp trước, hoặc năng chấp hoặc sở chấp hoặc sự chấp đều không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả pháp là không.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành đạo Bồ đề như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn vô sở trụ. Vì lấy vô sở trụ làm phương tiện, nên tuy hành bố thí nhưng ở trong đó hoàn toàn không có sở trụ; tuy hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã nhưng ở trong đó hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả đều không. Tuy hành mười tám pháp không, ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ thiền bát định, Nhất thiết trí… nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, vì tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả đều không; tuy hành Bồ Tát hạnh nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành quả vị Giác ngộ tối cao nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả đều không.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, tuy có thể đắc quả Dự lưu nhưng chẳng trụ trong quả ấy; tuy có thể đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác nhưng chẳng trụ trong những quả ấy.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì đại Bồ Tát tuy đắc Thánh quả mà lại không trụ trong đó?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát có thể đắc Thánh quả nhưng không trụ trong đó, vì các quả ấy không có tự tánh, năng trụ sở trụ đều không. Chư Bồ Tát từ sơ phát tâm chỉ cầu quả vị Giác ngộ tối cao, nên ở khoảng giữa không muốn trụ bất cứ một quả trung gian nào khác. Đại Bồ Tát ấy, chuyên cầu quả vị Giác ngộ tối cao, bất kể thời xứ nào, nếu có phát khởi nghiệp thân, ngữ, ý cũng đều tương ưng với Bồ đề tâm. Bồ Tát ấy an trụ Bồ đề tâm, khởi Bồ Tát đạo, lợi ích hữu tình.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất pháp đều chẳng sanh, thì tại sao đại Bồ Tát có thể khởi đạo Bồ đề được?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Tất cả pháp đều chẳng sanh. Những ai không hành, không hướng thì làm sao biết tất cả đều chẳng sanh? (1)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế, các pháp, pháp giới, pháp nhĩ(2) vẫn thường trú.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế, các pháp, pháp giới, pháp nhĩ vẫn thường trú. Nhưng các hữu tình chẳng thể hiểu rõ các pháp, pháp giới, pháp nhĩ thường trú. Các đại Bồ Tát vì làm lợi ích nên khởi đạo Bồ đề, do đắc đạo Bồ đề mới có thể cứu vớt hữu tình, khiến vĩnh viễn giải thoát các khổ sanh tử. (Q.393, ĐBN)
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát có phải dùng sanh đạo mà đắc Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Không!
- Bạch Thế Tôn! Có phải dùng bất sanh đạo mà đắc Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Không!
- Bạch Thế Tôn! Có phải dùng đạo sanh bất sanh mà đắc Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Không!
- Bạch Thế Tôn! Có phải dùng đạo chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh mà đắc Bồ đề chăng?
Phật dạy:
- Không!
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy đại Bồ Tát làm thế nào để đắc Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng dùng đạo đắc Bồ đề, cũng chẳng dùng phi đạo đắc Bồ đề. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề, thì các đại Bồ Tát đáng lẽ đã đắc hay chẳng đắc đạo Bồ đề? Vậy thì tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lại vì họ nói Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng v.v... vô lượng Phật pháp, khiến họ phải học, phải tu phải chứng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp đều chẳng sanh, đại Bồ Tát không dùng sanh đạo, hay bất sanh đạo để đắc quả Bồ đề. Đại Bồ Tát cũng không dùng đạo chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh mà đắc quả Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề. Các đại Bồ Tát nếu đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; nếu đã viên mãn tất cả pháp Phật; nếu đã viên mãn vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn các diệu pháp của chư Phật, thì có thể dùng một sát na tương ưng diệu tuệ, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não chướng, sở tri chướng, các tập khí thô trọng tương tục, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả pháp được đại tự tại, lợi ích an lạc tất cả hữu tình, tận đời vị lai.
(Đoạn Kinh trên một lần nữa nói về đạo Bồ đề. Đạo Bồ đề, Bồ đề đạo hay Bồ Tát hạnh chính là các thiện pháp, các pháp hy hữu, các pháp mầu Phật đạo, cũng gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát v.v… Học hết các pháp này thì chứng quả Bồ đề. Chúng sanh cũng tu hành đạo này nhưng không thể chứng quả. Vì “tâm của họ chỉ hành sở chấp hư vọng”. Nếu đừng chấp vào các pháp, đừng chấp vào sở hành thì chúng sanh cũng có cơ hội như Bồ Tát. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp là không, bản tánh cũng không, vô tánh vô tướng, vô sở hữu, bất khả đắc, vô trụ. Nếu muốn tịnh đạo Bồ đề để nghiêm tịnh cõi Phật thì phải quét sạch dây mơ rễ má hay nói khác là phải tự biết “dọn mình”).
(Thế nào là nghiêm tịnh cõi Phật?)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nghiêm tịnh cõi Phật như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc viên mãn, thường tự thanh tịnh thân thô trọng(3), ngữ thô trọng, ý thô trọng, cũng thanh tịnh tam nghiệp cho người, thì có thể nghiêm tịnh sở cầu là cõi Phật.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là thân, khẩu, ý thô trọng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Sát, đạo, dâm là ba nghiệp thân thô trọng; nói láo, nói thô lỗ tục tằn, nói ly gián, nói lời hỗn tạp là bốn nghiệp khẩu thô trọng; tham, sân, si là ba ý nghiệp thô trọng. Nếu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn đầy cấu uế, ô nhiễm thì cũng gọi là thô trọng. Nếu có tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm sân hận, tâm giải đãi, tâm tán loạn, tâm ác tuệ, thì cũng gọi là thô trọng.
- Lại nữa Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát xa lìa mười tám pháp không, ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ Thánh đế cũng gọi là thô trọng. Nếu đại Bồ Tát cũng xa lìa tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là thô trọng. Nếu đại Bồ Tát xa lìa các pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng. Nếu đại Bồ Tát xa lìa thập địa Bồ Tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng. Nếu đại Bồ Tát xa lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, xa lìa Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao cũng gọi là thô trọng.
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tham cầu chứng đắc các quả Thánh giác cũng gọi là thô trọng.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khởi tưởng sắc, khởi tưởng thọ, tưởng, hành, thức, khởi tưởng mười hai xứ mười tám giới... cho đến khởi tưởng quả vị Giác ngộ tối cao cũng gọi là thô trọng. Nói chung khởi tưởng tất cả pháp Phật… cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng phàm phu, khởi tưởng Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng địa ngục, khởi tưởng bàng sanh, quỷ giới, thiên, nhơn, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi là thô trọng; khởi tưởng Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; khởi tưởng thiện, tưởng bất thiện, tưởng vô ký; khởi tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian, khởi tưởng hữu lậu, vô lậu, khởi tưởng hữu vi, vô vi cũng gọi là thô trọng.
Vô lượng, vô biên các thứ chấp trước, phân biệt hư vọng, các nghiệp thân, ngữ, ý và tánh vô kham nhẫn(4) của các loài ấy đều gọi là thô trọng.
Đại Bồ Tát này xa lìa những thô trọng nói như trên, tự mình hành Bố thí, cũng dạy hành Bố thí Ba la mật; tự mình hành tịnh giới, cũng dạy người hành tịnh giới Ba la mật; tự mình hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cũng dạy người hành an nhẫn... cho đến Bát Nhã. Đại Bồ Tát thực thi các hạnh nguyện này rồi, đem căn lành này cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng sở cầu nghiêm tịnh cõi Phật khiến mau viên mãn, lợi vui hữu tình.
Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông làm cho Tam thiên đại thiên thế giới đầy ắp bảy báu thượng diệu cúng dường Phật Pháp Tăng. Cúng xong hoan hỷ phát thệ rộng lớn: Con nguyện đem thiện căn đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ khiến cho cõi Phật của con trang nghiêm bằng bảy báu, tất cả hữu tình tùy ý thọ dụng mà không nhiễm trước.
Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông làm cho Tam thiên đại thiên thế giới đầy đủ các thứ hương hoa, kỹ nhạc, lương thực, y phục vi diệu cúng dường Tam Bảo và tháp Phật. Cúng dường xong hoan hỷ, phát thệ rộng lớn: Con nay nguyện đem thiện căn đã gieo trồng như thế ban cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, sẽ làm cho quốc độ của con thường có các loại hương hoa, âm nhạc thượng diệu, thức ăn trăm món, y phục đủ loại như thế, hữu tình tùy ý thọ dụng thân tâm thoải mái mà không nhiễm trước.
Đại Bồ Tát dùng nguyện lực thần thông, làm cho các thứ cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thượng diệu, cúng dường chư Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật và cho các loài chúng sanh khác, rồi vui mừng phát thệ rộng lớn: Con nguyện đem thiện căn đã gieo trồng như thế, ban cho các hữu tình cùng có như nhau hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh cõi Phật, khi đắc quả vị Giác ngộ tối cao, khiến trong quốc độ của con, các loại hữu tình tùy tâm ưa thích cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thượng diệu, ứng theo niệm mà hiện ra, hoan hỷ thọ dụng mà không nhiễm trước.
- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, tinh cần dõng mãnh, tự tu mười tám pháp không và khuyên người tu mười tám pháp không, thực thi xong rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị Giác ngộ tối cao, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của con đều chẳng xa lìa mười tám pháp không này. Đại Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật, tinh cần dõng mãnh, tự tu ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, tứ thiền bát định, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, các pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, thập địa Bồ Tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết tướng trí, Bồ Tát hạnh… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao và khuyên người nên tu tất cả pháp Phật như nói ở trên, thực thi xong rồi lại phát nguyện: Khi đắc quả vị Giác ngộ tối cao, khiến các loài hữu tình trong quốc độ của con đều chẳng xa lìa các thiện pháp này.
- Này Thiện Hiện! Do các hạnh nguyện trên nên đại Bồ Tát có thể nghiêm tịnh cõi Phật.
- Này Thiện Hiện! Nghiêm tịnh cõi Phật có nghĩa là cõi Phật ấy không có ba ác đạo: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; chẳng có tam độc: Tham, sân, si; chẳng nghe các ác kiến; cũng chẳng nghe có hình tướng nam, nữ; cũng chẳng nghe có Thanh văn, Độc giác, cũng chẳng nghe có khổ, vô thường v.v... ; cũng chẳng nghe có chấp ngã, ngã sở; cũng chẳng nghe có tùy miên triền kết; cũng chẳng nghe các điên đảo chấp trước; cũng chẳng nghe có an lập phần vị sai biệt các quả; chỉ nghe nói không, vô tướng, vô tánh, vô nguyện, vô sanh, vô diệt v.v... và tùy theo sở thích của hữu tình mà rừng cây kẽ lá thường có gió nhẹ va chạm vào nhau, phát ra các loại âm thanh vi diệu; trong các âm thanh ấy nói tất cả pháp đều không có tự tánh; vì không có tự tánh nên không; vì không nên vô tướng; vì vô tướng nên vô nguyện; vì vô nguyện nên vô sanh; vì vô sanh nên vô diệt. Vì vậy, các pháp bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết bàn. Phật xuất thế hoặc chẳng xuất thế, pháp tướng thường như thế. Trong cõi Phật kia, các loài hữu tình, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc đi, hoặc đứng, nằm ngồi thường nghe âm thanh nói pháp như thế.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát này đều ở cõi Phật sở trụ trang nghiêm, khi chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác, vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp. Hữu tình nghe rồi tất chẳng sanh nghi đây là thị pháp, đây là phi pháp. Vì sao? Vì loại hữu tình kia thấu rõ các pháp tức chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh bất hư vọng, tánh chẳng biến dị. Tất cả pháp này không phải phi pháp. Các Bồ Tát này đều năng nghiêm tịnh được cõi Phật như thế.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Có những kẻ phước mỏng, không đủ thiện căn, chưa ở chỗ chư Phật, Bồ Tát, Độc giác và Thanh văn, trồng các thiện căn, bị các ác hữu nhiếp thọ, nên xa lìa thiện hữu, chẳng nghe Chánh pháp, thường bị các thứ kiến chấp về ngã, hữu tình và các kiến chấp khác, nên thiên chấp nhị biên thường, đoạn. Các hữu tình ấy tự khởi tà chấp, cũng thường dạy người khiến khởi tà chấp, đối với Phật chẳng phải Phật khởi tưởng là Phật; đối với Pháp chẳng phải Pháp khởi tưởng là Pháp; đối với Tăng chẳng phải Tăng khởi tưởng là Tăng. Do nhân duyên ấy, phỉ báng Chánh pháp, vì phỉ báng chánh pháp nên khi thân hoại mạng chung, đọa vào các đường ác, sanh vào địa ngục, thọ khổ dữ dội.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát ấy chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao rồi, thấy hữu tình kia trầm luân sanh tử thọ vô lượng khổ, dùng sức thần thông phương tiện giáo hóa khiến bỏ ác kiến, trụ trong chánh kiến; từ địa ngục ra sanh vào cõi người; sanh cõi người rồi, lại dùng các loại thần thông phương tiện giáo hóa khiến an trụ trong nhóm chánh định. Do đó rốt ráo chẳng rơi vào đường ác; lại khiến tu tập hạnh nguyện thù thắng, khi mạng chung được sanh cõi Phật nghiêm tịnh, thọ dụng pháp lạc Đại thừa tịnh độ.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Do cõi sở cư rất thanh tịnh, nên hữu tình kia đối với tất cả pháp chẳng khởi hư vọng, phân biệt đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi; các thứ do phân biệt như vậy, rốt ráo chẳng khởi. Do nhân duyên này, bậc hữu tình kia nhất định đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
- Thiện Hiện! Như vậy là đại Bồ Tát nghiêm tịnh cõi Phật.
Thích nghĩa:
(1). Đoạn này dịch giả trong website thuvienhoasen.org dịch là: - Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả pháp đều chẳng sanh. Ở đây, những người không làm gì, không hướng đến đâu thì làm sao lại biết tất cả pháp đều chẳng sanh? Nguyên văn chữ Hán là: “如như 是thị .如như 是thị .一nhất 切thiết 法pháp 皆giai 不bất 生sanh .此thử 復phục 云vân 何hà 諸chư 無vô 所sở 作tác .無vô 所sở 趣thú 者giả .知tri 一nhất 切thiết 法pháp .皆giai 不bất 生sanh 故cố”. Có thể dịch tạm là: “Đúng lắm! Đúng lắm! Tất cả pháp đều chẳng sanh. Những ai không hành, không hướng thì làm sao biết được tất cả pháp chẳng sanh?”
(2). Pháp nhĩ: Cũng gọi Pháp nhiên, Tự nhiên, Thiên nhiên, Tự nhĩ, Pháp nhĩ tự nhiên, Tự nhiên pháp nhĩ, chỉ cho trạng thái tự nhiên, thiên nhiên của các pháp (muôn vật), không trải qua bất kì sự tạo tác nào. Tức chỉ cho tướng trạng của sự vật xưa nay vốn như thế. Cứ theo Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký quyển 3, thì nghĩa Pháp nhĩ có thể nhận xét về 2 phương diện: 1- Nhận xét về sự tồn tại của tất cả các pháp: Hết thảy các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, dù nước chảy xuống thấp, lửa bốc lên cao, đều là việc tự nhiên như thế. 2- Nhận xét theo lý chân như của các pháp: Các pháp vốn tùy duyên mà sinh khởi, tính của các pháp xưa nay vốn bình đẳng thường nhiên. Theo luận Du già sư địa quyển 88, thì Pháp nhĩ là đạo lý thứ 4 trong 4 đạo lý, là đạo lý tự nhiên biểu trưng cái tướng vốn như thế của mỗi sự vật, như tính của lửa vốn nóng, tính của nước vốn ướt... (Phật Quang tự điển).
“Pháp nhĩ như thị”: Các pháp như thế là như thế, không nọ kia, thường trụ như vậy, nên gọi là pháp nhĩ như thị hay nói khác là Tánh Không.
(3). Thô trọng: Thô là thô sơ, trọng là nặng nề. Thô trọng có nghĩa là nặng nhẹ sai khác về cấp độ như tam thô trọng (còn gọi tam chướng, ba thứ phiền não có cấp độ khác nhau): Bì thô trọng: Chướng ngại “sơ sơ” như bệnh ngoài da (bì); phu thô trọng: Chướng ngại thấm qua da vào thịt (chu) và cốt thô trọng: Chướng ngại trầm trọng, thấm tận xương tủy (cốt).
(4). Kham nhẫn và Vô kham nhẫn: Phạm: Kwama. Nhẫn nại chịu đựng sự bức bách đau đớn của thân và tâm. Kinh Đại Bát Niết Bàn (bản Nam) quyển 26 (Đại 12, 779 hạ) nói: Không tiếc thân mệnh, kham nhẫn các nạn. Lại nữa, tiếng Phạm: Sahà (dịch âm: Sa bà), cũng được dịch là kham nhẫn. Thế giới Kham nhẫn là chỉ cho thế giới Sa bà, vì chúng sinh trong thế giới Sa bà nhẫn chịu 3 độc tham, sân, si và các nỗi khổ não, rồi các Bồ Tát vì giáo hóa chúng sinh mà nhẫn chịu mệt nhọc, cho nên gọi là thế giới Kham nhẫn. Phỏng theo tự điển Phật Quang.
Lược giải:
Hạnh nguyện của Bồ Tát ở đây là thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ, nói theo nghĩa tinh thần của Phật đạo. Người giúp đời làm Kinh tế để mang lại an vui hạnh phúc cho toàn dân, gọi là “Kinh ban tế thế”, nói theo nghĩa chuyên môn thế tục. Dù ẩn dụ dưới hình thức nào, dưới danh nghĩa nào, hai công việc ấy vẫn mang lại mục đích như nhau: Đem lại hạnh phúc và an lạc cho cộng đồng xã hội. Đó là mục tiêu thứ nhất trong việc thành thục hữu tình.
Người ta thường nói tôn giáo đem lại an lạc và hạnh phúc tinh thần cho chúng sanh. Còn làm Kinh tế chỉ cốt mang lại lợi ích vật chất mà thôi. Như đứa trẻ mồ côi, được no cơm ấm áo thì cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Nhưng nếu nó không được thương yêu chiều chuộng như những đứa trẻ khác có cha mẹ anh em, thì nó cũng cảm thấy không có hạnh phút nữa. Thật ra, hạnh phúc về vật chất và tinh thần cũng chỉ là hai mặt của đồng tiền, hai mặt của kiếp sống. Có hạnh phúc vật chất nhưng thiếu hạnh phúc tinh thần, thì không thể gọi là hạnh phúc thật sự hay ngược lại. Hạnh phúc thật sự trọn vẹn khi hai mặt vật chất và tinh thần hỗ tương nhau.
Vậy, học Bát Nhã hay học tất cả pháp mầu Phật đạo để trở thành Bồ Tát, ngõ hầu cứu độ chúng sanh thoát khỏi những khổ ải cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần. Một khoa học gia sau nhiều năm nghiên cứu cho, cho ra một loại lúa mới ngắn hạn để cứu đói (lúa Thần nông), vị ấy được coi là Bồ Tát; một kỹ sư cho một luồng điện âm và một luồng điện dương chạy qua một sợi dây kim loại nhỏ (tungsten), thắp sáng cả nhân loại; một nhà sinh thực vật học thấy trên một dĩa dơ có một loại nấm móc (fungus) ngăn chận được sự bành trướng của vi khuẩn, mà chế ra thuốc trụ sinh đã cứu biết bao sinh mạng; một Newton thấy trái táo rơi, liên hệ giữa gia tốc và tỷ trọng tạo ra kỹ nghệ hàng không, hỏa tiễn, vệ tinh...; một Archimedes thấy “sức đẩy của hơi nước” đã biến cục sắt thành vật biết lội hay lặn sâu dưới đáy biển như loài thủy tộc; một Einstein tạo một năng lượng siêu việt bằng cách “tách rời một nguyên tử”; một Pasteur tìm ra “vi trùng” mà chế ra thuốc chủng, cứu sống biết bao sanh linh qua bao thế hệ v.v... Đó là những Bồ Tát làm đẹp thế gian này trên cả hai lãnh vực vật chất lẫn tinh thần! Một khi chúng sanh được no cơm ấm áo rồi thì rất dễ dẫn dắt vào chánh đạo, để nghiêm tịnh Phật độ, chỉ “có thực mới vực được Đạo”.
Nhưng cũng phải nói hạnh phúc hay đau khổ là hai mặt cuộc sống của thế giới nhị nguyên. Hạnh phúc của người này là giới hạn hạnh phúc của kẻ khác. Vượt qua giới hạn đó tức là có tranh đoạt, mà tranh đoạt là có mất mát, đổ vỡ. Để giảm thiểu đổ vỡ đó, đạo Phật chủ trương phải giáo hóa con người bắt đầu từ mỗi cá nhân bằng cách thành thục hữu tình, mà thành thục hữu tình là nhân chính để trang nghiêm Phật độ.
Phân tích đến kỳ cùng thì nguyên nhân của tất cả xung đột gây tội trong xã hội, đều bắt nguồn từ thân khẩu ý của mỗi phần tử sống trong xã hội đó. Thân là sát, đạo, dâm: Giết người, trộm cắp, tà dâm là ba nghiệp thô trọng của thân thường xảy ra. Còn con người là còn tội ác này, nói như vậy không phải là quá bi quan. Kế đến là khẩu: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác là bốn nghiệp khẩu thô trọng phát xuất từ cửa miệng (bệnh từ khẩu nhập, nghiệp từ khẩu xuất). Và sau cùng là ba nghiệp thô trọng của ý là tham, sân, si. Tham là muốn vơ vét tài sản, sắc đẹp của kẻ khác làm của riêng mình. Lòng tham không đáy. Nếu quyền uy sức mạnh nhỏ, thì sự chiếm đoạt có giới hạn, nếu quyền cao chức trọng, tham vọng càng to thì tang tóc đau thương càng nhiều, có khi không thể tưởng tượng nổi.
Thế chiến thứ I, thứ II và mới đây chiến tranh giữa Russia và Ukraine là thí dụ cụ thể. Đó chỉ nói về tham, còn sân và si cũng không kém phần độc hại như trên. “Một cơn giận đốt cháy cả rừng công đức” là cốt diễn tả cái thô bạo này. Còn si là vô minh, là phiền não. Có vô minh, phiền não là không có giác ngộ. Vì vậy, tham sân si mới bị gọi là tam độc!
Trước cơn bão đen tối của các ác nghiệp trên, Phật đạo khuyên người tu thiện, tu lục độ vạn hạnh và tu Bồ Tát đạo để giác ngộ mà thực thi các chương trình cứu rỗi chúng sanh là thành thục hữu tình, nghiêm tịnh quốc độ.
Nhưng những giáo điều dù tốt đẹp đến đâu chỉ có thể thực hiện được, nếu tất cả chúng sanh trên bình diện cá nhân hay tập thể trước tiên phải từ bỏ tự kỷ. Xả bỏ tự kỷ là phá ngã, là diệt tội, quên mình thì mới có thể hy sinh cho kẻ khác. Phải biết cho mà đừng nhận!
“Một bà lão hỏi Triệu Châu:
- Tôi mang cái thân nữ này bị năm dây ràng buộc chướng ngại cho Phật tánh, làm sao thoát ly những triền phược ấy?”.
Triệu Châu đáp:
- Xin nguyện cho mọi người sanh lên cõi trời, còn thân con tiện tỳ này nguyện tiếp tục chịu trầm luân một mình trong biển khổ!”
Kết luận:
Muốn nghiêm tịnh cõi Phật thì trước hết phải giữ tam nghiệp (thân, ngữ, ý) thanh tịnh. Vì vậy, Phật bảo: “Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến thân rốt sau, thường tự thanh tịnh ba thô trọng nơi thân ngữ ý, cũng thanh tịnh ba thứ thô trọng cho người, nên năng nghiêm tịnh cõi Phật”.
Muốn nghiêm tịnh cõi Phật thì phải thanh tịnh chính bản thân và thanh tịnh luôn cho cả chúng hữu tình. Mà thanh tịnh hữu tình tức thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Một người thanh tịnh thì cả gia đình thanh tịnh, một gia đình thanh tịnh thì xóm làng thanh tịnh. Xóm làng thanh tịnh thì cả quận cả tỉnh thanh tịnh, tất cả quận tỉnh thanh tịnh tức quốc độ thanh tịnh. Vì vậy, nên Kinh nói “tâm tịnh thì độ tịnh, tâm bình thì thế giới bình” là vậy.
Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, Chương I thuyết về “Quốc Độ Phật”, Phật bảo trưởng giả Bảo Tích rằng: “Cho nên, Bảo Tích, nếu Bồ Tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”.
Phật trong Kinh Đại Bát Nhã luôn luôn phân biệt nhị thừa với Bồ Tát thừa. Sự phân biệt này không có nghĩa chê trách sở học, sở tu, sở thành giữa các bậc Thánh này. Phật chỉ trách nhị thừa chỉ mong tu hành sớm chứng đắc thật tế rồi mau mau trốn vào Niết bàn, chẳng đếm xỉa đến các sanh linh khác đang bị trầm luân trong biển khổ. Ngài Tuệ Sĩ trong lời giới thiệu tác phẩm “Nhận Thức và Tánh Không của Hồng Dương”, nói một cách bóng bẩy rằng: “Trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh, không phải tự mình gầy dựng một hoa viên để rồi khép cửa vườn hồng, an nhàn tự tại mà tiêu pha năm tháng”./.
---o0o---