Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Phẩm "Pháp Giới" (1)

20/01/202107:55(Xem: 8179)
04. Phẩm "Pháp Giới" (1)

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-534


 

  IV. PHẨM "PHÁP GIỚI"(1)

Cuối quyển 567 đến đầu quyển 568, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 3: Pháp Giới, Kinh TTVBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Như trên giới thiệu Hội thứ VI cũng tương tợ như năm Hội đầu mà chúng ta vừa tụng qua. Tuy nhiên, đặc biệt Hội này tách pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh (tức 3 pháp trong thập nhị chơn như) làm thành 3 phẩm và thuyết riêng rẽ nhau. Vì vậy, mới nói Hội này đặc biệt so với tất cả các Hội khác. Vì sao? Vì một khi hiểu hay chứng được chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh,... thì nhập pháp giới tức được xem là giác ngộ. Bài pháp của phẩm này thật là thậm thâm. Xin chậm rãi thưởng thức.

 

Tóm lược:


(Bồ Tát làm thế nào học Bát Nhã mà thông suốt được pháp giới)

 

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, vạch áo chìa vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm thế nào tu học Bát Nhã sâu xa thông suốt pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Hãy lắng nghe! Thật khéo tác ý! Ta sẽ phân biệt giảng thuyết cho ngươi.

Trời Tối Thắng bạch:

- Cúi xin Thế Tôn giảng, chúng con mong muốn được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, phát khởi siêng năng tinh tấn, lìa các chướng ngại phiền não, tâm được thanh tịnh, cung kính tôn trọng, muốn tu tập hạnh Không, xa lìa các kiến, tu đạo như thật, thông suốt pháp giới.

Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ, tưởng như Phật. Vì gần gũi bạn lành nên xa lìa biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện, tăng trưởng căn lành. Đã diệt phiền não, xa lìa pháp chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh tịnh; do thanh tịnh nên liền sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh Không; vì tu tập hạnh Không nên xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo nên có thể thấy pháp giới.

 

(Chơn như của các pháp)

 

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Pháp giới chính là tánh chẳng hư vọng.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng hư vọng?

- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng đổi khác.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng đổi khác?

- Này Thiên vương! Tức là chơn như của các pháp(2).

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?

- Thiên vương nên biết! Như (chơn như của các pháp) này sâu xa vi diệu chỉ có trí biết, chẳng phải do lời nói biết được. Vì sao? Vì các pháp như (hay chơn như) vượt văn tự, lìa ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa hý luận, dứt phân biệt, không đây kia; lìa tướng vô tướng, xa lìa suy lường, vượt cảnh suy lường, không tưởng không tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, lìa cõi phàm tục, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt, không ngã, ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ.

Thiên vương nên biết! Đó là pháp giới. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu chứng pháp giới, hành nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều được thông suốt.

Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai.

 

(Làm sao học hành và chứng đắc pháp giới)

 

Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao có thể chứng đắc pháp giới như thế?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt (3) có thể chứng, có thể đắc.

- Kính bạch Thế Tôn! Nghĩa chứng và đắc có gì khác?

- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế có khả năng thấy đúng như thật nên gọi là chứng, hậu đắc trí thông suốt nên gọi là đắc.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Như Phật đã dạy tuệ của văn, tư, tu chẳng thông suốt thật tướng Bát nhã Ba la mật, mà lại nói chỉ có Bát nhã Ba la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt có khả năng chứng đắc?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy! Vì sao? Vì thật tướng Bát Nhã sâu xa vi diệu, văn tuệ thô thiển, cạn cợt, chẳng thể thấy được. Vì là thắng nghĩa nên tư tuệ chẳng thể suy lường được. Vì là pháp xuất thế nên tu tuệ chẳng thể hành được.

Thiên vương nên biết! Thật tướng Bát Nhã sâu xa vi diệu, phàm phu, Nhị thừa chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì hạng kia như mù bẩm sanh, chẳng thấy các sắc; như trẻ con mới sinh bảy ngày chẳng thấy mặt trời; thấy còn chẳng thể được, huống là có thể chứng.

Này Thiên vương! Ví như mùa hè nóng bức, có người đi về phương Tây, ở giữa đồng hoang, lại có một người từ phương Tây đi đến, hỏi người trước mặt:

“Tôi nay bị nóng khát, biết chỗ nào có nước trong và bóng mát làm ơn chỉ giúp”.

Người kia đáp:

“Từ đây đi về hướng Đông, sẽ có hai đường: một là phía bên trái, hai là phía bên phải, nên theo đường bên phải, lần hồi đi tới có ao suối nước trong và bóng cây mát mẻ”.

Này Thiên vương! Ý ngươi thế nào? Người nóng khát kia chỉ nghe tên suối và cây mát như thế, liên tưởng như thế thì có thể trừ nóng khát, được mát mẻ ngay chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Người kia phải đến nơi, vào ao tắm rửa, uống nước, nghỉ dưới gốc cây mới khỏi nóng khát và được mát mẻ.

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ chẳng thể thông suốt thật tướng Bát nhã Ba la mật.

Thiên vương nên biết! Nói về đồng nội tức dụ cho sanh tử, người dụ cho hữu tình, nóng dụ cho các phiền não, khát dụ cho tham ái. Người phương Đông đến, dụ cho các Bồ Tát, đường bên trái dụ cho chẳng phải chánh đạo, đường bên phải dụ cho đạo Nhất thiết trí. Các chúng Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa biết rõ con đường thẳng đến sanh tử. Suối dụ cho Bát nhã Ba la mật, cây dụ cho đại bi. Các đại Bồ Tát hành hai pháp nên xa lìa phàm phu và đạo Nhị thừa. Thiên vương nên biết! Bát Nhã sâu xa tuy không hình tướng mà khéo nói nên khiến các hữu tình có thể chứng, có thể đắc. (Q. 567, ĐBN)    

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể biết đúng như thật: Lực, Vô sở úy, Bất cộng pháp, Không. Cũng biết đúng như thật các giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn là Không. Cũng biết đúng như thật nội Không, ngoại Không, và nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không v.v... Mặc dù biết tất cả pháp đều Không, nhưng biết tướng Không cũng bất khả đắc, chẳng thủ tướng Không, chẳng khởi thấy Không, chẳng chấp tướng Không, chẳng nương tựa Không. Như vậy, Bồ Tát vì chẳng thủ trước nên chẳng rơi vào Không.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên xa lìa các tướng, nghĩa là hoàn toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tầm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri.

Trời Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, có thể quán các pháp vô tướng như thế thì làm thế nào để quán cảnh giới Phật Bạc già phạm (cảnh giới chư Phật)?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì lìa cảnh giới vậy. Tất cả hữu tình suy lường Phật cảnh thì tâm phát sanh cuồng loạn, chẳng biết đây kia. Vì sao? Vì tánh đồng hư không, chẳng thể suy lường, cầu chẳng thể đắc, lìa cảnh suy tầm; các chúng Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật còn chẳng thấy có cảnh phàm phu v.v... có thể suy lường được, huống là cảnh giới Phật; cũng chẳng nương tựa tất cả diệu nguyện. Mặc dù hành các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng đối với quả kia hoàn toàn không chấp đắm, đối với các công đức cho đến Niết bàn cũng chẳng nương tựa, chấp trước. Vì sao? Vì lìa ngã và ngã sở, không hai, không khác, vì lìa tự tánh vậy.                  

Khi Phật thuyết pháp môn Bát Nhã sâu xa như thế, làm cho Tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, núi Diệu Cao Vương, núi Mục chơn lân đà, núi Đại Mục chơn lân đà, núi Kim Cang Luân Vi, núi Đại Kim Cang Luân Vi, núi Hương, núi Bảo, núi Hắc, núi Đại Hắc, tất cả đều chấn động, vô lượng trăm ngàn các chúng Bồ Tát đều cởi thượng y trải làm chỗ ngồi cho Phật, tòa đó cao rộng như núi Diệu Cao. Vô lượng trăm ngàn các Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế v.v... chắp tay cung kính rải cúng các thứ hoa đẹp, đó là hoa Diệu Âm, hoa đại Diệu Âm, hoa Cát Tường, hoa đại Cát Tường, hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía.

Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng bốn mươi do tuần, hoa chất đầy khắp đến tận đầu gối Như Lai. Vô lượng Thiên tử ở giữa hư không trổi các nhạc trời và xướng lên thế này:

- Lại thấy Phật xuất thế. Lại nghe chuyển pháp luân. Lành thay! Tất cả loài hữu tình châu Thiệm bộ siêng tu công đức, trồng nhiều thiện căn nên được nghe Bát Nhã sâu xa như thế, huống là tương lai có người có thể tin. Nên biết, tất cả hữu tình như thế đều đi trong cảnh giới chư Phật Như Lai.

Lại có vô lượng trăm ngàn Long vương dùng thần lực bủa giăng mây lớn cùng khắp, rưới mưa hương rảy thấm núi Thứu Phong và cùng khắp tam thiên đại thiên thế giới. Những người nghe pháp chỉ biết thấm nhuận hương, chẳng thấy bị thấm ướt. Vô lượng Long nữ đều ở trước Phật chắp tay khen ngợi.

Lại có vô lượng thần Kiền đạt phược dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Các chúng Dược xoa rải cúng các thứ hoa đẹp.  A tu la v.v… cung kính cúng dường.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô biên cõi Phật 10 phương, phóng ánh sáng từ tướng lông giữa chặng mày, chiếu soi những chốn tối tăm ở Tam thiên đại thiên thế giới này. Hào quang đó chiếu sáng rực rỡ khắp núi Thứu Phong và các thế giới xong, liền quay trở về chỗ Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng và nhập vào đảnh Phật.

Vô lượng trăm ngàn chúng Bà la môn và Sát đế lợi, Trưởng giả, Cư sĩ đều đem các thứ hương xoa, hương bột, cờ, phướn, lọng, phan, hoa để cúng dường Phật.

Bấy giờ, trong hội có bảy mươi hai ức đại Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình xa trần lìa cấu, sanh tịnh pháp nhãn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa đã tuyệt ngữ ngôn, lìa văn tự, đại Bồ Tát làm sao hành sâu Bát nhã Ba la mật và thuyết cho các hữu tình pháp như thế?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật và thuyết cho các hữu tình pháp như thế là tu tập Phật pháp, nhưng đối với các Phật pháp hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thành thục các Ba la mật nhưng đối với các Ba la mật, hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thanh tịnh Bồ đề, nhưng đối với Phật Bồ đề rốt ráo chẳng thể đắc. Vì ly diệt Niết bàn nhưng đối với ly diệt Niết bàn hoàn toàn bất khả đắc. Vì bốn quả Sa môn, nhưng đối với bốn quả Sa môn hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì Độc giác Bồ đề, nhưng đối với Độc giác Bồ đề hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì dứt trừ ngã, thủ, nhưng đối với ngã, thủ hoàn toàn chẳng thể đắc. Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật chẳng phân biệt tất cả pháp tướng; năng phân biệt và sở phân biệt đều chẳng thể đắc; tùy thuận Bát nhã Ba la mật mà chẳng trái sanh tử. Mặc dù ở sanh tử mà chẳng trái Bát nhã Ba la mật, tùy thuận pháp tướng.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm sao tùy thuận pháp tướng sâu xa, chẳng trái thế tục?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Bồ Tát tùy thuận Bát Nhã sâu xa, chẳng xa lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng xa lìa cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; chẳng xa lìa pháp nhưng không chấp trước; tùy thuận Bát Nhã, chẳng xa lìa đạo. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực đại phương tiện thiện xảo vậy.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cái gì gọi là Bồ Tát phương tiện thiện xảo?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đó là bốn vô lượng. Các đại Bồ Tát đầy đủ tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên thường có thể lợi ích an vui trong việc giáo hóa hữu tình, đó là Bồ Tát phương tiện thiện xảo.

 

(Bốn tâm vô lượng).

 

- Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn thứ này nói là Đại?

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đầy đủ Từ không biên giới, Từ không phân biệt, Từ các pháp tánh, Từ chẳng ngưng nghỉ, Từ không não hại, Từ lợi ích lớn, Từ bi tánh bình đẳng, Từ bi lợi lạc khắp, Từ bi xuất thế gian. Những loại như thế v.v... gọi là Đại từ (4).

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không có nơi quay về nương tựa, vì muốn cứu giúp nên phát Bồ đề tâm, siêng cầu chánh pháp; đã tự mình đắc rồi, giảng thuyết cho các hữu tình:

Những người tham lam thì dạy tu bố thí.

Người không giới, phá giới thì dạy thọ trì giới.

Người tánh hung ác, dạy hành nhẫn nhục.

Người lười biếng, trễ nãi, dạy hành tinh tấn.

Người tâm tán loạn, dạy hành tịnh lự.

Người ngu si, dạy học diệu tuệ.

Vì độ hữu tình nên dù gặp phải các thứ việc khó khăn rất khổ nhọc, nhưng hoàn toàn không rời bỏ Bồ đề tâm. Những việc làm như thế gọi là Đại bi.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, nghĩ:

Ba cõi lửa cháy dữ dội, ta đã ra khỏi nên sanh hoan hỷ.

Dây sanh tử ràng buộc từ lâu, ta đã cắt đứt vĩnh viễn nên sanh hoan hỷ. Ở trong biển sanh tử tìm tòi chấp thủ, chấp tướng, ta đã ra khỏi hẳn nên sanh hoan hỷ.

Cờ kiêu mạn dựng từ vô thỉ, ta đã bẻ gãy nên sanh hoan hỷ.

Dùng trí Kim cang phá núi phiền não, làm cho tiêu tan hết nên sanh hoan hỷ.

Ta đã tự an ổn, lại an ổn cho người. Kẻ ngu si tối tăm, kẻ tham, sân, mạn v.v... phiền não trói buộc, ngái ngủ triền miên trong thế gian, nay mới được thức tỉnh nên sanh hoan hỷ.

Ta nay đã thoát khỏi tất cả nẻo ác, lại có thể cứu giúp hữu tình trong nẻo ác, làm cho được ra khỏi, nên sanh hoan hỷ.

Hữu tình từ lâu ở trong sanh tử mê lầm, chẳng biết đường ra, ta nay cứu giúp chỉ dạy đường chánh, làm cho đến được thành Nhất thiết trí, an vui hoàn toàn nên sanh hoan hỷ.

Các việc làm như thế v.v... gọi là Đại hỷ.(Hết Q. 567, ĐBN)

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả sắc mà mắt đã thấy, tiếng mà tai đã nghe, mùi mà mũi đã ngửi, vị mà lưỡi đã nếm, xúc mà thân đã chạm, pháp mà ý đã rõ, chẳng đắm, chẳng lìa mà khởi tâm xả. Những việc làm như thế gọi là Đại xả.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu bốn vô lượng lớn như thế, do đó gọi là phương tiện thiện xảo.


Quyển thứ 568

 

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì độ hữu tình các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thị hiện các tướng như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Tướng Bát Nhã sâu xa bất khả đắc. Vì cứu độ hữu tình nên các Ngài dùng oai lực phương tiện thiện xảo, thị hiện các tướng giáo hóa bằng cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết bàn. Vì sao? Vì chư thiên chấp thường cho rằng không bị đọa lạc nên Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo thị hiện các tướng vào thai mẹ để phá chấp kia. Do đó làm cho chư thiên phát sanh ý niệm vô thường, nghĩ: Bậc tối thắng, tối tôn ở trong thế gian chẳng ai sánh bằng, không nhiễm dục mà còn rơi đọa, huống nữa là chư thiên khác mà được thường ư? Cho nên chúng ta chớ có buông lung cần phải tinh tấn, giữ niệm tu đạo.

Như thấy mặt trời còn có lúc lặn mất thì biết lửa đom đóm không thể tồn tại lâu dài.

Lại có chư Thiên sống phóng dật say đắm dục lạc, mặc tình đùa giỡn, không tu chánh pháp. Tuy cùng với Bồ Tát ở trong thiên cung nhưng không đến lễ bái, không thưa hỏi pháp mà đều nghĩ: Lúc này, ta hãy hưởng dục, đợi đến ngày mai sẽ đến gặp Bồ Tát để thưa hỏi pháp. Nghĩ vậy rồi bảo: Ta cùng với Bồ Tát thường ở nơi đây thì việc tu hành đâu có muộn màng gì? Do đó, Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, siêng tu tinh tấn như cứu lửa cháy đầu để phá trừ hành động buông lung nên thị hiện đọa lạc. Sự thị hiện này có hai nguyên nhân:

1. Làm cho chư thiên xa lìa sự buông lung.

2. Làm cho hữu tình đều được trông thấy.

Vì trong thế gian cũng có hữu tình hèn kém, ít có thiện căn không thể thấy Phật thành Vô thượng giác, chuyển xe diệu pháp nên Bồ Tát phải thị hiện làm trẻ con chơi giỡn ở hậu cung. Nếu làm các tướng khác để thuyết pháp thì e rằng nữ nhân trong hậu cung khó tin được. Do đó, Bồ Tát thị hiện làm trẻ con.

Người có đức hạnh cao thượng hay rời bỏ thế tục thì Bồ Tát vì người kia mà thị hiện xuất gia.

Lại có thiên nhơn suy nghĩ: Ngồi yên thọ lạc thì không đạt được Thánh đạo. Bồ Tát vì người kia thị hiện khổ hạnh. Vì để hàng phục khổ hạnh của ngoại đạo, nên Bồ Tát thị hiện các khổ hạnh khó hành.

Lại có thiên nhơn ngày đêm phát nguyện: Khi Bồ Tát đi đến tòa Bồ đề thì thiên nhơn chúng ta cung kính cúng dường. Bồ Tát vì họ nên đi đến tòa Bồ đề. Vô lượng thiên nhơn đã cúng dường rồi đều được nhân duyên Bồ đề.

Lại có thiên nhơn nghĩ: Ác ma ngoại đạo làm chướng ngại chánh pháp, nguyện các Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề điều phục ác ma và ngoại đạo để cho người có chánh tín đều được thấy pháp.

Sau khi Bồ Tát thành chánh giác, trong hư không khắp tam thiên đại thiên thế giới vang lên những âm thanh tán thán:

Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian làm cho ánh sáng đom đóm lặn mất.

Chư thiên v.v… nói: Nguyện cho tôi đời sau thành Vô thượng giác như sự chứng đắc Bồ đề của Bồ Tát hôm nay, vì các hữu tình mà ngồi tòa Bồ đề.

Lại có thiên nhơn v.v... nói: Nguyện được thấy Đại sư thành Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, vô sư trí(5), tự nhiên trí. Đó là các hữu tình không cầu xuất ly mà căn tánh đã thuần thục, thâm sâu chánh pháp. Bồ Tát vì các hữu tình này mà thị hiện ba lần chuyển, mười hai hành tướng vô thượng pháp luân.

Lại có thiên nhơn muốn thấy viên tịch. Bồ Tát vì họ mà thị hiện viên tịch.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật có khả năng thị hiện các tướng biến hóa như vậy.

Thiên vương nên biết: Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật chắc chắn không sanh vào cảnh giới bất an. Vì sao? Vì người không phước đức, không nghe được danh tự Bát nhã Ba la mật vậy.

Lại nữa, các Bồ Tát thường xa lìa ác nghiệp, không hề hủy phạm giới cấm. Tâm không ganh ghét. Thân, khẩu không phạm lỗi. Vì đã gieo trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong quá khứ, đầy đủ phước đức, trí tuệ, phương tiện thù thắng, thành tựu đại nguyện, tâm ưa tịch tịnh, siêng tu tinh tấn, lìa biếng bỏ nhác.

Thiên vương nên biết: Các Bồ Tát này không có ác nghiệp đọa vào địa ngục, vì luôn thực hành mười thiện nghiệp đạo. Các Bồ Tát này không có phá giới, thường hay hộ trì giới đã thọ, khỏi đọa vào loài bàng sanh. Các Bồ Tát này không có tâm ganh ghét, không đọa vào loài ngạ quỷ, không sanh vào nhà tà kiến, thường gặp bạn lành, xa lìa bạn ác. Vì sao? Vì đã trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong thời quá khứ cho nên được sanh chỗ giàu sang, có quyền thế, đầy đủ chánh kiến. Các Bồ Tát này thọ thân đầy đủ, thành tựu pháp khí của Phật. Vì sao? Vì vào thời quá khứ đã cúng dường chư Phật, lắng nghe chánh pháp, kính lễ đại chúng cho nên sanh ở chỗ nào cũng đầy đủ các căn, hình tướng xinh đẹp, thành pháp khí của Phật. Các Bồ Tát này không sanh nơi biên địa, độn căn ngu si, không biết rõ thiện ác, lời nói và ý nghĩa chẳng hợp với pháp khí của Phật. Vì sao? Vì Bồ Tát chắc chắn thọ sanh ở trung tâm của quốc độ, các căn thông tuệ, nói năng lưu loát, biết rõ ý nghĩa về ngôn ngữ là pháp khí của Phật, biết rõ Sa môn, Bà la môn v.v... Vì sao? Vì đời trước Bồ Tát đầy đủ năng lực trí tuệ, phước đức thù thắng nên Bồ Tát không sanh vào cõi trời sống lâu, vì không lợi ích cho người, không được gặp Phật. Các Bồ Tát đa số sanh ở Dục giới, thị hiện ở đời, lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực phương tiện thiện xảo tối thắng. Bồ Tát không sanh vào thế giới không có Phật, không người thuyết pháp, không nghe chánh pháp, không cúng dường Tăng. Vì sao? Vì sức nguyện mạnh mẽ đời trước nên Bồ Tát sanh chỗ nào cũng đầy đủ Tam bảo. Các Bồ Tát này nghe pháp ác ở thế giới liền sanh tâm nhàm chán, xa lìa. Các Bồ Tát này tu hạnh tịch tịnh, tâm không lười biếng, tinh tấn dõng mãnh, dùng các pháp thiện diệt các pháp ác.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, nhờ tất cả nhân duyên như thế nên chắc chắn không sanh vào nơi không thuận tiện.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dù cho trong mộng cũng không quên mất Bồ đề tâm, huống chi lúc thức mà lại quên ư? Vì sao? Vì các thiện pháp đều được sanh ra ở tâm này, tức là tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu không có tâm này thì không có Phật. Nếu không có Phật thì không có pháp, không có pháp thì không có Tăng. Do có tâm này nên có Tam bảo và có trời, người tu thiện, hưởng thọ an vui. Các Bồ Tát thường xa lìa nịnh hót, lừa dối. Tâm Bồ Tát thanh tịnh, chân thật nhu hòa, không do dự đối với Phật pháp. Nếu người muốn lắng nghe, thọ nhận thì Bồ Tát không giấu ý nghĩa sâu xa. Bồ Tát xa lìa sự ganh ghét và ác nghiệp tam đồ(6). Giai đoạn trước, giữa và sau không có tướng thay đổi, hành pháp Đại thừa chẳng trái với lời nói, thấy người đồng học sanh tâm cung kính khuyên siêng tu tập, xưng tán Đại thừa. Đối với Pháp sư thường tưởng như Phật, thân gần bạn lành, xa lìa bạn ác. Đó là phương tiện thiện xảo của các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên thành tựu tâm Bồ đề như vậy, nương nơi tâm này đắc Túc mạng trí. Vì sao? Vì đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, hộ trì chánh pháp, trì giới thanh tịnh, xa lìa ác nghiệp, hoàn toàn không còn chướng ngại, tâm thường hoan hỷ, tâm siêng tu học, tâm không tán loạn, tâm trí không lầm lẫn. Vì sao? Vì tôn trọng chánh pháp nên các Bồ Tát này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì người khác giảng thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các chướng ngại. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên siêng năng tinh tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên mãn nên biết đời sống quá khứ, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô số kiếp, các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, rõ biết như thật về các nơi sanh thời quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với ba việc nghe, thấy, niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường Tăng bảo không lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng dường cung kính lễ bái Phật, Bồ Tát không bỏ qua lúc nào; đi đứng nằm ngồi luôn luôn lắng nghe học hỏi.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát nhờ trì tịnh giới nên thường được nghe danh tự công đức Bát nhã Ba la mật, thường tu tập Bồ đề phần pháp, không xa lìa ba môn giải thoát, thường xuyên tu tập Bốn vô lượng tâm, thường nghe Vô thượng Nhất thiết trí.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã do đó gần gũi bạn lành.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dù cho trong mộng còn chưa gần bạn ác huống chi là lúc thức mà lại gần gũi ư? Vì sao? Vì Bồ Tát đối với kẻ phá giới, kẻ đắm trước tà kiến, hạng bất luật nghi, người hành tà mạng, người nói vô nghĩa, người lười biếng, người ưa sanh tử, quay lưng với Bồ đề, hay ưa thế tục, tuy thường thương xót họ nhưng không ở chung.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nhờ đó thường xa lìa bạn ác.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên được mười thân sai khác của Như Lai(7). Mười thân đó là gì? Là:

1. Thân bình đẳng.

2. Thân thanh tịnh.

3. Thân vô tận.

4. Thân tu tập viên mãn.

5. Thân pháp tánh.

6. Thân lìa tầm tứ (truy cầu và phân tích).

7. Thân bất tư nghì.

8. Thân tịch tịnh.

9. Thân hư không.

10. Thân diệu trí.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đến địa vị nào mới đạt được mười thân của Như Lai?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật ở trong sơ địa được thân bình đẳng. Vì sao? Vì thông đạt pháp tánh xa lìa tà vạy, thấy tất cả đều bình đẳng.

Trong nhị địa được thân thanh tịnh. Vì sao? Vì xa lìa phạm giới, nên được thanh tịnh.

Ở trong địa thứ 3 được thân vô tận. Vì sao? Vì lìa dục, tham, sân nên được thắng định.

Trong địa thứ 4 được thân tu tập viên mãn. Vì sao? Vì thường siêng tu tập Bồ đề phần.

Trong địa thứ 5 được thân pháp tánh. Vì sao? Vì quán các đế chứng đạt pháp tánh.

Trong địa thứ 6 được thân ly tầm tứ. Vì sao? Vì quán lý duyên khởi, xa lìa tầm tứ.

Trong địa thứ 7 được thân bất tư nghì. Vì sao? Vì thực hành đầy đủ trí phương tiện quyền xảo.

Trong địa thứ 8 được thân tịch tịnh. Vì sao? Vì lìa các phiền não, hý luận.

Trong địa thứ 9 được thân hư không. Vì sao? Vì thân tướng vô tận biến khắp tất cả.

Trong địa thứ 10 được thân diệu trí. Vì sao? Vì tu tập viên mãn Nhất thiết chủng trí.

Khi ấy, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy thân Bồ Tát và thân Phật nào có sai khác?

Phật bảo Tối Thắng:

- Tuy thân không sai khác nhưng công đức có sai khác, nghĩa ấy như thế nào? Nghĩa là thân Phật và thân Bồ Tát không có sai khác? Vì sao? Vì tất cả pháp đồng một tánh tướng. Công đức sai khác là thân Như Lai đầy đủ công đức, còn thân Bồ Tát thì không được như vậy.

Ta sẽ nói thí dụ cho ngươi. Thí như bảo châu được trang sức hay không được trang sức thì bảo châu ấy vẫn như nhau. Thân Phật và thân Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy công đức có sai khác nhưng pháp tánh không sai khác. Vì sao? Vì công đức Như Lai hoàn toàn viên mãn, cùng tận đến mười phương, biến khắp cõi hữu tình, thanh tịnh xa trần lìa cấu, không còn chướng ngại. Công đức của Bồ Tát chưa viên mãn nên vẫn còn chướng ngại. Ví như mặt trăng lúc khuyết, lúc tròn, nhưng tánh trăng vẫn không sai khác. Hai thân cũng vậy, đều kiên cố không thể phá hoại được giống như kim cương. Vì sao? Vì không bị ba độc phá hoại, vì không nhiễm pháp thế tục, vì không bị bức bách bởi các cảnh khổ ở cõi ác của trời người, xa lìa hẳn sanh, lão, bệnh, tử, có khả năng chế phục ngoại đạo, vượt cảnh giới ma, chẳng hướng đến Độc giác và Thanh văn thừa, do đó không bị phá hoại.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo hướng dẫn thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều tin cậy. Thí như có người khéo dẫn đường được quốc vương hoặc hàng thân cận vua v.v... hoặc trưởng giả, cư sĩ đều tin cậy. Các Bồ Tát cũng lại như vậy, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều xứng đáng là người dẫn đường giỏi. Thí như có người khéo dẫn đường thì quốc vương, đại thần, Bà la môn v.v... đều tôn kính. Cũng vậy, các đại Bồ Tát đều được trời, rồng, dạ xoa, A tu la v.v... và bậc hữu học, bậc vô học cúng dường. Như kẻ đi đường mệt mỏi giữa nơi hoang dã nguy hiểm gặp kẻ dẫn đường có thể được an ổn. Cũng vậy, các vị đại Bồ Tát này dùng năng lực phương tiện hướng dẫn hữu tình ra khỏi sanh tử được an ổn.

Như người nghèo khó nương dựa vào trưởng giả giàu có mới thoát khỏi túng thiếu. Ngoại đạo, Bà la môn nương Bồ Tát mới ra khỏi sanh tử. Như đại trưởng giả của cải vô lượng cho mọi người đều được sử dụng. Cũng vậy, hữu tình sanh tử đều nương tựa vào các đại Bồ Tát này. Như đại trưởng giả muốn vượt qua khỏi hiểm nạn phải nhờ nhiều bạn, đầy đủ vật thực ăn uống mới qua khỏi hiểm nạn được. Cũng vậy, các đại Bồ Tát này muốn ra khỏi hiểm nạn sanh tử chắc chắn phải nhờ phước tuệ bảo vệ các hữu tình, mới ra khỏi thế gian đến Nhất thiết trí. Như người đi xa cần đem nhiều của báu mới được lợi. Cũng vậy các đại Bồ Tát từ biển sanh tử đến Nhất thiết trí cần tu tập phước báu, phước tuệ thật nhiều mới mau chứng Nhất thiết trí. Như người thế gian tham cầu của vật không hề nhàm chán. Cũng vậy, Bồ Tát ưa cầu thắng pháp, tâm không nhàm chán.

Như người dẫn đường cần có bốn việc hơn người: Giàu có, địa vị cao, tài giỏi, lời nói có uy tín. Cũng vậy, các Bồ Tát giàu có công đức, ở địa vị tôn quý, được pháp tự tại, lời nói chắc chắn. Như người biết cách dẫn đường đi đến thành lớn. Cũng vậy, các vị Bồ Tát hướng dẫn hữu tình đến Nhất thiết trí.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật sâu xa biết rõ con đường nên đi, con đường không nên đi, nơi tà, nơi chánh, nơi cong, nơi ngay, nơi an ổn, nơi nguy hiểm, nơi có nước, nơi không có nước, hoặc nơi có nguy hiểm thì đều biết con đường thoát ra. Các đại Bồ Tát này biết rõ các con đường không hề nhầm lẫn, đã hướng dẫn thì không trái với căn cơ của chúng sanh, vì người cầu Đại thừa nói đạo vô thượng chẳng nói đạo Độc giác, Thanh văn. Vì người cầu Độc giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ Tát, Thanh văn. Vì người cầu Thanh văn nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ Tát, Độc giác. Vì người chấp trước ngã nói đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp, nói đạo pháp Không. Vì người chấp hai bên nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ, quán để họ hết mê loạn. Vì người hý luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì người chấp trước sanh tử nói đạo Niết bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo đường mê nói đạo chơn chánh để họ xa lìa đường tà vạy.

Này Thiên vương! Đây là đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật biết rõ đường tà, đường chánh để hướng dẫn hữu tình đi đứng thông suốt.

 

Thích nghĩa:

(1). Pháp giới: (法界) Phạm: Dharma-dhàtu. Pàli: Dhamma-dhàtu. Hán âm: Đạt ma đà đô. Chỉ cho tất cả đối tượng(cảnh sở duyên) của ý thức, 1 trong 18 giới. Cứ theo luận Câu xá quyển 1 thì 3 uẩn: Thụ, tưởng, hành, cùng với vô biểu sắc và vô vi pháp, gọi là Pháp giới. Trong 12 xứ thì Pháp giới được gọi là Pháp xứ. Còn trong 18 giới thì 17 giới kia cũng được gọi là Pháp giới. Bởi vậy, theo nghĩa rộng thì Pháp giới là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi và vô vi. Theo Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký quyển 18 thì Pháp giới có 3 nghĩa: 1- Nhân sinh ra các Thánh pháp. 2- Thể tính chân thực của các pháp. 3- Các pháp đều có phần hạn của chúng, do đó mà phân biệt được tướng trạng của mỗi pháp. Pháp giới cũng chỉ cho chân như hoặc chỉ cho tất cả các pháp. Theo Phổ Hiền hạnh nguyện thì Pháp giới có 5 môn: Pháp giới hữu vi, pháp giới vô vi, pháp giới vừa hữu vi vừa vô vi, pháp giới chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi và pháp giới vô chướng ngại, do đó mà lập ra 5 lớp Pháp giới khác nhau là: Pháp giới pháp, pháp giới nhân, pháp giới nhân pháp dung hợp, pháp giới nhân pháp đều vắng bặt và pháp giới không chướng ngại. Chủng loại của pháp giới tuy nhiều nhưng tất cả đều qui về Nhất chân pháp giới, đây chính là tâm thanh tịnh nguyên sơ của chư Phật và chúng sinh, cũng gọi là Nhất tâm pháp giới, Nhất chân vô ngại pháp giới. Nếu đứng về phương diện hiện tượng và bản thể mà nhận xét, thì Pháp giới có thể được chia làm 4 nghĩa, gọi là Tứ pháp giới. Đó là: 1- Sự pháp giới: Hiện tượng giới bao gồm muôn pháp thiên sai vạn biệt, mỗi pháp đều có tự thể riêng và phần hạn khác nhau. 2- Lý pháp giới: Hiện tượng các pháp tuy nhiều, nhưng thể tính chân thực của chúng thì thường trụ bất biến, bình đẳng nhất như, là cảnh giới tuyệt đối. 3- Lý sự vô ngại pháp giới: Giữa hiện tượng và bản thể có sự quan hệ nhất thể bất nhị, mỗi mỗi pháp tương tức tương nhập, viên dung vô ngại. 4- Sự sự vô ngại pháp giới: Tất cả mọi hiện tượng đều tác dụng hỗ tương, một tức tất cả, tất cả tức một, trùng trùng vô tận, sự sự vô ngại. Mật giáo lấy 6 yếu tố (6 đại): Đất, nước, lửa, gió, không, thức làm thể tính của pháp giới; 6 yếu tố này là thân Tam ma da của đức Đại nhật Như lai. Cung điện của Ngài là Pháp giới cung; định vị của Ngài là Pháp giới định, ấn khế của Ngài là Pháp giới định ấn, năng lực gia trì của Ngài gọi là Pháp giới gia trì. Trong 5 trí thì Đại nhật Như lai biểu thị Pháp giới thể tính trí. Ngoài ra, tông Thiên thai gọi chung 10 giới: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật là Thập pháp giới. Đây là nói theo nghĩa phần hạn sai biệt của các tướng pháp giới. Lại nữa, Pháp giới cũng là 1 trong 12 tên của Thực tướng. Mười hai tên là: Chân như, Pháp giới, Pháp tính, Bất hư vọng tính, Bất biến dị tính, Bình đẳng tính, Lý sinh tính, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế, Hư không và Bất tư nghị giới. [X. Kinh Tạp A Hàm Q.16; hội Bị giáp trang nghiêm trong Kinh Đại Bảo Tích Q.23; Kinh Đại Bát NhãQ.360; Kinh Hoa Nghiêm Q.1, 3 (bản dịch cũ); luận Đại Tì Bà Sa Q.71; luận Đại thừa khởi tín; luận Biện trung biên Q.thượng; luận Bồ Đề Tâm]. - Phật Quang từ điển.

Đây có thể gọi là những bản chỉ dẫn. Khó có thể có một định nghĩa chân xác riêng biệt về các từ như pháp giới, pháp tánh, chơn như, thật tế... khi chưa chứng quả Phật. Ở đây có thể định nghĩa một cách vắn tắt pháp giới là chỗ nương của các pháp. Chỗ nương này tràn đầy trong vũ trụ, chân thật, không hư vọng cũng gọi là như. Hy vọng phẩm này có thể giải thích rõ ràng hơn. TB

(2). Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán là thiên vương. tức thị chư pháp Chân Như”, nên hai bản dịch ĐBN của HT Thích Trí Nghiêm đều dịch là “Thiên vương, tức là chơn như các pháp”. Trong khi Kinh TTVBN, nguyên văn chữ Hán là “大王,所謂如如nên dịch: “Đại vương, đó là Như Như”. Kinh TTVBN do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na lúc nào cũng dịch chơn như là Như Như.

(3). Hậu đắc trí: (後得智) Phạm: Pfwỉha-labdha-jĩàna. Cũng gọi Vô phân biệt trí, Hậu đắc vô phân biệt trí. Đối lại: Căn bản trí, Căn bản vô phân biệt trí.

(4). Kinh TTVBN nói: “Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật, có đủ Vô biên từ, Vô phân biệt từ, Pháp từ, Bất tức từ, Bất não từ, Lợi ích từ, Bình đẳng từ, Biến ích từ, Xuất thế từ, thành tựu các Đại từ như thế”.

(5). Vô sư trí: Tự giác ngộ, không do ai chỉ dạy, do giới định huệ mà được trí này; phản nghĩa với hữu sư trí: Trí có được do người khác chỉ dạy hay thu nhặt từ bên ngoài.

(6). Tam đồ (三途・三塗): Ba đường gồm hỏa đồ, đao đồ và huyết đồ, đồng nghĩa với Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh của Ba Đường Ác, do vì các nghiệp ác của thân, khẩu và ý gây ra nên dẫn đến kết quả sanh vào ba đường này. 1- Hỏa Đồ (tức đường Địa Ngục): Do vì chúng sanh của cõi này thường chịu nỗi khổ bức bách, nóng bỏng của lò sôi, vạc cháy, hoặc do vì nơi ấy lửa tích tụ rất nhiều, nên có tên gọi là Hỏa Đồ. 2- Đao Đồ (tức đường Ngạ Quỷ): Do chúng sanh ở cõi này thường chịu cái khổ bức bách của đao gậy nên có tên gọi như vậy. 3- Huyết Đồ (tức đường Súc Sanh): Do chúng sanh ở cõi này tranh giành cấu xé lẫn nhau, người mạnh lấn áp kẻ yếu, uống máu ăn thịt nhau, nên có tên gọi như vậy. (Phật học Tinh Tuyển).

 

Sơ giải:

 

1.Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567 của Hội thứ VI, này nói:

“Muốn biết pháp giới phải tu như thế nào?

 

- Câu trả lời trực tiếp là phải tu hành chánh đạo”.

Không tu chánh đạo thì không thể chứng pháp giới. Đó là điều kiện cần và đủ để nhập pháp giới. Không hội đủ điều kiện này mà nói đến chứng đắc pháp giới chỉ là điều không tưởng!

Phật bảo: “Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ, tưởng như Phật. Vì gần gũi bạn lành nên xa lìa biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện, tăng trưởng căn lành. Đã diệt phiền não, xa lìa pháp chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh tịnh; do thanh tịnh nên liền sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh Không; vì tu tập hạnh Không nên xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo nên có thể thấy pháp giới”.

Do tu tập hạnh Không, nên xa lìa các kiến, tu chánh đạo mà thấy được pháp giới. Đại cương là như vậy, nhưng không có bất cứ một yếu tố lẻ loi, đơn độc nào có thể đưa ta vào pháp giới. Bởi vì, pháp giới là một sự phối hợp của nhiều thành tố mà chỉ có bậc giác ngộ chứng biết, phàm phu dễ dù gì vói tới nổi. Nên nói đến chứng nhập pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, chân như, thật tế... chẳng khác gì người mù sờ voi.

Đó là cái khó nói, khó chỉ thẳng, nên phải đi vòng vòng, phải đi vòng quanh như sau:

 

1- Thế nào là pháp giới?

 

- Quyển 532, phẩm “Diệu Tướng”, Hội thứ III, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

“… Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc cho đến thức tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc cho đến thức. Nói rộng cho đến pháp giới chẳng phải là pháp hữu vi, vô vi, cũng không lìa pháp hữu vi, vô vi. Pháp hữu vi, vô vi tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp hữu vi, vô vi”.

Đây có thể xem là một lối giải thích gián tiếp về pháp giới. Nói cho đủ thì gồm cả mười hai xứ và mười tám giới. Vậy, Pháp giới không riêng về uẩn xứ giới mà cũng không lìa uẩn xứ giới. Uẩn xứ giới tức là pháp giới, pháp giới tức là uẩn xứ giới. Nói như vậy có nghĩa ba yếu tố này tạo nên mọi hiện hữu thế gian, gọi chung là cảnh giới, sinh địa, môi trường sống hay là chỗ nương, đối tượng của ấm, xứ, giới. Ấm là năm uẩn (hay sắc thọ tưởng hành thức), xứ là căn và trần (gồm sáu căn: Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý và sáu trần: Sắc thanh hương vị xúc pháp); giới nghĩa là chủng loại, có mười tám chủng loại đều có tự tánh khác nhau (Sáu thức năng y, sáu căn sở y và sáu cảnh sở duyên). Đó là cửa ngỏ tiếp xúc của nhân sinh và vũ trụ. Tất cả hiện hữu kể cả con người đều bao gồm trong ấy.

 

- Một đoạn kinh khác của phẩm “Các Pháp Bình Đẳng”, quyển 385-386, Hội thứ I, ĐBN tuy dài, thuyết về pháp giới như sau:Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả pháp đều nhập vào pháp giới. Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp vẫn như vậy, đều nhập pháp giới, không có tướng sai biệt, chẳng phải do Phật thuyết. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới tánh không, vô tướng, vô vi. Cho nên, đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, muốn học pháp giới, nên học tất cả pháp. Nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới. Nếu phân biệt pháp tức là phá hoại pháp”.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều nhập pháp giới, không hai, không khác, thì tại sao đại Bồ Tát phải học pháp này hay pháp khác? Phải học 6 Ba la mật, học 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, học 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí? Cũng học đạo Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao? Tại sao đại Bồ Tát phải học thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Học như thế rồi, đắc Nhất thiết trí trí, biết tất cả pháp, tất cả chủng tướng?”

Phật dạy:

- “Này Thiện Hiện! Chẳng phải trong pháp giới có các thứ phân biệt như thế. Đại Bồ Tát không do các thứ phân biệt này mà hành điên đảo, trong cái không hý luận, khởi các hý luận. Vì sao? Vì trong chơn pháp giới hoàn toàn không có phân biệt hý luận.

Pháp giới chẳng phải sắc, cũng chẳng lìa sắc; pháp giới chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Pháp giới tức là sắc, sắc tức là pháp giới; pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới. Pháp giới chẳng phải mười hai xứ, cũng chẳng lìa mười hai xứ; pháp giới tức là mười hai xứ, mười hai xứ chính là pháp giới. Đối với mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí, quả vị Giác ngộ tối cao… cũng lại như thế.

Trong chơn pháp giới không có tất cả các thứ phân biệt hý luận.

Sắc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sắc riêng có pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có pháp giới. Sắc tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới, pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức v.v…

Như vậy có thể nói: Pháp thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp thế gian riêng có pháp giới; pháp xuất thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp xuất thế gian riêng có pháp giới. Pháp thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp thế gian, pháp xuất thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp xuất thế gian”. (Q.386, ĐBN)

Tóm lại, tất cả pháp đều nằm trong pháp giới. Pháp nhĩ tự nhiên là như vây. Do đó, mới nói “người hội muôn vật làm mình, người ấy chính là Thánh nhân”. Người có cái thấy biết như vậy là nhập pháp giới tức giác ngộ.

 

Một đoạn kinh được xem là thú vị về pháp giới nói trong phần “Mạn Thù Thất Lợi”, quyển 574, Hội thứ VII, ĐBN. Xá lợi Tử hỏi Mạn Thù Thất Lợi:

- “Mạn Thù Thất Lợi! Đối với pháp giới, lẽ nào Phật không chứng ư?

- Đại đức! Không phải vậy. Vì sao? Vì Phật tức pháp giới, pháp giới tức Phật. Không lẽ Pháp giới lại chứng pháp giới.

Lại, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp không, nói là pháp giới. Tức pháp giới đây nói là Bồ đề. Pháp giới Bồ đề đều lìa tánh tướng, do đây nên tất cả pháp không. Tất cả pháp không, Bồ đề, pháp giới, đều là cảnh giới Phật, không hai không riêng. Vì không hai không riêng nên chẳng thể hiểu rõ. Vì chẳng thể hiểu rõ nên không có ngôn thuyết. Vì không ngôn thuyết nên chẳng thể thi thiết hữu vi hay vô vi, có hay chẳng có thảy”.

Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi là một bậc đại trí đã thấy pháp giới như thế: Phật tức là pháp giới, pháp giới tức là Phật. Nói khác, Phật đã nhập pháp giới vì Phật giác ngộ, nên pháp giới và Phật không hai không khác. Tất cả pháp Không, Bồ đề, pháp giới, đều là cảnh giới Phật, không hai không riêng. Vì không hai không riêng nên chẳng hiểu rõ. Vì chẳng hiểu rõ nên không ngôn thuyết. Nếu không ngôn thuyết thì nói nữa làm gì?

 

Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN, Mạn Thù Thất Lợi nói:

- “Chẳng phải chơn pháp giới có hiện có mất, có co có giãn. Vì sao? Vì chơn pháp giới lìa tướng, vắng lặng, không hiện không mất, không thể phân biệt, không thể hý luận, không nương không trụ, không lấy không bỏ, không động không chuyển, không nhiễm không tịnh. Như cõi hư không không động không chuyển, không lấy không bỏ, không nương không trụ, không thể hý luận, không thể phân biệt, không hiện không mất. Các pháp cũng thế, tự tướng vốn Không, tánh ấy cũng chẳng có tướng, bất khả đắc. Nếu tướng của các pháp có thể đắc thì Phật vào Niết bàn cũng có thể đắc.

Tất cả pháp không có tàng chứa, không có thủ giữ, không sắc, không thấy, không đối, không tướng, bản lai vắng lặng. Cho nên hằng hà sa số chư Phật mặc dù đã vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp. Nghĩa là không diệt sắc uẩn và diệt thọ tưởng hành thức uẩn, cũng không diệt 12 xứ, 18 giới. Cũng không diệt địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp nào để vào Niết bàn.

Có những kẻ muốn khiến cho Niết bàn có pháp diệt, tức là muốn làm cho cõi hư không kia cũng diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh, bản lai tịch diệt, tự tánh vắng lặng, cực vắng lặng, nên không thể diệt”.

Diệt là diệt cái tâm chấp ngã chấp pháp, làm sao diệt được các pháp. Kinh cũng thường nói tất cả pháp nhập vào pháp giới. Pháp giới, pháp tánh, thật tế... cùng chơn như thật tướng không hai không khác. Đó là lý do tại sao Hội thứ VI, nói về pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, rồi Hội thứ VII, phần “Mạn Thù Thất Lợi” cũng nói những pháp này. Đến Hội thứ VIII, phần “Na Già Thất Lợi” cũng đề cập tới chơn pháp giới. Biết như thật các pháp là biết cái “chân như thật tướng”, nhưng chơn như thật tướng này chẳng khác pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế, tánh không… Hiểu và thâm nhập các pháp này tức giác ngộ. Vậy, Bồ Tát muốn giác ngộ phải tu chánh đạo, tu Bồ Tát hạnh hay tu tất cả các pháp Phật.

 

2- Tại sao khi nói đến pháp giới lại đề cập chơn như, thật tế? Các pháp đó không thể tách rời nhau được, vì tánh thì khác nhau nhưng thể chỉ là một. Trời Tối Thắng bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Pháp giới chính là tánh chẳng hư vọng.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng hư vọng?

- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng đổi khác.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng đổi khác?

- Này Thiên vương! Tức là chơn như của các pháp.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?

- Thiên vương nên biết! Như này sâu xa vi diệu chỉ có trí biết, chẳng phải do lời nói biết được. Vì sao? Vì các pháp như (hay chơn như của tất cả pháp) vượt văn tự, lìa ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa hý luận, dứt phân biệt, không đây kia; lìa tướng vô tướng, xa lìa suy lường, vượt cảnh suy lường, không tưởng không tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, lìa cõi phàm tục, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt, không ngã, ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ.

Thiên vương nên biết! Đó là pháp giới. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu chứng pháp giới, hành nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều được thông suốt.

Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai”.

Chơn như hay các pháp như bởi vì nó như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như nên gọi là Như. Pháp giới là chỗ nương của các pháp mà các pháp là Như trong nghĩa chơn như thật tướng. Các pháp có thật thể như vậy thì chỗ nương cũng phải có thật thể như vậy. Nên đoạn Kinh trên Phật bảo: “Pháp giới chính là chẳng hư vọng. Nhưng thế nào là chẳng hư vọng? Phật bảo: Chính là không đổi khác. Thế nào là chẳng thể đổi khác? Phật trả lời: Tức là chơn như của các pháp”.

Rồi Phật giải thích một tràng thế nào là chơn như của các pháp: “Pháp như lìa văn tự, ngôn thuyết... xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt... không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ. Rồi Phật kết luận: Đó là pháp giới”.

 

Như trên đã nói chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế... mỗi thứ một vẻ nhưng bản thể chỉ là một, nên không thể phân biệt, không thể tách rời chơn như với pháp giới hay thật tế. Nên cuối cùng phẩm này, Phật bảo: “Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai”.

Vì vậy, thập nhị chân như mới có 12 tên: Chân như, pháp giới, pháp tính, bất hư vọng tính, bất biến dị tính, bình đẳng tính, ly sinh tính, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới. Tuy có 12 tên nhưng bản thể không hai không khác, nên xếp với nhau cùng chung một thể loại. Vả lại, phạm trù của pháp giới quá mênh mông. Vì vậy, nếu không có tầm mắt bao quát làm sao thấy được pháp giới. Đây là nét đặc thù của thập nhị chân như hay còn gọi là 12 tên khác của Thực tướng.

Cứ tưởng tượng xem tất cả nước: Mưa, suối, cống rãnh, ao hồ đều đổ vào sông, rồi nước sông đổ ra bể. Vào tới biển, tới đại dương rồi, nước không còn phân biệt, chỉ còn một mực bình đẳng như như. Nhưng không phải tất cả thứ nước đó… phải đợi vào biển cả hay đại dương mới được bình đẳng như như. Tất cả mực nước của các thứ nước đó vốn đã như như bình đẳng từ trước. Cũng vậy tất cả pháp cũng vốn như như bình đẳng, nên khi đã nhập vào pháp giới cũng như như bình đẳng không khác. Đó là ý nghĩa tại sao khi nói về pháp giới lại đề cập đến chơn như hay bình đẳng là vậy. Thâm nhập và chứng được nét đặc thù này thì hiểu được thập nhị chân như hay thật tướng của vạn hữu...

 

3- Do đâu mà có được cái thấy biết đúng?

 

Do học và thực hành Bát nhã Ba la mật nên thấy biết như thật các pháp đều không. Không là đệ nhất nghĩa không, mà trong đó tướng không chẳng thể nắm bắt được, không thủ không trước, không chấp tướng không cũng không nương tựa vào không. Vì, không thủ trước nên đối với không, không bị đọa lạc. Thực hành Bát Nhã như vậy thì xa lìa các tướng, không thấy tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tìm tòi, lìa tướng tham trước, lìa tướng của cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri.

Đó là cái thấy biết siêu xuất do tu chánh đạo, chứng Bát Nhã và đắc hậu đắc vô phân biệt trí và nhờ đó mà thấy tất cả pháp đều như như bình đẳng hay còn gọi là chơn như thật tướng các pháp như đã nói ở trên.

 

Tới đây chúng ta có thể trả lời câu hỏi: Do đâu mà có được cái thấy biết đúng? Câu trả lời thẳng là: Biết như thật các pháp đều không. Không này là chân không hay hư không giới là một trong thập nhị chân như. Đó là lý do tại sao học chánh pháp thì ngộ nhập chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế...

Tóm lại, tri nhận được thật tướng của tất cả pháp trong cõi sống chung quanh ta thì gọi là chứng pháp giới, tức chứng chỗ nương, cảnh giới của tất cả pháp chân thật. Cảnh giới của tất cả pháp chân thật cũng chính là chơn như. Vì vậy, pháp giới với chơn như đồng một như, không hai không khác. Nên, Ngài Tăng Triệu, một tư tưởng gia, một luận gia nổi tiếng cùng thời với Ngài Cưu Ma La Thập, mới nói rằng: “Vạn vật cùng ta đồng gốc, cây cỏ cùng ta đồng nguồn”. Không biết tôi nhớ như thế có đúng không? Đó là lối giải thích mà người ta thường nghe: Thâm nhập được chơn như, pháp giới, pháp tánh... thì được xem là giác ngộ.

Để chứng minh điễm này cũng như để trả lời tất cả pháp như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế… không hai không khác, không những cho phẩm này mà còn cho tất cả phẩm kế tiếp của Hội nầy, chúng tôi dẫn chứng đoạn kinh của phẩm “Biện Đại Thừa”, Q.55 - Q.56, ĐBN như sau:

(…) Như tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp giới, pháp giới tánh không, cho đến tánh thật tế, thật tế tánh không vậy.

Hơn nữa, tánh của sắc thọ tưởng hành thức, các xứ, giới cho đến tất cả pháp Phật cũng như vậy”.

Tất cả pháp đều tánh không… đều như như; như như cũng là không. Vậy, không những chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế… không hai không khác mà tất cả pháp kể uẩn xứ giới cho đến các pháp Phật cũng đều như vậy. Tánh Không là chìa khóa giải thích tất cả hiện hữu. Nên nói: Vạn vật cùng ta đồng gốc, cây cỏ cùng ta đồng nguồn, tất cả cùng hiện hữu và cùng tăng trưởng chẳng có gì lộn lạo.

 

2. Bồ Tát thị hiện để hóa độ chúng sanh như thế nào?

 

Cuối quyển 567, Kinh nói về bốn tâm vô lượng tức là phương tiện thiện xảo của Bồ Tát trong việc hóa đạo của các Ngài. Đó là đại Từ, đại Bi, đại Hỷ và đại Xả. Bốn tâm rộng lớn này chúng ta đã học trong phần thứ I Tổng luận và trong các Hội trước rồi, nên không cần lặp lại. Bây giờ, chúng ta tụng tiếp quyển 568.

 Đầu quyển 568, Bồ Tát thị hiện các tướng trong việc hóa độ chúng sanh, đồng thời nói về sự học tập tu hành để có đủ khả năng công đức thực hiện việc hóa độ đó.

 

1- Tướng thị hiện của Chư Bồ Tát: Hình như tất cả chư Bồ Tát trong thế gian thị hiện gần như giống nhau trong cõi đời này. Để cứu độ hữu tình nên các Ngài dùng phương tiện thiện xảo, thị hiện các tướng giáo hóa bằng cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết bàn: Thị hiện làm trẻ con, thị hiện lập gia đình, thị hiện vào núi tuyết tu khổ hạnh, thị hiện ngồi dưới cội Bồ đề, thị hiện học đạo và thuyết pháp, chuyển pháp luân, rồi thị hiện viên tịch vào Niết bàn v.v...

 

2- Bồ Tát “Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì người khác giảng thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các chướng ngại. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên siêng năng tinh tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên mãn nên biết đời sống quá khứ, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô số kiếp, các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật sâu thẳm, rõ biết như thật về các nơi sanh thời quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với 3 việc nghe, thấy, niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường Tăng bảo không lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng dường cung kính lễ bái Phật, Bồ Tát không bỏ qua lúc nào; đi đứng nằm ngồi luôn lắng nghe học hỏi”.

Đối với chúng sanh: ... “Người cầu Đại thừa nói đạo vô thượng chẳng nói đạo Độc giác, Thanh văn. Vì người cầu Độc giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ Tát, Thanh văn. Vì người cầu Thanh văn nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ Tát, Độc giác. Vì người chấp trước ngã nói đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp, nói đạo pháp Không. Vì người chấp hai bên nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ quán để họ hết mê loạn. Vì người hý luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì người chấp trước sanh tử nói đạo Niết bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo đường mê nói đạo chơn chánh để họ xa lìa đường tà vạy”.

Đọc tụng, thọ trì tới đây ai cũng có thể hiểu, nên không cần nói thêm chi tiết nữa!

 

Thật may mắn cho tất cả những ai tụng đọc được bài pháp quan trọng này. Vậy, nhân đây xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh đều được nhập vào nhất chơn pháp giới./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com