Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ X

04/03/202113:29(Xem: 7226)
Hội Thứ X

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-548


 

HỘI THỨ X.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

(Bố cục)

 

 

10. Hội thứ X: Phần “Bát Nhã Lý Thú”, 1 quyển, tương đương với 150 kệ tụng Bát Nhã lý thú (Phạm:Prajĩàpàramità-nayazatapaĩcàzatikà) tiếng Phạm hiện còn. Nội dung đức Phật nói về pháp môn: Nhất thiết pháp thậm thâm vi diệu Bát Nhã lý thú thanh tịnh cho các Bồ Tát nghe. Các Kinh: “Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Bồ đề Lưu chi dịch (1 quyển) vào đời Đường, Kim “Cương Đỉnh Du Già Lý Thú Bát Nhã” do Ngài Kim Cương Trí dịch (1 quyển), “Đại Lạc Kim Cương Bất Không Chân Thật Tam Ma Da” do Ngài Bất Không dịch (1 quyển), “Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Thí Hộ dịch vào đời Tống (1 quyển) đều cùng bản với hội này. Theo Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói, thì bản tiếng Phạm của Hội này gồm 300 kệ tụng. Nhưng theo Chí Nguyên pháp Bảo Khám Đồng Tổng lục quyển 1 thì bảo Hội này và nguyên bản tiếng Phạm hiện còn giống nhau, đều gồm 150 bài tụng.

 

---o0o---

 

 

PHẦN “LÝ THÚ BÁT NHÔ

 

Dẫn nhập:

 

Bốn Kinh sau đây có giáo lý tương tự như Hội thứ X này, là:

1. Kinh “Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật”(số thẻ 0240 trong Đại Tạng Kinh Việt Nam)do Tam tạng Bồ đề Lưu Chi dịch;

2. Kinh “Kim Cang Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã”(số thẻ 0241)do Tam tạng Kim Cang Trí dịch;

3. Kinh “Phật Thuyết Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật” (số thẻ 0242)do Thí Hộ dịch.

4. Kinh “Đại Lạc Kim Cương Bất Không Chân Thật Tam Ma Da”(số thẻ 0243)do Sa môn Bất Không dịch.

Tuy nói là bốn Kinh riêng biệt, nhưng có cùng một nội dung tương đương và cũng giống như Hội thứ X, nên nói bốn Kinh này đồng bản với Hội thứ X. Cách định danh của mỗi pháp môn trong các Kinh đều dùng chữ Hán và lối giải thích lại quá gãy gọn, kinh đã khó hiểu càng khó hiểu thêm.

Lại nữa bốn Kinh trên dùng văn tự Đà la ni như chữ “Hồng”, chữ “Ác”, “Hột ngật rị”, Đát lãm”, Ố”, Án” v.v... Do đó, việc đọc tụng hiểu biết các pháp môn này đã khó, càng thêm khó nói chi đến việc thọ trì. Để chứng minh điều này, chúng tôi trích dẫn Kinh Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật”, do Tam tạng Bồ đề Lưu Chi dịch từ Phạn sang Hán (nhóm Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh dịch từ Hán sang Việt), ghi thêm vào phụ đính của Hội này để Quý vị có dịp so sánh và đối chiếu những gì mà chúng tôi trình bày.

Cũng phải nói thêm rằng Kinh này do Phật thuyết cho các Bồ Tát thượng thủ cùng với tám vạn chúng Bồ Tát khác tại điện Bảo Tạng của cung trời Tha Hóa Tự Tại, chứ không phải thuyết cho chúng sanh thường ở cõi Sa Bà này. Nhưng nếu hiểu được và ứng dụng thành công trong đời sống đạo thì mới có thể nói là lý thú.

 

---o0o---  

 

Tóm Lược:

 

Quyển thứ 578

 

Tôi nghe như vầy:

Một thuở, đức Bạc già phạm khéo hay thành tựu tất cả trí Kim cương trụ trì bình đẳng tánh của Như Lai, các thứ công đức thù thắng hiếm có; đã khéo được tất cả mão báu quán đảnh của Như Lai, vượt khỏi ba cõi; đã khéo được tất cả trí Kim cương biến khắp của Như Lai, đại quán tự tại; đã được viên mãn các pháp quyết định tất cả trí ấn đại diệu của Như Lai; đã khéo viên chứng tất cả ấn tánh bình đẳng rốt ráo Không tịch của Như Lai; đối với các sự nghiệp đã làm, phải làm đều đắc thiện xảo thành tựu viên mãn; đối với tất cả các sự mong cầu của hữu tình đều làm thỏa mãn đầy đủ, tùy theo sự vô tội của họ; khéo an trụ tánh thân ngữ tâm soi khắp rộng lớn, ba đời bình đẳng thường không dứt tận; giống như kim cương, các Như Lai không động không hoại.

Đức Bạc già phạm trụ trong vương cung của trời Tha hóa tự tại, trên đảnh cõi Dục, chỗ của tất cả Như Lai thường đi dạo, và điện Bảo Tạng được các Ngài đồng khen là to lớn xinh đẹp. Điện ấy được tạo thành bằng ngọc Mạc ni vô giá, xen lẫn các thứ ngọc quý, các màu giao xen phóng ra ánh sáng lớn; chuông ngọc, linh vàng treo giăng mọi chỗ, gió nhẹ thổi động phát ra âm thanh hòa nhã, lọng thêu phướn dệt, phan hoa văn vẽ lất phất qua lại, trang nghiêm nhiều loại tạp sức, chuỗi ngọc anh lạc như trăng đầy nửa tháng… là chỗ mà các Hiền Thánh, Thiên tiên cùng tám mươi ức chúng đại Bồ Tát ưa thích câu hội. Tất cả đều có đủ môn Đà la ni, môn Tam ma địa, giỏi biện tài vô ngại. Các vị ấy công đức vô lượng, dù trải qua nhiều kiếp tán thán cũng không hết. Tên các Ngài là: Đại Bồ Tát Kim Cương Thủ, Đại Bồ Tát Quán Tự Tại, Đại Bồ Tát Hư Không Tạng, Đại Bồ Tát Kim Cương Quyền, Đại Bồ Tát Diệu Cát Tường, Đại Bồ Tát Đại Không Tạng, Đại Bồ Tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, Đại Bồ Tát Tồi Phục Tất Cả Ma Oán… Các bậc thượng thủ như thế có tám trăm vạn chúng đại Bồ Tát vây quanh trước sau, tuyên thuyết Chánh pháp, văn nghĩa đầu giữa cuối đều khéo hay đẹp, thuần nhất viên mãn thanh bạch phạm hạnh.

 

(1. Pháp môn lý thú Bát Nhã thanh tịnh sâu xa

mầu nhiệm của tất cả pháp)(1).

 

Bấy giờ, Thế Tôn vì các Bồ Tát thuyết pháp môn thanh tịnh, tất cả giáo pháp lý thú Bát Nhã sâu xa nhiệm mầu. Pháp môn ấy tức là cú nghĩa Bồ Tát.

Thế nào là cú nghĩa Bồ Tát? Cú nghĩa cực vi diệu lạc thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa rỗng lặng thanh tịnh, dứt hẳn các kiến là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhiệm mầu vui thích thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thanh tịnh, dứt hẳn khát ái là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thanh tịnh, vượt khỏi thai tạng là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa các đức trang nghiêm thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thanh tịnh, ý rất khoái thích là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa được ánh sáng lớn thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thân khéo an vui thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa lời nói khéo an vui thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa ý khéo an vui thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa sắc uẩn Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhãn xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa sắc xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhãn giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa sắc giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhãn thức giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhãn xúc Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa địa giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa thủy, hỏa, phong, không, thức giới Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa khổ Thánh đế Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tập, diệt, đạo Thánh đế Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa nhân duyên Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa vô minh Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa bố thí Ba la mật Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa chơn như Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cõi giới hư không, cõi giới chẳng nghĩ bàn Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa bốn tĩnh lự Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa 4 vô lượng, 4 định vô sắc Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa 4 niệm trụ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa 4 chánh đoạn, bốn thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi Thánh đạo Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa giải thoát môn Không Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa giải thoát môn vô tướng, vô nguyện Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tám giải thoát Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa Cực hỷ địa Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa Tịnh quán địa Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ Tát địa, Như Lai địa Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa tất cả môn Đà la ni Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tất cả môn Tam ma địa Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa năm mắt Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa sáu thần thông Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa Như Lai mười lực Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa ba mươi hai tướng Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tám mươi vẻ đẹp Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa pháp không quên mất Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tánh luôn luôn xả Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa Nhất thiết trí Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tất cả Bồ Tát hạnh Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa tất cả pháp phàm phu Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tất cả pháp Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát.

Cú nghĩa tất cả pháp thiện, chẳng thiện Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Cú nghĩa tất cả pháp hữu kí, vô kí, pháp hữu lậu, vô lậu, pháp hữu vi, vô vi, pháp thế gian, xuất thế gian Không, tịch tĩnh thanh tịnh là cú nghĩa Bồ Tát. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp (là) Không, nên tự tánh xa lìa. Do xa lìa nên tự tánh vắng lặng. Do vắng lặng nên tự tánh thanh tịnh. Do thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa thanh tịnh hơn hết. Bát nhã Ba la mật như thế, phải biết là cú nghĩa Bồ Tát. Các chúng Bồ Tát đều nên tu học.

Phật nói pháp lý thú Bát Nhã thanh tịnh của cú nghĩa Bồ Tát như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn lý thú Bát Nhã thanh tịnh sâu xa mầu nhiệm của tất cả pháp đây mà hết lòng tin thọ, thì cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề vi diệu, tất cả chướng ngại ngăn che đều không thể nhiễm được. Đó là phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng, dù cho chứa nhóm nhiều cũng chẳng thể nhiễm; tuy đã tạo các ác nghiệp cực trọng nhưng cũng dễ tiêu trừ, chẳng đọa ác thú. Nếu thường thọ trì, ngày ngày đọc tụng, tinh tấn siêng năng không gián đoạn, suy gẫm đúng lý, thì vị ấy ở đời này sanh định đắc tất cả pháp tánh bình đẳng, kim cương đẳng trì, đối với tất cả pháp đều được tự tại, luôn hưởng được tất cả sự an lạc thắng diệu, sẽ trải qua mười sáu đời làm đại Bồ Tát(2), nhất định được Như Lai chấp kim cương tánh, mau chứng Vô thượng Bồ đề.

 

(2. Pháp môn lý thú Bát Nhã pháp tánh bình đẳng).

 

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai soi khắp, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn tất cả Như Lai hiện đẳng giác lý thú sâu xa pháp tánh vắng lặng của Bát nhã Ba la mật. Đó là:

Hiện đẳng giác môn tánh Kim cương bình đẳng, vì đại Bồ đề chắc chắn khó hoại như kim cương vậy.

Hiện đẳng giác môn tánh nghĩa bình đẳng, vì nghĩa của đại Bồ đề là nhất vậy.

Hiện đẳng giác môn tánh pháp bình đẳng, vì tự tánh của đại Bồ đề thanh tịnh vậy.

Hiện đẳng giác môn tánh tất cả pháp bình đẳng, vì đại Bồ đề đối với tất cả pháp không phân biệt vậy.

Phật nói hiện đẳng giác lý thú Bát Nhã, pháp tánh vắng lặng như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, cho đến ngồi tòa Bồ đề vi diệu, thì dù đã gây tất cả ác nghiệp rất nặng đi nữa cũng vượt qua khỏi tất cả ác thú, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(3. Pháp môn Bát Nhã có thể điều phục được tất cả

phiền não và tùy phiền não ác nghiệp v.v…)

 

Thế Tôn lại nương tướng Thích ca Mâu ni Như Lai điều phục tất cả ác pháp, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Bát nhã Ba la mật, nhiếp thọ tất cả pháp tánh bình đẳng, lý thú sâu xa thù thắng hơn hết. Nghĩa là tánh tham dục không hý luận, nên tánh sân giận cũng không hý luận. Tánh sân giận không hý luận, nên tánh ngu si cũng không hý luận. Tánh ngu si không hý luận, nên tánh do dự cũng không hý luận. Tánh do dự không hý luận, nên tánh các kiến cũng không hý luận. Tánh các kiến không hý luận, nên tánh kiêu mạn cũng không hý luận. Tánh kiêu mạn không hý luận, nên tánh các triền (triền phược) cũng không hý luận. Tánh các triền không hý luận, nên tánh phiền não cấu (cấu uế) cũng không hý luận. Tánh phiền não cấu không hý luận, nên tánh các ác nghiệp cũng không hý luận. Tánh các ác nghiệp không hý luận, nên tánh các quả báo cũng không hý luận. Tánh các quả báo không hý luận, nên tánh pháp tạp nhiễm cũng không hý luận. Tánh pháp tạp nhiễm không hý luận, nên tánh pháp thanh tịnh cũng không hý luận. Tánh pháp thanh tịnh không hý luận, nên tánh tất cả pháp cũng không hý luận. Tánh tất cả pháp không hý luận, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng không hý luận.

Phật nói pháp lý thú Bát Nhã thù thắng hơn hết, điều phục các ác như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được lý thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập; giả sử có sát hại tất cả hữu tình ở trong ba cõi thì cũng chẳng đọa nơi địa ngục, bàng sanh, quỉ giới. Vì họ có thể điều phục được tất cả phiền não và tùy phiền não ác nghiệp v.v…, nên thường sanh vào đường thiện, hưởng sự an lạc thù thắng vi diệu, tu các hạnh đại Bồ Tát, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(4. Pháp trí ấn(3) bình đẳng lý thú Bát Nhã thanh tịnh).

 

Thế Tôn lại đem tướng Như Lai tánh thanh tịnh, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn tất cả pháp tánh bình đẳng quán tự tại diệu trí ấn thậm thâm lý thú thanh tịnh của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là tất cả bản tánh tham dục thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự giận dữ của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh giận dữ thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự ngu si của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh ngu si thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự nghi ngờ của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh nghi ngờ thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho tà kiến của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh tà kiến thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự kiêu mạn của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh kiêu mạn thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự ràng buộc của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh ràng buộc thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự bẩn uế của thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh bẩn uế thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho ác pháp thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh ác pháp thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sanh tử thế gian thanh tịnh.

Tất cả bản tánh sanh tử thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho các pháp thế gian thanh tịnh.

Vì bản tánh tất cả pháp thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho hữu tình thế gian thanh tịnh. Tất cả bản tánh hữu tình thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho tất cả trí thế gian thanh tịnh.

Vì bản tánh tất cả trí thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho Bát Nhã sâu xa của thế gian cực thanh tịnh thù thắng.

Phật nói pháp trí ấn bình đẳng lý thú Bát Nhã thanh tịnh như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được lý thú Bát nhã Ba la mật thanh tịnh như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì dù ở trong nhóm khách trần phiền não bẩn uế, tất cả tham sân si v.v… vẫn như hoa sen, không bị những khách trần lỗi lầm bẩn uế làm ô nhiễm, thường khéo tu tập thắng hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(5. Pháp môn Lý thú Bát Nhã Trí tạng(4) quán đảnh

của tất cả Như Lai).

 

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai, vị chủ ba cõi thù thắng, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Trí tạng tất cả Như Lai hòa hợp quán đảnh lý thú thậm thâm của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, nếu đem ngôi Quán đảnh thế gian bố thí, thì sẽ được quả ngôi Pháp vương ba cõi. Nếu đem nghĩa Vô thượng xuất thế gian bố thí, thì sẽ được tất cả sự mong muốn đầy đủ. Nếu đem pháp Vô thượng xuất thế gian bố thí, thì đối với tất cả pháp sẽ được tự tại. Nếu đem tiền tài, vật thực v.v… của thế gian bố thí, thì sẽ được tất cả thân, ngữ, tâm an lạc. Nếu đem các thứ tài pháp v.v… bố thí, thì có thể khiến bố thí Ba la mật mau được viên mãn. Nếu thọ trì các loại cấm giới thanh tịnh, thì sẽ khiến tịnh giới Ba la mật mau được viên mãn. Nếu tu học an nhẫn đối với tất cả các việc, thì sẽ khiến an nhẫn Ba la mật mau được viên mãn. Nếu trong tất cả thời tu tập tinh tấn, thì sẽ khiến tinh tấn Ba la mật mau được viên mãn. Nếu đối với tất cả cảnh, tu hành tĩnh lự, thì sẽ khiến tĩnh lự Ba la mật mau được viên mãn. Nếu đối với tất cả pháp, thường tu diệu tuệ, thì sẽ khiến Bát Nhã mau được viên mãn.

Phật nói pháp môn Quán đảnh trí tạng lý thú Bát Nhã như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Quán đảnh lý thú trí tạng sâu xa, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì mau được đầy đủ các hạnh Bồ Tát, sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.         

 

(6. Pháp môn Kim cương Như Lai trí ấn lý thú Bát Nhã).

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai trí ấn, Như Lai trì pháp môn bí mật tất cả Phật, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Bát nhã Ba la mật Kim cương lý thú sâu xa tất cả Như Lai trụ trì trí ấn. Nghĩa là nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương thân ấn Như Lai, sẽ chứng tất cả pháp thân Như Lai. Hoặc nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương ngữ ấn Như Lai, đối với tất cả pháp sẽ được tự tại. Hoặc nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương tâm ấn Như Lai, đối với tất cả định sẽ được tự tại. Hoặc nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương trí ấn Như Lai, sẽ được thân, ngữ, tâm tối thượng vi diệu, như kim cương không động không hoại.

Phật nói pháp Kim cương Như Lai trí ấn lý thú Bát Nhã như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Kim cương trí ấn lý thú sâu xa như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, tất cả sự nghiệp đều được thành tựu, thường cùng tất cả thắng sự hòa hợp, muốn tu hành tất cả thắng trí, và các thắng phước nghiệp đều mau viên mãn, sẽ được thân, ngữ, tâm tối thắng thanh tịnh, như kim cương chẳng thể phá hoại, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(7. Pháp môn luân tự(5) vô hý luận

 lý thú Bát nhã Ba la mật).

 

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai tất cả pháp không hý luận, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn chữ “Luân”, lý thú sâu xa Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là tất cả pháp Không, vì không có tự tánh. Tất cả pháp vô tướng, vì lìa các tướng. Tất cả pháp vô nguyện, vì không sở nguyện. Tất cả pháp xa lìa, vì không chỗ dính mắc. Tất cả pháp vắng lặng, vì hoàn toàn vắng lặng. Tất cả pháp vô thường, vì không có tánh thường. Tất cả pháp vô lạc, vì chẳng có gì đáng vui. Tất cả pháp vô ngã, vì chẳng tự tại. Tất cả pháp bất tịnh, vì lìa tướng sạch. Tất cả pháp bất khả đắc, vì suy tầm tánh ấy chẳng thể được. Tất cả pháp chẳng nghĩ bàn, vì tánh nghĩ bàn không có vậy. Tất cả pháp Vô thực, vì nhiều duyên hòa hợp giả lập vậy. Tất cả pháp không hý luận, vì bản tánh Không, vắng lặng, xa lìa ngôn ngữ lời nói. Tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, vì Bát Nhã sâu xa bản tánh thanh tịnh.

Phật nói pháp chữ “Luân” lý thú Bát Nhã lìa các hý luận như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn chữ “Luân” lý thú Bát Nhã không hý luận đây, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(8. Pháp môn lý thú Bát Nhã nhập đại luân).

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai Như Lai luân nhiếp, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Tánh bình đẳng lý thú Bát Nhã sâu xa vào đại luân rộng lớn. Nghĩa là vào tánh Kim cương bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả Như Lai. (Q.578, ĐBN)

Vào tánh nghĩa bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả Bồ Tát. Vào tánh pháp bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp.

Vào tánh uẩn bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả uẩn. Vào tánh xứ bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả xứ. Vào tánh giới bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả giới.

Vào tánh đế bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả đế. Vào tánh duyên khởi bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả duyên khởi. Vào tánh báu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả báu.

Vào tánh ăn bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả sự ăn. Vào tánh thiện pháp bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả thiện pháp. Vào tánh pháp phi thiện bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp phi thiện.

Vào tánh pháp hữu ký bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp hữu ký. Vào tánh pháp vô ký bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp vô ký.

Vào tánh pháp hữu lậu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp hữu lậu. Vào tánh pháp vô lậu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp vô lậu.

Vào tánh pháp hữu vi bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp hữu vi. Vào tánh pháp vô vi bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp vô vi.

Vào tánh pháp thế gian bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp thế gian. Vào tánh pháp xuất thế gian bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp xuất thế gian.

Vào tánh pháp phàm phu bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp phàm phu. Vào tánh pháp Thanh văn bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp Thanh văn. Vào tánh pháp Độc giác bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp Độc giác.

Vào tánh pháp Bồ Tát bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của cả pháp Bồ Tát. Vào tánh pháp Như Lai bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả pháp Như Lai. Vào tánh hữu tình bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả hữu tình. Vào tánh tất cả bình đẳng, có thể nhập được tánh luân của tất cả.

Phật nói tánh bình đẳng lý thú Bát Nhã vào đại luân rộng lớn như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Tánh bình đẳng lý thú sâu xa của tánh luân như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì khéo ngộ được các tánh bình đẳng, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Vì thông hóa tất cả pháp bình đẳng dù là hữu vi hay vô vi, dù là pháp thế gian hay xuất thế gian… nên nói nhập được tánh đại luân của tất cả pháp. Pháp môn này chỉ là kết quả của sự khéo ngộ nhập tổng thể các tánh luân của tất cả pháp ở tầng cao hơn chẳng có gì khác).

 

(9. Pháp môn Vô thượng lý thú Bát Nhã cúng dường).

 

Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai chơn tịnh khí điền rộng thọ cúng dường, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Vô thượng lý thú sâu xa tất cả sự cúng dường của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Nhiếp hộ chánh pháp, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả Ba la mật, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả Bồ đề phần pháp, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả tổng trì, đẳng trì, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả năm mắt, sáu thần thông, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả tĩnh lự, giải thoát, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả từ bi hỷ xả, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Tu hành tất cả pháp Phật bất cộng, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường.

Quán tất cả pháp hoặc thường hoặc vô thường đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc vui, hoặc khổ đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường.

Quán tất cả pháp hoặc Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc có tướng, hoặc không tướng đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc xa lìa, hoặc chẳng xa lìa đều bất khả đắc, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường. Quán tất cả pháp hoặc vắng lặng, hoặc chẳng vắng lặng đều bất khả đắc, đối các Như Lai rộng bày cúng dường.

Đối với Bát nhã Ba la mật, biên chép, lắng nghe, thọ trì đọc tụng, suy gẫm tu tập, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc tự cúng dường, hoặc chuyển cho người khác, đối với các Như Lai rộng bày cúng dường.

Phật nói pháp môn Vô thượng lý thú sâu xa chơn tịnh cúng dường như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Vô thượng lý thú Bát Nhã cúng dường như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập thì sẽ sớm được viên mãn các hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

(10. Pháp môn bí mật Trí tạng lý thú Bát Nhã sâu xa

năng khéo điều phục hữu tình).

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai năng khéo điều phục, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Trí tạng lý thú sâu xa nhiếp thọ trí mật điều phục hữu tình của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả hữu tình tức tánh bình đẳng của giận. Tánh điều phục tất cả hữu tình tức tánh điều phục giận. Tánh chơn pháp của tất cả hữu tình tức tánh chơn pháp của giận.

Tánh chơn như của tất cả hữu tình tức tánh chơn như của giận. Tánh pháp giới của tất cả hữu tình tức tánh pháp giới của giận. Tánh ly sanh của tất cả hữu tình tức tánh ly sanh của giận. Tánh thực tế của tất cả hữu tình tức tánh thật tế của giận.

Tánh vốn Không của tất cả hữu tình tức tánh vốn Không của giận. Tánh vô tướng của tất cả hữu tình tức tánh vô tướng của giận. Tánh vô nguyện của tất cả hữu tình tức tánh vô nguyện của giận.

Tánh xa lìa của tất cả hữu tình tức tánh xa lìa của giận. Tánh vắng lặng của tất cả hữu tình tức tánh vắng lặng của giận. Tánh bất khả đắc của tất cả hữu tình tức tánh bất khả đắc của giận. Tánh vô sở hữu của tất cả hữu tình tức tánh vô sở hữu của giận. Tánh khó nghĩ bàn của tất cả hữu tình tức tánh khó nghĩ bàn của giận. Tánh không hý luận của tất cả hữu tình tức tánh không hý luận của giận. Tánh như kim cương của tất cả hữu tình tức tánh như kim cương của giận. Vì sao? Vì tánh chơn điều phục tất cả hữu tình tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng là Bát nhã Ba la mật, cũng là Nhất thiết trí trí của chư Phật.

Phật nói pháp môn Trí tạng lý thú sâu xa năng khéo điều phục như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Trí tạng lý thú Bát Nhã điều phục như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, năng tự điều phục được lỗi giận dữ…, cũng năng điều phục tất cả hữu tình thì sẽ thường sanh nẻo thiện, thọ nhiều an lạc vi diệu, oán địch hiện đời đều khởi từ tâm, giỏi khéo tu hành các hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô thượng Bồ đề.

 

(11. Pháp môn tối thắng lý thú Bát Nhã bình đẳng).

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai pháp tánh bình đẳng năng khéo kiến lập, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn tất cả pháp tánh tối thắng lý thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là tất cả hữu tình tánh bình đẳng, nên Bát Nhã sâu xa tánh cũng bình đẳng. Tất cả pháp tánh bình đẳng, nên Bát Nhã sâu xa tánh cũng bình đẳng.

Tất cả hữu tình tánh điều phục, nên Bát Nhã tánh cũng điều phục. Tất cả pháp tánh điều phục, nên Bát Nhã sâu xa tánh cũng điều phục.

Tất cả hữu tình có thật nghĩa, nên Bát Nhã sâu xa cũng có thật nghĩa. Tất cả pháp có thật nghĩa, nên Bát Nhã sâu xa cũng có thật nghĩa.

Tất cả hữu tình tức chơn như, nên Bát Nhã sâu xa cũng tức là chơn như. Tất cả pháp tức chơn như, Bát Nhã sâu xa cũng tức là chơn như.

Tất cả hữu tình tức pháp giới, nên Bát Nhã cũng tức là pháp giới. Tất cả pháp tức pháp giới, nên Bát Nhã sâu xa cũng tức là pháp giới.

Tất cả hữu tình tức pháp tánh, nên Bát Nhã cũng tức là pháp tánh. Tất cả pháp tức pháp tánh, nên Bát Nhã sâu xa cũng tức là pháp tánh.

Tất cả hữu tình tức thật tế, nên Bát Nhã sâu xa cũng tức là thật tế. Tất cả pháp tức thật tế, nên Bát Nhã sâu xa cũng tức là thật tế.

Tất cả hữu tình vốn Không, nên Bát Nhã sâu xa cũng vốn Không. Tất cả pháp vốn Không, nên Bát Nhã sâu xa cũng vốn Không.

Tất cả hữu tình vô tướng, nên Bát Nhã sâu xa cũng vô tướng. Tất cả pháp vô tướng, nên Bát Nhã sâu xa cũng vô tướng.

Tất cả hữu tình vô nguyện, nên Bát Nhã sâu xa cũng vô nguyện. Tất cả pháp vô nguyện, nên Bát Nhã sâu xa cũng vô nguyện.

Tất cả hữu tình xa lìa, nên Bát Nhã sâu xa cũng xa lìa. Tất cả pháp xa lìa, nên Bát Nhã sâu xa cũng xa lìa.

Tất cả hữu tình vắng lặng, nên Bát Nhã sâu xa cũng vắng lặng. Tất cả pháp vắng lặng, nên Bát Nhã sâu xa cũng vắng lặng.

Tất cả hữu tình bất khả đắc, nên Bát Nhã sâu xa cũng bất khả đắc. Tất cả pháp bất khả đắc, nên Bát Nhã sâu xa cũng bất khả đắc.

Tất cả hữu tình vô sở hữu, nên Bát Nhã sâu xa cũng vô sở hữu. Tất cả pháp vô sở hữu, nên Bát Nhã sâu xa cũng vô sở hữu.

Tất cả hữu tình chẳng thể nghĩ bàn, nên Bát Nhã sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên Bát Nhã sâu xa cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Tất cả hữu tình không hý luận, nên Bát Nhã cũng không hý luận. Tất cả pháp không hý luận, nên Bát Nhã sâu xa cũng không hý luận.

Tất cả hữu tình không ngằn mé, nên Bát Nhã sâu xa cũng không ngằn mé. Tất cả pháp không ngằn mé, nên Bát Nhã sâu xa cũng không ngằn mé.

Tất cả hữu tình có nghiệp dụng, nên phải biết Bát Nhã đa sâu xa cũng có nghiệp dụng. Tất cả pháp có nghiệp dụng, nên phải biết Bát Nhã sâu xa cũng có nghiệp dụng. (Q.578, ĐBN)

Phật nói pháp môn tối thắng lý thú sâu thẳm, tánh bình đẳng của pháp tánh như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn tối thắng lý thú Bát Nhã bình đẳng như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì thông suốt được pháp tánh bình đẳng Bát Nhã sâu xa, đối với các hữu tình tâm không trở ngại, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(12. Pháp môn Thắng tạng lý thú Bát Nhã

 gia trì(6) cho tất cả hữu tình):

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai trụ trì tạng pháp, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Thắng tạng lý thú sâu xa tất cả hữu tình trụ trì đầy khắp của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng, vì tự thể của Bồ Tát Phổ Hiền biến khắp.

Tất cả hữu tình đều là Kim cương tạng(7), vì được Kim cương rưới thắm. Tất cả hữu tình đều là Chánh pháp tạng(8), vì tất cả đều chuyển theo chánh ngữ. Tất cả hữu tình đều là Diệu nghiệp tạng, vì tất cả sự nghiệp nương vào gia hạnh.

Phật nói pháp môn Thắng tạng lý thú sâu xa hữu tình trụ trì như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Thắng tạng lý thú Bát Nhã đầy khắp như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì sẽ thông suốt được pháp tánh thắng tạng, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

(13. Pháp môn pháp nghĩa bình đẳng trụ trì rốt ráo của Bát Nhã).

 

Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai rốt ráo pháp không ngằn mé, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn Kim cương pháp nghĩa bình đẳng trụ trì rốt ráo của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là Bát Nhã sâu xa vô biên, nên tất cả Như Lai cũng vô biên. Bát Nhã sâu xa không ngằn mé, nên tất cả Như Lai cũng không ngằn mé. Bát Nhã sâu xa một vị, nên tất cả pháp cũng một vị. Bát Nhã sâu xa rốt ráo, nên tất cả pháp cũng rốt ráo.

Phật nói pháp môn Kim cương lý thú rốt ráo không ngằn mé như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ… rằng:

- Nếu có người nào nghe được pháp môn Kim cương lý thú Bát Nhã rốt ráo như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì các pháp chướng đều tiêu trừ, nhất định được tánh Như Lai chấp kim cương, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

  

Để kết thúc Hội này, Phật thuyết: Pháp môn pháp tánh Kim cương đại lạc và Kim cương Bất không thần chú Bát nhã Ba la mật:

 

Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai soi khắp, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn trước giữa sau đều tối thắng đệ nhất, lý thú sâu xa vô thượng, được tánh pháp bí mật của tất cả Như Lai và tánh không hý luận của tất cả pháp, tánh pháp Kim cương đại lạc, Kim cương bất không thần chú của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là thành tựu tối thắng các sự ưa muốn lớn..., khiến cho đại Bồ Tát thành tựu tối thắng sự vui lớn, khiến cho đại Bồ Tát thành tựu tối thắng tất cả đại giác của Như Lai, khiến đại Bồ Tát thành tựu tối thắng sự hàng phục tất cả đại ma, khiến đại Bồ Tát thành tựu tối thắng sự tự tại khắp cả ba cõi, khiến đại Bồ Tát thành tựu tối thắng rốt ráo vui lớn, cứu vớt cõi hữu tình không thiếu sót, làm cho tất cả hữu tình lợi ích an lạc, thành tựu sự vui lớn rốt ráo. Vì sao? Vì cho đến trụ trong dòng sanh tử lưu chuyển, người có thắng trí ngang đây thường đem pháp Vô đẳng làm lợi ích hữu tình, chẳng vào tịch diệt. Lại dùng Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo thành lập thắng trí, thành tựu tất cả sự nghiệp thanh tịnh, khiến các cõi đều được thanh tịnh. Lại đem tham v.v… điều phục thế gian, trong tất cả thời, cho đến các cõi đều khiến cho thanh tịnh, tự nhiên điều phục. Lại như hoa sen hình sắc sáng sạch thanh khiết, chẳng bị các vật uế làm dơ bẩn. Như vậy, tham v.v… lợi ích thế gian, trụ khắp cõi tội lỗi thường chẳng làm nhiễm được. Lại tham lớn v.v… có thể được vui lớn, tài lợi lớn thanh tịnh, tự tại trong ba cõi, thường làm lợi ích hữu tình một cách kiên cố.

Bấy giờ, Như Lai liền nói Thần chú:

 

1. Nạp mộ bạc già phiệt đế.

2. Bát lạt nhưỡng ba la nhĩ đa duệ.

3. Bạc để phiệt thát la duệ.

4. Yểm bả lý nhĩ đa lũ noa duệ.

5. Tác phược đát tha yết đa bả lý bố thị đa duệ.

6. Tác phược đát tha yết đa nô nhưỡng đa nô nhưỡng đa bật nhưỡng đa duệ.

7. Đát điệc tha.

8. Bát lạt nhệ bát lạt nhệ.

9. Mạt ha bát lạt nhệ.

10. Bát lạt nhưỡng bà ta yết lệ.

11. Bát lạt nhưỡng lộ ca yết lệ.

12. Án đà ca la tỳ đàm mạt nê.

13. Tất đệ.

14. Tô tất đệ.

15. Tất điện đô mạn bạc già phiệt để.

16. Tát phòng già tôn đạt lệ.

17. Bạc để phiệt thát lệ.

18. Bát lạt ta lý đa hát tất đế.

19. Tham ma thấp phược yết ta lệ.

20. Bột đà bột đà.

21. Tất đà tất đà.

22. Kiếm ba kiếm ba.

23. Chiết la chiết la.

24. Át la phược át la phược.

25. A yết xa a yết xa.

26. Bạc già phiệt để.

27. Mạ tỳ lạm bà.

28. Sa ha.

 

Ba đời chư Phật đều tuyên thuyết, hộ niệm Thần chú này. Người nào hay thọ trì thì diệt được tất cả chướng, thành tựu tất cả tâm nguyện, mau chứng Vô thượng Bồ đề.

Như Lai lại nói Thần chú:

 

1. Nạp mộ bạc già phiệt đế.

2. Bát lạt nhưỡng ba la nhĩ đa du.

3. Đát điệt tha.

4. Mâu ni đạt kế.

5. Tăng yết lạc ha đạt kế

6. Át nô yết lạc ha đạt kế

7. Tỳ mục để đạt kế.

8. Tát đà nô yết lạc ha đạt kế.

9. Phệ thất lạc mạt noa đạt kế.

10. Tham mạn đa nô bả lý phiệt lạt đát na đạt kế.

11. Lũ noa tăng yết lạc ha đạt kế.

12. Tát phược ca la bả lý ba lạt na đạt kế.

13. Sa ha.

 

Thần chú như thế là mẹ của chư Phật. Người nào hay thọ trì thì diệt được tất cả tội, thường thấy chư Phật, được trí túc trụ, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế Tôn lại nói Thần chú:

 

1. Nạp mộ bạt già phiệt đế.

2. Bát lạt nhưỡng ba la nhĩ đa du.

3. Đát điệt tha.

4. Thất lệ duệ.

5. Thất lệ duệ.

6. Thất lệ duệ.

7. Thất lệ duệ tế.

8. Sa ha.

 

Thần chú như thế đủ đại uy lực, người nào hay thọ trì thì tiêu trừ được nghiệp chướng, đã nghe Chánh pháp nhớ mãi chẳng quên, mau chứng Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ, Thế Tôn nói Thần chú ấy rồi, bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ:

- Nếu các hữu tình vào mỗi buổi sáng sớm, chí tâm đọc tụng pháp môn tối thắng lý thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật như thế, không gián đoạn, thì đều tiêu diệt được các ác nghiệp chướng, những niềm hỷ lạc thù thắng thường hiện tiền. Nếu thọ trì Thần chú Đại lạc kim cương bất không này thì hiện thân tất được thành tựu rốt ráo viên mãn tất cả Như Lai kim cương bí mật tối thắng, chẳng lâu sẽ được Đại chấp kim cương và tánh Như Lai.

Nếu loài hữu tình chưa ở nhiều chỗ Phật trồng các căn lành, lâu phát đại nguyện, thì đối với pháp môn tối thắng lý thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật đây chẳng thể lắng nghe, biên chép đọc tụng, cúng dường cung kính, suy gẫm tu tập. Nếu ở nhiều chỗ Phật trồng các căn lành, mà lâu phát đại nguyện, thì đối với pháp môn tối thắng lý thú sâu xa đây, chỉ nghe được một câu một chữ, huống nữa là đọc tụng thọ trì đầy đủ.

Nếu hữu tình nào cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi tám mươi hằng hà sa triệu ức Phật, thì mới nghe được đầy đủ lý thú sâu xa cuả Bát nhã Ba la mật đây.

Nếu địa phương nào lưu hành Kinh này, thì tất cả trời, người, A tu la v.v… đều cúng dường như Bảo tháp Phật. Hoặc có ai mang Kinh này trên thân hoặc tay, thì các trời, người đều lễ kính.

Nếu loài hữu tình nào thọ trì Kinh này nhiều ức kiếp, thì được trí túc trụ, thường siêng tinh tấn tu các thiện pháp, ác ma ngoại đạo chẳng thể gây đại nạn được, vì bốn Đại thiên vương và các Thiên chúng thường theo bảo hộ bên cạnh, không bao giờ chết oan, đoản mạng, hay gặp hoạn nạn. Chư Phật, Bồ Tát thường chung hộ trì, khiến mọi lúc tăng thiện bớt ác, theo nguyện vãng sanh về cõi chư Phật, cho đến khi thành tựu Bồ đề, chẳng đọa ác thú. Các loài hữu tình thọ trì Kinh này chắc chắn được vô biên công đức thắng lợi, Ta nay lược nói phần ít như thế.

Khi đức Bạc già phạm thuyết Kinh đây rồi, các đại Bồ Tát như Bồ Tát Kim Cương Thủ v.v… và các Thiên chúng nghe Phật dạy đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành.

 

Thích nghĩa:

(1). Tất cả phẩm tựa viết trong phần chánh văn cho mỗi pháp môn là do chúng tôi ghi theo ý nghĩa của chánh văn, nhưng không thể gói ghém tất cả ý nghĩa chánh văn của các pháp môn đó. Vậy, muốn hiểu đích xác ý nghĩa của mỗi pháp môn, Quý vị hãy đọc kỹ phần chính văn. Và phần phụ chú bên dưới. Đây là một phần (không gọi là phẩm) gây nhiều trở ngại nhất về kỹ thuật định danh các pháp môn cũng như giáo nghĩa của nó mặc dù chúng tôi hết sức cố gắng!

(2). Trải qua 16 đời làm đại Bồ Tát, nhất định được Như Lai chấp Kim cương tánh. Kinh Kim Cương Đảnh Du Già Lý Thú Bát Nhã do Ngài Kim Cương Trí dịch cũng như Kinh Đại Lạc Kim Cương Bất Không Chân Thật Tam Ma Da do Ngài Bất Không dịch nói là “trải qua mười sáu Tam muội đại Bồ Tát chắc chắn đắc được tánh chấp Kim Cang của Như lai”.

(3). Trí ấn của Như Lai: Là dấu ấn, biểu tượng của Như Lai như Kinh giải thích Kim cương trí ấn Như Lai, nghĩa là người nào tu hành pháp môn “lý thú Bát Nhã được trí ấn của tất cả Như Lai” sẽ được thân, ngữ, tâm, trí tối thượng diệu, như kim cương không động không hoại.

(4). Trí tạng: Trí tuệ quảng đại của Phật, bao hàm hết thảy chư pháp.

(5). Luân tự: Luân là lưu chuyển, xoay dần, tự là chữ. Thí dụ như ngũ luân tự là chỉ cho 5 chữ: ‘a’, ‘va’, ‘ra’, ‘ha’ và ‘kha’. Năm chữ này theo thứ tự là chủng tử của 5 luân: Đất, nước, lửa, gió và hư không, vì thế nên gọi Ngũ luân tự. (Từ điển Phật Quang)

(6). Gia trì: Có nghĩa là hộ trì.

(7). Kim cang tạng: (金剛藏). Tạng nói về pháp môn tu nhân chứng quả của hàng Bồ Tát Đẳng giác. Là tạng thứ 7 trong 8 tạng nói trong phẩm Xuất Kinh của Kinh Bồ Tát xử thai quyển 7. Theo Tam tạng pháp số quyển 31, thì Kim cương tạng là pháp tu nhân cảm quả của hàng Bồ Tát Đẳng giác do đức Phật chỉ dạy, vì trí tuệ phá trừ hoặc chướng của hàng Bồ Tát này rất bền chắc sắc bén, có khả năng đoạn diệt phần vô minh nhỏ nhiệm cuối cùng, nên Bồ Tát Đẳng giác được gọi là Kim cương tâm. (xt. Bát Tạng).- Từ điển Phật Quang.

(8). Chánh pháp tạng: Kho tàng chánh pháp, thường chỉ cho Kinh điển Phật giáo (s: dharma-kośa), để phân biệt với Luật hay Luận tạng.

 

Sơ giải:

 

Thế Tôn thuyết các pháp môn lý thú Bát Nhã cho các Bồ Tát thượng thủ cùng với tám vạn chúng Bồ Tát khác tại vương cung của trời Tha Hóa Tự tại trong điện Bảo Tạng. Pháp môn ấy tức là cú nghĩa Bồ Tát. Ý nghĩa đó có gì quan trọng mà Bồ Tát cần phải tín thọ?

 

1.      Pháp môn lý thú Bát Nhã thanh tịnh sâu xa

mầu nhiệm của tất cả pháp.

 

Ý nghĩa pháp môn lý thú Bát Nhã thanh tịnh của tất cả pháp là cú nghĩa của Bồ Tát. Đó là các pháp đem lại thân khẩu ý khéo an vui thanh tịnh dứt trừ khát ái, các kiến... Cú nghĩa đó là tự tánh tất cả pháp là Không, xa lìa, vắng lặng. Do giác biết như vậy nên Bồ Tát được thanh tịnh. Do thanh tịnh nên Bồ Tát tu tập tất cả pháp Phật và Bát nhã Ba la mật thanh tịnh hơn hết. Phật bảo: Nếu có chúng sanh nghe được pháp môn này hết lòng tin thọ, cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề vi diệu, thời tất cả chướng ngại ngăn che, các phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng cho dù chứa nhóm nhiều cũng chẳng thể nhiễm; tuy đã tạo các ác nghiệp cực trọng nhưng cũng dễ tiêu trừ, chẳng đọa ác thú. Đồng thời có thể đắc tất cả pháp tánh bình đẳng, kim cương đẳng trì, đối với tất cả pháp đều được tự tại, luôn hưởng được tất cả sự an lạc thắng diệu, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

Pháp môn lý thú này chẳng qua là kết quả của quán không. Một khi quán thấy các pháp đều không, xa lìa, vắng lặng chẳng còn gì để bám víu, nắm giữ nữa. Tâm sẽ được rỗng không, vô trụ, vô trước, vô niệm, vô tâm. Tới đó thì tâm thể hoàn toàn tịch tĩnh, thanh tịnh để dọn đường cho cánh cửa trí tuệ khai mở. Rốt ráo tu bất cứ pháp môn nào rồi cũng đưa đến thanh tịnh. Thanh tịnh chính là cú nghĩa Bồ Tát hay nói khác là chẳng có gì quan trọng đối với Bồ Tát hơn là tịnh tâm.

Đây là pháp môn lý thú Bát Nhã đầu tiên cũng là pháp môn quan trọng vào bậc nhất của người hành trì Bát nhã Ba la mật: Quán tất cả pháp đều Không. Người nào tri nhận các pháp đều không như vậy, thì không còn trụ chấp cũng không nắm giữ các pháp, tâm sẽ thanh tịnh. Đó là điểm trọng yếu trong việc tu hành. Chúng tôi có thể nói rằng không có thanh tịnh thì không có đạo Phật. Vì vậy, đạo Phật còn được gọi là thanh-tịnh-đạo. Trong 84.000 pháp môn nhất là tu thiền và định cốt làm sao cho tâm lắng động để đi đến chỗ vắng lặng tịch tĩnh hay nói khác là được thanh tịnh. Một khi tâm được thanh tịnh thì linh chi sẽ mở.

Tất cả pháp môn của pháp hội này hay các pháp hội khác trong toàn thể Đại Bát Nhã, dù nói xa hay gần đều đề cập đến không, như như, bình đẳng và thanh tịnh này, coi đó là trọng tâm của việc tu hành, không còn yếu tố nào quan trọng hơn. Hiểu như vậy để tu hành thì lột da, đổi thể, nên mới nói là lý thú. Lời giải thích ở đây cốt xác định cái danh cái nghĩa của phẩm tựa. Phẩm tựa tạm đặt không đủ diễn tả nội dung của các pháp môn trong pháp hội này. Phải đọc cẩn thận các chiết giải mới có thể hiểu nội dung của từng pháp môn.

 

2. Pháp môn lý thú Bát Nhã pháp tánh bình đẳng.

 

Vì chư Như Lai trực ngộ Bồ đề là nhất, Bồ đề chẳng hoại như kim cương. Tự tánh của Bồ đề thanh tịnh, nên đối với tất cả pháp không phân biệt. Không phân biệt thì pháp nào pháp nào cũng bình đẳng như như. Bình đẳng như như, tức thân tâm không còn dao động nên nói là vắng lặng hay thanh tịnh. Đó chính là chỗ hiện đẳng giác của tất cả Như Lai.

Pháp môn thứ hai khác với pháp môn thứ nhất, nghĩa là phải quán tự tánh của Bồ đề vắng lặng, liền thấy pháp tánh bình đẳng thì tâm được vắng lặng mà hiện đẳng giác. Chúng ta cũng biết rằng trực ngộ được pháp tánh bình đẳng là tri giác được chơn như tức giác ngộ. Bởi vì chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh… bản tánh nhất như trong thập nhị chơn như. Nên Kinh bảo trực nhận được pháp tánh bình đẳng là hiện đẳng giác. Vì đến đó là nhập pháp giới, nên nói là giác ngộ. Bồ Tát tu hết Thập địa thì xong 50 quả vị Bồ Tát. Kế đó vào Đẳng giác (tức giai vị thứ 51), rồi vào Diệu giác (giai vị thứ 52) thì thành Phật. Tới đó thì không còn tội lỗi gì cả, nên Kinh nói: “Nếu có người nào nghe được pháp môn như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, cho đến ngồi tòa Bồ đề vi diệu, thì dù đã gây tất cả ác nghiệp rất nặng đi nữa cũng vượt qua khỏi tất cả ác thú, mau chứng Vô Thượng Bồ đề”.

 

Pháp thứ hai lý thú Bát Nhã chính là thấy pháp tánh bình đẳng tức chứng biết tâm và vật đều Không, đều như, đều bình đẳng, nên nói là thanh tịnh. Bởi vì trực nhận được chơn như thật tánh của tất cả pháp thì Giác ngộ, liền vào Đẳng giác, phá trừ tất cả các phiền não nhỏ nhiệm tương tục, trong một sát na tương ưng cùng huệ, nhập Diệu giác thì thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Toàn thể Đại Bát Nhã cũng nói về tánh bình đẳng. Ở đây Phật không nói về bình đẳng thường tình của Thế tục. Bình đẳng thường tình của thế nhân ai cũng biết là cái đồng đẳng về quyền lợi nghĩa vụ, cái ngang nhau về ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc v.v… Đối với Phật đạo đó chỉ là cái vỏ bề ngoài. Ruột là cái tham ái dục vọng dấy lên từ bên trong. Khi tham ái dục vọng nổi lên sẽ sanh ra tranh giành, cấu xé, chém giết lẫn nhau. Đó là cái xấu xa ích kỷ do ngã và ngã sở tạo thành. Một khi ngã - ngã sở nổi lên thì bình đẳng không còn ở đó nữa. Bình đẳng chỉ có khi tâm vắng lặng thanh tịnh, không còn phân biệt chấp đắm nữa.

Chúng ta cũng biết rằng bình đẳng tánh ngang hàng với chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế (tức thập nhị chơn như) như đã nói trên. Nên thâm nhập được bình đẳng tánh tức tri nhận được chơn như thật tướng thì được xem là giác ngộ. Vì vậy, người nào đọc tụng, thọ trì, tu tập Bát nhã Ba la mật thì có thể đạt được Pháp môn lý thú Bát Nhã pháp tánh bình đẳng. Do đó có thể vượt qua các ác nghiệp, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

3. Pháp môn Bát Nhã có thể điều phục được tất cả

phiền não và tùy phiền não ác nghiệp v.v…

 

Thế Tôn lại nương vào tướng Thích Ca Mâu Ni của tất cả Như Lai để thuyết pháp môn lý thú Bát Nhã xuất sinh tất cả pháp bình đẳng để điều phục hữu tình khó điều phục. Nghĩa là tham dục, sân hận, tham ái không hý luận thì các kiến chấp, kiêu mạn cũng không hý luận. Các kiến chấp, kiêu mạn không hý luận thì các triền phược cấu nhiễm cũng không hý luận. Các triền phược, cấu nhiễm không hý luận thì nghiệp quả chẳng sanh. Nếu nghiệp quả chẳng sanh cũng không hý luận thì các pháp tạp nhiễm thanh tịnh cũng không hý luận. Nếu tất cả pháp tạp nhiễm thanh tịnh không hý luận thì tất cả pháp cũng không hý luận. Tất cả pháp không hý luận, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng không hý luận. Đây không phải là một chuỗi dài của diễn dịch này sang diễn dịch khác mà đây là một hệ luận sanh khởi do cái này có nên cái kia có: Một khi chế phục được điên đảo ác nghiệp, hý luận thì tâm sẽ lặng như nước không còn bị gió đùa nữa.

Hý luận càng sâu trầm luân càng dài. Ngày nào còn hý luận ngày ấy còn khổ ải thôi. Im lặng là bài thuốc vi diệu để chữa tất cả bệnh nhất là bệnh hý luận. Chúng sanh nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm như vậy nên Phật bảo cho dù có giết hại tất cả hữu tình trong ba cõi thì rốt cuộc cũng không do việc này mà đọa vào đường ác. Vì sao? Vì họ đã thọ luật nghi điều phục tâm, thường sinh vào đường lành, tu hạnh Bồ đề, mau chứng Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác.

 

4.Pháp môn Trí ấn quán pháp tánh bình đẳng

lý thú Bát Nhã thanh tịnh.

 

Thế Tôn đem tướng Như Lai tánh thanh tịnh, tuyên thuyết pháp môn tất cả pháp tánh bình đẳng quán tự tại diệu trí ấn thậm thâm lý thú thanh tịnh của Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, tất cả bản tánh tham dục được điều phục thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho bản tánh của sự giận dữ của thế gian thanh tịnh. Tất cả bản tánh của giận dữ được điều phục thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho sự ngu si của thế gian thanh tịnh. Tất cả bản tánh của ngu si được điều phục thanh tịnh sáng suốt, nên khiến cho sự nghi ngờ của thế gian thanh tịnh v.v...

Một khi biết “... bản tánh của tất cả pháp thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho hữu tình thế gian thanh tịnh. Tất cả bản tánh hữu tình thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho tất cả trí thế gian thanh tịnh. Vì bản tánh tất cả trí thanh tịnh sáng suốt, nên có thể khiến cho trí sâu xa của thế gian cực thanh tịnh thù thắng”.

Điều phục thân tâm được bình đẳng thanh tịnh chính là trí ấn của Như Lai do Bát Nhã mà đạt được. Nên, Phật bảo: Nếu có chúng sanh nào nghe pháp môn như thế tin hiểu thọ trì, đọc tụng, tu tập, chánh ức niệm thì cho dù ở trong nhóm khách trần phiền não cấu bẩn, tất cả tham sân si v.v… vẫn như hoa sen, không bị những khách trần làm ô nhiễm được, thường khéo tu tập thắng hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Có thể nói pháp môn này chỉ là kết quả do điều phục thân tâm (tham sân si mạn nghi thân kiến v.v…) nên được thanh tịnh sáng suốt. Vì vậy, mới được gọi là trí ấn bình đẳng lý thú do tu hành Bát Nhã thanh tịnh mà được. 

Pháp môn thứ 3 và thứ 4, chỉ là kết quả của hai pháp môn đầu tiên.

 

5. Pháp môn Trí tạng quán đảnh lý thú Bát Nhã của

tất cả Như Lai.

 

Thế Tôn lại nương vào tướng vì ba cõi của tất cả Như Lai để nói pháp môn trí tạng quán đảnh xuất hiện lý thú Bát Nhã của tất cả Như Lai. Nghĩa là, bố thí tài bảo làm cho tất cả những sự mong muốn đều được đầy đủ; bố thí pháp nên được viên mãn tất cả pháp; do bố thí như vậy nên được tất cả thân, khẩu, ý nghiệp an lạc. Nếu thọ trì các loại tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, lại tu diệu huệ thanh tịnh, thì sẽ khiến các Ba la mật mau được viên mãn.

Phật bảo: Nếu người nào được nghe môn Trí tạng quán đảnh lý thú thậm thâm này, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tư duy thì người ấy mau được viên mãn hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng giác.

 Muốn tâm thể cao thượng hơn người thì phải làm sao? Phải bố thí, bố thí là phá ngã, lại tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và Bát Nhã để hoàn tất hạnh nguyện cao cả của Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo. Tu như vậy sẽ đạt ngôi vị pháp vương tử, nên pháp môn này được gọi là Quán đảnh trí tạng lý thú sâu xa.

 

6. Pháp môn lý thú Bát Nhã Trí ấn của tất cả Như Lai gia trì.

 

Thế Tôn nương theo tướng bí tạng trí ấn thường trụ của tất cả Như Lai để nói Pháp môn lý thú Bát Nhã được trí ấn của tất cả Như Lai gia trì, nghĩa là nhiếp thọ đầy đủ tất cả Kim cương thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn Như Lai, tối thượng vi diệu, như kim cương không động không hoại.

Nếu quyết tâm giữ thân, ngữ, ý vững chắc như kim cương chẳng thể động hoại trong bất cứ trạng huống nào thì đắc pháp môn như trên. Nên Phật bảo: Chúng sanh nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm thì sẽ được thành tựu Kim cang trí ấn tối thượng, tất cả sự nghiệp đều được thành tựu, được tất cả tánh Kim cang của thân, khẩu, ý, mau chứng Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác.

Tất cả pháp môn tu hành không ngoài tôi luyện thân tâm và ý chí, như sắt đá, như kim cương bất hoại, mới thành tựu vô sanh pháp nhẫn, Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, mới thành tựu Bồ Tát bất thối chuyển.

Mặc dù cố gắng hết sức chúng tôi cũng không thể đặt tên phẩm tựa của ba pháp môn số 4., 5. và 6. tương xứng với nội dung của các giáo pháp ấy được. Nếu đọc cẩn thận nội dung của từng pháp môn thì có thể hiểu và một khi hiểu thì có thể nhớ từng pháp môn. Tất cả ba pháp môn này đều căn cứ vào tướng trí (trí ấn, trí tạng) của Như Lai để quán, để tu, để hành.

 

7. Pháp môn văn tự chuyển luân vô hý luận

 lý thú Bát nhã Ba la mật.

 

Tam muội không, vô tướng, vô nguyện giúp người thọ trì Bát Nhã tri giác tất cả pháp là không, vô tướng, vô nguyện, xa lìa, vắng lặng, là vô thường, vô ngã, bất tịnh, bất khả đắc, chẳng thể nghĩ bàn, vô hý luận, tự tánh thanh tịnh… Do giác ngộ như vậy mà được trí vô ngại, mau chứng Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì giác ngộ như vậy nên gọi chung những từ như không, vô tướng, vô nguyện, xa lìa, vắng lặng, vô thường, vô ngã, bất tịnh, bất khả đắc v.v…là những “luân tự” lý thú Bát Nhã vô hý luận.

Phật thuyết pháp môn chữ “luân” lý thú Bát Nhã như thế, rồi bảo Bồ Tát Kim cang Thủ: Nếu có chúng sanh nào tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập pháp môn này, thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

8. Pháp môn lý thú Bát Nhã nhập đại luân.

 

thông hóa tất cả pháp bình đẳng dù là pháp hữu vi hay vô vi, dù là pháp thế gian hay xuất thế gian…nên nói nhập được tánh đại luân bình đẳng của tất cả pháp Phật. Pháp môn này chỉ là kết quả của sự khéo ngộ nhập tổng thể các tánh luân của tất cả pháp ở tầng cao hơn.

Vì vậy, Phật bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng:

“Nếu có người nào nghe được pháp môn Tánh bình đẳng lý thú sâu xa của tánh luân như thế, mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì khéo ngộ được các tánh bình đẳng, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

 

9. Pháp môn cúng dường vô thượng lý thú Bát nhã Ba la mật.

 

Thế Tôn lại nương vào tướng cúng dường các vật dụng cho Như Lai để nói lên pháp môn cúng dường vô thượng thậm thâm lý thú Bát nhã Ba la mật. Cúng dường ở đây không có nghĩa là dâng cúng phẩm vật mà có “nghĩa là, phát tâm Bồ đề, cứu rỗi tất cả hữu tình, giữ gìn diệu pháp chư Phật, tức là thành tựu cúng dường rộng lớn tất cả Như Lai. Cho đến ghi chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm về Bát nhã Ba la mật tức là thành tựu cúng dường rộng khắp tất cả Như Lai”.

Cúng dường ở đây có nghĩa là phát Bồ đề tâm, cứu độ hữu tình, giữ gìn chánh pháp, thọ trì đọc tụng và truyền bá xiển dương Bát nhã Ba la mật như đã nói ở trên. Nên Phật bảo: Nếu chúng sanh nào hành Bát nhã Ba la mật như vậy, thì mau viên mãn Bồ Tát hạnh, mau chứng Vô thượng Bồ đề.

 

10. Pháp môn bí mật trí tạng lý thú Bát Nhã

 hay điều phục tất cả hữu tình.

 

Thế Tôn lại nương theo tướng hay điều phục hữu tình của tất cả Như Lai để nói pháp môn bí mật trí tạng lý thú Bát nhã Ba la mật hay điều phục tất cả hữu tình. “Tánh xa lìa của tất cả hữu tình tức tánh xa lìa của giận. Tánh vắng lặng của tất cả hữu tình tức tánh vắng lặng của giận. Tánh bất khả đắc của tất cả hữu tình tức tánh bất khả đắc của giận. Tánh vô sở hữu của tất cả hữu tình tức tánh vô sở hữu của giận. Tánh khó nghĩ bàn của tất cả hữu tình tức tánh khó nghĩ bàn của giận. Tánh không hý luận của tất cả hữu tình tức tánh không hý luận của giận”. Nghĩa là trong tạng tánh của các Như Lai có thứ gì thì cũng là chính trí pháp tạng của tất cả chúng sanh. Trí tạng của chúng sanh cùng “Như lai tạng tánh” của chư Phật không khác. Một khi Như Lai tạng tánh của chúng sanh rơi vào triền phược thì tất cả giận hờn thương ghét tham sân si đều có đủ... nên gọi là chúng sanh. Nhưng một khi Như Lai tạng tánh của chúng sanh thoát triền thì chúng sanh cũng như chư Phật không khác. Khác là chư Phật, chư Như Lai tự điều phục trí tạng của chính mình bằng Bát nhã Ba la mật. Vậy nên phải học cách điều phục này để trở về cái bản thể tròn đầy khi xưa.

Nên Kinh bảo: “Vì sao? Vì tánh chơn điều phục tất cả hữu tình tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng là Bát nhã Ba la mật, cũng là Nhất thiết trí trí của chư Phật”.

Phật bảo: Nếu chúng sanh nào tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm thì có thể tự điều phục các tội lỗi không những giận dữ mà còn có thể điều phục các xấu ác khác…Nếu hữu tình nào có thể điều phục như thế, thì thường sinh vào đường thiện, hưởng các sự an vui, phát tâm từ đối với kẻ oán thù, có thể tu hành tốt các hạnh Bồ Tát, mau chứng Vô thượng Chánh Đẳng giác.

Tất cả hữu tình có bệnh gì thì Bát nhã Ba la mật có thuốc chữa đó. Thuốc này khó thấy, nên Kinh bảo là bí mật trí tạng.

 

11. Pháp môn tối thắng lý thú Bát Nhã bình đẳng.

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai pháp tánh bình đẳng năng khéo kiến lập, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn tối thắng lý thú Bát Nhã bình đẳng. Nghĩa là tất cả hữu tình tánh bình đẳng, nên Bát Nhã sâu xa tánh cũng bình đẳng. Tất cả pháp tánh bình đẳng, nên Bát Nhã sâu xa tánh cũng bình đẳng. (Q.578, “Lý thú Bát Nhã”)

Tất cả hữu tình tánh điều phục, nên Bát Nhã tánh cũng điều phục. Tất cả pháp tánh điều phục, nên Bát Nhã sâu xa tánh cũng điều phục.

(...) Tất cả hữu tình tức chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế..., nên Bát Nhã sâu xa cũng tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế... Tất cả pháp tức chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế..., Bát Nhã sâu xa cũng tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế...

Tất cả hữu tình vốn Không, vô tướng, vô nguyện, nên Bát Nhã sâu xa cũng vốn Không, vô tướng, vô nguyện. Tất cả pháp vốn Không, vô tướng, vô nguyện nên Bát Nhã sâu xa cũng vốn Không, vô tướng, vô nguyện.

(...) Tất cả hữu tình có nghiệp dụng như thế nào, phải biết Bát Nhã sâu xa cũng có nghiệp dụng như vậy”.

Tóm lại, pháp môn này nói hữu tình có bất cứ đặc tánh gì thì Bát nhã Ba la mật có đặc tánh như vậy nên được gọi là pháp môn tối thắng lý thú Bát Nhã bình đẳng. Vậy có thể dùng Bát Nhã để đối trị tất cả nghiệp dụng cho tất cả chúng sanh.

Nên Phật bảo: Nếu có chúng sanh nào nghe được pháp môn tối thắng lý thú Bát Nhã bình đẳng như thế, tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì thông suốt được pháp tánh bình đẳng của Bát Nhã, đối với các hữu tình tâm không trở ngại, mau chứng Vô Thượng Chánh giác.

 

12. Pháp môn Thắng tạng lý thú Bát Nhã hộ trì cho tất cả hữu tình.

 

Thế Tôn lại nương vào tất cả tướng Như Lai trụ trì tạng pháp, vì các Bồ Tát tuyên thuyết pháp môn thắng tạng lý thú Bát Nhã hộ trì cho tất cả các hữu tình. “Nghĩa là tất cả hữu tình đều là Như lai tạng, vì tất cả là tự ngã của Bồ Tát Phổ Hiền biến khắp vậy. Tất cả hữu tình đều là Kim cương tạng, vì được Kim cương rưới thắm. Tất cả hữu tình đều là Chánh pháp tạng, vì tất cả đều chuyển theo chánh ngữ. Tất cả hữu tình đều là Diệu nghiệp tạng, vì tất cả sự nghiệp nương vào gia hạnh”. Nghĩa là hữu tình không bao giờ mất diệu huệ của chư Phật từ xưa. Vì chúng sanh vốn là Phật đã thành nên không bao giờ mất Như Lai tạng tánh chư Phật.

Phật bảo: Nếu chúng sanh nào nghe được pháp môn như thế mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng tu tập, thì sẽ thông suốt được pháp tánh thắng tạng (Như Lai tạng, kim cương tạng, Chánh pháp tạng, Diệu pháp tạng) mau chứng Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 Vậy chúng sanh không cần quá lo lắng đối với năng lực của chính mình. Bởi vì trong chơn như tạng tánh, như kinh Viên Giác bảo: “Chúng sanh vốn thành Phật từ lâu”.

Nói thế nhưng không phải thế. Đó chỉ là quan niệm bản hữu, hay nói theo đệ nhất nghĩa đế. Nhưng chúng sanh qua biết bao nhiêu đời kiếp căn tánh đã bị che mờ. Nên phải nhờ tu sanh mới có thể trở về Như Lai tạng tánh như Kinh Pháp Hoa nói “qua biết bao năm lưu lãng giang hồ mới có thể quay về quê cũ để an thân lập mệnh”.

 

13. Pháp môn bình đẳng gia trì rốt ráo của Bát Nhã.

 

“Thế Tôn lại nương vào các tướng vô lượng, vô biên rốt ráo cùng tận của tất cả Như Lai để nói pháp môn tất cả pháp vô lượng, vô biên tận cùng rốt ráo bình đẳng lý thú Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, vì Bát nhã Ba la mật là vô lượng nên tất cả Như Lai là vô lượng, vì Bát nhã Ba la mật là vô biên nên tất cả Như Lai là vô biên; vì tất cả pháp là tánh nhất như nên Bát nhã Ba la mật là tánh nhất như; vì tất cả pháp là cứu cánh nên Bát nhã Ba la mật là cứu cánh”. (Q.578, “Lý thú Bát Nhã”)

 Phật bảo: Nếu có người nào nghe pháp môn Kim cương lý thú Bát Nhã này mà thọ trì, đọc tụng, tu tập thì tất cả pháp chướng đều được tiêu trừ, nhất định được tánh Như Lai chấp kim cương, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Pháp môn này nói lên tánh cách bao la rộng lớn vô thượng của Như Lai như thế nào thì Bát nhã Ba la mật cũng có đặc tánh như vậy nên có tên là Kim cương lý thú cứu cánh Bát Nhã!

 

Thuyết xong các pháp môn trên, Phật xướng Kim cương đại lạc và Kim cương Bất không thần chú Bát Nhã để kết thúc pháp Hội này.

 

Kết luận:

 

Dựa vào toàn thể chánh văn của pháp hội thứ X chúng tôi phân ra 13 pháp môn nêu trên theo ý chính của Kinh. Tựa của các pháp môn do chúng tôi dựa vào chánh văn đặt ra. Tuy nhiên, các phẩm tựa ấy cũng không thể diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của các pháp môn này khi Kinh đề cập đến Trí ấn, Trí tạng quán đảnh, Trí tạng gia trì, Trí tạng bí mật, nhất là có một số pháp môn thường đề cập đến không, vô tướng, vô nguyện, như như, bình đẳng và thanh tịnh như những liên hệ bất khả phân.

Để hiểu rõ các pháp môn này phải kiên nhẫn đọc tụng chánh văn. Vì phần tựa của 13 pháp môn trên gần như tương tự nhau, nên cần nghiên cứu chánh văn hơn. Nếu hiểu chánh văn tức hiểu toàn bộ phần này thì mới có thể nói Bát nhã Ba la mật là lý thú. Đối với chúng tôi đây là một Hội tuy ngắn nhưng là một thử thách lớn trong việc thọ trì Bát nhã Ba la mật vì nó là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn của chư Như Lai. Nó cũng là Thắng tạng, Như Lai tạng, Kim cương tạng, Chánh pháp tạng, Diệu pháp tạng của tất cả Như Lai trong mười phương ba đời.

Cả bốn Kinh tương đương cùng với Hội này, văn từ quá cô đọng, khúc mắc… chúng tôi cố gắng với tất cả khí lực bình sanh, cố vắt từ bộ xương khô ra nước Thánh để giúp bạn đọc. Nhưng khó có thể nói lên trọn vẹn ý nghĩa riêng biệt, đặc thù của từng pháp môn của toàn thể pháp hội này. Tuy nhiên, nếu quý vị không thể phân biệt yếu chỉ của từng pháp môn thì nên nhớ ý nghĩa của các từ được gọi là đại luân tự, các pháp ấn, trí ấn sau đây: Không, Như như, Bình đẳng, Thanh tịnh

Những từ này luôn luôn xuất hiện trong văn học Đại thừa cũng như các từ Trí tạng quán đảnh, Trí tạng gia trì, Trí tạng bí mật trong nghĩa Thắng tạng, Như Lai tạng, Kim cương tạng, Chánh pháp tạng, Diệu pháp tạng của tất cả Như Lai…

Có một điều chúng tôi chắc chắn bốn cụm từ Không, Như như, Bình đẳng và Thanh tịnh được xem là những móc xích to lớn kết nối tất cả pháp thế gian và xuất thế gian để tạo Giác ngộ, Chánh giác và Nhất thiết trí trí. Không có những cụm từ này thì không có Đại thừa, không có Phật đạo. Vì chúng là nền móng, kèo cột của các lâu đài từ bi và trí tuệ.

 

Để nắm vững vấn đề chúng tôi ghi thêm Kinh đồng bản với kinh này trong phần phụ đính sau đây, chúng tôi không chiết giải, Quý vị tự đọc, tự quán chiếu để tự mình khai ngộ cho chính mình:

 

Phụ đính :

 

Đính kèm có tên là “Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Đa” Kinh, mang số 0240 trong Đại Tạng Kinh Việt Nam, 1 quyển kinh nhỏ do Tam tạng Bồ Đề Lưu Chí, đời Đường dịch từ Phạn sang Hán và nhóm Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh dịch từ Hán sang Việt để quý vị độc giả có dịp nghiên cứu thêm.

 

Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật Đa”

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Thế Tôn do thành tựu viên mãn ngôi vị chánh trí Kim cang của tất cả các Như Lai, đội mão báu quán đảnh thù thắng vượt lên ba cõi, đại Du già tự tại vô ngại, nên được trí thâm sâu vi diệu, chứng pháp bình đẳng, làm các việc đều được rốt ráo, tùy theo tâm chúng sinh ưa muốn đều làm cho mỹ mãn, ba đời mỹ mãn không bị lay động, ba nghiệp kiên cố cũng như ánh sáng Kim cang chiếu khắp châu thân.

Đức Phật trú tại cung điện cõi trời Tha hóa ở cõi Dục. Cung điện ấy được trang trí bằng các châu báu tốt đẹp, làm bằng ngọc báu ma ni lớn, cờ lọng lụa là, màu sắc rực rỡ. Những chuỗi châu báu khi gió thổi đến làm lay động, phát ra âm thanh. Tất cả Như Lai thường đến nơi đó đều khen ngợi là nơi tuyệt vời nhất. Lại có tám vạn ngàn Đại Bồ Tát, trước sau vây quanh cúng dường, cung kính Thế Tôn. Vì các vị Bồ Tát, Phật thuyết pháp đầu, giữa, sau đều thiện, nghĩa lý sâu xa, ngôn từ khéo léo, thuần nhất không xen tạp, thanh tịnh, viên mãn. Các Bồ Tát ấy tên là Bồ Tát Kim Cang Thủ, Bồ Tát Quán Tự Tại, Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Văn thù Sư lợi, Bồ Tát Chuyển Pháp Luân, Bồ Tát Hàng Phục Nhất Thiên Ma. Các đại Bồ Tát ấy là đứng đầu.

 

Bấy giờ ở giữa đại chúng, Thế Tôn thuyết cho các Bồ Tát nghe pháp môn tất cả pháp tự tánh thanh tịnh thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, ái thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; kiến thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; nhiễm trước thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; vui thích thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; tạng thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; trang nghiêm thanh tịnh địa vị Bồ Tát; ngữ thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; ý thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; sắc thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; thanh thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; hương thanh tịnh là địa vị Bồ Tát; vị thanh tịnh là địa vị của Bồ Tát; vì thanh tịnh là địa vị Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả các pháp tự tánh thanh tịnh. Tất cả các pháp tự tánh thanh tịnh tức là Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Bấy giờ, khi thuyết pháp môn này rồi, Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

- Này Kim Cang Thủ! Nếu người nào được nghe pháp môn tất cả pháp tự tánh thanh tịnh thật tướng Bát nhã Ba la mật này, một lần lọt vào tai thì tất cả phiền não chướng, nghiệp chướng, pháp chướng, các tội rất nặng của người ấy đều tự tiêu trừ. Người nào đọc tụng, tư duy, tu tập thì ngay trong đời này được Tam muội Kim cang, tất cả pháp tánh bình đẳng; trải qua mười sáu đời khác sẽ được tự tại thâm nhập, vui thích tất cả pháp môn, cho đến sẽ được thân Kim cang của chư Phật Như Lai.

Khi ấy, Như Lai liền nói thần chú “Hàm”.

 

Bấy giờ, Thế Tôn lại dùng tướng ánh sáng chiếu khắp của tất cả Như Lai, nói cho các Bồ Tát pháp môn tánh tịch tĩnh thành Chánh giác thật tướng Bát nhã Ba la mật của tất cả chư Phật. Đó là: thành Chánh giác Kim cang bình đẳng, vì tánh của đại Bồ đề kiên cố như Kim cang; thành Chánh giác Nghĩa bình đẳng, vì tánh của đại Bồ đề là Đệ nhất nghĩa; thành Chánh giác Pháp bình đẳng, vì tự tánh của đại Bồ đề vốn thanh tịnh; thành Chánh giác Nhất thiết bình đẳng, vì tánh của đại Bồ đề vốn xa lìa tất cả sự phân biệt.

Khi ấy, Thế Tôn nói pháp môn này rồi lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

-Này Kim Cang Thủ! Người nào được nghe pháp môn bản tánh tịch tĩnh thành Chánh giác thật tướng Bát nhã Ba la mật này, lại thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, nên biết người ấy vượt qua được tất cả đường ác, mau chứng quả Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ, Như Lai lại nói thần chú “Án”.

 

Khi ấy, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng Thích Ca Mâu Ni hay điều phục chúng sinh khó điều phục của tất cả Như Lai để nói pháp môn tất cả pháp bình đẳng thật tướng Bát nhã Ba la mật. Đó là tánh không hý luận của tham, tánh không hý luận của sân, tánh không hý luận của si. Vì sao? Vì tánh của tất cả các pháp vốn không hý luận. Tất cả các pháp tánh không hý luận, nên tánh của Bát nhã Ba la mật cũng không hý luận.

Thế Tôn nói pháp môn này xong lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

-Này Kim Cang Thủ! Nếu người nào được nghe pháp môn tất cả pháp bình đẳng thật tướng Bát nhã Ba la mật này, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập; giả sử người ấy có giết hại tất cả chúng sinh trong ba cõi thì cũng hoàn toàn không do việc này mà đọa vào đường ác. Vì sao? Vì người ấy đã lãnh thọ luật nghi đều phục tâm. Nên biết vị ấy mau được Vô thượng Bồ đề.

Khi ấy, Như Lai lại nói thần chú “Hám”.

 

Bấy giờ, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng tự tánh thanh tịnh của tất cả Như Lai để nói pháp môn tất cả pháp tánh bình đẳng quán tự tại trí ấn thật tướng Bát Nhã. Nghĩa là, sự thanh tịnh của tánh tham, tánh sân của tất cả thế gian. Do tánh tham, tánh sân của tất cả thế gian là thanh tịnh nên tánh cấu, tánh tội, của tất cả thế gian là thanh tịnh. Do tánh cấu, tánh tội của tất cả thế gian là thanh tịnh nên tánh pháp, tánh chúng sinh của tất cả thế gian cũng thanh tịnh. Vì tánh pháp, tánh chúng sinh của tất cả thế gian là thanh tịnh, nên tánh trí của tất cả thế gian là thanh tịnh. Tánh trí của tất cả thế gian thanh tịnh nên Bát Nhã thanh tịnh.

Thế Tôn nói pháp môn này xong, lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

-Này Kim Cang Thủ! Nếu người nào được nghe pháp môn tất cả pháp bình đẳng quán tự tại trí ấn thật tướng Bát nhã Ba la mật này, thọ trì, đọc tụng, chánh niệm, tu tập thì người ấy tuy ở trong trần cấu năm dục nhưng không bị tham dục, không bị các tội lỗi làm ô nhiễm; cũng như hoa sen tuy ở trong bùn lầy nhưng chẳng bị dính bùn. Cho đến mau chứng quả Vô thượng Bồ đề.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Kiết rị”.

 

Bấy giờ, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng làm chủ ba cõi của tất cả Như Lai để nói pháp môn quán đảnh xuất hiện trí tạng thật tướng Bát nhã Ba la mật của tất cả chư Phật. Nghĩa là, thí quán đảnh làm cho tất cả được ngôi vua trong ba cõi, thí tài bảo làm cho tất cả điều mong muốn đều được đầy đủ; thí pháp thanh tịnh làm cho được tất cả thật tánh của các pháp; thí thức ăn uống làm cho tất cả thân tâm đều an lạc.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Đác lãm”.

 

Bấy giờ, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng bí tạng trí ấn thường trụ của tất cả Như Lai để nói pháp môn Kim cang trí ấn thậm thâm xứ thật tướng Bát Nhã. Nghĩa là, Kim cang Thân ấn được tất cả chư Phật giữ gìn, vì chứng được thể tánh chân thật của các Như Lai; Kim cang Ngữ ấn được tất cả chư Phật giữ gìn, vì chứng được đầy đủ tất cả Tam muội; Kim cang Trí ấn được tất cả chư Phật giữ gìn, vì chứng đắc được thân ngữ ý tối thượng như Kim cang.

Thế Tôn nói pháp môn này xong lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

-Này Kim Cang Thủ! Người nào nghe được pháp môn Kim cang trí ấn thậm thâm xứ thật tướng Bát nhã Ba la mật này của tất cả chư Phật, rồi thọ trì, đọc tụng, tư duy, chánh niệm, nên biết người ấy sẽ được thành Kim cang ấn tối thượng đối với tất cả trí, và các sự nghiệp đều được viên mãn; thân, khẩu, ý tánh như Kim cang, cho đến sẽ thành quả Vô thượng Bồ đề.

Khi ấy, Như Lai lại nói thần chú “A”.

 

Bấy giờ vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng xa lìa hẳn hý luận của tất cả Như Lai để nói pháp môn văn tự chuyển luân phẩm thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, tất cả các pháp là không, vì không có tự tánh; tất cả các pháp là vô tướng, vì xa lìa các tướng; tất cả các pháp là vô nguyện, vì xa lìa các nguyện; tất cả các pháp tự tánh thanh tịnh, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “A”.

 

Bấy giờ vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng thâm nhập chuyển luân rộng lớn của tất cả Như Lai để nói pháp môn thâm nhập chuyển luân rộng lớn thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, tánh thâm nhập bình đẳng của Kim Cang, vì được thâm nhập chuyển luân của tất cả Như Lai; tánh thâm nhập nghĩa bình đẳng, vì được thâm nhập chuyển luân của tất cả Bồ Tát; tánh thâm nhập pháp bình đẳng, vì được thâm nhập diệu pháp chuyển luân; tánh thâm nhập bình đẳng, vì được thâm nhập vào tất cả chuyển luân.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Lam”.

 

Bấy giờ vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng các phương tiện thiện xảo lớn của tất cả Như Lai để nói pháp môn quảng cúng dường chư Phật tối đệ nhất thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, phát Bồ đề tâm, tức là phương tiện thiện xảo lớn cúng dường khắp tất cả chư Phật; cứu độ chúng sinh, tức là phương tiện thiện xảo lớn để cúng dường khắp tất cả chư Phật; giữ gìn chánh pháp, tức là phương tiện thiện xảo lớn cúng dường khắp tất cả chư Phật.

Thế Tôn nói pháp môn này xong lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

-Này Kim Cang Thủ! Nếu người nào được nghe pháp môn tối đệ nhất quảng cúng dường chư Phật thật tướng Bát Nhã này, hoặc tự mình ghi chép, hoặc bảo người khác ghi chép, hoặc tự mình thọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự mình đọc tụng, hoặc bảo người đọc tụng, hoặc tự mình tư duy, hoặc bảo người tư duy, hoặc tự mình cúng dường, hoặc bảo người cúng dường, tùy theo việc làm ấy tức là phương tiện thiện xảo lớn cúng dường khắp tất cả chư Phật.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Án”.

 

Bấy giờ, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng hay điều phục của tất cả các Như Lai để nói pháp môn bí mật trí tạng thật tướng Bát nhã Ba la mật hay điều phục nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Nghĩa là, tánh bình đẳng của tất cả chúng sinh là tánh sân bình đẳng; tánh điều phục của tất cả chúng sinh là tánh điều phục sân; tánh chân pháp của tất cả chúng sinh là tánh chân pháp của sân; tánh Kim cang của tất cả chúng sinh là tánh Kim cang của sân. Tại vì sao? Vì tánh điều phục của tất cả chúng sinh chính là Bồ đề.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Hà”.

 

Bấy giờ vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng trụ bình đẳng của tất cả Như Lai để nói pháp môn trí tánh bình đẳng tối thắng của tất cả pháp thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, tánh bình đẳng của tất cả các pháp là tánh bình đẳng của Bát nhã Ba la mật; tánh đệ nhất nghĩa của tất cả các pháp là tánh đệ nhất nghĩa của Bát nhã Ba la mật; tánh pháp của tất cả các pháp là tánh pháp của Bát nhã Ba la mật; tánh nghiệp dụng của tất cả các pháp là tánh nghiệp dụng của Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Hiệt rị”.

 

Bấy giờ vì các Bồ Tát, Thế Tôn dùng tướng làm chỗ nương tựa cho chúng sinh của tất cả Như Lai để nói pháp môn chỗ dựa cho tất cả chúng sinh thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, tất cả chúng sinh là Như Lai tạng, vì đều ở khắp trong thể tánh Bồ Tát Phổ Hiền; tất cả các chúng sinh là Kim cang, vì đều được nước Kim cang tạng rưới ướt; tất cả chúng sinh là chánh pháp tạng vì bản tánh lời nói là ngôn từ đúng đắn; tất cả chúng sinh là diệu nghiệp tạng, vì sự hoạt động của các nghiệp thiện xảo vi diệu.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Để rị”.

 

Bấy giờ, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng vô lượng, vô biên tận cùng rốt ráo của tất cả Như Lai để nói pháp môn tất cả các pháp vô lượng, vô biên tận cùng rốt ráo bình đẳng thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, vì Bát Nhã là vô lượng, nên tất cả chư Phật cũng vô lượng; vì Bát Nhã là vô biên, nên tất cả chư Phật cũng vô biên; vì Bát nhã Ba la mật tánh nhất như, nên các pháp cũng tánh nhất như; vì Bát nhã Ba la mật tận cùng rốt ráo, nên tất cả các pháp cũng tận cùng rốt ráo.

Thế Tôn nói pháp môn này xong, lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

Này Kim Cang Thủ! Nếu người nào được nghe pháp môn vô lượng, vô biên tận cùng rốt ráo bình đẳng thật tướng Bát nhã Ba la mật này, thọ trì, đọc tụng, chánh niệm, tư duy, thì tất cả nghiệp chướng của người ấy đều được tiêu trừ hết không còn sót lại, mau đến Bồ đề; đối với thân Kim cang Như Lai được tự tại.

Khi ấy Như Lai lại nói thần chú “Phiếu”.

 

Bấy giờ, vì các Bồ Tát, Thế Tôn lại dùng tướng pháp tánh bí mật phổ quang minh ly hý luận của các Như Lai để nói pháp môn Kim cang bất không vô ngại đại an lạc quyết định nhập pháp tánh vô sơ trung hậu tối đệ nhất thật tướng Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là, các Bồ Tát có thể phụng sự cúng dường rộng lớn nên được sự an lạc tối thượng. Do được sự an lạc tối thượng nên được đạo Bồ đề tối thượng của chư Phật. Do được Bồ đề vô thượng của chư Phật nên có thể thu phục được tất cả ma quân. Do thu phục được tất cả ma quân nên được tự tại trong ba cõi. Do được tự tại trong ba cõi nên có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh đều được an lạc cứu cánh tối thượng. Vì sao? Bài tụng nói:

 

Có bậc Trí tối thắng

Thường ở trong sinh tử

Cứu độ khắp quần sinh

Mà không nhập Niết bàn,

Bát nhã Ba la mật

Trí phương tiện cứu cánh

Thành tựu nghiệp thanh tịnh

Thanh tịnh khắp hữu tình.

Với các phiền não tham...

Điều phục các thế gian

Cho đến trời Hữu đảnh

Thanh tịnh không trái ngịch,

Ở trong đời sinh tử

Không nhiễm pháp thế gian

Như hoa sen thơm đẹp

Không ô nhiễm trần cấu,

Ưa muốn làm thanh tịnh

An lạc cho tất cả

Tự tại trong ba cõi

Làm ích lợi bền chắc.

 

Nói pháp môn này xong, Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

- Này Kim Cang Thủ! Người nào nghe được pháp môn Kim cang pháp tánh đại an lạc thật tướng Bát nhã Ba la mật này, hàng ngày mỗi sáng sớm hoặc lắng nghe hoặc đọc tụng liên tục không dứt, nên biết tội chướng của người ấy đều tự tiêu trừ, tâm thường an lạc vui vẻ đệ nhất; ngay trong hiện đời liền được thành tựu Kim cang bất không vô ngại quyết định nhập pháp, lại sẽ thành tựu thân Kim cang kiên cố bí mật của tất cả Như Lai.

Khi ấy Như Lai nói thần chú “Sa ha”.

Bấy giờ sau khi nói cho các Bồ Tát nghe các pháp môn trên xong, Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Kim Cang Thủ:

- Này Kim Cang Thủ! Kinh điển này của ta rất khó được nghe.

Người nào được nghe cho đến dù chỉ một từ, nên biết người ấy đời quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, ở chỗ chư Phật đã từng gieo trồng căn lành. Huống là người lắng nghe đọc tụng đầy đủ, nên biết người ấy quyết định đã từng cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi 80 ức na do tha vô số chư Phật. Nếu Kinh điển này ở nơi nào thì ở nơi ấy có tháp chư Phật. Nếu người nào kính trọng Kinh này, thường giữ gìn không xa lìa, thì người ấy xứng đáng lãnh thọ sự cung kính cúng dường của tất cả các thế gian. Vị này sẽ được Túc mạng thông, có thể biết được mọi việc trong vô lượng kiếp quá khứ, không bị tất cả Thiên ma Ba tuần quấy nhiễu, được Tứ đại thiên vương và chư Thiên khác ủng hộ, được tất cả các chư Phật và các vị Bồ Tát thường cùng hộ vệ, tùy ý vãng sinh vào các Tịnh độ trong mười phương.

Này Kim Cang Thủ! Ta nói sơ lược công đức của pháp môn thật tướng Bát nhã Ba la mật như vậy. Nếu nói rộng thì tận cùng kiếp cũng không hết được.

Phật nói Kinh này xong, Bồ Tát Kim Cang Thủ và các Đại Bồ Tát, Thiên, Long, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Câu lâu la, Ma hầu la già, Nhân phi nhân…, tất cả chúng hội đều rất hoan hỷ, tin theo vâng làm.

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần mười,

(Hội thứ X).

 

Giáo pháp trong Hội thứ X dành cho các Bồ Tát bậc thượng căn, thượng phẩm do Phật thuyết ở Cung trời Tha hóa Tự tại, không dễ gì lãnh hội nếu không thâm hiểu Bát Nhã. Các pháp môn này phải nói là những tinh thể dẫn xuất từ biển tuệ Bát nhã Ba la mật, được thuyết riêng để đúc kết các pháp hội từ thứ I đến thứ X.

Tại sao nói 13 pháp môn trong pháp hội thứ X được xem là tinh thể lưu xuất từ Bát nhã Ba la mật? Vì rằng không có pháp nào thoát khỏi sự nhiếp thụ của Bát nhã Ba la mật. Nó là đầu não, là nguyên lý chỉ đạo, là tôn dẫn, là bộ phận mẹ sinh ra chư Phật và tất cả pháp thế gian, xuất thế gian. Vì 13 pháp môn lý thú Bát nhã Ba la mật là Thắng tạng, là Như Lai tạng, Kim cương tạng, Chánh pháp tạng, Diệu pháp tạng của tất cả chư Như Lai. Mười ba pháp môn trên của lý thú Bát nhã Ba la mật cũng là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, trí ấn, trí tạng cũng là các đại luân tự Không, Như như, Bình đẳng, Thanh tịnh của chư Như Lai khắp mười phương ba đời. Khi hiểu được chúng rồi thì tâm hoa nở, cung đàn đổi nhịp. Nên không cần cõng Phật đi tìm Phật, không cần hành cước vạn dặm, không cần nhờ Thầy Tổ ấn tâm. Như vậy, còn gì lý thú bằng?

 

Bây giờ, chúng ta bước sang giai đoạn quan trọng mà Phật gọi là lục độ vạn hạnh. Một phương tiện hữu hiệu đưa chúng sinh qua bờ bên kia. Đó là sáu pháp Bố thí, Trì giới, An nhẫn, Tinh Tấn, Thiền định và Bát nhã Ba la mật. Học sáu pháp này thành công sẽ trở thành Bồ Tát, Phật để thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ mang lại nhiều phúc lợi cho toàn thể chúng sanh đến tận đời vị lai không ngừng nghỉ.

Phẩm “Bạn Lành”, quyển 564, Hội thứ V. Phật bảo:

“... Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết cũng là bạn lành của Bồ Tát. Như vậy, sáu pháp Ba la mật là thầy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là bó đuốc, là sự rực rỡ, là sự sáng soi, là nhà cửa, là sự hộ trì, là chỗ quay về, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cồn bãi, là cha lành, là mẹ hiền của các Bồ Tát. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương sáu pháp Ba la mật mà được thành tựu sự nghiệp công đức. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật như thế có khả năng thu nhiếp, hộ trì khắp tất cả Phật pháp”.

Đoạn Kinh ngắn này nói lên được tinh thần tôn dẫn của sáu pháp đáo bỉ ngạn trong sáu pháp hội cuối cùng trước khi Phật chấm dứt 22 năm thuyết giảng Bát nhã Ba la mật. Đó là pháp tu để trở thành Bồ Tát, thành Phật. Sáu pháp hội cuối cùng (mỗi pháp hội là một Ba la mật) đã thật sự nói lên được tánh cách vi diệu đó, nhất là phần “Bát Nhã Ba La Mật”. Hy vọng với 22 quyển cuối cùng của sáu pháp đáo bỉ ngạn thật sự giúp chúng ta vượt qua và vượt trên thức để có thể vươn tay vói tới Huệ.

 

 

Đến đây chấm dứt Hội thứ X, ĐBN.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com