- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM "THIỆN HIỆN"
(Bắt đầu phần sau quyển 482 cho đến phần đầu quyển 498,
Hội thứ III, ĐBN: Tổng cộng có đến 15 quyển)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
(Bắt đầu phần sau quyển 482 cho đến phần đầu quyển 498,
Hội thứ III, ĐBN: Tổng cộng có đến 15 quyển)
Gợi ý:
Phẩm “Thiện Hiện” của Hội thứ III, bắt đầu từ phần sau quyển thứ 482 cho đến phần đầu quyển thứ 498, tổng cộng hơn 15 quyển, có thể xem là một phẩm dài nhất của Hội thứ III. Kinh văn viết liên tục, không ngắt khoảng, không chia cắt thành nhiều tiểu đoạn khác nhau. Tuy nhiên, để tiện học hỏi tra cứu, nên chúng tôi chia phẩm “Thiện Hiện” của Hội thứ III thành 20 đoạn, tương đương với 20 phẩm của Hội thứ II để quý vị độc giả dễ theo dõi, đồng thời dễ nắm ý chính của toàn phẩm.
Phẩm “Thiện Hiện” của Hội thứ III này gồm 20 phẩm của Hội thứ II nhập lại, là: 1. Phẩm “Thiện Hiện”, 2. Phẩm “Vào Ly Sanh”, 3. Phẩm “Thắng Quân”, 4. Phẩm “Hành Tướng”, 5. Phẩm “Huyễn Dụ”, 6. Phẩm “Thí Dụ”, 7. Phẩm “Đoạn Chư Kiến”, 8. Phẩm “Sáu Pháp Đáo Bỉ Ngạn”, 9. Phẩm “Đại Thừa”, 10. Phẩm “Giáp Bị Đại Thừa”, 11. Phẩm “Không Buộc Không Mở”, 12. Phẩm “Tam Ma Địa”, 13. Phẩm “Niệm Trụ Đẳng”, 14. Phẩm “Tu Trị Địa”, 15. Phẩm “Xuất Trụ”, 16. Phẩm “Siêu Thắng”, 17. Phẩm “Vô Sở Hữu”, 18. Phẩm “Tùy Thuận”, 19. Phẩm “Vô Biên Tế” và 20. Phẩm “Viễn ly”.
Phẩm “Thiện Hiện” của Hội thứ III quá dài (179 trang), vì vậy chúng tôi phải chia phẩm này làm 20 đoạn như liệt kê trên để quý vị dễ học, dễ so chiếu và đồng thời dễ nắm vững các giáo lý khác nhau.
Nhờ phân chia nhiều phân đoạn nên Quý vị có thời giờ nghỉ ngơi và dễ tiêu hóa các giáo pháp khó khăn. Tuy nhiên, nếu quý vị không thích hay gặp trở ngại trong sự phân đoạn này, xin đừng quá lưu tâm, cứ đọc phần chính văn, quên đi phần trình bày có phần hình thức này cũng được.
Phẩm này một lần nữa chứng tỏ bố cục của Hội thứ III tại sao quá ngắn, phẩm “Thiện Hiện” này là câu trả lời. Vì Kinh đã gộp 20 phẩm của Hội thứ II lại thành phẩm “Thiện Hiện” đó.
Tóm lược:
1. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, từ quyển 482 - 483, Hội thứ III.
(Tương đương với phẩm cùng tên là “Thiện Hiện”, từ quyển 406
cho đến đầu quyển 408, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, đức Bạt già phạm (Phật) dạy Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Ông hãy dùng thần lực mà giảng nói Bát nhã Ba la mật cho chúng đại Bồ Tát. Hãy dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát, để họ đạt Bát nhã Ba la mật một cách rốt ráo.
Khi ấy, các chúng đại Bồ Tát và các thiên tử đều sanh nghi ngờ: Không biết cụ thọ Thiện Hiện dùng thần lực của mình để giảng nói Bát nhã Ba la mật cho chúng đại Bồ Tát, hay là nương vào sức oai thần của Thế Tôn? Cụ thọ Thiện Hiện nhờ thần lực của Phật, biết tâm nghi ngờ của chúng đại Bồ Tát và các thiên tử nên nói với cụ thọ Xá lợi Tử:
- Các đệ tử Phật phàm nói ra điều gì tất cả đều nhờ oai lực của Phật. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Như Lai giảng nói pháp yếu cho chúng sanh, các pháp tánh thường không trái nhau. Các đệ tử Phật nương vào pháp ấy, siêng năng tu học, chứng thật tánh các pháp. Do đó, những pháp mà Ngài nói cùng với pháp tánh không trái nhau. Nên lời Phật nói như ngọn đèn truyền sáng mãi.
Này Xá lợi Tử! Nhờ oai lực của Phật gia hộ, ta sẽ tùy theo chúng Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật, chẳng phải là biện tài của mình có thể làm được việc này. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật thâm sâu không phải là cảnh giới của các Thanh văn, Độc giác.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con không thấy có pháp nào có thể gọi là Bồ Tát. Cũng không thấy có pháp nào có thể gọi là Bát nhã Ba la mật thì làm sao con có thể giảng nói Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát?
Bạch Thế Tôn! Con lấy Bát nhã Ba la mật gì dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát để họ chóng đạt cứu cánh?
Phật dạy cụ thọ Thiện Hiện:
- Chỉ có giả danh nói là Bát nhã Ba la mật. Chỉ có giả danh nói là Bồ Tát. Giả danh như thế chỉ giả thi thiết, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng ở trong chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện nên biết: Như thế gian “ngã” chỉ có giả danh, thật không thể nắm bắt. Giả danh như vậy, không sanh, không diệt, chỉ có tưởng tượng đặt ra để nói. Như vậy, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, tất cả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ có đẳng tưởng thi thiết lời nói. Các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì bất khả đắc vậy.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Như vậy, pháp giả thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên, vì không thể nắm bắt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như nội sắc chỉ là pháp giả. Như vậy, pháp giả không sanh, không diệt, chỉ do tưởng tượng đặt ra để gọi. Như vậy thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ do tưởng tượng đặt ra để gọi. Như vậy, tất cả pháp chỉ có giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như mười hai xứ, mười tám giới chỉ là pháp giả. Pháp giả như vậy không sanh, không diệt, chỉ do tưởng tượng đặt ra để gọi. Như vậy, tất cả đều chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi, chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như tất cả đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo, xương sống, đùi, đầu gối, mắt cá, chân cẳng, da thịt, xương tủy v.v… trong thân chỉ là giả danh. Giả danh như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ do tưởng tượng đặt ra để gọi. Những giả danh này chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi, chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như tất cả cỏ cây, gốc, cọng, cành, lá và hoa quả v.v... chỉ có giả danh. Giả danh như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ do những tưởng tượng mà đặt ra để gọi. Những giả danh này chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi, chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại chỉ có giả danh. Giả danh như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ do tưởng tượng đặt ra để gọi. Những giả danh này chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi, chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như cảnh trong mộng, tiếng vọng trong hang, ảnh phản chiếu, huyễn sự, dương diễm, trăng trong nước, trò biến hoá chỉ có giả danh. Giả danh như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ do tưởng tượng đặt ra để gọi. Những giả danh này chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát, hai tên gọi này đều là pháp giả. Pháp giả như vậy thì không sanh, không diệt, chỉ có giả danh đặt ra để gọi, chẳng ở trong, chẳng ngoài, chẳng giữa hai, vì không thể nắm bắt.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã, nên tu học một cách đúng đắn về giả danh và pháp giả của tất cả pháp.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã, không nên quán sắc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, là không hay có, là hữu tướng hay vô tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay không tịch tịnh, là viễn ly hay không viễn ly, là hữu vi hay vô vi, là hữu lậu hay vô lậu, là sanh hay diệt, là thiện hay bất thiện, là có tội hay không tội, là có phiền não hay không phiền não, là thế gian hay xuất thế gian, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, là thuộc sanh tử hay thuộc Niết bàn v.v… Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. (Q.482, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã, không nên quán mười hai xứ, mười tám giới là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay có, là hữu tướng hay vô tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay không tịch tịnh, là viễn ly hay không viễn ly, là hữu vi hay vô vi, là hữu lậu hay vô lậu, là sanh hay diệt, là thiện hay bất thiện, là có tội hay vô tội, là có phiền não hay không phiền não, là thế gian hay xuất thế gian, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, là thuộc sanh tử hay thuộc Niết bàn v.v... Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã, không nên quán nhãn xúc là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, cho đến là tạp nhiễm hay thanh tịnh, là thuộc sanh tử hay thuộc Niết bàn v.v... Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, không nên quán các thọ hoặc vui hoặc khổ, hoặc không khổ không vui, do nhãn xúc làm duyên sanh ra là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay có, là hữu tướng hay vô tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay không tịch tịnh, là viễn ly hay không viễn ly, là hữu vi hay vô vi, là hữu lậu hay vô lậu, là sanh hay diệt, là thiện hay bất thiện, là có tội hay không tội, là có phiền não hay không phiền não, là thế gian hay xuất thế gian, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, là thuộc sanh tử hay thuộc Niết bàn v.v... Các thọ hoặc vui hoặc khổ, hoặc không khổ không vui do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng lại như thế. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, hai tên gọi Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát đều không thấy trong cảnh giới hữu vi, cũng không thấy trong cảnh giới vô vi. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với các pháp không phân biệt sai khác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật trụ vô phân biệt đối với các pháp, để tu bốn niệm trụ cho đến tu tám chi Thánh đạo, mặc dù hành Bát nhã Ba la mật nhưng không thấy Bát nhã, không thấy tên của Bát nhã, cũng không thấy Bồ Tát, không thấy tên của Bồ Tát, cũng không thấy chư Phật, cũng không thấy danh hiệu của chư Phật, mà chỉ vì cầu Nhất thiết trí trí.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật trụ vô phân biệt đối với tất cả pháp, để tu bố thí cho đến tu Bát nhã Ba la mật, tu mười lực Phật cho đến tu mười tám pháp Phật bất cộng. Mặc dù hành Bát nhã Ba la mật nhưng không thấy Bát nhã, không thấy tên của Bát nhã, không thấy Bồ Tát, không thấy chư Phật, cũng không thấy danh hiệu của chư Phật, mà chỉ vì cầu Nhất thiết trí trí.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã, thông đạt được thật tướng của các pháp, nghĩa là thông đạt các pháp không nhiễm, không tịnh. (Q. 482, ĐBN)
Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp nên giác ngộ như thật về tên giả, pháp giả. Sau khi giác ngộ như thật tên giả, pháp giả của tất cả pháp rồi, đại Bồ Tát không chấp trước sắc; không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Không chấp trước mười hai xứ, mười tám giới. Không chấp trước cảnh giới hữu vi; không chấp trước cảnh giới vô vi. Không chấp trước bố thí, không chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Không chấp trước danh; không chấp trước tướng; không chấp trước thân của Bồ Tát. Không chấp trước nhục nhãn; không chấp trước thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Không chấp trước trí Ba la mật; không chấp trước thần thông Ba la mật. Không chấp trước pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Không chấp trước chơn như; không chấp trước thật tế, pháp giới. Không chấp trước sự thành thục hữu tình, thanh tịnh cõi Phật. Không chấp trước phương tiện thiện xảo. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, xứ trước, thời trước đều bất khả đắc.
Như vậy, này Thiện Hiện! Khi tu hành Bát nhã Ba la mật đối với các pháp, Đại Bồ Tát không chấp trước nên làm tăng trưởng bố thí, làm tăng trưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Hướng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, hướng vào địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, viên mãn Bồ Tát thần thông thù thắng.
Như vậy, sau khi viên mãn thần thông rồi, có thể đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Vì muốn thành thục hữu tình, vì muốn trang nghiêm cõi Phật của mình, vì muốn thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên phát sanh những căn lành thù thắng.
Sau khi phát sanh căn lành thù thắng, nếu thích nghe Chánh pháp nào của chư Phật thì đều được nghe. Sau khi nghe rồi, không quên tu tập cho đến lúc ngồi tòa Bồ đề, pháp môn thọ trì không có gián đoạn. Đối với tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa đều được tự tại.
Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối tất cả pháp năng như thật giác tên giả, pháp cũng giả không chỗ lấy chấp.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nếu gọi là Bồ Tát, thì sắc cho đến thức có phải là Bồ Tát không? Khác sắc cho đến thức là Bồ Tát chăng? Trong sắc cho đến thức có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có sắc cho đến thức chăng? Lìa sắc cho đến thức có phải Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Nói gọi là Bồ Tát, tức mười hai xứ cho đến mười tám giới là Bồ Tát chăng? Khác mười hai xứ cho đến mười tám giới là Bồ Tát chăng? Trong mười hai xứ cho đến mười tám giới có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có mười hai xứ cho đến mười tám giới chăng? Lìa mười hai xứ cho đến mười tám giới có phải Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Tức địa giới cho đến thức giới là Bồ Tát chăng? Khác địa giới cho đến thức giới là Bồ Tát chăng? Trong địa giới cho đến thức giới có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có địa giới cho đến thức giới chăng? Lìa địa giới cho đến thức giới có phải Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Phật bảo:
- Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tức vô minh cho đến lão tử là Bồ Tát chăng? Khác vô minh cho đến lão tử là Bồ Tát chăng? Trong vô minh cho đến lão tử có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có vô minh cho đến lão tử chăng? Lìa vô minh cho đến lão tử có phải Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào khởi lời đáp như vầy: Tức sắc thảy chẳng phải Bồ Tát, khác sắc thảy chẳng phải Bồ Tát, chẳng phải trong sắc thảy có Bồ Tát, chẳng phải trong Bồ Tát có sắc thảy, chẳng phải lìa sắc thảy có Bồ Tát ư?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy hãy rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, huống có Bồ Tát! Nếu tất cả vô sở hữu bất khả đắc, sao có thể nói tức sắc thảy là Bồ Tát, khác sắc thảy là Bồ Tát, trong sắc thảy có Bồ Tát, trong Bồ Tát có sắc thảy, lìa sắc thảy có Bồ Tát được?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hay thay! Như ngươi đã nói. Thiện Hiện phải biết: Hoặc bồ đề, hoặc Tát đỏa hoặc sắc bất khả đắc, nên các Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ Tát bất khả đắc, nên sở hành Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối trong nghĩa đây nên siêng tu học.
Phật dạy:
- Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tức sắc như cho đến thức như là Bồ Tát chăng? Khác sắc như cho đến thức như là Bồ Tát chăng? Trong sắc như cho đến thức như có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có sắc như cho đến thức như chăng? Lìa sắc như cho đến thức như có Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
- Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tức mười hai xứ như cho đến mười tám giới như là Bồ Tát chăng? Khác mười hai xứ như cho đến mười tám giới như là Bồ Tát chăng? Trong mười hai xứ như xứ cho đến mười tám giới như là Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có mười hai xứ như cho đến mười tám giới như chăng? Lìa mười hai như xứ cho đến mười tám giới như có Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tức địa giới như cho đến thức giới như là Bồ Tát chăng? Khác địa giới như cho đến thức giới như là Bồ Tát chăng? Trong địa giới như cho đến thức giới như có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có địa giới như cho đến thức giới như chăng? Lìa địa giới như cho đến thức giới như có Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tức vô minh như cho đến lão tử như là Bồ Tát chăng? Khác vô minh như cho đến lão tử như là Bồ Tát chăng? Trong vô minh như cho đến lão tử như có Bồ Tát chăng? Trong Bồ Tát có vô minh như cho đến lão tử như chăng? Lìa vô minh như cho đến lão tử như có Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào khởi lời đáp như vầy: Tức sắc như (chơn như của sắc) chẳng phải Bồ Tát. Khác sắc như chẳng phải Bồ Tát. Chẳng phải trong sắc như có Bồ Tát. Chẳng phải trong Bồ Tát có sắc như. Chẳng phải lìa sắc như có Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sắc thảy rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc vậy, huống có sắc như. Các “Như” đây đã chẳng phải có, sao khá nói sắc như là Bồ Tát, khác sắc như là Bồ Tát, trong sắc như có Bồ Tát, trong Bồ Tát có sắc như, lìa sắc như có Bồ Tát!
Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Như lời ngươi đã nói. Thiện Hiện phải biết: Vì pháp sắc thảy bất khả đắc, nên sắc như cũng bất khả đắc. Pháp sắc thảy và sắc như bất khả đắc nên các Bồ Tát cũng bất khả đắc. Các Bồ Tát bất khả đắc nên sở hành Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã đối trong nghĩa đây nên siêng tu học.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nói Bồ Tát, thì sắc cho đến thức là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc vui hoặc khổ là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc ngã hoặc vô ngã là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc không hoặc bất không là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc hữu tướng hoặc vô tướng là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc hữu vi hoặc vô vi là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc hữu lậu hoặc vô lậu là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc sanh hoặc diệt là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc thiện hoặc phi thiện là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc có tội hoặc không tội là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức thêm lời hoặc có phiền não hoặc không phiền não là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc thế gian hoặc xuất thế gian là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh là Bồ Tát chăng? Sắc cho đến thức hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn là Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nói đại Bồ Tát, mười hai xứ cho đến mười tám giới là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc vui hoặc khổ là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc ngã hoặc vô ngã là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc không hoặc bất không là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc hữu vi hoặc vô vi là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc hữu lậu hoặc vô lậu là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc sanh hoặc diệt là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc thiện hoặc phi thiện là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc có tội hoặc vô tội là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc phiền não hoặc không phiền não là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc thế gian hoặc xuất thế gian là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc thế gian hoặc xuất thế gian là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh là Bồ Tát chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn là Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nói Bồ Tát thì nhãn xúc cho đến ý xúc là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường hoặc vô thường là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc vui hoặc khổ là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh là Bồ Tát chăng? Nói tóm lược, Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn là Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nói Bồ Tát, thì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh là Bồ Tát chăng? Nói tóm lược, Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh là Bồ Tát chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn là Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nói Bồ Tát ấy, thì địa giới cho đến ý thức giới là Bồ Tát chăng? Địa giới cho đến ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường là Bồ Tát chăng? Địa giới cho đến ý thức giới hoặc vui hoặc khổ là Bồ Tát chăng? Địa giới cho đến ý thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã là Bồ Tát chăng? Địa giới cho đến ý thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh là Bồ Tát chăng? Nói ngắn gọn, Địa giới cho đến ý thức giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh là Bồ Tát chăng? Địa giới cho đến ý thức giới hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn là Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Nói Bồ Tát, thì vô minh cho đến lão tử là Bồ Tát chăng? Vô minh cho đến lão tử hoặc thường hoặc vô thường là Bồ Tát chăng? Vô minh cho đến lão tử hoặc vui hoặc khổ là Bồ Tát chăng? Vô minh cho đến lão tử hoặc ngã hoặc vô ngã là Bồ Tát chăng? Vô minh cho đến lão tử hoặc tịnh hoặc bất tịnh là Bồ Tát chăng? Nói tóm lại, Vô minh cho đến lão tử hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh là Bồ Tát chăng? Vô minh cho đến lão tử hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn là Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào khởi đáp như vầy: Sắc thảy chẳng phải Bồ Tát? Lại quán nghĩa nào khởi đáp như vầy: Pháp sắc thảy hoặc thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc sanh hoặc diệt, hoặc thiện hoặc phi thiện, hoặc có tội hoặc không tội, hoặc có phiền não hoặc không phiền não, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn chẳng phải Bồ Tát?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì pháp sắc thảy hãy rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, huống có sắc thảy. Pháp sắc thảy hãy rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, thì sao có thể nói sắc thảy là Bồ Tát!
Bạch Thế Tôn! Vì pháp sắc thảy hãy rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, huống có sắc thảy hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc sanh hoặc diệt, hoặc thiện hoặc phi thiện, hoặc có tội hoặc không tội, hoặc có phiền não hoặc không phiền não, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết Bàn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hay thay, hay thay. Như lời ngươi nói. Thiện Hiện phải biết: Pháp sắc thảy thường vô thường thảy bất khả đắc. Pháp bất khả đắc, nên các Bồ Tát cũng bất khả đắc. Các Bồ Tát bất khả đắc, nên sở hành Bát nhã Ba la mật-đa cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Các đạo Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối trong nghĩa đây nên siêng tu học.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi trước đã nói chẳng có pháp khá gọi Bồ Tát. Như vậy, như ngươi đã nói. Thiện Hiện phải biết: Các pháp chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy các pháp. Các pháp chẳng thấy các pháp. Pháp giới chẳng thấy pháp giới. Thiện Hiện phải biết: Sắc giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy sắc giới. Thọ tưởng hành thức chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy thọ tưởng hành thức giới. Mười hai xứ, mười tám giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới. Địa giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy địa giới. Thủy hỏa phong không thức giới chẳng thấy pháp giới, pháp giới chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới. Hữu vi giới chẳng thấy vô vi giới, vô vi giới chẳng thấy hữu vi giới.
Thiện Hiện phải biết: Chẳng lìa hữu vi giới mà lập vô vi giới, chẳng lìa vô vi giới mà lập hữu vi giới. (Q.483, ĐBN)
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã đối tất cả pháp đều không sở thấy. Vì không sở thấy nên tâm kia chẳng kinh chẳng hãi. Đối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối. Vì sao? Vì Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu như thế chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ tưởng hành thức. Chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Chẳng thấy sắc giới, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới. Chẳng thấy nhãn thức giới, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới. Chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử. Chẳng thấy tham dục, chẳng thấy sân nhuế, ngu si. Chẳng thấy ngã, chẳng thấy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả. Chẳng thấy cõi Dục, chẳng thấy cõi Sắc, cõi Vô sắc. Chẳng thấy Thanh Văn và pháp Thanh Văn. Chẳng thấy Độc giác và pháp Độc giác. Chẳng thấy Bồ Tát và pháp Bồ Tát. Chẳng thấy Như Lai và pháp Như Lai. Chẳng thấy Bồ đề, chẳng thấy Niết Bàn.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối tất cả pháp trọn không sở thấy. Khi không sở thấy, tâm kia chẳng kinh chẳng hãi. Đối tất cả pháp, tâm kia chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối.
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã vì nhân duyên nào đối tất cả tâm và tâm sở không thấy không đắc. Bởi nhân duyên này, đối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã khắp đối tất cả tâm và tâm sở chẳng thấy đắc. Bởi nhân duyên này, đối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bởi nhân duyên nào các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối tất cả pháp, tâm chẳng kinh chẳng hãi?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã khắp đối tất cả ý và ý thức giới không thấy không đắc. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối tất cả pháp, tâm chẳng kinh chẳng hãi.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối tất cả pháp không thấy không đắc, nên hành Bát nhã. Nghĩa là đối sắc không thấy không đắc, đối thọ tưởng hành thức không thấy không đắc. Đối mười hai xứ, mười tám giới không thấy không đắc. Đối nhãn xúc không thấy không đắc, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc không thấy không đắc. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không thấy không đắc, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không thấy không đắc. Đối địa giới không thấy không đắc, đối thủy hoả phong không thức giới không thấy không đắc. Đối vô minh không thấy không đắc; đối hành, thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử không thấy không đắc. Đối bố thí không thấy không đắc; đối tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật không thấy không đắc; đối ngoại đối nội không không thấy không đắc; đối ngoại không, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, không thấy không đắc. Đối chơn như không thấy không đắc; đối pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế không thấy không đắc. Nói rộng ra, đối với tất cả Phật pháp không thấy không đắc. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối tất cả pháp không thấy không đắc nên hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã đối tất cả xứ và tất cả thời chẳng đắc Bát nhã, chẳng đắc danh Bát nhã, chẳng đắc Bồ Tát, chẳng đắc danh Bồ Tát.
Thiện Hiện! Nên như vậy dạy bảo trao truyền các Bồ Tát, khiến đối Bát nhã Ba la mật được rốt ráo.
2. Đoạn Kinh dưới đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 484, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Vào Ly Sanh”, phần giữa quyển 408, Hội thứ II, ĐBN)
(Bồ Tát nên học Bát Nhã như thế nào?)
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát muốn viên mãn bố thí, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn biết khắp sắc, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn biết khắp thọ tưởng hành thức, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn biết khắp mười hai xứ, mười tám giới nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn biết khắp nhãn xúc, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn biết khắp nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn biết khắp nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn biết khắp nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn biết khắp địa giới, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn biết khắp thủy hỏa phong không thức giới, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn biết khắp vô minh, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn biết khắp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, nên học Bát nhã Ba la mật.(Q.484, ĐBN)
Nếu các Bồ Tát muốn dứt hẳn tham dục, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn dứt hẳn giận dữ, ngu si, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn dứt hẳn tà kiến, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn dứt hẳn giới cấm thủ, nghi, dục, tham, giận dữ, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn dứt hẳn sắc tham, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn dứt hẳn vô sắc tham, vô minh, mạn, lay động, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn dứt hẳn tất cả tùy miên, trái gút, nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn dứt hẳn bốn thứ ăn, nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn dứt hẳn bốn ách (1), bốn bạo lưu (2), bốn thủ (3), bốn buộc thân (4) và bốn điên đảo (5), nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn xa lìa mười ác nghiệp đạo, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn thọ hành mười thiện nghiệp đạo, nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn viên mãn bốn tĩnh lự, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn viên mãn bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn viên mãn bốn niệm trụ, cho đến tám Thánh đạo chi nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn viên mãn Phật mười lực, nên học Bát nhã Ba la mật; muốn viên mãn bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn tự tại vào Giác phần đẳng trì, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn tự tại vào Sư tử du hý đẳng trì cho đến Sư tử phấn tấn đẳng trì, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn đối tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn đều được tự tại, nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn đối việc vào ra Kiện hành đẳng trì, Bảo ấn đẳng trì, Nguyệt quang đẳng trì, Nguyệt tràng tướng đẳng trì, Nhập nhất thiết pháp ấn đẳng trì, Quán ấn đẳng trì, Pháp giới quyết định đẳng trì, Quyết định tràng tướng đẳng trì, Kim cương dụ đẳng trì, Nhập chư pháp môn đẳng trì, Đẳng trì vương đẳng trì, Vương ấn đẳng trì, Lực nghiêm đẳng trì, Hòm báu đẳng trì, Nhập nhất thiết pháp ngôn từ quyết định đẳng trì, Nhập nhất thiết pháp trí an thọ đẳng trì, Quán sát thập phương đẳng trì, Nhất thiết pháp ấn đà la ni môn đẳng trì, Bất vong chư pháp đẳng trì, Nhất thiết pháp đẳng thú hành tướng đẳng trì, Trụ hư không xứ đẳng trì, Tam luân thanh tịnh đẳng trì, Tùy thuận Bất thối thần thông đẳng trì, Khí trung dũng xuất đẳng trì, Thắng định tràng tướng đẳng trì, Hàng phục phiền não đẳng trì, Phá tứ ma quân đẳng trì, Thành tựu thập lực đẳng trì và vô lượng vô biên các đẳng trì khác đều được tự tại, nên học Bát nhã Ba la mật.
Nếu các Bồ Tát muốn mãn sở nguyện tất cả hữu tình, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát muốn viên mãn tất cả căn lành thù thắng, do căn lành đây được viên mãn nên chẳng đọa các ác thú, chẳng sanh nhà nghèo hèn, chẳng đọa bậc Thanh Văn, chẳng đọa bậc Độc giác và Bồ Tát đỉnh đọa, nên học Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao gọi là Bồ Tát đỉnh đọa?
Thiện Hiện đáp rằng: Nếu các Bồ Tát không phương tiện khéo léo tu hành sáu Ba la mật, không phương tiện khéo léo trụ không, vô tướng, vô nguyện đẳng trì, lui đọa Thanh Văn hoặc bậc Độc giác, chẳng được ngôi Bồ Tát chánh quyết định, chẳng vào Bồ Tát chánh tánh ly sanh. Như vậy gọi là Bồ Tát đỉnh đọa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Pháp nào gọi sanh?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Sanh nghĩa là Bồ Tát tùy thuận pháp ái.
Xá Lợi Tử nói:
- Sao gọi Bồ Tát tùy thuận pháp ái?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật-đa, an trụ sắc không, khởi tưởng khởi chấp; an trụ thọ tưởng hành thức không, khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc vô tướng khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức vô tướng, khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc vô nguyện khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức vô tướng khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc vô nguyện khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức vô nguyện khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc vắng lặng khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức vắng lặng khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc xa lìa khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức xa lìa khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc vô thường khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức vô thường khởi tưởng khởi chấp. An trụ sắc khổ khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức khổ khởi tướng khởi chấp. An trụ sắc vô ngã khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức vô ngã khởi tưởng khởi chấp. An trụ bất tịnh khởi tưởng khởi chấp, an trụ thọ tưởng hành thức bất tịnh khởi tưởng khởi chấp.
Xá Lợi Tử! Đấy là Bồ Tát tùy thuận pháp ái. Tức pháp ái đây nên nói là sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ này rằng: Sắc đây nên dứt, vì bởi đây sắc nên dứt; thọ tưởng hành thức đây nên dứt, vì bởi đây thọ tưởng hành thức nên dứt. Khổ đây nên biết khắp vì bởi đây khổ nên biết khắp, Tập đây nên dứt hẳn vì bởi đây tập nên dứt hẳn, Diệt đây nên tác chứng vì bởi đây diệt nên tác chứng, Đạo đây nên tu tập vì bởi đây đạo nên tu tập.
Đây là tạp nhiễm, đây là thanh tịnh. Đây là nên gần gũi, đây chẳng nên gần gũi. Đây nên hành, đây chẳng nên hành. Đây là đạo, đây là phi đạo. Đây nên tu, đây chẳng nên tu. Đây nên học, đây chẳng nên học.
Đây bố thí, đây chẳng phải bố thí. Đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lực, Bát nhã Ba la mật; đây chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đây là phương tiện khéo léo Bồ Tát, đây không phải phương tiện khéo léo Bồ Tát. Đây là Bồ Tát sanh, đây là Bồ Tát ly sanh.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật-đa an trụ các thứ pháp môn đây thảy, khởi tưởng khởi chấp, đấy là Bồ Tát tùy thuận pháp ái. Tức pháp ái đây nói là sanh, như thức ăn để qua đêm năng sanh bệnh hoạn. Trừ khiển đây gọi là ly sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Vì sao Bồ Tát gọi vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh?
Thiện Hiện đáp rằng: Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy nội không, chẳng nương nội không mà quán ngoại không. Chẳng thấy ngoại không; chẳng nương ngoại không mà quán nội không. Chẳng thấy nội ngoại không; chẳng nương nội ngoại không mà quán ngoại không, chẳng nương nội ngoại không mà quán đại không. Chẳng thấy đại không; chẳng nương đại không mà quán nội ngoại không, chẳng nương đại không mà quán không không. Chẳng thấy không không; chẳng nương không không mà quán đại không, chẳng nương không không mà quán thắng nghĩa không. Chẳng thấy thắng nghĩa không; chẳng nương thắng nghĩa không mà quán không không, chẳng nương thắng nghĩa không mà quán hữu vi không. Chẳng thấy hữu vi không; chẳng nương hữu vi không mà quán thắng nghĩa không, chẳng nương hữu vi không mà quán vô vi không. Chẳng thấy vô vi không; chẳng nương vô vi không mà quán hữu vi không, chẳng nương vô vi không mà quán tất cánh không. Chẳng thấy tất cánh không; chẳng nương tất cánh không mà quán vô vi không, chẳng nương tất cánh không mà quán vô tế không. Chẳng thấy vô tế không; chẳng nương vô tế không mà quán tất cánh không, chẳng nương vô tế không mà quán vô tán không. Chẳng thấy vô tán không; chẳng nương vô tán không mà quán vô tế không, chẳng nương vô tán không mà quán bổn tánh không. Chẳng thấy bổn tánh không; chẳng nương bổn tánh không mà quán vô tán không, chẳng nương bổn tánh không mà quán tướng không. Chẳng thấy tướng không; chẳng nương tướng không mà quán bổn tánh không, chẳng nương tướng không mà quán nhất thiết pháp không. Chẳng thấy nhất thiết pháp không; chẳng nương nhất thiết pháp không mà quán tướng không, chẳng nương nhất thiết pháp không mà quán vô tánh không. Chẳng thấy vô tánh không; chẳng nương vô tánh không mà quán nhất thiết pháp không, chẳng nương vô tánh không mà quán vô tánh tự tánh không. Chẳng thấy vô tánh tự tánh không, chẳng nương vô tánh tự tánh không mà quán vô tánh không.
Xá Lợi Tử! Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật tác quán như thế gọi vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nên học Bát nhã thẳm sâu như vầy: Nghĩa là đối sắc và danh nên biết chẳng nên đắm, đối thọ tưởng hành thức và danh nên biết chẳng nên đắm. Đối mười hai xứ, mười tám giới và danh nên biết chẳng nên đắm. Đối bố thí và danh nên biết chẳng nên đắm; đối tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và danh nên biết chẳng nên đắm.
Như vậy, Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, đối tâm Bồ đề và danh nên biết chẳng nên đắm, đối tâm vô đẳng đẳng và danh nên biết chẳng nên đắm, đối tâm quảng đại và danh nên biết chẳng nên đắm. Vì sao? Xá Lợi Tử! Tâm này phi tâm, vì bản tánh tịnh vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao tâm này bản tánh thanh tịnh?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bản tánh tâm này chẳng tương ưng tham, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng sân, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng si, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các trói gút, tùy miên, kiến thú và chướng, chẳng phải chẳng tương ưng. Cùng tâm các Thanh Văn, Độc giác cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.
Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát biết tâm như vậy bản tánh thanh tịnh.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm này là phi tâm tánh chăng?
Thiện Hiện hỏi gạn lại rằng: Trong phi tâm tánh, có tánh không tánh khá được chăng?
Xá Lợi Tử nói: Thiện Hiện! Chẳng khá được vậy.
Thiện Hiện đáp rằng: Trong phi tâm tánh có tánh không tánh đã chẳng khá được, vì sao hỏi tâm này có phải là phi tâm tánh?
Khi đó Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Những gì gọi là phi tâm tánh?
Thiện Hiện đáp:
Tất cả pháp không biến đổi, không phân biệt thì gọi là phi tâm tánh (6).
Xá Lợi Tử lại hỏi:
- Đối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt, hay những pháp khác cũng không biến khác, không phân biệt?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Nếu như tâm (hay tâm như hay còn gọi là chơn như của tâm) không biến khác không phân biệt, thì sắc thọ tưởng hành thức cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì nhãn xứ cho đến ý xứ cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì sắc xứ cho đến pháp xứ cũng không biến khác không phân biệt, nhãn giới cho đến ý giới cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì sắc giới cho đến pháp giới cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì địa giới cho đến thức giới cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì vô minh cho đến lão tử cũng không biến khác không phân biệt, bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật-đa cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì năm nhãn, sáu thần thông cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng không biến khác không phân biệt. Nếu như tâm không biến khác không phân biệt, thì Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không biến khác không phân biệt.
Lúc đó, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng: Hay thay, hay thay! Thật như đã nói. Ngài chơn Phật tử, từ tâm Phật sanh, từ khẩu Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ pháp hóa sanh, được phần Phật pháp, chẳng thọ phần của cải. Đối trong các pháp tự thân tác chứng, huệ nhãn hiện thấy liền năng khởi thuyết. Phật thường nói Ngài trong chúng Thanh Văn trụ định Vô tránh là đệ nhất. Phật đã nói chơn thật chẳng hư.
Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối trong Bát nhã thẳm sâu nên học như vậy.
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát đối Bát nhã thẳm sâu năng học như thế, nên biết đã trụ bậc Bất thối chuyển chẳng lìa Bát nhã Ba la mật, năng như thật quán thật tánh các pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các thiện nam, thiện nữ kẻ muốn học bậc Thanh Văn, nên đối Bát nhã thẳm sâu như thế phải siêng nghe thọ, đọc tụng kiên trì, suy nghĩ đúng lý, quan sát kỹ càng, khiến được rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Độc giác cũng đối Bát nhã thẳm sâu như thế, phải siêng nghe thọ, đọc tụng kiên trì, suy nghĩ đúng lý, quan sát kỹ càng, khiến được rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Bồ Tát và bậc Như Lai cũng đối Bát nhã thẳm sâu như thế phải siêng nghe thọ đọc tụng kiên trì, suy nghĩ đúng lý, quan sát kỹ càng khiến được rốt ráo. Vì sao? Thiện Hiện! Vì trong Kinh Bát nhã thẳm sâu như thế rộng nói khai thị pháp Tam thừa vậy. Nếu Bồ Tát năng học Bát nhã Ba la mật, thời là học khắp các pháp Tam thừa đều được thiện xảo.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Bốn ách phược: Theo Tương Ưng Bộ Kinh, phẩm "Tầm Cầu", bốn Ách Phược là: 1- Dục Ách Phược: Tham dục; 2- Hữu Ách Phược: Chấp hữu; 3- Kiến Ách Phược: Tà kiến; 4- Vô Minh Ách Phược: Si mê.
(2). Bốn bộc lưu: Bộc lưu là dòng thác, tên khác của phiền não. Những phiền não đó là Dục bộc lưu, Hữu bộc lưu, Kiến bộc lưu và Vô minh bộc lưu, gọi là bốn bộc lưu.
(3). Tứ thủ hay bốn thủ: Bốn loại chấp trước, dính mắc (Skt. catvāry upādānāni; Pali cattāri upādānāni): 1. Dục thủ: dính mắc vào ái dục. 2. Kiến thủ: Dính mắc vào tà kiến. 3. Giới cấm thủ: Chấp trước vào sự hiểu biết sai lầm về giới luật và mục đích của chúng. 4. Ngã ngữ thủ: Chấp trước vào tư tưởng sinh khởi từ quan niệm có một bản ngã.
(4). Bốn buộc thân: Bản chữ Hán của hoavouu.com ghi là (四tứ 身thân 繫hệ 及cập), không biết có phải là tứ hệ phược hay không? Nếu là tứ hệ phược thì có nghĩa là: 1. Tham thân hệ phược, 2. Sân thân hệ phược, 3. Giới cấm thủ hệ phược và 4. Chấp chân lý hệ phược.
(5). Bốn điên đảo: Thường điên đảo, lạc điên đảo, tịnh điên đảo và ngã điên đảo.
(6). Nguyên văn bằng chữ Hán của phẩm "Thiện Hiện" quyển 484, tập 20, Hội thứ III này do Ngài Huyền Trang dịch là:
是thị 心tâm 為vi 有hữu 非phi 心tâm 性tánh 不phủ.
善thiện 現hiện 詰cật 言ngôn: 非phi 心tâm 性tánh 中trung 有hữu 性tánh 無vô 性tánh 為vi 可khả 得đắc 不phủ.
舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn: 不phủ 也dã. 善thiện 現hiện.
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn: 非phi 心tâm 性tánh 中trung 有hữu 性tánh 無vô 性tánh 既ký 不bất 可khả 得đắc. 云vân 何hà 可khả 問vấn 是thị 心tâm 為vi 有hữu 非phi 心tâm 性tánh 不phủ.
時thời. 舍Xá 利Lợi 子Tử 問vấn 善thiện 現hiện 言ngôn: 何hà 等đẳng 名danh 為vi 非phi 心tâm 性tánh 耶da.
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn: 於ư 一nhất 切thiết 法pháp 無vô 變biến 異dị. 無vô 分phân 別biệt. 是thị 名danh 非phi 心tâm 性tánh.
Website: tuvienquangduc.com dịch đoạn Kinh trên từ Hán sang Việt, như sau:
“Bấy giờ, Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm này vì có phi tâm tánh chăng?
Thiện Hiện hỏi gạn lại rằng: Trong phi tâm tánh, có tánh không tánh vì khá được chăng?
Xá Lợi Tử nói: Thiện Hiện! Chẳng khá được vậy.
Thiện Hiện đáp rằng: Trong phi tâm tánh có tánh không tánh đã chẳng khá được, vì sao hỏi tâm này vì có phi tâm tánh?
Khi đó Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Những gì gọi là phi tâm tánh?
Dịch giả quên dịch câu "善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn: 於ư 一nhất 切thiết 法pháp 無vô 變biến 異dị. 無vô 分phân 別biệt. 是thị 名danh 非phi 心tâm 性tánh”.
Phẩm “Khuyến Học” quyển 36 , Hội thứ I; phẩm “Vào Ly Sanh” quyển 408, Hội thứ II; phẩm “Diệu Hạnh” quyển 538, Hội thứ IV; phẩm “Thiện Hiện” quyển 556, Hội thứ V và đoạn Kinh đang thích nghĩa đây thuộc phẩm “Thiện Hiện” quyển 484, tập 20, Hội thứ III có cùng một giáo nghĩa như nhau, chỉ khác ở lối diễn tả.
Mấu chốt để hiểu câu này ở các từ: tâm(心), tánh(性), tâm tánh(心性) và phi tâm tánh(非心性).
Tâm(心): Nguồn gốc của mọi ý thức, suy tưởng, cảm thọ có thể là vọng hay chân.
Tánh(性): Trong nghĩa bản tánh là cái thường trụ, chẳng đổi dời, nhiễm tịnh.
Ghép hai chữ Tâm(心) và Tánh(性) với nhau thì có từ kép là Tâm tánh(心性). Bản tánh của tâm bất biến, bất nhiễm, bất tịnh, vốn là chân. Nhưng tùy theo điều kiện chung quanh mà có nhiễm có tịnh.
Phi tâm tánh(非心性) tức Tâm không: nghĩa là đối với trần cảnh mà tâm không sanh diệt, đổi dời thì gọi là tâm không hay vô niệm, vô tâm.
Lưu ý: Kinh Phật mẫu Phát Sanh Tam Pháp Tạng Bát nhã Ba la mật-đa (gọi tắt là Phật Mẫu Bát Nhã) do Thí Hộ dịch từ Tạng sang Hán và Ngài Thích Từ Chiếu dịch từ Hán sang Việt có đoạn Kinh tương tự như đoạn Kinh này, như sau:
(…) Lại nữa, Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát lúc hành Bát nhã Ba la mật quán tưởng Bát nhã như thế, nên học như thế (học và an trú trong Bát nhã) nhưng không sanh tâm mình học như thế. Vì sao? Vì cái tâm không phải tâm kia, tánh nó thanh tịnh.
Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Thế nào Tu Bồ Đề! Ngài có cái tâm không phải tâm đó không?
Tu Bồ Đề:
- Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Nếu cái tâm không phải tâm, dù có, dù không, thì có thể chứng đắc hay không?
Xá Lợi Tử nói:
- Không thể! Tu Bồ Đề!
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bảo Xá Lợi Tử:
- Nếu cái tâm không phải tâm, dù có, dù không, mà không thể chứng đắc, tại sao nay ông lại hỏi, có cái tâm không phải tâm?
Xá Lợi Tử hỏi:
- Tánh của cái không phải tâm gọi là gì?
Tu Bồ Đề nói:
- Tất cả không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm không phải tâm.
“Tâm không phải tâm” hay “phi tâm” có thể giải thích chính là “tâm không", vô niệm vô tâm. Vì vô tâm, nên không phân biệt, không chấp. Nếu không chấp thì không chướng ngại. Vì không chướng ngại nên mới nói là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó không dung chứa bất cứ thứ gì, rỗng rang trong suốt nên gọi là vô niệm, vô tâm.
3. Đoạn Kinh dưới đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 485, Hội thứ III.
(Tương đương với phẩm “Thắng Quân”, cuối quyển 408
cho đến phần đầu quyển 409, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con đối Bát nhã Ba la mật và đối Bồ Tát đều chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khiến con đem Bát nhã Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền các Bồ Tát?
Bạch Thế Tôn! Con đối Bát nhã Ba la mật chẳng biết chẳng đắc cũng không thấy. Nếu đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền các Bồ Tát, chắc chắn sẽ ăn năn. (Q.485, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Con đối các pháp chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy. Nếu đem các pháp dạy bảo trao truyền các Bồ Tát chắc chắn sẽ có ăn năn.
Bạch Thế Tôn! Con đối các pháp hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây gọi Bồ Tát, đây gọi Bát nhã Ba la mật?
Bạch Thế Tôn! Danh các Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì hai nghĩa như thế vô sở hữu vậy; hai danh như thế đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối sắc cho đến thức hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc, cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là sắc cho đến thức, đây danh sắc… cho đến thức đều vô sở trụ, cũng chẳng phải đây danh sắc… cho đến thức đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa sắc… cho đến thức này vô sở hữu vậy. Danh sắc… cho đến thức đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là mười hai xứ cho đến mười tám giới. Danh mười hai xứ, mười tám giới đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa mười hai xứ cho đến mười tám giới đều vô sở hữu vậy. Danh mười hai xứ cho đến mười tám giới đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là nhãn xúc cho đến ý xúc. Danh nhãn xúc cho đến ý xúc đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa nhãn xúc cho đến ý xúc vô sở hữu vậy. Danh nhãn xúc cho đến ý xúc đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Danh nhãn xúc cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu vậy. Danh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối tham sân si và các trói gút, tùy miên, kiến thú hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là tham thảy. Danh tham thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa danh tham thảy đây vô sở hữu vậy. Danh tham thảy này đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Danh bố thí… cho đến Bát nhã Ba la mật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa bố thí… cho đến Bát nhã Ba la mật vô sở hữu vậy. Danh bố thí… cho đến Bát nhã Ba la mật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối ngã cho đến kiến giả hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng không sở thấy, làm sao khá nói đây là ngã cho đến kiến giả. Danh ngã… cho đến kiến giả đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa ngã… cho đến kiến giả vô sở hữu vậy. Danh ngã… cho đến kiến giả đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Nói rộng ra, con đối với tất cả pháp Phật hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là tất cả pháp Phật. Danh tất cả pháp Phật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa tất cả pháp Phật vô sở hữu vậy. Danh tất cả pháp Phật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối như mộng, như bóng sáng, như tiếng vang, như ánh nắng, như tượng, như trăng trên mặt nước, như huyễn, như biến hóa... năm thủ uẩn hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là như mộng cùng tất cả năm ngũ uẩn. Danh như mộng cùng tất cả thủ uẩn đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa như mộng cùng tất cả thủ uẩn vô sở hữu vậy. Danh như mộng cùng tất cả thủ uẩn đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối xa lìa, vắng lặng, vô sanh vô diệt, vô thành vô hoại, vô nhiễm vô tịnh, chơn như pháp giới, pháp trụ, pháp định, thật tế hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là chơn như cho đến thật tế. Danh chơn như… cho đến thật tế đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa chơn như… cho đến thật tế vô sở hữu vậy. Danh chơn như… cho đến thật tế đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối pháp hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu tất cả hoặc tăng hoặc giảm đều chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là pháp hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu. Danh hữu vi… cho đến vô lậu đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa hữu vi… cho đến vô lậu vô sở hữu vậy. Danh hữu vi… cho đến vô lậu đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Danh quá khứ… cho đến hiện tại đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa quá khứ… cho đến hiện tại vô sở hữu vậy. Danh quá khứ… cho đến hiện tại đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các Bồ Tát và Thanh Văn Tăng hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các Bồ Tát và Thanh Văn Tăng hoặc tăng hoặc giảm. Danh mười phương thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác … cho đến Thanh văn tăng đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì nghĩa mười phương thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác… cho đến Thanh văn tăng vô sở hữu vậy. Danh mười phương thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác… cho đến Thanh văn tăng đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con đối các pháp đã nói như trên hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là Bồ Tát, đây là Bát nhã Ba la mật. Bạch Thế Tôn! Con đối Bát nhã Ba la mật và đối Bồ Tát đều chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khiến con đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền các Bồ Tát? Danh các Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì hai nghĩa như thế vô sở hữu vậy, hai danh như thế đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Các pháp như thế do nhân duyên hòa hợp giả danh Bồ Tát, giả danh Bát nhã Ba la mật. Giả danh như thế đối với uẩn xứ giới chẳng thể nói, cho đến đối với mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nói; như mộng cho đến như biến hóa trong năm thủ uẩn chẳng thể nói; cho đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các Bồ Tát và Thanh Văn Tăng đều chẳng thể nói. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Các pháp đã nói như trên tăng giảm đều chẳng thể biết, cũng chẳng thể đắc, vì chẳng thấy vậy.
Bạch Thế Tôn! Đã nói danh năm uẩn thảy như thế không xứ (chỗ) khá nói. Danh các Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật cũng không xứ khá nói. Danh như mộng tất cả như thế cũng không xứ khá nói. Danh Như hư không không xứ khá nói. Danh như địa thủy hỏa phong không xứ khá nói. Danh như giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát trí kiến không xứ khá nói. Danh như Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Như Lai và các pháp kia không xứ khá nói. Danh như thiện phi thiện, thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã, vắng lặng chẳng vắng lặng thảy hoặc có hoặc không đều không xứ khá nói. Như vậy, danh Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật cũng không xứ khá nói. Vì sao? Vì các danh như thế đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì các nghĩa như thế vô sở hữu vậy. Các danh như thế đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Con duyên nghĩa này nên nói đối pháp hoặc tăng hoặc giảm chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khá nói đây là danh Bồ Tát, đây là danh Bát nhã Ba la mật?
Bạch Thế Tôn! Con đối hai đây hoặc nghĩa hoặc danh, chẳng biết chẳng đắc cũng chẳng thấy, làm sao khiến con đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền các Bồ Tát?
Bạch Thế Tôn! Bởi nhân duyên này, nếu đem pháp đây dạy bảo trao truyền các Bồ Tát, nhất định sẽ hối hận.
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khi nghe đem tướng đây tuyên nói Bát nhã Ba la mật tâm chẳng chìm đắm, chẳng ưu chẳng hối, cũng lại chẳng kinh chẳng hãi, phải biết Bồ Tát này quyết định đã trụ bậc Bất thối chuyển, đem phương tiện vô sở trụ mà trụ, không sở chấp trước.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc cho đến thức, chẳng nên trụ 12 xứ cho đến 18 giới. Chẳng nên trụ nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng nên trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng nên trụ địa giới cho đến thức giới. Chẳng nên trụ vô minh cho đến lão tử. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Sắc, tánh sắc không; thọ tưởng hành thức, tánh thọ tưởng hành thức không. Bạch Thế Tôn! Sắc không này chẳng phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc cho đến thức. Như vậy, cho đến lão tử cũng thế.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ, tánh bốn niệm trụ không. Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ không này chẳng phải bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ chẳng lìa không, không chẳng lìa bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ tức là không, không tức là bốn niệm trụ. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng lại như thế. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bố thí, tánh bố thí không. Bạch Thế Tôn! Bố thí không này chẳng phải bố thí. Bố thí chẳng lìa không, không chẳng lìa bố thí. Bố thí tức là không, không tức là bố thí. Cho đến Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ thần thông. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Thần thông, tánh thần thông không. Bạch Thế Tôn! Thần thông không này chẳng phải thần thông. Thần thông chẳng lìa không, không chẳng lìa thần thông. Thần thông tức là không, không tức là thần thông. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ thần thông.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, thật tế. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chơn như tánh chơn như không. Bạch Thế Tôn! Chơn như, tánh chơn như không. Bạch Thế Tôn! Chơn như không này chẳng phải chơn như. Chơn như chẳng lìa không, không chẳng lìa chơn như. Chơn như tức là không, không tức là chơn như. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã chẳng nên trụ chơn như. Pháp giới, pháp tánh, pháp định, thật tế cũng lại như thế.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã chẳng nên trụ tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Tất cả Đà la ni môn, tánh Đà la ni môn không. Bạch Thế Tôn! Đà la ni môn không này chẳng phải Đà la ni môn. Đà la ni môn chẳng lìa không, không chẳng lìa Đà la ni môn. Đà la ni môn tức là không, không tức Đà la ni môn. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ tất cả Đà la ni môn. Tam ma địa môn cũng lại như thế.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát không phương tiện khéo léo, khi tu hành Bát nhã chấp ngã, ngã sở, vì bị trói buộc nơi tâm bèn trụ nơi sắc, trụ thọ tưởng hành thức. Do trụ đây nên đối sắc sanh tạo tác, đối thọ tưởng hành thức sanh tạo tác. Bởi tạo tác nên chẳng thể tu hành Bát nhã thẳm sâu. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì do tạo tác nên chẳng thể nhiếp thọ Bát nhã thẳm sâu, chẳng thể học Bát nhã thẳm sâu, chẳng thể viên mãn Bát nhã thẳm sâu, chẳng thể thành xong Nhất thiết trí trí.
(Tất cả pháp bản tánh không)
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát không phương tiện khéo léo, khi tu hành Bát nhã chấp ngã, ngã sở trói buộc làm rối loạn tâm. Cho đến tu hành tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn và trụ ở các đẳng trì này. Do trụ đây nên đối Đà la ni và Tam ma địa môn khởi tạo tác. Bởi tạo tác nên chẳng thể tu hành Bát nhã thậm thâm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bởi do tạo tác chẳng thể nhiếp thọ Bát nhã, chẳng thể học Bát nhã, chẳng thể viên mãn Bát nhã thậm thâm, chẳng năng thành xong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc chẳng nên nhiếp thọ, thọ tưởng hành thức chẳng nên nhiếp thọ. Vì sắc chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải sắc. Vì thọ tưởng hành thức chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức bản tánh không vậy.
Bạch Thế Tôn! Cho đến tất cả Đà la ni môn chẳng nên nhiếp thọ, Tam ma địa môn cũng chẳng nên nhiếp thọ. Vì Đà la ni môn chẳng nhiếp thọ, nên chẳng phải Đà là ni môn. Vì Tam ma địa môn chẳng nên nhiếp thọ, nên cũng chẳng phải Tam ma địa môn. Vì sao? Vì Đà la ni môn và Tam ma địa môn bản tánh đều không vậy.
(Khi tu hành Bát nhã nên đem bản tánh không quán tất cả pháp)
Bạch Thế Tôn! Việc nhiếp thọ Bát nhã ấy cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, vì Bát nhã Ba la mật chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì bản tánh không vậy. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, nên đem bản tánh không quán tất cả pháp. Khi quán như vậy, tâm không có chỗ hành. Đây gọi là Bồ Tát không nhiếp thọ Tam ma địa. Tam ma địa này vi diệu, thù thắng rộng lớn vô lượng, có thể tập hợp vô biên vô ngại tác dụng, không cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác.
Việc thành tựu Nhất thiết trí trí đó cũng không đáng để nhiếp thọ. Như vậy, vì Nhất thiết trí trí chẳng nên nhiếp thọ, nên chẳng phải Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Nhất thiết trí trí này chẳng phải chấp tướng mà tu đắc. Vì sao? Vì chấp thủ tướng đều là phiền não.
Những gì là tướng? Chỗ gọi tướng sắc, tướng thọ tưởng hành thức. Tướng sắc cho đến tướng pháp. Tướng nhãn thức cho đến tướng ý thức. Tướng niệm trụ cho đến tướng đạo chi. Tướng Ba la mật. Tướng thần thông. Tướng văn tự. Tướng mười lực cho đến tướng mười tám pháp Phật bất cộng. Tướng không, vô tướng, vô nguyện. Tướng tạo tác. Tướng chơn như, tướng pháp giới, pháp tánh, pháp định, thật tế. Tướng Đà la ni môn, tướng Tam ma địa môn. Đối các tướng đây mà chấp lấy ấy, gọi là phiền não. Vậy nên chẳng thể lấy tướng mà tu đắc Nhất thiết trí trí. Nếu lấy tướng tu đắc Nhất thiết trí trí ấy, thời Thắng Quân Phạm chí đối Nhất thiết trí trí chẳng cần tin hiểu.
Những gì gọi là tướng tin hiểu? Nghĩa là đối với Bát nhã thậm thâm sanh lòng tin thanh tịnh. Do lực thắng giải, suy lường, quán sát Nhất thiết trí trí. Không dùng tướng làm phương tiện, cũng không dùng phi tướng làm phương tiện. Vì tướng và phi tướng đều không thể nắm giữ. Phạm chí Thắng Quân này tuy do sức tín giải qui y Phật Pháp gọi là tùy tín hành, nhưng có thể nhờ bản tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Đã ngộ nhập rồi nên không chấp giữ tướng sắc, không chấp giữ tướng thọ, tưởng, hành, thức cho đến không chấp giữ tướng tất cả Đà la ni môn, tướng tất cả Tam ma địa môn. Vì sao? Vì nhất thiết pháp tự tướng đều không, năng thủ, sở thủ đều bất khả đắc. Vì sao? Vì Phạm chí đây chẳng lấy nội đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng lấy nội ngoại đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng lấy vô trí đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng lấy đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng lấy bất đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Phạm chí chẳng thấy sở quán Nhất thiết trí trí, chẳng thấy năng quán Bát nhã, chẳng thấy kẻ quán, xứ quán, thời quán. Như vậy, Phạm chí chẳng đối nội sắc thọ tưởng hành thức quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng đối ngoại và nội ngoại sắc thọ tưởng hành thức quán Nhất thiết trí trí. Như vậy, cho đến Đà la ni môn, Tam ma địa môn cũng lại như thế. Vì sao? Hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc nội ngoại, hoặc lìa nội ngoại tất cả đều không, vì bất khả đắc vậy.
Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, đối tất cả pháp đều không lấy chấp, vì thật tướng các pháp bất khả đắc vậy. Như vậy Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ các pháp vô tướng, vì pháp tướng vô tướng đều bất khả đắc vậy. Như vậy, Phạm chí do sức thắng giải đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, vì trong pháp thật tướng không lấy bỏ vậy. Khi ấy, Phạm chí với tự tin hiểu cho đến Niết Bàn cũng chẳng lấy chấp. Vì sao? Vì tất cả pháp bản tánh đều không, chẳng thể nắm lấy vậy.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát sở chứng Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, đối tất cả pháp không sở lấy, thì có thể từ bờ đây đến bờ kia vậy. Nếu đối các pháp có chút lấy chấp thì đối bờ kia chẳng thể đến được. Do nhân duyên này, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nắm lấy sắc cho đến thức. Cho đến chẳng nắm lấy Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng thể nắm lấy vậy.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát tuy đối các pháp đều không sở nắm lấy, nhưng vì bản nguyện thực hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chưa viên mãn. Và vì bản nguyện chứng đắc Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chưa thành tựu, nên trong thời gian đó hoàn toàn không thể nắm giữ tất cả tướng để vào Niết bàn.
Bồ Tát này tuy có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo và có thể thành tựu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng không thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo và cũng không thấy Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì bốn niệm trụ này tức chẳng phải bốn niệm trụ, cho đến tám chi Thánh đạo tức chẳng phải tám chi Thánh đạo. Và Phật mười lực tức chẳng phải Phật mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tức chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng. Vì tất cả pháp chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã tuy không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng mà có thể thành tựu tất cả sự nghiệp.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật cần quan sát kỹ những gì là Bát nhã Ba la mật? Vì sao gọi Bát nhã? Ai hành Bát nhã? Bát nhã như thế dùng để làm gì?
Bạch Thế Tôn! Bồ Tát khi tu hành Bát nhã cần quan sát kỹ, nếu thấy pháp vô sở hữu bất khả đắc, đấy chính là Bát nhã Ba la mật. Trong vô sở hữu gạn hỏi chỗ nào!
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Trong đây pháp nào gọi vô sở hữu bất khả đắc ư?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Chỗ gọi Bát nhã cho đến bố thí Ba la mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Sắc cho đến thức vô sở hữu bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi vô sở hữu bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần thông vô sở hữu bất khả đắc. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Chơn như cho đến thật tế vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu cho đến Độc giác vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát, chư Phật vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vô sở hữu bất khả đắc. Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát tu hành Bát nhã khi quan sát kỹ các pháp đều vô sở hữu bất khả đắc như thế, nơi tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng chìm chẳng đắm, chẳng ưu chẳng hối. Phải biết Bồ Tát này đối Bát nhã Ba la mật-đa thường chẳng bỏ lìa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Vì duyên nào biết Bồ Tát này năng đối Bát nhã Ba la mật thường chẳng bỏ lìa?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bồ Tát này như thật biết sắc cho đến thức lìa tự tánh sắc cho đến thức. Như thật biết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật lìa tự tánh bố thí cho đến Bát nhã. Cho đến như thật biết mười tám pháp Phật bất cộng lìa tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng. Cho đến như thật biết thật tế lìa tự tánh thật tế. Xá Lợi Tử! Do đây nên biết Bồ Tát này năng đối Bát nhã Ba la mật thường chẳng bỏ lìa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Sao gọi tự tánh sắc, cho đến sao gọi tự tánh thật tế?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Sắc lấy vô tánh mà làm tự tánh, cho đến thật tế lấy vô tánh mà làm tự tánh. Do đây, nên biết sắc lìa tự tánh sắc, cho đến thật tế lìa tự tánh thật tế. Xá Lợi Tử! Sắc cũng lìa tướng sắc, cho đến thật tế cũng lìa tướng thật tế. Xá Lợi Tử! Sắc cũng lìa tướng sắc, cho đến thật tế cũng lìa tướng thật tế. Xá Lợi Tử! Tướng cũng lìa tự tánh, tự tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tướng, tự tánh cũng lìa tự tánh. (Q. 485, ĐBN)
Khi đó, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng:
- Nếu các Bồ Tát học ở trong đây, thì mau năng thành xong Nhất thiết trí trí?
Thiện Hiện trả lời:
- Như vậy, như vậy. Nếu các Bồ Tát học ở trong đây, mau năng thành xong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bồ Tát này biết tất cả pháp không sanh thành vậy.
Xá lợi Tử lại hỏi:
- Do đâu các pháp là không sanh, không thành?
Thiện Hiện đáp:
- Vì sắc là không nên sanh hay thành đều bất khả đắc; vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên sanh hay thành đều bất khả đắc. Như vậy, cho đến vì thật tế là không nên sanh hay thành đều bất khả đắc.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát có thể đối với Bát nhã Ba la mật học như vậy thì gần với Nhất thiết trí trí. Học như vậy, được thân thanh tịnh, được ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh, tướng thanh tịnh. Như vậy, đắc được bốn pháp thân, ngữ, ý, tướng thanh tịnh. Như vậy, không sanh tâm tham, sân, si, mạn, dối gạt, kiến chấp tương ưng với tà kiến. Bồ Tát này do không sanh tâm tham, sân, si v.v... nên rốt ráo không đọa vào thai người nữ, thường được hóa sanh, xa lìa cảnh giới hiểm ác; trừ khi vì nhân duyên làm lợi lạc cho hữu tình. Bồ Tát này từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu, thường không xa Phật.
Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát muốn được công đức thắng lợi như vậy, phải học Bát nhã, không được bê trễ!
4. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 485, Hội thứ III.
(Tương đương với phẩm “Hành Tướng”, cuối quyển 409
cho đến đầu quyển 410, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát không phương tiện khéo léo khi tu hành Bát nhã, nếu hành sắc cho đến thức là hành nơi tướng chớ chẳng hành Bát nhã. Nếu hành sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng là hành nơi tướng, chớ chẳng hành Bát nhã. (Q.485, ĐBN)
Nếu các Bồ Tát không phương tiện khéo léo khi tu hành Bát nhã, nếu hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi, hoặc hành năm nhãn, sáu thần thông Ba la mật, hoặc hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là hành nơi tướng, chớ chẳng hành Bát nhã.
Nếu các Bồ Tát không phương tiện khéo léo khi tu hành Bát nhã mà khởi nghĩ này: Ta hành Bát nhã. Đó là hành có sở đắc, như vậy là hành nơi tướng. Nếu khởi nghĩ này: Ta là Bồ Tát, đó là có sở đắc tức là hành nơi tướng. Nếu khởi nghĩ này: Ta thường tu hành Bát nhã như thế. Đấy là Bồ Tát tu hành Bát nhã có sở đắc, như vậy là hành nơi tướng.
Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát khởi các thứ phân biệt như thế tu hành Bát nhã, phải biết Bồ Tát ấy vì không phương tiện khéo léo nên chẳng phải hành Bát nhã.
Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử rằng:
- Nếu các Bồ Tát không phương tiện khéo léo, khi tu hành Bát nhã hoặc đối sắc cho đến thức trụ tưởng thắng giải, đã trụ như vậy liền sanh tạo tác. Bởi do tạo tác nên chẳng năng giải thoát sanh lão bệnh tử... Hoặc đối nhãn xứ cho đến mười tám giới trụ tưởng thắng giải, đã trụ như vậy liền sanh tạo tác. Hoặc đối nhãn xúc cho đến ý xúc trụ tưởng thắng giải, đã trụ như vậy liền sanh tạo tác. Hoặc đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ trụ tưởng thắng giải, đã trụ như vậy liền sanh tạo tác. Bởi do tạo tác nên chẳng năng giải thoát sanh lão bệnh tử sầu than buồn não và các thứ khổ khác.
Nếu các Bồ Tát không phương tiện khéo léo khi tu hành Bát nhã, nói rộng ra, đối với tất cả pháp Phật trụ tưởng thắng giải, đã trụ như vậy liền sanh tạo tác. Bởi do tạo tác nên chẳng năng giải thoát sanh lão bệnh tử sầu than buồn não và các thứ khổ khác.
Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát này vì không phương tiện khéo léo, hãy chẳng thể trụ bậc Thanh Văn, Độc giác, huống được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Xá Lợi Tử! Nếu các Bồ Tát khởi tưởng như thế tu hành Bát nhã, phải biết đó là người không phương tiện khéo léo, muốn thành tựu các việc mà không có phương tiện thì làm điều gì cũng không thể thành tựu được.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Làm sao biết được các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã có phương tiện khéo léo?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Nếu các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã chẳng hành sắc cho đến thức, chẳng hành nơi tướng. Chẳng hành sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng hành nơi tướng. Vì sao? Vì Sắc không này chẳng phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Đối các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, giác phần, Ba la mật, năm nhãn, sáu thông, mười lực cho đến pháp Phật bất cộng cũng lại như thế.
Xá Lợi Tử! Phải biết các Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã có phương tiện khéo léo. Các Bồ Tát này vì có phương tiện khéo léo nên có khả năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Xá lợi Tử! Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã, đối với Bát nhã không chấp lấy hành, không chấp lấy không hành, không chấp lấy cũng hành, cũng không hành, không chấp lấy chẳng phải hành, chẳng phải không hành, đối với không chấp lấy cũng không chấp.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Vì nhân duyên gì mà các Bồ Tát này đối Bát nhã Ba la mật không chỗ chấp lấy?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Do tự tánh Bát nhã Ba la mật bất khả đắc. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật như thế cũng lấy vô tánh làm tự tánh vậy.
Này Xá lợi Tử! Do nhân duyên này Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã, đối với Bát nhã Ba la mật hoặc chấp hành, hoặc chấp không hành, hoặc chấp cũng hành, cũng không hành, hoặc chấp chẳng hành chẳng không hành, hoặc chấp không chấp. Như vậy, tất cả chẳng phải hành Bát nhã. Vì sao? Vì tất cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh của nó, đều không thủ, không chấp. Đó là Bồ Tát đối với tất cả pháp không chấp trước Tam ma địa. Tam ma địa này vi diệu, thù thắng, rộng lớn vô lượng, có thể tập hợp vô biên vô ngại tác dụng, không đồng với tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu các Bồ Tát thường đối với Tam ma địa thù thắng như thế thường trụ chẳng nới, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Các Bồ Tát chỉ đối với một Tam ma địa này thường trụ không xả, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hay còn có các Tam ma địa nào khác?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Chẳng những đối một thắng đẳng trì đây thường trụ chẳng xả, khiến các Bồ Tát mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, lại còn có nhiều đẳng trì khác nữa.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Đó là những đẳng trì nào?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát lại có Kiện hành đẳng trì, Bảo ấn đẳng trì, Sư tử Du hý đẳng trì, Chư pháp hải đẳng trì, Quán đảnh đẳng trì, Pháp giới quyết định đẳng trì, Quyết định tràng tướng đẳng trì, Kim cương dụ đẳng trì, Vào các pháp ấn đẳng trì, An trụ định đẳng trì, Vương ấn đẳng trì, Tinh tiến lực đẳng trì, Đẳng dũng xuất đẳng trì, Vào lời quyết định đẳng trì, Vào tăng ngữ đẳng trì, Quán phương đẳng trì, Các pháp bình đẳng tới đẳng trì, Trùm khắp hư không đẳng trì, Kim cương luân đẳng trì, Thắng tràng tướng đẳng trì, Đế tràng tướng đẳng trì, Nguyệt tràng tướng đẳng trì, Thuận kiên cố đẳng trì, Sư tử phấn tấn đẳng trì, Quảng khai xiển đẳng trì, Xả trần ái đẳng trì, Biến chiếu đẳng trì, Chẳng nháy mắt đẳng trì, Trụ vô tướng đẳng trì, Quyết định đẳng trì, Ly cấu hạnh đẳng trì, Vô biên quang đẳng trì, Pháp quang đẳng trì, Phổ chiếu đẳng trì, Tịnh tòa đẳng trì, Vô cấu quang đẳng trì, Phát ái lạc đẳng trì, Điển đăng đẳng trì, Vô tận đẳng trì, Nan thắng đẳng trì, Cụ oai quang đẳng trì, Ly tận đẳng trì, Vô thắng đẳng trì, Khai hiển đẳng trì, Nhật đăng đẳng trì, Tịnh nguyện đẳng trì, Tịnh quang đẳng trì, Phát minh đẳng trì, Tác vô tác đẳng trì, Trí tướng đẳng trì, Trụ tâm đẳng trì, Phổ minh đẳng trì, Thiện trụ đẳng trì, Bảo tích đẳng trì, Diệu pháp ấn đẳng trì, Chư pháp đẳng ý đẳng trì, Xả ái lạc đẳng trì, Pháp dũng đẳng trì, Phiêu tán đẳng trì, Phân biệt pháp cú đẳng trì, Vào chữ bình đẳng đẳng trì, Lìa tướng văn tự đẳng trì, Đoạn sở duyên đẳng trì, Vô biến dị đẳng trì, Phẩm loại đẳng trì, Nhập danh định tướng đẳng trì, Vô tướng hành đẳng trì, Lìa mù tối đẳng trì, Cụ hạnh đẳng trì, Vô động đẳng trì, Cảnh tướng vắng lặng đẳng trì, Nhóm các công đức đẳng trì, Trụ quyết định đẳng trì, Tịnh diệu hoa đẳng trì, Cụ giác chi đẳng trì, Vô biên biện đẳng trì, Vô đẳng đẳng đẳng trì, Vượt tất cả đẳng trì, Khéo phân biệt đẳng trì, Thưa lưới nghi đẳng trì, Vô sở trụ đẳng trì, Nhất tướng trang nghiêm đẳng trì, Dẫn phát hành tướng đẳng trì, Nhất hạnh đẳng trì, Xả hành tướng đẳng trì, Thấu đáy các cõi biến khác đẳng trì, giải thoát âm thanh văn tự đẳng trì, Cụ uy đức đẳng trì, Cự xí nhiên đẳng trì, Tịnh giả đẳng trì, Vô trược nhẫn đẳng trì, Vào các hành tướng đẳng trì, Chẳng vui mừng tất cả đẳng trì, Vô tận hành tướng đẳng trì, Cụ đà la ni đẳng trì, Nhiếp phục tất cả tánh chánh tà đẳng trì, Lìa nghịch thuận đẳng trì, Lìa tắng ái đẳng trì, Vô cấu minh đẳng trì, Cụ kiên cố đẳng trì, Mãn nguyệt tịnh quang đẳng trì, Điển quang hiện đẳng trì, Đại trang nghiêm đẳng trì, Chiếu nhất thiết thế gian đẳng trì, định bình đẳng ý đẳng trì, Vô trần hữu trần bình đẳng lý thú đẳng trì, Vô tránh hữu tránh bình đẳng lý thú đẳng trì, Vô sào huyệt đẳng trì, Vô tiêu xí đẳng trì, Quyết định trụ chơn như đẳng trì, Hoại thân ngữ ý ác hành đẳng trì, Như hư không đẳng trì, Không nhiễm dính như hư không đẳng trì.
Xá Lợi Tử! Nếu các Bồ Tát đối các thắng đẳng trì như thế thảy thường trụ chẳng xả, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Xá Lợi Tử! Ngoài ra, lại có vô lượng vô số Tam ma địa môn, Đà la ni môn, nếu các Bồ Tát thường học trong đó cũng được mau chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, Thiện Hiện thừa oai thần của Phật, lại bảo cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ Tát an trụ các đẳng trì thù thắng như thế, phải biết đã được chư Phật quá khứ trao ký, cũng được chư Phật hiện tại mười phương trao ký rồi.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát này tuy trụ các Tam ma địa như vậy nhưng không thấy các Tam ma địa này, cũng không chấp các Tam ma địa như vậy, cũng không nghĩ: Ta đã nhập, ta đang nhập, ta sẽ nhập các Tam ma địa này. Chỉ mình Ta mới có thể nhập, người khác không thể nhập được. Đối với các suy nghĩ lệch lạc như vậy cũng không phát sanh.
Khi đó, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Có chắc là chỉ riêng có các Bồ Tát an trụ các Tam ma địa như vậy, đã được chư Phật quá khứ, hiện tại trao ký chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Xá Lợi Tử! Chẳng riêng. Vì sao? Xá Lợi Tử! Hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc Tam ma địa, hoặc các Bồ Tát đều không riêng khác. Bát nhã Ba la mật tức Tam ma địa, Tam ma địa tức các Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh bình đẳng vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Nếu Tam ma địa chẳng khác Bồ Tát, Bồ Tát chẳng khác Tam ma địa, Tam ma địa tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là Tam ma địa, vì tất cả pháp tánh bình đẳng, thì các Bồ Tát làm thế nào đối với tất cả pháp như thật hiểu biết chỉ rõ sự chứng nhập Tam ma địa của mình được?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi nhập các định, không nghĩ: Ta nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy, do nhân duyên này các Bồ Tát tuy nương vào tánh bình đẳng của tất cả pháp mà chứng nhập các đẳng trì như vậy, nhưng đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp và các đẳng trì không phát sanh nghĩ tưởng, hiểu biết. Vì sao? Vì tất cả pháp và các đẳng trì, hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu, sự phân biệt, nghĩ tưởng, hiểu biết không thể phát sanh.
Liền khi đó đức Thế Tôn khen Thiện Hiện rằng:
- Lành thay, lành thay! Như ngươi đã nói. Nên ta nói ngươi trụ định Vô tránh trong chúng Thanh Văn rất là đệ nhất. Vì tương ưng với nghĩa Ta nói, trong tánh bình đẳng không có sự chống trái nhau. Các Bồ Tát muốn học Bát nhã, nên học như thế. Muốn học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chi, nên học như thế. Muốn học mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên học như thế.
Khi ấy, Xá Lợi Tử liền thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào học như vậy chánh là học Bát nhã, cho đến chính là học mười tám pháp Phật bất cộng có phải như vậy không?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi tu học như thế là chính học Bát nhã cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tư lại thưa Phật rằng:
- Nếu Bồ Tát khi học như thế đều lấy vô sở đắc làm phương tiện mà học Bát nhã cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chăng?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Chính thế!
Xá Lợi Tử nói: Vô sở đắc ấy ý muốn nói về bất khả đắc chăng?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Vô sở đắc ấy, có nghĩa ngã bất khả đắc cho đến kiến giả bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Các uẩn, xứ, giới và duyên khởi bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Cõi Dục, Sắc, Vô sắc bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Dự lưu cho đến Độc giác bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Bồ Tát, chư Phật, Bồ đề, Niết Bàn bất khả đắc, vì rốt ráo thanh tịnh vậy.
Xá Lợi Tử lại hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Rốt ráo thanh tịnh ấy, có nghĩa thế nào?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Tức tất cả pháp vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô xuất vô nhập, vô đắc vô vi. Như vậy gọi là nghĩa rốt ráo thanh tịnh vậy. (Q. 485, ĐBN)
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khi học như vậy là học những gì?
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi học như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không chỗ học. Vì sao? Vì không thể trong tất cả pháp như vậy, mà có các hàng phàm phu ngu muội, chấp trước có thể học.
Xá Lợi Tử nói:
- Các pháp như vậy làm sao mà có được?
Phật dạy:
- Các pháp Vô sở hữu như vậy mà có được. Nếu đối với pháp vô sở hữu như vậy không thể hiểu rõ thì gọi là vô minh.
Xá lợi Tử hỏi:
- Những pháp gì vô sở hữu hoặc không hiểu biết được gọi là vô minh?
Phật nói:
- Phật dạy:
Xá Lợi Tử! Sắc cho đến thức vô sở hữu. Như vậy, cho đến bốn niệm trụ đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu. Do vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không vậy. Ngu phu dị sanh đối pháp vô sở hữu như thế thảy chẳng thấu rõ được, nên gọi là vô minh. Do vô minh và thế lực của ái, phân biệt chấp trước hai bên đoạn thường. Do đấy chẳng biết chẳng thấy tánh các pháp vô sở hữu, phân biệt các pháp. Do vì phân biệt nên chấp trước sắc thọ tưởng hành thức cho đến chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Do vì chấp trước nên phân biệt tánh các pháp vô sở hữu. Do đây đối pháp chẳng biết chẳng thấy.
Xá Lợi Tử nói:
- Bạch Thế Tôn! Đối với những pháp nào không biết, không thấy?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Đối sắc cho đến thức chẳng biết chẳng thấy. Như vậy, cho đến đối bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng biết chẳng thấy. Vì đối các pháp chẳng biết chẳng thấy đọa ở trong số ngu phu dị sanh chẳng ra khỏi được.
Xá Lợi Tử nói:
- Ngu phu dị sanh chẳng thể thoát chỗ nào?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Họ không thoát khỏi cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Vì không thoát khỏi ba cõi bèn đối pháp Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát, chư Phật chẳng năng thành tựu được. Bởi không thành tựu, vì không tin hiểu các pháp thậm thâm.
Xá Lợi Tử nói:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào là pháp thậm thâm mà chẳng thể tin hiểu?
Phật nói:
- Pháp ấy là sắc không cho đến thức không, không thể tin hiểu. Cứ như vậy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều là không, không thể tin hiểu hết được. Do không thể tin hiểu đối với pháp năng giác sở giác không, nên không thể trụ vào pháp cần phải học.
Xá lợi Tử hỏi:
- Pháp nào cần phải học mà người ấy không thể trụ vào?
Phật dạy:
- Xá lợi Tử! Người kia không thể an trụ đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng không thể trụ vào bậc Bất thối chuyển và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Do đây nên gọi là phàm phu ngu si dị sanh. Vì đối với các pháp chấp trước có tánh. Nghĩa là chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn xứ cho đến ý xứ, sắc xứ cho đến pháp xứ, nhãn giới cho đến ý thức giới, tham, sân, si và các kiến thú, niệm trụ cho đến Bồ đề, Niết bàn v.v... đều có tánh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Có Bồ Tát nào học như vậy mà không học Bát nhã, nên không thể thành tựu Nhất thiết trí trí chăng?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát học như thế, không học Bát nhã Ba la mật, nên không thành tựu Nhất thiết trí trí.
Xá Lợi Tử nói:
- Vì sao Bồ Tát học như thế là không học Bát nhã Ba la mật?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Nếu các Bồ Tát vì không phương tiện khéo léo, thường phân biệt chấp trước Bát nhã Ba la mật cho đến phân biệt chấp trước bố thí. Phân biệt chấp trước bốn niệm trụ cho đến phân biệt chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Phân biệt chấp trước Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Bởi nhân duyên đây, có các Bồ Tát học như thế chẳng phải học Bát nhã Ba la mật, chẳng năng thành xong Nhất thiết trí trí.
Xá Lợi Tử nói:
- Vậy, làm thế nào Bồ Tát tu hành Bát nhã mau thành tựu Nhất thiết trí trí?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã chẳng thấy Bát nhã, cho đến chẳng thấy Nhất thiết tướng trí. Như vậy, là Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật. Khi tu hành như thế thời mau thành tựu Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.
Xá Lợi Tử nói:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này đối pháp nào lấy vô sở đắc làm phương tiện?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát này khi tu hành bố thí Ba la mật, đối bố thí Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện. Cho đến khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện. Cho đến khi cầu Bồ đề, đối Bồ đề lấy vô sở đắc làm phương tiện. Cho đến khi cầu Nhất thiết tướng trí, đối nhất thiết tướng trí lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Xá Lợi Tử nói:
- Bồ Tát này khi tu học Bát nhã, đem vô sở đắc của những pháp nào làm phương tiện?
Phật nói:
- Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật lấy nội không vô sở đắc làm phương tiện. Cho đến lấy vô tánh tự tánh không vô sở đắc làm phương tiện. Nhờ nhân duyên đây mau được thành tựu Nhất thiết trí trí. (Q. 485, ĐBN)
5. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 485, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Huyễn Dụ”, phần cuối quyển 410, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu có người đến hỏi như vầy: Nếu kẻ huyễn học Bát nhã cho đến bố thí Ba la mật, học bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, kẻ đó có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí chăng? Bạch Thế Tôn! Trong trường hợp đó, con phải đối đáp như thế nào cho phải?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ta lại hỏi ngươi, tùy ý ngươi đáp. Ý ngươi nghĩ sao? Sắc cho đến thức cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Mười hai xứ cho đến mười tám giới cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Nhãn xúc cho đến ý xúc cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng kẻ huyễn có khác nhau chăng? (Q.485, ĐBN)
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng khác. Vì sao? Sắc chẳng khác huyễn, huyễn chẳng khác sắc. Sắc tức là huyễn, huyễn tức là sắc. Cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng lại như thế!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Huyễn có nhiễm có tịnh chăng? Có sanh có diệt chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu pháp không nhiễm không tịnh, không sanh không diệt, pháp ấy có khả năng học Bát nhã Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí, mau thành tựu Nhất thiết trí trí chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng được vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao ở trong năm uẩn sanh ra các tưởng, từ tưởng sanh ra ngôn thuyết giả gọi Bồ Tát phải không?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao ở trong năm uẩn khởi sanh các tưởng, từ tưởng phát ra ngôn thuyết giả lập kẻ có sanh diệt có nhiễm tịnh khá được chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể được.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu pháp không tưởng, không tưởng hai, không thi thiết, không lời nói, không giả danh, không thân không nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý không ý nghiệp, không sanh diệt, không nhiễm tịnh, pháp ấy có khả năng học Bát nhã, mau thành tựu Nhất thiết trí trí chăng? (Q.485, ĐBN)
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể được vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, tu học Bát nhã thẳm sâu như thế quyết định thành tựu Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu các Bồ Tát muốn được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải như huyễn nhân mà học Bát nhã. Vì sao? Phải biết huyễn nhân tức là năm uẩn.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Năm uẩn như huyễn có khả năng học Bát nhã, thành xong Nhất thiết trí trí chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng năng. Vì sao? Năm uẩn như huyễn lấy vô tánh làm tự tánh, vì vô tánh tự tánh bất khả đắc vậy.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Năm uẩn như mộng, như vang, như bóng sáng, như ánh nắng, như tượng trong gương, như trò biến hóa, có khả năng học Bát nhã chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng năng. Vì sao? Năm uẩn như mộng cho đến như biến hóa lấy vô tánh làm tự tánh, vì vô tánh tự tánh bất khả đắc vậy.
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao năm uẩn như huyễn v.v... đều có tánh khác không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngũ uẩn như huyễn cho đến như biến hóa tức là ngũ uẩn như mộng. Năm uẩn như huyễn cho đến như biến hóa tức là sáu căn như huyễn cho đến như biến hóa. Sáu căn như huyễn cho đến như biến hóa tức là năm uẩn như huyễn cho đến như biến hóa. Như vậy, tất cả đều do pháp không nội nên bất khả đắc, cho đến pháp không không tánh tự tánh nên bất khả đắc.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu các Bồ Tát tân học Đại Thừa nghe thuyết Bát nhã thẳm sâu như thế, tâm kia có kinh, có e, có sợ chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát tân học Đại Thừa tu hành Bát nhã, nếu không phương tiện khéo léo, và không có bạn lành nhiếp hộ, nghe thuyết Bát nhã thẳm sâu như thế, nơi tâm có kinh, có e, có sợ.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Những Bồ Tát nào tu hành Bát nhã nếu có phương tiện khéo léo, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, nơi tâm chẳng kinh chẳng e chẳng sợ?
Phật bảo:
- Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã, đem tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí quán tướng vô thường của sắc bất khả đắc, quán tướng vô thường của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng khổ của sắc cũng bất khả đắc, quán tướng khổ của thọ, tưởng, hành, thức cũng bất khả đắc. Quán tướng vô ngã, quán tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện, tịch tịnh, viễn ly của ngũ uẩn cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã vì có phương tiện khéo léo, nên nghe nói Bát nhã thẳm sâu như vậy, tâm chẳng kinh, chẳng e, chẳng sợ.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ Tát nào quán như vậy rồi, lại nghĩ: Ta sẽ đem vô sở đắc làm phương tiện vì tất cả hữu tình nói tướng vô thường của năm uẩn như vậy cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát nhã không chấp bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã, xa lìa tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác, mà tư duy tướng vô thường của năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc, vì đem vô sở đắc làm phương tiện. Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát nhã không chấp tịnh giới Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, quán pháp như vậy, tướng vô thường cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Có thể ở trong đó an nhẫn vui thích, chẳng kinh, chẳng e, chẳng sợ. Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát nhã không chấp trước an nhẫn Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã đem tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, thường quán tướng vô thường của năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Tuy đem vô sở đắc làm phương tiện nhưng thường không bỏ tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, thường tu Bát nhã. Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát nhã không chấp trước tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã, không đem tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác mà tư duy tướng vô thường của năm uẩn cũng bất khả đắc; tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, vô tướng, vô nguyện v.v… cũng bất khả đắc. Vì đem vô sở đắc làm phương tiện, ở trong đó không phát sanh tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác và tâm tán loạn, bất thiện khác làm chướng ngại Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát nhã không chấp trước tịnh lự Ba la mật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã, như thật quán sát chẳng phải không sắc nên nói sắc là không, sắc tức là không, không tức là sắc; thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Nhãn xứ cho đến ý xứ, sắc xứ cho đến pháp xứ, nhãn giới cho đến ý giới, sắc giới cho đến pháp giới, nhãn thức giới cho đến ý thức giới, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng lại như thế. Đấy là Bồ Tát không chấp Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Như vậy Bồ Tát tu hành Bát nhã có phương tiện khéo léo, nên nghe thuyết Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, nơi tâm chẳng kinh, chẳng e, chẳng sợ.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Sao là Bồ Tát được các bạn lành nhiếp hộ, nên nghe thuyết Bát nhã thẳm sâu như thế, nơi tâm chẳng kinh chẳng e chẳng sợ?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bạn lành các Bồ Tát ấy là: Nếu năng đem vô sở đắc làm phương tiện, nói sắc cho đến thức tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng vắng lặng, tướng xa lìa bất khả đắc. Nói mười hai xứ cho đến mười tám giới, tướng vô thường cho đến tướng xa lìa cũng bất khả đắc. Nói nhãn xúc cho đến ý xúc tướng vô thường cho đến tướng xa lìa cũng bất khả đắc. Và khuyên nương đây siêng tu căn lành, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng hướng đến Thanh Văn và bậc Độc giác. Phải biết đấy là bạn lành Bồ Tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bạn lành các Bồ Tát ấy là: Nếu thường đem vô sở đắc làm phương tiện, nói tu bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi bất khả đắc. Nói tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn bất khả đắc. Nói tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất khả đắc. Nói tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc. Mà khuyên nương đây siêng tu căn lành hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng hướng đến Thanh Văn và bậc Độc giác. Phải biết, đấy là bạn lành Bồ Tát.
Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát được bạn lành đây nhiếp hộ, nghe thuyết Bát nhã thẳm sâu như thế, thì nơi tâm chẳng kinh, chẳng e, chẳng sợ.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Sao là Bồ Tát tu hành Bát nhã không phương tiện khéo léo, nên nghe thuyết Bát nhã Ba la mật-đa thẳm sâu như thế nơi tâm có kinh, có e, có sợ?
Phật bảo:
- Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã, lấy sở đắc làm phương tiện, xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí tu hành Bát nhã. Đối với Bát nhã thấy có chứng có đắc, ỷ lại, lấy sở đắc làm phương tiện nên xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Tuy tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Đối với tu tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật thấy có chứng có đắc, ỷ lại, lấy sở đắc làm phương tiện, nên xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Tu hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đối với việc tu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thấy có chứng có đắc, ỷ lại, lấy sở đắc làm phương tiện nên xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, không có phương tiện thiện xảo, nên nghe nói Bát nhã thẳm sâu, tâm họ có kinh, có hãi, có e ngại.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Sao là Bồ Tát tu hành Bát nhã bị các bạn ác nhiếp dẫn, nên nghe thuyết Bát nhã thẳm sâu như thế, nơi tâm có kinh, có e, có sợ?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bạn ác các Bồ Tát ấy là dạy chán lìa Bát nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi nói lời này: “Thiện nam tử! Các ngươi đối đây chẳng nên tu học. Vì sao? Sáu thứ Ba la mật như thế chẳng phải Phật nói, là kẻ văn tụng chế tạo để dối gạt. Vậy nên, các ngươi chẳng nên nghe tập, đọc tụng, thọ trì, suy nghĩ, nghiên cứu, vì người tuyên nói”. Phải biết đấy là bạn ác Bồ Tát. Lại có ác ma giả làm hình tượng Phật, đến chỗ Bồ Tát tuyên nói khai chỉ pháp tương ưng Thanh Văn, Độc giác, nghĩa là Khế Kinh cho đến Luận nghĩa, phân biệt rõ ràng, khiến chuyên tu học. Lại có ác ma giả làm hình tượng Phật, đến chỗ Bồ Tát nói lời như vầy: “Ngươi chẳng phải Bồ Tát, không có Bồ đề tâm, chẳng thể an trụ bậc Bất thối chuyển được, chẳng đắc chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Lại có ác ma giả làm hình tượng Phật, đến chỗ Bồ Tát khởi lời này rằng: “Thiện nam tử! Sắc cho đến ý không, không có ngã, ngã sở. Sắc cho đến pháp không, không có ngã, ngã sở. Nhãn thức cho đến ý thức không, không có ngã, ngã sở. Nhãn xúc cho đến ý xúc không, không có ngã, ngã sở. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, không có ngã, ngã sở. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không, không có ngã, ngã sở. Bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không, không có ngã, ngã sở, thì cần chi đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Lại có ác ma giả làm hình tượng Độc giác đến chỗ Bồ Tát nói lời này: “Thiện nam tử! Mười phương thế giới chư Phật, Bồ Tát và chúng Thanh Văn tất cả đều không. Ngươi đối việc này nên thâm tín thọ, chớ tự khó nhọc cúng dường, lóng nghe Chánh pháp, như lời đã dạy mà tu hành”. (Q.485, ĐBN)
Lại có ác ma làm hình tượng Thanh Văn đến chỗ Bồ Tát khiến rất nhàm lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, khiến siêng tu học tác ý tương ưng Thanh Văn, Độc giác. Lại có ác ma làm hình tượng thầy giáo mô phạm đến chỗ Bồ Tát khiến rất nhàm lìa thắng hạnh Bồ Tát, chỗ gọi sáu thứ Ba la mật, và khiến nhàm lìa Nhất thiết trí trí, chỗ gọi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chỉ dạy siêng tu bốn niệm trụ v.v…, cho mau chứng được Nhị thừa, nhàm lìa sở cầu quả Vô thượng thừa. Lại có ác ma giả làm hình tượng cha mẹ đến chỗ Bồ Tát bảo rằng: “Con con! Ngươi phải tinh siêng cầu chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán đủ để dứt trừ đại khổ sanh tử, cần chi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kẻ cầu Bồ đề phải trải vô lượng, vô số đại kiếp luân hồi sanh tử, giáo hóa hữu tình, xả bỏ thân mạng, cắt đứt tay chân, luống chịu nhọc nhằn, ai mang ơn ngươi. Sở cầu Bồ đề có thể được hoặc chẳng được”.
Lại có ác ma giả làm hình tượng Bí sô đến chỗ Bồ Tát đem hữu sở đắc làm phương tiện, nói sắc cho đến thức có tướng vô thường, tướng khổ, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng vắng lặng, tướng xa lìa chân thật có thể đắc. Nói nhãn cho đến ý có tướng vô thường cho đến tướng xa lìa chân thật có thể đắc. Nói sắc cho đến pháp có tướng vô thường cho đến tướng xa lìa chân thật có thể đắc. Nói nhãn thức cho đến ý thức có tướng vô thường cho đến tướng xa lìa chân thật có thể đắc. Nói nhãn xúc cho đến ý xúc có tướng vô thường cho đến tướng xa lìa chân thật có thể đắc. Nói nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có tướng vô thường cho đến tướng xa lìa chân thật có thể đắc. Đem hữu sở đắc mà làm phương tiện, nói bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chân thật có thể đắc, khiến kia tu học. (Q.485, ĐBN)
Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật bị phải bạn ác này nhiếp dẫn, thì khi nghe thuyết Bát nhã thẳm sâu như thế nơi tâm có kinh, có e, có sợ. Vậy nên, Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật đối các bạn ác nên xem xét kỹ, phương tiện tránh xa, nếu không sẽ lui mất Bồ Đề tâm, bỏ Bồ Tát hạnh, chẳng thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
6. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 486, Hội thứ III.
(Tương đương với phẩm “Thí Dụ”, đầu quyển 411, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đã nói về Bồ Tát, vậy những gì gọi là cú nghĩa Bồ Tát?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vô cú nghĩa là cú nghĩa Bồ Tát. Vì sao? Thiện Hiện! Bồ đề chẳng sanh, Tát đỏa chẳng có, cú nghĩa ở trong ấy lý bất khả đắc, nên vô cú nghĩa là cú nghĩa Bồ Tát.
Thiện Hiện! Ví như không trung thật không ghi dấu chim bay, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cảnh mộng thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như việc huyễn thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như ánh nắng, bóng sáng, tiếng vang, ảnh tượng, biến hóa thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa chơn như thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa sắc cho đến thức thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như huyễn sĩ, cú nghĩa mười hai xứ cho đến cú nghĩa mười tám giới thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như huyễn sĩ, cú nghĩa nhãn xúc cho đến cú nghĩa ý xúc thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như huyễn sĩ, cú nghĩa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến cú nghĩa ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như huyễn sĩ, cú nghĩa địa giới cho đến cú nghĩa thức giới thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như huyễn sĩ, cú nghĩa vô minh cho đến cú nghĩa lão tử thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như huyễn sĩ hành cú nghĩa nội không cho đến cú nghĩa vô tánh tự tánh không thật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Nói rộng ra, ví như huyễn sĩ hành cú nghĩa tất cả pháp Phật vô sở hữu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa sắc tướng cho đến cú nghĩa thức tướng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa tướng mười hai xứ cho đến cú nghĩa tướng mười tám giới của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa tướng nhãn xúc cho đến cú nghĩa tướng ý xúc của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa tướng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến cú nghĩa tướng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa tướng địa giới cho đến cú nghĩa tướng thức giới của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa vô minh cho đến cú nghĩa lão tử của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa tướng pháp nội không, cho đến cú nghĩa tướng pháp vô tánh tự tánh không của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa tướng bốn niệm trụ, cho đến cú nghĩa tướng mười tám pháp Phật bất cộng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật không có sở hữu. Khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như trong giới vô vi, cú nghĩa giới hữu vi thật vô sở hữu. Trong giới hữu vi, cú nghĩa giới vô vi cũng thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như cú nghĩa vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô thành vô hoại, vô đắc vô xả, vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Vì sao? Thiện Hiện! Ví như sắc cho đến thức, cú nghĩa vô sanh vô diệt, cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như mười hai xứ cho đến mười tám giới, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như nhãn xúc cho đến ý xúc, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như địa giới cho đến thức giới, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Thiện Hiện! Ví như vô minh cho đến lão tử, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. (Q.486, ĐBN)
Thiện Hiện! Ví như sắc cho đến thức rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như mười hai xứ cho đến mười tám giới rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như nhãn xúc cho đến ý xúc rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như nhãn xúc cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như địa giới cho đến thức giới rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như vô minh cho đến lão tử rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như nội không cho đến vô tánh tự tánh không rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Ví như bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo thanh tịnh, cú nghĩa vô sanh vô diệt cho đến cú nghĩa vô nhiễm vô tịnh thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. (Q.486, ĐBN)
Thiện Hiện! Ví như khi mặt trời mọc cú nghĩa của sự tối tăm thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như khi đại kiếp đã hết, cú nghĩa các hành thật vô sở hữu. Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong nhóm tịnh giới, cú nghĩa phạm giới thật vô sở hữu; trong nhóm tịnh định, cú nghĩa tán loạn thật vô sở hữu; trong nhóm định tuệ, cú nghĩa ngu si thật vô sở hữu; trong nhóm giải thoát, cú nghĩa trói buộc thật vô sở hữu; trong nhóm giải thoát trí kiến, cú nghĩa không giải thoát tri kiến thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi hành Bát nhã thẳm sâu, cú nghĩa Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu.
Thiện Hiện! Ví như trong ánh quang minh của mặt trời, mặt trăng, trời Ba mươi ba nói rộng cho đến trời Sắc cứu cánh, cú nghĩa quang minh của Phật thật vô sở hữu. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã thâm sâu, cú nghĩa của Bồ Tát cũng lại như vậy, thật vô sở hữu. Vì sao? Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc Bồ Tát, hoặc cú nghĩa của Bồ Tát, các pháp như thế đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi là vô tướng. Ở trong tất cả pháp các đại Bồ Tát chẳng phải thật có, không chấp trước, không ngăn ngại, nên siêng tu học, nên chính giác biết.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tất cả pháp? Các đại Bồ Tát làm sao đối trong tất cả pháp chẳng phải thật có, không trước không ngại nên siêng tu học, nên chính giác biết?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tất cả pháp ấy là pháp thiện phi thiện, pháp hữu ký pháp vô ký, pháp thế gian xuất thế gian, pháp hữu lậu pháp vô lậu, pháp hữu vi pháp vô vi, pháp cộng pháp bất cộng, các như thế thảy gọi tất cả pháp. Các đại Bồ Tát đối trong tất cả pháp chẳng phải thật có như thế, không trước không ngại nên siêng tu học, nên chính giác biết. (Q.486, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi là pháp thiện thế gian?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Pháp thiện thế gian ấy là hiếu thuận cha mẹ, cúng dường Sa Môn và Bà la môn, kính thờ Sư trưởng. Hoặc việc thí tánh phước nghiệp, hoặc việc giới tánh phước nghiệp, hoặc cứu giúp kẻ bệnh cùng hành phước nghiệp, hoặc phương tiện khéo léo cùng hành phước nghiệp, hoặc thế gian mười thiện nghiệp đạo. Hoặc tưởng sình chướng, hoặc tưởng mủ bẫy, hoặc tưởng bầm xanh, hoặc tưởng đỏ khác, hoặc tưởng phá hoại, hoặc tưởng mổ nuốt, hoặc tưởng lìa tan, hoặc tưởng hài cốt, hoặc tưởng đốt cháy. Hoặc thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiên, niệm hít vào thở ra, niệm vắng lặng, niệm thân, niệm chết. Đấy thảy gọi là pháp thiện thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi là phi thiện?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Phi thiện pháp là giết hại sanh mạng, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc nói lời dối gạt, hoặc nói lời thô ác, hoặc nói gây chia rẽ, hoặc nói lời tạp uế, hoặc tham lam, hoặc giận dữ, hoặc tà kiến, hoặc tức giận, hoặc hại, hoặc ganh, hoặc keo bẩn. Những pháp như thế gọi là phi thiện pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi là pháp hữu ký?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tất cả pháp thiện và pháp bất thiện gọi pháp hữu ký.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi pháp vô ký (không thiện không ác gọi là vô ký)?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hoặc thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp vô ký; hoặc bốn đại chủng vô ký; hoặc năm căn vô ký; hoặc sáu xứ vô ký; hoặc các uẩn xứ giới vô sắc vô ký; hoặc quả dị thục vô ký. Hết thảy các pháp như thế gọi là pháp vô ký.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi là pháp thế gian?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nghĩa là thế gian năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, mười hai duyên khởi. Các như thế thảy gọi pháp thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi là pháp xuất thế gian?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Là ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba môn giải thoát. Hoặc căn chưa biết sẽ biết, căn đã biết, căn đủ biết. Hoặc tam ma địa có tầm có tứ, tam ma địa không tầm có tứ, tam ma địa không tầm không tứ. Hoặc minh giải thoát, hoặc nhớ chánh tri, hoặc tác ý như lý. Hoặc tám giải thoát, chín định thứ lớp. Hoặc nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, vô tán không, bổn tánh không, tướng không, nhất thiết pháp không, vô tánh không, vô tánh tự tánh không. Hoặc Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Thảy đây gọi là pháp xuất thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì sao gọi là pháp hữu lậu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nghĩa là thâu nhiếp hết ba cõi năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng tâm, bốn định vô sắc. Các pháp như vậy gọi là pháp hữu lậu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Pháp nào gọi là pháp vô lậu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Là ba mươi bảy phần pháp bồ đề, nói rộng cho đến Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Các như thế thảy gọi pháp vô lậu.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Sao gọi pháp hữu vi?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu pháp có sanh trụ dị diệt, hoặc nhiếp ba cõi, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, nói rộng cho đến Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Các như thế thảy gọi pháp hữu vi.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Sao gọi pháp vô vi?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu pháp không sanh trụ dị diệt, hoặc hết tham sân si, hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng luống dối, tánh chẳng biến khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế. Các như thế thảy gọi pháp vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Pháp nào gọi là chung?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Là thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Các như thế thảy gọi là pháp chung.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Pháp nào gọi là chẳng chung?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nghĩa là ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba môn giải thoát, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Các như thế thảy gọi pháp chẳng chung.
Đối với hết thảy các pháp tự tướng rỗng không như vậy, các đại Bồ Tát không nên chấp trước. Vì tất cả pháp không có phân biệt. Đối với tất cả pháp, các đại Bồ Tát nên dùng vô nhị để làm phương tiện như thật giác, vì tất cả pháp không lay động.
Thiện Hiện nên biết: Đối với tất cả pháp không hai, không lay động, không phân biệt, không chấp trước đây là cú nghĩa Bồ Tát. Vì thế nên không cú nghĩa là cú nghĩa Bồ Tát.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện tiếp thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao Bồ Tát được gọi là Ma ha tát?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát này đối trong chúng đại hữu tình đang làm thượng thủ nên gọi Ma ha tát.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là chúng đại hữu tình mà Bồ Tát trong ấy được làm thượng thủ?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hoặc bậc chủng tánh, hoặc bậc đệ bát, hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác, hoặc sơ phát tâm, lần lữa cho đến bậc Bất thối chuyển. Các đại Bồ Tát, như vậy đều gọi chúng đại hữu tình. Bồ Tát trong ấy đang làm thượng thủ, nên lại gọi Ma ha tát. Nghĩa là các Bồ Tát đã phát tâm Kim cương dụ bền chắc, định chẳng lui hoại. Vậy nên năng đối chúng đại hữu tình đang làm thượng thủ.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi tâm Kim cương dụ bền chắc?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm như vầy: Ta nay phải mặc áo giáp đại công đức, trong đồng nội lớn rộng mênh mông vô biên sanh tử, vì các hữu tình phá dẹp địch phiền não. Ta phải vì khắp tất cả hữu tình làm khô hết biển cả vô biên sanh tử. Ta phải xả bỏ tất cả sở hữu, vì các hữu tình làm đại nhiêu ích. Ta phải bình đẳng lợi ích an vui tất cả hữu tình, tâm không phe đảng thiên lệch. Ta phải dẫn dắt các loại hữu tình đi trên đường Tam thừa tới thành Niết Bàn. Ta dù phải theo Tam thừa tế độ tất cả hữu tình mà chẳng thấy có một hữu tình nào được Niết Bàn. Ta phải giác biết tất cả pháp tánh không nhiễm không tịnh, không sanh không diệt. Ta phải đem thuần tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ta phải tu học đối tất cả pháp thông suốt rốt ráo khắp vào diệu trí. Ta phải thông suốt tất cả Pháp Tướng môn nhất lý thú. Ta phải thông suốt tất cả Pháp Tướng môn nhị lý thú. Ta phải thông suốt tất cả Pháp Tướng môn đa lý thú, không chỗ chấp trước. Ta phải tu học các môn diệu trí, thông suốt các pháp tánh dẫn phát các công đức thù thắng.
Thiện Hiện! Đấy gọi Bồ Tát phát tâm kim cương dụ bền chắc. Nếu đại Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ tâm này quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát phát tâm: Tất cả loại hữu tình trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và người trời chịu các khổ não, ta sẽ thay chịu khiến họ được an vui. Thứ lớp như thế, khắp vì lợi ích tất cả hữu tình, vì họ mỗi mỗi đều trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp chịu các thứ thống khổ nặng nề, mỗi mỗi đều đem vô số phương tiện giáo hóa khiến họ được Vô dư Niết Bàn. Làm việc này rồi, tự trồng căn lành, lại trải qua vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp viên mãn tu nhóm tư lương Bồ đề, nhiên hậu mới chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Thệ nguyện rộng lớn như thế cũng gọi Bồ Tát chỗ phát tâm Kim cương dụ bền chắc. Nếu đại Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ tâm đã quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thường phát khởi tâm rộng lớn. Nhờ tâm đây nên quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình. Trong đây nói tâm Bồ Tát rộng lớn ấy, nghĩa là các Bồ Tát sanh tâm như vầy: Ta từ sơ phát tâm đại Bồ đề cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, định sẽ chẳng khởi tâm tham dục, giận dữ, ngu si, tác hại, tà kiến, khinh dễ…, cũng chẳng khởi tâm cầu tới Thanh Văn, bậc Độc giác. Đấy là tâm rộng lớn Bồ Tát. Nếu đại Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ tâm đây quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thường pháp khởi tâm chẳng nghiêng động. Nhờ tâm đây nên quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình. Trong đây sao gọi tâm chẳng nghiêng động? Nghĩa là các Bồ Tát phát tâm như vầy: Ta phải thường nương tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tu tập phát khởi tất cả sự nghiệp sở tu sở tác mà không kiêu mạn. Đấy gọi tâm chẳng nghiêng động Bồ Tát. Nếu các đại Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ tâm đây quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối các hữu tình bình đẳng phát khởi tâm lợi ích an vui. Nhờ tâm đây nên quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình. Trong đây nói tâm Bồ Tát lợi vui, là các Bồ Tát phát tâm như vầy: Ta phải quyết định cùng đời vị lai lợi ích an vui tất cả hữu tình, vì làm nơi nương về, cồn bãi, nhà cửa, thường chẳng bỏ lìa. Đấy gọi tâm Bồ Tát lợi vui. Nếu đại Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện an trụ tâm đây quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thường siêng năng tinh tấn ái pháp, nhạo pháp, hân pháp, hỷ pháp. Do yếu tố này quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình. Trong đây pháp là tất cả pháp không có tánh sai khác, đó gọi là pháp. Ái pháp nghĩa là có ý muốn mong cầu pháp này. Nhạo pháp nghĩa là ca ngợi tán thán công đức của pháp ấy. Hân pháp nghĩa là hoan hỷ tin nhận pháp ấy. Hỷ pháp nghĩa là ưa muốn tu tập thật nhiều đối với pháp ấy. Nếu đại Bồ Tát dùng vô sở đắc làm phương tiện, thường ái nhạo, hân hỷ pháp không phân biệt, không chấp trước thì quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Đại Bồ Tát này quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, nói rộng cho đến Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Đại Bồ Tát này quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, trụ Tam ma địa Kim cương dụ, cho đến trụ Tam ma địa Vô trước vô vi vô nhiễm giải thoát Như hư không. Đại Bồ Tát này quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình.
Thiện Hiện! Phải biết các đại Bồ Tát an trụ các thắng pháp vi diệu đây hành sâu Bát nhã, quyết định sẽ là bậc thượng thủ trong chúng đại hữu tình. Vậy nên, Thiện Hiện, gọi Ma ha tát. (Q.486, ĐBN)
7. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 486, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Đoạn Chư Kiến”, phần giữa quyển 411, Hội thứ II).
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng xin đem chút biện tài muốn thuyết Bồ Tát do nghĩa nào gọi Ma ha tát. Cúi xin thuận cho! (Q.486, ĐBN)
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Tùy ý ngươi thuyết.
Xá Lợi Tử nói:
- Do các Bồ Tát phương tiện khéo léo, vì hữu tình tuyên nói pháp yếu khiến dứt ngã kiến, hữu tình kiến cho đến tri giả kiến, kiến giả kiến. Khiến dứt thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến, uẩn xứ giới kiến, các Thánh đế kiến và duyên khởi kiến. Khiến dứt ba mươi bảy Bồ đề phần pháp kiến, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng kiến, thành thục hữu tình kiến, nghiêm tịnh cõi Phật kiến, Bồ Tát kiến, Như Lai kiến, Bồ đề kiến, Niết Bàn kiến, Chuyển pháp luân kiến. Vì các Bồ Tát phương tiện, vì các hữu tình tuyên nói dứt hẳn các kiến chấp đây. Nương nghĩa như vậy, gọi Ma ha tát.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng:
- Nếu đại Bồ Tát vì hữu tình đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tuyên nói pháp yếu để dứt các kiến chấp, nhân nào duyên nào lại có Bồ Tát tự có sở đắc làm phương tiện khởi lên các thứ kiến uẩn?
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã không phương tiện khéo léo, đem hữu sở đắc làm phương tiện khởi các thứ kiến uẩn. Đại Bồ Tát này vì không phương tiện khéo léo, nên quyết định chẳng thể vì các hữu tình đem vô sở đắc mà làm phương tiện tuyên nói pháp yếu dứt hẳn các kiến.
Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã có phương tiện khéo léo, vì hữu tình đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tuyên nói pháp yếu dứt hẳn các kiến. Đại Bồ Tát này quyết định chẳng khởi các kiến chấp tất cả uẩn.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn đem chút biện tài thuyết Bồ Tát do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát. Cúi xin thuận cho!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tùy ý ngươi thuyết.
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bởi vì Bồ Tát muốn chứng được Nhất thiết trí trí, phát tâm Bồ đề, tâm vô đẳng đẳng, tâm chẳng chung Thanh Văn, Độc giác, đối tâm như thế cũng chẳng chấp đắm, nương nghĩa như vậy gọi Ma ha tát. Vì sao? Vì tâm Nhất thiết trí trí là chơn vô lậu, chẳng đọa ba cõi, tâm cầu Nhất thiết trí trí cũng là chơn vô lậu, chẳng đọa ba cõi. Đối tâm như thế chẳng nên chấp đắm. Vậy nên Bồ Tát được gọi Ma ha tát. (Q.486, ĐBN)
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Thế nào tâm vô đẳng đẳng, tâm chẳng chung Thanh Văn, Độc giác của đại Bồ Tát?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Các đại Bồ Tát từ sơ phát tâm chẳng thấy chút pháp có sanh có diệt, có tăng có giảm, có khứ có lai, có nhiễm có tịnh. Nếu chẳng thấy các pháp như vậy, cũng chẳng thấy có tâm Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát… Đấy gọi tâm vô đẳng đẳng, tâm chẳng chung Thanh Văn, Độc giác của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối tâm như thế cũng chẳng chấp đắm.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Nếu đại Bồ Tát đối tâm như thế chẳng chấp đắm, thời đối tâm Thanh Văn, Độc giác cũng chẳng chấp đắm, và đối tất cả tâm uẩn xứ giới, cùng tâm 4 niệm trụ, nói rộng cho đến 18 pháp Phật bất cộng cũng chẳng chấp đắm. Vì sao? Vì các tâm như thế vô tâm vậy (1).
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Nếu tất cả vô tâm tánh chẳng chấp đắm, thời uẩn xứ giới, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng nên chấp đắm?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu tâm Nhất thiết trí trí là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi, thời tâm các ngu phu dị sanh, Thanh Văn, Độc giác v.v… lẽ ra cũng là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao? Vì các tâm như thế đều bản tánh không vậy.
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu vì tâm như thế bản tánh không, nên là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi, thời uẩn xứ giới nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lẽ ra cũng là chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi. Vì sao? Vì uẩn xứ giới thảy đều bản tánh không vậy.
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu tâm sắc thảy pháp là vô tâm thời sắc thảy pháp chẳng thể chấp đắm, nên tất cả pháp đều bình đẳng, không sai biệt (2)?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu tất cả pháp bình đẳng không sai khác, vì sao Như Lai nói tâm sắc thảy có các thứ khác nhau?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Đấy là Như Lai tùy thế tục mà nói, chẳng phải tùy thắng nghĩa.
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu pháp tâm sắc thảy các dị sanh, Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều chơn vô lậu chẳng đọa ba cõi, thời các dị sanh, Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai lẽ không sai khác?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Xá Lợi Tử nói:
- Nếu các dị sanh, Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai không sai khác ấy, vì sao Phật nói phàm Thánh đại tiểu có các thứ khác nhau?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Đấy cũng Như Lai nương thế tục mà nói, chẳng nương thắng nghĩa.
Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, nên đối chỗ phát khởi tâm đại Bồ đề, tâm vô đẳng đẳng, tâm chẳng chung Thanh Văn, Độc giác v.v… chẳng ỷ chẳng chấp; đối uẩn xứ giới nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không lấy không trước. Nương nghĩa như thế gọi Ma ha tát.
Thích nghĩa cho đoạn Kinh này:
(1). Vì các tâm như thế vô tâm vậy. Bản dịch của website tuvienquangduc.com dịch là: “Vì các tâm như thế vô tâm vô tánh vậy". Nguyên văn câu chữ Hán là “如 như 是 thị 諸 chư 心 tâm 無 vô 心 tâm 性 tánh 故 cố”. Tâm vô chấp hay tâm không tức gọi vô tâm.
(2). Nếu tâm, sắc cùng pháp là vô tâm thời sắc thảy pháp chẳng thể chấp đắm, nên tất cả pháp đều bình đẳng, không sai biệt. Nguyên văn câu chữ Hán là “若 nhược 心 tâm 色 sắc 等 đẳng 法 pháp 無 vô 心 tâm 色 sắc 等 đẳng 性 tánh 故 cố 不 bất 應 ưng/ứng 取 thủ 著 trước. 則 tắc 一 nhất 切 thiết 法 pháp 皆 giai 應 ưng 平 bình 等 đẳng 都 đô 無 vô 差 sai 別 biệt”
Đây là một trong nhiều rối rắm. Rối rắm không phải do giáo lý mà là do chuyển ngữ từ Tạng sang Hán rồi từ Hán sang Việt. Các từ như “tâm, sắc, pháp, sắc tướng, sắc pháp, sắc thảy pháp, sắc đẳng pháp v.v…làm cho độc giả kể cả những nhà chú giải Kinh này hết sức lúng túng. Nếu gặp đoạn văn quá khúc mắc, chúng ta có thể tham cứu bản chữ Hán của Ngài Huyền Trang. Đó là công việc thường xuyên của chúng tôi. Nhưng đôi khi bản chữ Hán dùng lối hành văn quá cổ, nên càng bế tắc thêm. Vì vậy, Bản Tổng luận này không tránh khỏi trở ngại, mặc dầu có so sánh, đối chiếu với bản dịch MHBNBLM của HT Thích Trí Tịnh, cùng với hai bản dịch bằng chữ Việt của HT Thích Trí Nghiệm trong vebsite thuvienhoasen.org hay tuvienquangduc.com, ngoài ra còn có những bản dịch lẻ tẻ của Trúc Thiên hay Tuệ sĩ và một số tác giả khác v.v… Các từ tâm, sắc, pháp, sắc và tâm, sắc và pháp v.v…là những khái niệm chỉ về phần vật chất (cụ thể) hay tinh thần (trừu tượng), thuộc về căn thân và khí thế gian. Trước khi Duy Thức Học phát triển, ý nghĩa cũng như phạm trù của các từ này không được rõ rệt lắm. Đến khi Duy Thức Tông phát triển thì sự phân biệt giữa các từ này càng tế nhị khó khăn hơn. Để trách những rắc rối đó, chúng tôi tạm định nghĩa:
1. Tổng quát về Sắc, Tâm và Pháp:
1- Sắc: Thuộc về trần cảnh: Sắc tướng, sắc pháp, chỉ chung mọi biểu hiện có thể nhận biết được của vật chất, gồm cả năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), năm trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, đối tượng xúc chạm) và mọi vật hữu hình. Sắc cũng là một trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Tứ đại: Đất nước gió lửa thuộc sắc.
2- Tâm: Thuộc về tư tưởng, trừu tượng (nhận thức): Thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm. Tâm có thể chia làm 6 loại: 1- Nhục đoàn tâm (肉團心), trái tim thịt; 2- Tinh yếu tâm (精要心), chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ; 3- Kiên thật tâm (堅實心), chỉ cái tuyệt đối, cái Chân như của các Pháp; 4- Tập khởi tâm (集起心; citta), là thức thứ 8 hay còn gọi là A lại da thức (ālayavijñāna); 5- Tư lượng tâm (思量心), là thức thứ 7, còn gọi là Mạt na thức(manas); 6- Duyên lự tâm (緣慮心), là thức thứ sáu hay Ý thức (s: manovijñāna).
3- Pháp: Tất cả sự vật hữu hình gọi là sắc hay sắc pháp (trong 5 uẩn gọi là sắc pháp), trong vô hình gọi là tâm pháp (trong thức uẩn), có thể tánh gọi là hữu pháp, không thể tánh gọi là vô pháp. Các pháp sắc, tâm, hữu, vô, gọi chung là Pháp giới. Pháp cũng có nghĩa là pháp tắc, qui phạm.
Những từ phối hợp như sắc và pháp, tâm và pháp, sắc thảy pháp, sắc đẳng pháp v.v… là dẫn xuất của sắc, tâm, pháp mà ra. Sau đây, không gì hơn, chúng tôi liệt kê và thích nghĩa một số từ mắc mỏ hiện có trong các tự điển Phật học hiện nay để quý vị độc giả hiểu biết một cách chính xác hơn cách diễn đạt các giáo lý của Kinh này!
2. Chi tiết về Sắc, Tâm, Pháp cùng Sắc tướng và Sắc pháp như sau:
1- Sắc: (色 Phạn, Pàli: Rùpa. Nói theo nghĩa rộng, Sắc là từ gọi chung tất cả vật chất tồn tại; còn nói theo nghĩa hẹp thì Sắc là chỉ những cảnh mà nhãn căn duyên theo. Ngữ căn của từ rùpa là động từ rùpa (tạo hình), cho nên rùpa hàm nghĩa có hình dáng. Cũng có thuyết cho rằng ngữ căn của rùpa là động từ rù (hoại) cho nên có nghĩa biến hoại, biến hóa.
1/. Sắc. Tên gọi chung tất cả vật chất tồn tại. Như là Sắc uẩn trong 5 uẩn, Sắc pháp trong 5 vị. Sắc có tính chất ngại và biến hoại. Cứ theo luận Câu xá quyển 1 thì Sắc gồm 11 thứ là: 5 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), 5 cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc) và Vô biểu sắc. Tông Duy thức chia Sắc làm 11 thứ: 5 căn, 5 cảnh và Pháp xứ sở nhiếp sắc. Pháp xứ sở nhiếp sắc là đối cảnh của Ý thức, bao gồm Cực lược sắc, Cực quýnh sắc, Thụ sở dẫn sắc, Biến kế sở khởi sắc và Tự tại sở sinh sắc. Trong các sắc pháp này lại có thể căn cứ vào tính chất của mỗi pháp mà qui nạp thành các loại sau: 1- Nội sắc (5 căn) và Ngoại sắc (5 cảnh). 2- Tế sắc (Vô biểu sắc, hoặc chỉ cho Sắc của cõi Sắc) và Thô sắc (sắc do Cực vi tạo thành, hoặc chỉ cho sắc của cõi Dục). 3- Định quả sắc (sắc do thiền định sinh ra) và Nghiệp quả sắc (sắc do nghiệp tạo ra). 4- Khả kiến hữu đối sắc (chỉ cho sắc theo nghĩa hẹp, tức sắc cảnh), Bất khả kiến hữu đối sắc (chỉ cho thanh, hương, vị, xúc, 5 căn) và Bất khả kiến vô đối sắc (chỉ cho Vô biểu sắc). X. Kinh Tạp a hàm Q.1, 13; Kinh Đại niết bàn Q.39 (bản Bắc); luận Câu xá Q.2; luận Đại thừa a tỳ đạt ma tạp tập]. (xt. Ngũ Căn, Ngũ Cảnh, Sắc Uẩn, Pháp Xứ Sở Nhiếp Sắc).
2/. Sắc: Cũng gọi Sắc cảnh, Sắc xứ, Sắc giới. Đối cảnh của nhãn căn duyên theo, như các cảnh chất ngại xanh, vàng... là 1 trong 5 cảnh, 1 trong 6 cảnh, 1 trong 12 xứ, 1 trong 18 giới. Theo luận Du già sư địa quyển 1 thì Sắc này đại để có 3 loại: 1- Hình sắc: Dài, ngắn, vuông, tròn, cao thấp, ngay thẳng và không ngay thẳng. 2- Hiển sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, mây, khói, bụi, sương mù, bóng, ánh sáng, bóng tối... 3- Biểu sắc: Đi, đứng, ngồi, nằm, lấy, bỏ, co, duỗi... Các loại sắc trên đặc biệt thuộc đối cảnh của nhãn căn duyên theo. [X. luận Thức thân túc Q.11; luận Đại tỳ bà sa Q.13, 75; luận Thuận chính lý Q.1; luận A tỳ đạt ma tạng hiển tông Q.2; Câu xá luận quang ký Q.1; Thành duy thức luận thuật ký Q.2, phần đầu; Hữu tông thất thập ngũ pháp ký Q.1]. (xt. Biểu Sắc, Hình Sắc, Hiển Sắc).
2- Tâm: (心)
1/. Tâm: Phạm: Citta. Hán âm: Chất đa. Cũng gọi Tâm pháp, Tâm sự. Tức là pháp tuy xa lìa đối tượng nhưng vẫn có tác dụng tư duy (duyên lự). 1- Chỉ chung Tâm vương và Tâm sở pháp, đối lại với sắc (vật chất), thân (nhục thể); tương đương với 4 uẩn: Thụ, tưởng, hành, thức trong 5 uẩn. 2- Chỉ riêng cho Tâm vương, thuộc 1 trong 5 vị, tương đương với Thức uẩn trong 5 uẩn, là chủ thể của tâm thống nhất, tức thức thứ 6, hoặc thức thứ 8. 3- Chỉ cho thức A lại da thứ 8 theo tông Duy thức. Vì thức này bao hàm nghĩa tích tập, là thể căn bản sinh ra các pháp, cho nên cũng gọi là Tập khởi tâm, nghĩa là thức A lại da tích chứa các chủng tử mà sinh ra hiện hành. Sáu thức trước gọi là thức, tức tác dụng liễu biệt, nhận thức; thức Mạt na thứ 7 gọi là ý, tức tác dụng tư duy. Chủ thể của tâm gọi là Tâm vương, những tác dụng của Tâm vương thì gọi là Tâm sở. (xt. Tâm Ý Thức).
2/. Tâm. Phạm: Hfd hoặc Hfdaya. Hán âm: Hãn lật đà, Can lật đa, Càn lạt đà đa, Ngật lợi đà da, Hột lý đà da, Hột lý na da, Hột phạt da. Hán dịch: Tâm, Nhục đoàn tâm, Chân thực tâm, Kiên thực tâm. Cứ theo Kinh Lăng già quyển 1, (bản 4 quyển), tâm này là chỉ cho tâm tự tính Đệ nhất nghĩa; còn theo Đại nhật Kinh sớ quyển 4 thì chỉ cho Nhục đoàn tâm (quả tim). Trong Mật giáo, hành giả quán tưởng Nhục đoàn tâm (Hãn lật đà) là hoa sen 8 cánh (tức tâm liên) để hiển bày thân Phật của chính mình, vì thế, tâm tự tính chân thực của chúng sinh được gọi là Hãn lật đà.(xt. Hãn Lật Đà).
3/. Tâm. Tùy theo tác dụng mà tâm được chia ra các loại như sau: - Hai tâm: Chân tâm và Vọng tâm (tâm thanh tịnh và tâm phiền não); Tương ứng tâm và Bất tương ứng tâm (tâm tương ứng với phiền não và tâm không tương ứng với phiền não); Định tâm và Tán tâm (tâm tĩnh lặng và tâm loạn động). - Ba tâm: Tham tâm, sân tâm và si tâm. - Bốn tâm: Tham tâm, sân tâm, si tâm và đẳng tâm (3 độc cùng dấy lên một lượt). - Bốn tâm: Nhục đoàn tâm (trái tim), Duyên lự tâm (tâm suy tư theo đối tượng), Tập khởi tâm (thức A lại da) và Kiên thực tâm (tâm chắc thực). - Năm tâm: Suất nhĩ tâm (tâm khởi lên lúc bắt đầu tiếp xúc với ngoại cảnh), Tầm cầu tâm (tâm muốn biết), Quyết định tâm (tâm quyết đoán), Nhiễm tịnh tâm (tâm sinh ý niệm nhiễm ô, thanh tịnh) và Đẳng lưu tâm (tâm niệm niệm nhưng trước sau không khác). Tức khi ý thức tiếp xúc với đối tượng bên ngoài thì lần lượt khởi lên 5 tâm. Ngoài ra, luận Du già sư địa quyển 1 có nêu tám tâm là: Chủng tử tâm, Nha chủng tâm, Bào chủng tâm, Diệp chủng tâm, Phu hoa tâm, Thành quả tâm, Thụ dụng tâm và Anh đồng tâm. Tám tâm này là hiển bày thứ tự trong quá trình thành thục của tâm thiện, tức bắt đầu từ hạt giống (chủng tử tâm) đến nứt mầm, nảy lá, nở hoa, kết quả... Còn Kinh Đại nhật thì phân loại tâm của hành giả Du già làm 60 tâm... [X. Kinh Nhập lăng già Q.9; Kinh Giải thâm mật Q.1; Kinh Hoa nghiêm Q.10 (bản dịch cũ); luận Hiển dương Thánh giáo Q.17; luận Thành duy thức Q.2; luận Câu xá Q.4; luận Đại tì bà sa Q.16; Nhiếp đại thừa luận bản Q.thượng; Đại thừa khởi tín luận nghĩa sớ Q.thượng]. (xt. Ngũ Tâm).
3- Pháp: (法 Phạm: Dharma Pàli: Dhamma. Hán âm: Đạt ma, Đà ma, Đàm ma, Đàm vô, Đàm).
1/. Pháp. Trong Kinh điển Phật giáo, danh từ Pháp được sử dụng trong rất nhiều trường hợp và ý nghĩa cũng không đồng nhất. Nói một cách tổng quát thì Pháp có 2 định nghĩa là nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải. 1-. Nhậm trì tự tính: Tất cả sự vật, hiện tượng luôn giữ gìn bản tính riêng của chúng, không thay đổi. 2- Quỹ sinh vật giải: Tất cả sự vật đều duy trì tự tính riêng biệt của chúng, như những khuôn mẫu khiến người ta dựa vào đó làm căn cứ mà hiểu 1 hiện tượng nhất định. Nói theo nghĩa Nhậm trì tự tính thì Pháp là chỉ cho tất cả cái tồn tại có đầy đủ tự tính, bản chất riêng biệt; nói theo nghĩa Quỹ sinh vật giải thì Pháp chỉ cho những tiêu chuẩn của sự nhận thức, như qui phạm, pháp tắc, đạo lý, giáo lý, giáo thuyết, chân lý, thiện hành v.v... Tóm lại, Pháp chỉ chung cho hết thảy mọi sự vật, mọi hiện tượng–cụ thể hay trừu tượng–có tự tính, bản chất riêng biệt làm căn cứ, khuôn mẫu khiến người ta nhìn vào là có thể nhận thức và lý giải được. [X. Kinh Tạp a hàm Q.31; Kinh Chư pháp bản trong Trung a hàm Q.28; phẩm Cú nghĩa trong Kinh Đại phẩm Bát nhã Q.4; phẩm Sát na trong Kinh Đại thừa lăng già Q.5; Kinh Đại bảo tích Q.52; luận Đại trí độ Q.48].
2/. Pháp. Chỉ cho cảnh sở duyên (đối tượng phân biệt) của thức thứ 6 (ý thức), cũng gọi Pháp xứ (Phạm: Dharmàyatana) hoặc Pháp giới (Phạm: Dharma-dhàtu). [X. luận Đại tỳ bà sa Q.73; luận Câu xá Q.1; phẩm Xứ trong luận Pháp uẩn túc Q.10].
3/. Pháp. Tiếng dùng trong Nhân minh. Hàm ý tính chất, thuộc tính. Trong Nhân minh, danh từ sau (hậu trần) của Tông (mệnh đề) gọi là Pháp (thuộc tính); danh từ trước (tiền trần) của Tông gọi là Hữu pháp (có thuộc tính). Như lập Tông: Âm thanh là vô thường, thì vô thường (Pháp) là thuộc tính của âm thanh (Hữu pháp). [X. Nhân minh luận sớ minh đăng sao Q.2, phần đầu; Nhân minh luận sớ thụy nguyên ký Q.2]. (xt. Tà Chính, Thể).
4- Sắc tướng: (色相)
1/. Sắc Tướng. Hình chất và tướng dạng, là 1 trong các bản chất của tất cả sắc pháp. Bất luận là sinh mệnh hữu tình hay khí thế gian đều có hình chất và tướng dạng của nó. Kinh Lăng nghiêm quyển 3 (Đại 19, 115 hạ) nói: Sắc tướng đã không có thì ai biết được bản chất của không?
2/. Sắc Tướng. Chỉ cho tướng dạng của sắc thân hiện ra bên ngoài có thể thấy được. Như chư Phật, Bồ Tát vì phương tiện nhiếp hóa chúng sinh nên tạm thời giả hiện ra tướng dạng sắc thân. Kinh Hoa Nghiêm quyển 1, nói: Vô biên sắc tướng, ánh sáng tròn đầy.
5- Sắc pháp: (色法) Phạn: Rùpa-dharma. Danh từ chỉ chung cho vật chất tồn tại, tức là những vật có tính chất ngại và biến hoại chiếm 1 khoảng không gian nhất định, ngăn trở lẫn nhau. Tất cả pháp có thể chia làm 5 vị: Sắc pháp, Tâm pháp, Tâm sở pháp, Tâm bất tương ứng hành pháp và Vô vi pháp. Trong đó, Sắc pháp trong 5 uẩn gọi là Sắc uẩn, Tâm pháp gọi là Thức uẩn. Trong 5 vị 75 pháp của tông Câu xá Tiểu thừa và trong 5 vị 100 pháp của tông Pháp tướng Đại thừa, Sắc pháp được chia làm 3 loại 11 món: 1- Ngũ căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. 2- Ngũ cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. 3- Vô biểu sắc. Trong 5 vị 75 pháp, Sắc pháp được đặt trước Tâm pháp, vì nó có khả năng dẫn khởi các pháp nhơ nhớp như tham muốn, đắm đuối say mê... và được coi là đối tượng quan trọng nhất cần được đối trị. Còn trong 5 vị 100 pháp thì Sắc pháp đặt sau Tâm pháp và Tâm sở pháp, vì chính nó không có công năng sinh khởi mà chỉ là sự biến hiện của Tâm và Tâm sở. (xt. Tâm, Sắc).
Nếu gặp nhiều trở ngại trong các từ vừa trích dẫn trên, quý vị có thể tham khảo quyển “Duy Thức Học” của HT. Thích Thiện Hoa, nhà xuất bản Tôn Giáo.
8. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 486 đến 487, hội thứ III.
(Tương đương với phẩm “Sáu Pháp Đáo Bỉ Ngạn”, phần sau cùng quyển 411
cho đến đầu quyển 412, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ thọ Mãn Từ Tử (Phú Lâu Na) thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn đem chút biện tài thuyết Bồ Tát do nghĩa nào nên gọi là Ma ha tát. Cúi xin thuận cho!
Phật bảo:
- Mãn Từ Tử! Tùy ý ngươi thuyết.
Mãn Từ Tử nói:
- Bởi các Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình nên mặc giáp bị đại công đức, phát tâm hướng đến Đại Thừa, nên gọi Ma ha tát.
Khi đó, Xá Lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử rằng:
- Thế nào gọi là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc giáp bị đại công đức?
Mãn Từ Tử nói:
- Các đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật chẳng vì lợi vui số ít hữu tình mà khắp vì lợi vui tất cả hữu tình. Khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình, mặc giáp bị đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát mặc giáp bị đại công đức lợi vui hữu tình chẳng có giới hạn, chẳng khởi nghĩ này: Ta phải cứu vớt chừng nấy hữu tình vào cõi Vô dư y Niết Bàn, còn chừng nấy hữu tình chẳng khiến cho vào. Ta phải cứu vớt chừng nấy hữu tình khiến trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, còn chừng nấy hữu tình chẳng khiến cho trụ. Nhưng các đại Bồ Tát khắp vì cứu vớt tất cả hữu tình vào cõi Vô dư y Bát Niết Bàn và trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc giáp bị đại công đức. (Q.486, ĐBN)
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khởi nghĩ như vầy: Ta phải tự viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, cũng khiến tất cả hữu tình viên mãn.
Lại khởi nghĩ này: Ta nương sáu thứ Ba la mật, tự trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tự tu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; cũng khiến hữu tình nương sáu thứ Ba la mật đây an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tu bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Lại khởi nghĩ này: Ta nương sáu thứ Ba la mật mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vào cõi Vô dư y Niết Bàn; cũng khiến hữu tình nương sáu thứ Ba la mật đây mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vào cõi Vô dư y Niết Bàn.
Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc giáp bị đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bố thí Ba la mật đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu bố thí, chẳng tạp tác ý Thanh Văn, Độc giác. Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Với khi bố thí trọn không tiếc lẫn, đấy là giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật. Với khi bố thí chẳng khởi tác ý Thanh Văn, Độc giác, đấy là giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật. Với khi bố thí tín nhẫn muốn vui bố thí pháp, đấy là giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Với khi bố thí tinh tấn mạnh mẽ chẳng bỏ gia hạnh, đấy là giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật. Với khi bố thí nhất tâm hướng đến Nhất thiết trí trí rốt ráo lợi vui tất cả hữu tình, chẳng tạp tác ý Thanh Văn, Độc giác, đấy là giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật. Với khi bố thí trụ tưởng như huyễn chẳng đắc kẻ thí, kẻ nhận, vật thí, quả thí sở đắc, đấy là giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Như vậy đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật đủ sáu thứ giáp đại công đức Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí khi tu hành bố thí Ba la mật, đối tướng sáu thứ Ba la mật không lấy không đắc, phải biết đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới, chẳng tạp ý Thanh Văn và Độc giác. Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi tu tịnh giới đối các sở hữu đều không lẫn tiếc, đấy là giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật. Khi tu tịnh giới đối bậc dị sanh hãy chẳng cầu tới hiến chi cầu đến các bậc Thanh Văn và Độc giác. Đấy là giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật. Khi tu tịnh giới tinh tấn mạnh mẽ chẳng bỏ gia hạnh. Đấy là giáp bị đại công đức tinh tiến Ba la mật. Khi tu tịnh giới thuần đem đại bi làm đầu, hãy chẳng lẫn lộn tâm dị sanh hiến tác ý Nhị thừa. Đấy là giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật. Khi tu tịnh giới, đối tất cả pháp trụ tưởng như huyễn, đối hạnh tịnh giới không ỷ không đắc, đạt bản tánh không. Đấy là giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Như vậy, đại Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật mặc đủ sáu thứ giáp bị đại công đức Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, khi tu hành tịnh giới Ba la mật đối tướng sáu Ba la mật không lấy không đắc. Phải biết đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các dại Bồ Tát khi tu hành an nhẫn Ba la mật đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu an nhẫn, chẳng tạp tác ý Thanh Văn và Độc giác. Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi tu an nhẫn, vì thành tựu an nhẫn nên đối thân mệnh thảy đều không luyến tiếc. Đấy là giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật. Khi tu an nhẫn chẳng tạp tác ý yếu hèn Thanh Văn và Độc giác. Đấy là giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật. Khi tu an nhẫn đối pháp an nhẫn tín nhẫn vui muốn. Đấy là giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Khi tu an nhẫn tinh tiến mạnh mẽ chẳng bỏ gia hạnh. Đấy là giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật. Khi tu an nhẫn nhiếp tâm một cảnh, dù gặp phải nhiều khổ mà tâm chẳng loạn. Đấy là giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật. Khi tu an nhẫn trụ tưởng như huyễn để thành thục hữu tình, quán các pháp là không, chẳng chấp kẻ oán hại. Đấy là giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Như vậy, đại Bồ Tát khi tu hành an nhẫn Ba la mật mặc đủ sáu thứ giáp bị đại công đức Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, khi tu hành an nhẫn Ba la mật-đa, đối tướng sáu Ba la mật-đa không lấy không đắc. Phải biết đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại công đức. (Q.486, ĐBN)
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành tinh tấn Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu tinh tấn, chẳng tạp tác ý Thanh Văn Độc giác. Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi tu tinh tấn năng siêng tu học hạnh khó hành thí. Đấy là giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật. Khi tu tinh tấn siêng hộ tịnh giới trọn chẳng hủy phạm. Đấy là giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật. Khi tu tinh tấn năng siêng tu học hạnh khó hành nhẫn. Đấy là giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Khi tu tinh tấn năng siêng tu học khổ hạnh hữu ích. Đấy là giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật. Khi tu tinh tấn năng siêng tu học tĩnh lự đẳng chí. Đấy là giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật. Khi tu tinh tấn năng siêng tu học huệ không lấy chấp. Đấy là giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Như vậy, đại Bồ Tát khi tu hành tinh tấn Ba la mật đủ sáu thứ giáp bị đại công đức Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, khi tu hành tinh tấn Ba la mật đối tướng sáu Ba la mật không lấy không đắc. Phải biết đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại công đức. (Q.487, ĐBN)
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành tĩnh lự Ba la mật đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu tĩnh lự, chẳng tạp tác ý Thanh Văn Độc giác. Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi tu tĩnh lự tĩnh tâm hành thí, loạn tâm xan lẫn chẳng còn hiện tiền. Đấy là giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật. Khi tu tĩnh lự định tâm hộ giới, khiến các ác giới chẳng hiện tiền nữa. Đấy là giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật. Khi tu tĩnh lự trụ định từ bi mà tu an nhẫn, chẳng não hại hữu tình. Đấy là giáp bị đại công đức nhẫn Ba la mật. Khi tu tĩnh lự an trụ tĩnh định siêng tu công đức, lìa các biếng lười. Đấy là giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật. Khi tu tĩnh lự, nương tĩnh lự bình đẳng dẫn phát thắng định, lìa tâm rối loạn. Đấy là giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật. Khi tu tĩnh lự, nương tĩnh lự bình đẳng dẫn phát thắng huệ, lìa tâm ác huệ. Đấy là giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Như vậy, đại Bồ Tát khi tu hành tĩnh lự Ba la mật đủ sáu thứ giáp bị đại công đức Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, khi tu hành tĩnh lự Ba la mật đối tướng sáu Ba la mật không lấy không đắc. Phải biết đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu Bát nhã, chẳng tạp tác ý Thanh Văn Độc giác. Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khi tu Bát nhã tuy thí tất cả mà chẳng thấy người thí, kẻ nhận, vật thí. Đấy là giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật. Khi tu Bát nhã tuy hộ tịnh giới mà chẳng thấy trì phạm sai khác. Đấy là giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật. Khi tu Bát nhã nương thắng không huệ mà tu an nhẫn, chẳng thấy năng nhẫn sở nhẫn. Đấy là giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Khi tu Bát nhã tuy quán các pháp đều rốt ráo không, mà vì Đại bi siêng tu thiện pháp. Đấy là giáp bị đại công đức tinh tiến Ba la mật.
Khi tu Bát nhã tuy tu thắng định, mà quán cảnh định đều rốt ráo không. Đấy là giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật. Khi tu Bát nhã quán tất cả pháp, tất cả hữu tình và tất cả hành đều như huyễn mộng, bóng sáng, tiếng vang, ảnh tượng, ánh nắng, biến hóa và thành tầm hương mà tu huệ không lấy chấp các thứ. Đấy là giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Như vậy Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật mặc đủ sáu thứ giáp bị đại công đức Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí khi tu hành Bát nhã, đối tướng sáu Ba la mật không lấy không đắc. Phải biết đại Bồ Tát Ma ha này mặc giáp bị đại công đức.
Xá Lợi Tử! Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc áo giáp bị đại công đức.
Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát an trụ mỗi mỗi Ba la mật đều tu sáu thứ Ba la mật-đa khiến được viên mãn. Vậy nên gọi mặc giáp bị đại công đức.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát tuy vào tĩnh lự, vô lượng, vô sắc mà chẳng đắm vị, cũng chẳng bị thế lực kia dắt dẫn, cũng chẳng theo thế lực kia mà thọ sanh. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khi tu hành tĩnh lự Ba la mật đã mặc giáp bị đại công đức phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát tuy đối tĩnh lự, vô lượng, vô sắc trụ kiến viễn ly, kiến tịch tĩnh, kiến không, vô tướng, vô nguyện mà chẳng chứng thật tế, chẳng đọa Thanh Văn, Độc giác. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khi tu hành tĩnh lự Ba la mật đã mặc giáp bị đại công đức phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử! Vì các đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc giáp bị đại công đức như thế thảy, nên lại gọi Ma ha tát.
Xá Lợi Tử! Như vậy, khắp vì lợi vui hữu tình mặc giáp bị đại công đức, đại Bồ Tát khắp được thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng vui mừng khen ngợi, xướng lời như vầy: “Phương đó, trong thế giới đó, có danh đại Bồ Tát đó, khắp vì lợi vui tất cả hữu tình mặc áo giáp đại công đức, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, du hý thần thông, làm việc đáng làm”. Tiếng như thế lần lữa chuyển khắp mười phương, các người trời được nghe, tất cả đều vui mừng, đồng nói lời này: Đại Bồ Tát đây chẳng lâu sẽ chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khiến các hữu tình đều được lợi vui.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử rằng:
- Sao là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tâm đến Đại Thừa?
Mãn Từ Tử nói:
- Các đại Bồ Tát khắp vì lợi vui tất cả hữu tình đã mặc sáu thứ giáp bị đại công đức Ba la mật, lại vì lợi vui tất cả hữu tình, lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, vào sơ tĩnh lự an trụ đầy đủ, nói rộng cho đến xả lạc xả khổ, diệt hết hỷ ưu đã cảm thọ trước, nhập vào thiền thứ tư, an trụ hoàn toàn, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Lại nương tịnh lự câu hữu (vốn có) tâm từ, hành tướng rộng lớn không hai, không lường, không oán, không hại, không hận, không não, khéo tu thắng giải bao trùm khắp mười phương tận hư không, khắp thế giới đều an trụ hoàn toàn với từ tâm thắng giải. Lại khởi tâm bi, hỷ, xả với hành tướng thắng giải, mỗi mỗi cũng như vậy. Nương vào sự thực hành này vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không suy nghĩ các loại tưởng, nhập Vô biên không, Không vô biên xứ, an trụ đầy đủ; rộng nói cho đến vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ an trụ đầy đủ.
Đại Bồ Tát này lấy vô sở đắc mà làm phương tiện đem tĩnh lự, vô lượng, vô sắc đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát đến Đại Thừa.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát nào tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu tự an trụ tịnh lự, vô lượng, vô sắc như vậy, tu hành bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát nhã Ba la mật cho đến tu tất cả pháp môn như bốn niệm trụ, ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba môn giải thoát cho đến Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, giữ gìn thiện căn, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy vì lợi lạc các hữu tình nên hướng đến Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện tu trí nội không, ngoại không, nội ngoại đều không v.v… và trí chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v... Lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại Thừa.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát nào tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả pháp bình đẳng phát khởi trí phi loạn, phi định, trí phi thường, phi vô thường, trí phi lạc, phi khổ, trí phi ngã, phi vô ngã, trí phi tịnh, phi bất tịnh, trí phi không, phi bất không, trí phi hữu tướng, phi vô tướng, trí phi hữu nguyện, phi vô nguyện, trí phi tịch tịnh, phi bất tịch tịnh, trí phi viễn ly, phi bất viễn ly, trí phi chơn thật, phi hư giả. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát vì lợi lạc các hữu tình nên hướng đến Đại thừa.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát nào tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, khởi lên diệu trí không hành quá khứ, vị lai, hiện tại. Chẳng phải vì không biết pháp ba đời. Không hành Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chẳng phải vì không biết pháp trong tam giới. Không hành thiện, bất thiện và vô ký. Chẳng phải vì không biết pháp của ba tánh. Không hành, hữu lậu, vô lậu. Chẳng phải vì không biết pháp hữu lậu, vô lậu. Không hành thế gian và xuất thế gian. Chẳng phải vì không biết pháp thế gian và xuất thế gian. Không hành hữu vi, vô vi. Chẳng phải vì không biết pháp hữu vi, vô vi. Giữ gìn thiện căn này lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát vì lợi lạc các hữu tình nên hướng đến Đại thừa. (Q.487, ĐBN)
Xá lợi Tử! Bởi các Bồ Tát có phương tiện thiện xảo như vậy, làm lợi lạc khắp các hữu tình, nên hướng đến Đại thừa, cho nên còn gọi là Ma ha tát.
Xá lợi Tử! Vì lợi lạc khắp các hữu tình mà hướng đến Đại thừa như vậy, các đại Bồ Tát được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương hằng hà sa số thế giới chư Phật, ở giữa đại chúng vui mừng khen ngợi: Ở phương đó, trong thế giới đó, có đại Bồ Tát tên như vậy v.v… vì lợi lạc khắp tất cả hữu tình hướng đến Đại thừa, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, an trụ thần thông, làm những việc đáng làm. Tiếng khen như vậy lần lượt truyền khắp mười phương, người nghe được đều rất vui mừng, đồng nói: Chẳng bao lâu nữa, đại Bồ Tát này sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã mong cầu, làm cho tất cả hữu tình đều được lợi lạc.
9. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, quyển 487, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Đại Thừa”, phần đầu quyển 412, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử rằng:
- Sao là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương Đại Thừa?
Mãn Từ Tử nói:
- Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, tuy nương bố thí Ba la mật mà chẳng đắc bố thí, cũng chẳng đắc Bồ Tát, kẻ thọ, vật thí và pháp bị ngăn. Tuy nương tịnh giới Ba la mật mà chẳng đắc tịnh giới, cũng chẳng đắc Bồ Tát và kẻ phạm giới cùng pháp bị ngăn. Tuy nương an nhẫn Ba la mật mà chẳng đắc an nhẫn, cũng chẳng đắc Bồ Tát và kẻ nhẫn, cảnh sở nhẫn cùng pháp bị ngăn. Tuy nương tinh tấn Ba la mật mà chẳng đắc tinh tiến Ba la mật, cũng chẳng đắc Bồ Tát và kẻ lười nhác cùng pháp bị ngăn. Tuy nương tĩnh lự Ba la mật mà chẳng đắc tĩnh lự, cũng chẳng đắc Bồ Tát và kẻ tán loạn, cảnh định và pháp ngăn cảnh định. Tuy nương Bát nhã Ba la mật mà chẳng đắc Bát nhã, cũng chẳng đắc Bồ Tát và kẻ ngu si, cảnh huệ và pháp ngăn cảnh huệ.
Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương nơi Đại Thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, vì bởi khiển tu, tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba môn giải thoát cho đến Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương nơi Đại Thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, như thật quán sát các đại Bồ Tát tát chỉ có giả danh, Bồ đề tát đỏa đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. Sắc cho đến thức chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. 12 xứ cho đến 18 giới chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. Nhãn xúc cho đến ý xúc chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy.
Vô minh cho đến lão tử chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. Ba mươi bảy Bồ đế phần pháp cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. Chơn như cho đến thật tế chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy. Bồ đề, Phật Đà chỉ có giả danh, đều tự tánh không, vì bất khả đắc vậy.
Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương nơi Đại Thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, thường tu Bồ Tát viên mãn thần thông, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ Chánh pháp, chỗ gọi diệu pháp tương ưng Đại Thừa, cũng là chỗ học pháp yếu Bồ Tát.
Xá Lợi Tử! đại Bồ Tát này tuy nương Đại Thừa từ một nước Phật đến một nước Phật, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, ở chỗ chư Phật nghe thọ Chánh pháp mà tâm trọn không có tưởng cõi Phật.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này trụ bậc Bất nhị, quán các hữu tình nên dùng thân nào mà được đắc độ liền bèn hiện thọ thân như thế.
Xá Lợi Tử! Dại Bồ Tát này cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, tùy sanh chỗ nào thường chẳng xa lìa Chánh pháp Đại Thừa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này chẳng bao lâu sẽ chứng được Nhất thiết trí trí, vì trời người quay xe Chánh pháp. Xe pháp như thế, Thanh Văn, Độc giác, chư thiên ma phạm, A tu la chỗ chẳng có khả năng quay. Xá Lợi Tử! Vì các Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên nương nơi Đại Thừa, nên lại gọi Ma ha tát.
Xá Lợi Tử! Như vậy khắp vì lợi vui hữu tình nương nơi Đại Thừa, đại Bồ Tát khắp được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng giữa đại chúng vui mừng khen ngợi, xướng lời như vầy: “Ở phương đó, trong thế giới đó, có danh đại Bồ Tát đó, khắp vì lợi vui tất cả hữu tình, nương nơi Đại Thừa, chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, vì trời người quay xe Chánh pháp. Xe ấy thế gian các Thanh Văn thảy đều chẳng thể quay được”. Tiếng như thế lần lữa khắp mười phương, người trời thảy nghe đều rất vui mừng đồng nói lời này: Đại Bồ Tát này chẳng bao lâu sẽ được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. (Q.487, ĐBN)
10. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, từ quyển 487 - 488, Hội thứ III.
(Tương đương với phẩm “Giáp bị Đại Thừa” và phẩm “Đại Thừa”,
phần sau quyển 412, Hội thứ II, ĐBN).
(Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa):
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói các đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa, tu như thế nào thì có thể nói các đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thường mặc giáp bị bố thí cho đến giáp bị Bát nhã Ba la mật. Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa. Nếu đại Bồ Tát thường mặc giáp bị bốn niệm trụ, cho đến giáp bị tám Thánh đạo chi, đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa. Nếu đại Bồ Tát thường mặc giáp bị nội không cho đến giáp bị vô tánh tự tánh không, đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa. Nếu đại Bồ Tát thường mặc giáp bị chơn như cho đến giáp bị thật tế, đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa. Nếu đại Bồ Tát thường mặc giáp bị Như Lai mười lực cho đến giáp bị mười tám pháp Phật bất cộng, đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa. Nếu đại Bồ Tát thường mặc giáp bị Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Nếu đại Bồ Tát thường tự biến thân như hình tượng Phật, phóng đại quang minh soi khắp Tam thiên đại thiên thế giới, cho đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, làm nhiêu ích cho các hữu tình, đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào mặc giáp bị đại công đức như vậy, phóng đại quang minh chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới, cho đến mười phương thế giới chư Phật như cát sông Hằng, cũng làm cho các thế giới biến động theo sáu cách, làm nhiêu ích cho các hữu tình, nghĩa là diệt lửa dữ trong tất cả địa ngục, khiến cho hữu tình chấm dứt các khổ. Bồ Tát biết họ hết khổ rồi, phát lời quy y Phật rộng lớn, khiến họ kính lễ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, làm cho cảnh giới địa ngục kia nghe được tiếng của Phật, thâm tâm họ đều được an ổn yên vui; ra khỏi địa ngục sanh vào cõi trời, người, phụng sự chư Phật và Bồ Tát trong thế giới ấy. Cũng khiến cho các loài bàng sanh, ngạ quỷ nghe tiếng Phật rồi, thân tâm an vui, từ cõi chết được sanh vào trời, người, phụng sự chư Phật và Bồ Tát trong thế giới ấy. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y tại ngã tư đường đối trước công chúng hóa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Lại xưng tụng, ngợi khen Phật Pháp Tăng bảo, khiến các thú nghe thân tâm yên vui; từ thú kia chết sanh trong trời người. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy khiến các loại hữu tình vô số vô biên thế giới thoát ba ác thú, mà không hữu tình nào được giải thoát. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát thường mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật khắp hóa Tam thiên đại thiên thế giới như phệ lưu ly, tự thân hóa làm Chuyển Luân Thánh vương, bảy báu, quyến thuộc không thứ nào chẳng viên mãn. Các loại hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần gì cho nấy… Làm thí đây rồi, vì họ tuyên nói pháp tương ưng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, khiến họ nghe rồi, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng bỏ lìa pháp tương ưng Ba la mật. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, giữa ngã tư đường đối trước công chúng, hoá làm các loại hữu tình nghèo khổ, bần cùng, tùy ý cần dùng gì đều thí cho. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Các đại Bồ Tát cũng như vậy, có thể mặc áo giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật, hoặc hóa ra thế giới như lưu ly, hoặc hóa tự thân ngự ngôi Luân vương, tùy theo hữu tình cần gì thì ban cho thứ ấy, rồi vì họ thuyết giảng pháp tương ưng Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng không có gì là thật cả. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn cả.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật, vì các hữu tình nên sanh nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương giàu sang tự tại, an lập vô lượng vô số trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng nơi mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng vì tuyên nói pháp tương ưng công đức như thế khiến họ an trụ, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa. (Q.487, ĐBN)
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, tại ngã tư đường đối trước công chúng hóa làm vô lượng trăm ngàn hữu tình, khiến họ an trụ mười thiện nghiệp đạo nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì hữu tình nên sanh nhà Luân vương giàu sang tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng nơi mười thiện nghiệp đạo, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật.
Thiện Hiện! Vì sao đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật-đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, mặc giáp bị an nhẫn, thường khởi nghĩ này: Giả sử tất cả loại hữu tình đều cầm khí giới dao gậy gia hại, ta trọn chẳng khởi một niệm giận hờn. Khuyên các hữu tình cũng tu nhẫn này.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đây giữ tâm đã nghĩ như vậy cho đến thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng bỏ lìa an nhẫn như thế, cũng khuyên hữu tình tu nhẫn như vậy. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, tại ngã tư đường đối trước công chúng hóa làm các loại hữu tình, hoặc cầm khí giới gia hại lẫn nhau, hoặc khuyên nhau tu pháp an nhẫn. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Thiện Hiện! Vì sao đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, hướng đến tinh tấn thân tâm bằng nhiều cách, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình hướng đến tinh tấn thân tâm bằng nhiều cách. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, tại ngã tư đường đối trước công chúng hóa làm các loại hữu tình tự tu tinh tấn, cũng khuyên người tu tinh tấn. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, tự tu tinh tấn, cũng khuyên hữu tình khiến tu tinh tấn. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật.
Thiện Hiện! Vì sao đại Bồ Tát tự mặc giáp đại công đức tĩnh lự Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật?
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào trụ trong tánh bình đẳng tất cả pháp, không thấy các pháp có định có loạn, thường tu tập tịnh lự Ba la mật như thế, cũng khuyên hữu tình tu tập tịnh lự và bình đẳng. Cho đến khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không lìa bỏ tu bình đẳng và tịnh lự này. Thiện Hiện! Đấy là Đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, trụ ngã tư đường đối trước công chúng hóa làm các loại hữu tình khiến tu tĩnh lự các pháp bình đẳng, cũng khiến khuyên tu tĩnh lự như thế. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
-Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ trong tánh bình đẳng tất cả pháp, cũng khuyên hữu tình tu định như thế. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Vì sao đại Bồ Tát tự mặc giáp đại công đức Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát trụ vô hý luận Bát nhã thẳm sâu, chẳng đắc các pháp bờ đây bờ kia nhiễm tịnh sai khác, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn hữu tình an trụ huệ vô hý luận như thế. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại Thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, tại ngã tư đường đối trước công chúng hóa làm các loại hữu tình khiến tự an trụ huệ vô hý luận, cũng khuyên khiến họ trụ huệ như thế. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo: Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, tự thường an trụ huệ vô hý luận, cũng khuyên hữu tình trụ huệ như thế. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát mặc giáp bị các công đức như trên đã nói, quán sát tất cả hữu tình trong mười phương hằng hà sa số thế giới của chư Phật. Nếu các hữu tình lãnh thọ tà pháp, hành các ác hạnh, thì đại Bồ Tát này dùng sức thần thông, tự biến thân mình hiện khắp các thế giới chư Phật ấy, tùy theo hữu tình muốn gì liền thị hiện để hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí; cứ như vậy cho đến tự hành Bát nhã, cũng khuyên người khác hành Bát nhã. Làm việc này rồi, tùy loại âm thanh mà nói pháp tương ưng với sáu pháp Ba la mật, khiến họ nghe rồi cho đến khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không lìa bỏ diệu pháp này. Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, tại ngã tư đường đối trước công chúng hóa làm các loại hữu tình khiến tự an trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên họ trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở khắp thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng tự hiện thân tùy nghi an trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thường chẳng bỏ lìa, cũng khuyên người trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thường chẳng bỏ lìa. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy. (Q.487, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát mặc các giáp bị đại công đức như trên đã nói, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện lợi ích an vui tất cả hữu tình, chẳng xen tác ý Thanh Văn, Độc giác. Đại Bồ Tát này chẳng khởi nghĩ đây: Ta nên an lập chừng nấy hữu tình khiến trụ bố thí Ba la mật, chừng nấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ bố thí Ba la mật. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ bố thí Ba la mật. Như vậy, cho đến chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến an trụ Bát nhã Ba la mật, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ Bát nhã Ba la mật. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình khiến trụ Bát nhã Ba la mật.
Chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến trụ nội không, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ nội không. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ nội không. Như vậy, cho đến chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến trụ vô tánh tự tánh không, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ vô tánh tự tánh không. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ vô tánh tự tánh không. Chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến trụ ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ ba mươi bảy Bồ đề phần pháp. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ ba mươi bảy Bồ đề phần pháp. Nói rộng cho đến chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến trụ Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Chẳng khởi nghĩ này: Ta nên an lập chừng ấy hữu tình khiến trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chừng ấy hữu tình chẳng nên an lập khiến trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chỉ khởi nghĩ này: Ta nên an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát mặc giáp bị đại công đức Đại Thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, tại ngã tư đường, đối trước công chúng hóa làm vô lượng vô số hữu tình khiến trụ sáu thứ Ba la mật, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, an lập vô lượng vô số hữu tình khiến trụ sáu thứ Ba la mật cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy, Bồ Tát tuy có hành động nhưng chẳng có gì là thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy. (Q.487, ĐBN)
(Bồ Tát chẳng mặc giáp bị đại công đức,
phải biết mới là mặc giáp bị Đại Thừa):
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật đã nói đó, các đại Bồ Tát chẳng mặc giáp đại công đức, phải biết mới là mặc giáp Đại Thừa, vì tất cả pháp tự tướng không vậy. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc, tướng của sắc là không; cho đến thức và tướng của thức là không. Mười hai xứ, tướng của mười hai xứ là không; cho đến mười tám giới, tướng của mười tám giới là không. Nhãn xúc, tướng của nhãn xúc là không; cho đến ý xúc, tướng của ý xúc là không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không; cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Bố thí Ba la ma mật, tướng của bố thí Ba la ma mật là không cho đến Bát nhã Ba la mật, tướng của Bát nhã Ba la mật là không. Pháp nội không, tướng của pháp nội không là không cho đến pháp vô tính tự tính không, tướng của pháp vô tính tự tính không là không. Bốn niệm trụ, tướng của bốn niệm trụ là không cho đến tám chi Thánh đạo, tướng của tám chi Thánh đạo là không. Như vậy, Như Lai mười lực, tướng của mười lực Như Lai là không cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tướng của mười tám pháp Phật bất cộng là không. Đại Bồ Tát, tướng của đại Bồ Tát là không. Mặc áo giáp đại công đức, tướng của mặc áo giáp đại công đức là không. (Q.488, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Do yếu tố này nên biết các đại Bồ Tát chẳng mặc áo giáp đại công đức, tức là mặc áo giáp Đại thừa.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy! Như ngươi đã nói. Vì sao? Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác, các phiền não kia cũng vô tạo vô tác. Các đại Bồ Tát vì việc này nên mặc giáp bị Đại Thừa.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Vì nhân duyên gì nên Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác, các phiền não kia cũng vô tạo vô tác, các đại Bồ Tát vì việc này nên mặc giáp bị Đại Thừa?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Vì các tác giả bất khả đắc nên Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác, các phiền não kia cũng vô tạo vô tác. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc cho đến thức phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì sắc cho đến thức rốt ráo bất khả đắc vậy. Mười hai xứ cho đến mười tám giới phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì mười hai xứ cho đến mười tám giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhãn xúc cho đến ý xúc phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì nhãn xúc cho đến ý xúc rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy. Ngã cho đến kiến giả phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì ngã cho đến kiến giả rốt ráo bất khả đắc vậy. Mộng, huyễn, vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng, biến hóa sự, thành tầm hương phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì mộng cho đến thành tầm hương rốt ráo bất khả đắc vậy. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không rốt ráo bất khả đắc vậy. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi rốt ráo bất khả đắc vậy. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì cớ sao? Vì không, vô tướng, vô nguyện rốt ráo bất khả đắc vậy. Nói rộng cho đến Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì sao? Vì Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo bất khả đắc vậy. Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế phi tạo phi chẳng tạo, phi tác, phi chẳng tác. Vì chơn như cho đến thật tế rốt ráo bất khả đắc vậy. Các đại Bồ Tát phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì các đại Bồ Tát rốt ráo bất khả đắc vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác phi tạo phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí phi tạp phi chẳng tạo, phi tác phi chẳng tác. Vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Do nhân duyên này, Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác, các phiền não kia cũng vô tạo vô tác. Các đại Bồ Tát vì việc này nên mặc giáp bị Đại Thừa.
Thiện Hiện! Do nghĩa đây nên các đại Bồ Tát chẳng mặc giáp bị đại công đức, phải biết đấy là mặc giáp bị Đại Thừa (1). (Q.488, ĐBN)
(1). Câu này khó hiểu, phải xem lại thích nghĩa của phẩm "Giáp Bị Đại Thừa", Hội thứ I mới có thể hiểu được. Tuy nhiên, ở đây có thể giải thích vắn tắt như sau:
Mặc giáp bị đại công đức có nghĩa là thệ nguyện trang nhiêm, nên câu trên có thể đổi lại là: Nếu đại Bồ Tát không đại thệ nguyện trang nghiêm là đại thệ nguyện trang nghiêm, vì tất cả pháp tự tánh rỗng không. Vì vậy, phẩm “Trang Nghiêm” quyển thứ 05, Kinh MHBNBLM, Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Theo ý nghĩa mà con được nghe nơi đức Phật dạy, thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm. Vì các pháp tự tánh rỗng không vậy”.
Xin xem lại phẩm “Giáp Bị Đại Thừa”, từ quyển 49 đến quyển 51, Hội thứ I.
11. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, phần đầu quyển 488, Hội thứ III.
(Có thể xem tương đương với phẩm “Không Buộc Không Mở”,
phần đầu quyển 413, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật đã nói đó, sắc cho đến thức không buộc không mở.
Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Tôn giả nói sắc cho đến thức không buộc không mở ư?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như vậy, như vậy!
Mãn Từ Tử nói:
- Những sắc cho đến thức nào không buộc không mở sao?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Sắc cho đến thức không buộc không mở. Vì sao? Vì sắc cho đến thức vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Quá khứ sắc cho đến thức không buộc không mở. Vị lai sắc cho đến thức không buộc không mở. Hiện tại sắc cho đến thức không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức như thế là vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc thiện cho đến thức thiện không buộc không mở. Sắc bất thiện cho đến thức bất thiện không buộc không mở. Sắc vô ký cho đến thức vô ký không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc hữu lậu cho đến thức hữu lậu không buộc không mở. Sắc vô lậu cho đến thức vô lậu không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc thế gian cho đến thức thế gian không buộc không mở. Sắc xuất thế gian cho đến thức xuất thế gian không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc tạp nhiễm cho đến thức tạp nhiễm không buộc không mở. Sắc thanh tịnh cho đến thức thanh tịnh không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả pháp không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở. (Q.488, ĐBN)
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không buộc không mở. Vì sao? Vì bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nội không cho đến vô tánh tự tánh không không buộc không mở. Vì sao? Vì nội không thảy vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi không buộc không mở. Vì sao? Vì bốn niệm trụ thảy vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không buộc không mở. Vì sao? Vì giải thoát môn vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như vậy cho đến Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không buộc không mở. Vì sao? Vì Như Lai mười lực thảy vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Vì sao? Vì các trí đây thảy vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả Bồ Tát hạnh không buộc không mở. Vì sao? Vì các Bồ Tát hạnh vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không buộc không mở. Vì sao? Vì chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở. (Q. 488, ĐBN)
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế không buộc không mở. Vì sao? Vì chơn như thảy vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nội không, ngoại không, nội ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không không buộc không mở. Vì sao? Vì nội không thảy vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh... nên không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát đối pháp môn vi diệu không buộc không mở như thế, đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên như thật biết. Các đại Bồ Tát đối sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí không buộc không mở như thế, đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên siêng tu học, nên trụ chẳng lìa. (Q.488, ĐBN)
Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, nên thành thục hữu tình không buộc không mở, nên nghiêm tịnh cõi Phật không buộc không mở, nên gần gũi cúng dường chư Phật không buộc không mở, nên nghe thọ pháp môn không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát này thường chẳng xa lìa chư Phật không buộc không mở, thường chẳng xa lìa thần thông không buộc không mở, thường chẳng xa lìa năm nhãn không buộc không mở, thường chẳng xa lìa Đà la ni môn không buộc không mở, thường chẳng xa lìa Tam ma địa môn không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát này quyết định sẽ khởi Đạo tướng trí không buộc không mở, quyết định sẽ chứng Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Quyết định sẽ quay bánh xe pháp không buộc không mở. Quyết định sẽ đem pháp yếu Tam thừa không buộc không mở, an lập các loại hữu tình không buộc không mở, khiến chứng Niết Bàn rốt ráo không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành sáu Ba la mật không buộc không mở, năng chứng tất cả pháp tánh không buộc không mở. Vì vô sở hữu, vì xa lìa, vì vắng lặng, vì vô tướng, vì vô tác, vì vô sanh, vì vô diệt, vì vô nhiễm, vì vô tịnh nên không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Phải biết đại Bồ Tát này được mang danh là bậc mặc giáp bị Đại Thừa không buộc không mở. Đại Bồ Tát này mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. (Q.488, ĐBN)
12. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiện Hiện”, phần sau Q.488
cho đến đầu Q.499, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Tam Ma Địa”, cuối Q.413 cho đến đầu
Q.414, Hội thứ II, ĐBN).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Những gì là tướng Đại thừa Bồ Tát? Làm thế nào biết được Đại Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại thừa? Đại thừa như thế từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào? Đại thừa như vậy trụ ở nơi nào? Ai nương vào Đại thừa này mà xuất ly?
Câu hỏi này được Phật chia làm 3 phần và giải thích từng phần như sau:
Câu hỏi thứ 1: “Những gì là tướng Đại thừa Bồ Tát?”
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Trước hết ngươi hỏi rằng những gì là tướng Đại Thừa Bồ Tát. Thiện hiện! Phải biết sáu Ba la mật là tướng Đại Thừa Bồ Tát Ma ha tát. Những gì là sáu?
1- Sáu pháp Ba la mật là tướng Đại Thừa Bồ Tát:
Một là bố thí, hai là tịnh giới, ba là an nhẫn, bốn là tinh tiến, năm là tĩnh lự, sáu là Bát nhã Ba la mật.
Như thế nào gọi là Bố thí Ba la mật? Nghĩa là đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự xả tất cả sở hữu trong ngoài; cũng khuyên người xả các vật trong ngoài. Đem các căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy là bố thí Ba la mật.
Thế nào là Tịnh giới Ba la mật? Nghĩa là đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, thọ trì mười thiện nghiệp đạo; cũng khuyên người thọ trì mười thiện nghiệp đạo. Đem căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy là tịnh giới Ba la mật.
Thế nào là An nhẫn Ba la mật? Nghĩa là đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự đầy đủ an nhẫn tăng thượng, cũng khuyên người khác đủ an nhẫn tăng thượng. Đem căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy là an nhẫn Ba la mật.
Thế nào là Tinh tấn Ba la mật? Nghĩa là đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự đối năm Ba la mật-đa siêng tu chẳng bỏ, cũng khuyên người đối năm Ba la mật siêng tu chẳng bỏ. Đem căn lành đây, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy là tinh tấn Ba la mật.
Thế nào là Tĩnh lự Ba la mật? Nghĩa là đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự phương tiện khéo léo vào các tĩnh lự, cũng khuyên người phương tiện khéo léo vào các tĩnh lự, chẳng theo thế lực định kia thọ sanh. Đem căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy là tĩnh lự Ba la mật.
Thế nào là Bát nhã Ba la mật? Nghĩa là đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự như thật quán sát tất cả pháp tánh, đối các pháp tánh không lấy không chấp; cũng khuyên người như thật quán sát tất cả pháp tánh, đối các pháp tánh không lấy không chấp. Đem căn lành đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy là Bát nhã Ba la mật. (Q. 488, ĐBN)
Thiện Hiện! Đấy là tướng Đại Thừa các đại Bồ Tát.
2- Mười tám pháp Không là cũng tướng Đại Thừa Bồ Tát:
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa các đại Bồ Tát, chỗ gọi nội không, ngoại không, nội ngoại không, đại không, không không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, vô tán không, bổn tánh không, tự tướng không, nhất thiết pháp không, vô tánh không, vô tánh tự tánh không.
Sao gọi là nội không? Nội là nội pháp, tức là mắt tai mũi lưỡi thân ý (sáu căn bên trong). Phải biết trong mắt do mắt không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Như vậy, cho đến ý do ý không, chẳng thường chẳng hoại. Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là nội không.
Sao gọi là ngoại không? Ngoại là ngoại pháp, tức là sắc thanh hương vị xúc pháp (sáu trần bên ngoài). Phải biết trong đây sắc do sắc không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Như vậy, cho đến pháp do pháp không, chẳng thường chẳng hoại. Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là ngoại không.
Sao gọi là nội ngoại không? Nội ngoại là nội ngoại pháp, tức là sáu nội xứ và sáu ngoại xứ. Nên biết trong đây nội pháp do ngoại pháp không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Nghĩa là đối với sáu nội xứ do sáu ngoại xứ không. Ngoại pháp do nội pháp không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy, nghĩa là đối với sáu ngoại xứ do sáu nội xứ không. Đó là pháp nội ngoại Không.
Sao gọi là đại không? Đại là mười phương. Phải biết trong đây, phương đông do phương đông không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Như vậy, cho đến hạ phương không, chẳng thường chẳng hoại. Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là đại không.
Sao gọi là không không? Không trong đây là tất cả pháp không. Không đây lại do không không nên không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là không không.
Sao gọi là thắng nghĩa không? Thắng nghĩa trong đây tức là Niết Bàn. Phải biết Niết Bàn do Niết Bàn không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là thắng nghĩa không.
Sao gọi là hữu vi không? Hữu vi trong đây tức là ba cõi. Phải biết cõi Dục do cõi Dục không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Cõi sắc, Vô sắc do cõi Sắc, Vô sắc không, chẳng thường chẳng hoại. Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là hữu vi không.
Sao là vô vi không? Vô vi là pháp vô sanh, vô dị, vô diệt. Phải biết vô vi do vô vi không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là vô vi không.
Sao gọi là tất cánh không? Tất cánh nghĩa là nếu pháp rốt ráo bất khả đắc. Phải biết rốt ráo do rốt ráo không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là tất cánh không.
Sao gọi là vô tế không? Vô tế là không có khoảng đầu khoảng sau khoảng giữa khá được. Nếu pháp không khoảng đầu khoảng giữa khoảng sau khá được, pháp này không đến cũng không đi đâu. Phải biết vô tế do vô tế không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là vô tế không.
Sao gọi là vô tán không? Vô tán nghĩa là các pháp có phóng có bỏ, có xả khả đắc. Pháp nào không phóng, bỏ, xả khả đắc thì gọi là pháp vô tán (không tán). Trong không tán do pháp vô tán Không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì bản tánh nó như vậy. Đó là pháp vô tán Không.
Sao gọi là bản tánh không? Bản tánh là tất cả pháp hoặc tánh hữu vi, hoặc tánh vô vi. Bản tánh như thế chẳng Thanh Văn làm, chẳng Độc giác làm, chẳng Bồ Tát làm, chẳng chư Phật làm, cũng chẳng phải ai khác làm, tánh ấy lẽ thường như vậy, nên gọi bản tánh. Phải biết bản tánh do bản tánh không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là bản tánh không.
Sao gọi là tự tướng không? Tướng là tự tướng, cộng tướng các pháp. Phải biết tướng trong đây do tướng không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là tự tướng không.
Sao gọi là tất cả pháp không (nhất thiết pháp không)? Tất cả pháp nghĩa là sắc cho đến thức, nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp , nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, gọi là tất cả pháp. Tất cả pháp trong đây tất cả đều không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là nhất thiết pháp không.
Sao gọi là vô tánh không? Vô tánh là trong đây không có chút tánh khá được. Phải biết vô tánh do vô tánh không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy. Đấy là vô tánh không.
Sao gọi là vô tánh tự tánh không? Vô tánh tự tánh nghĩa là tất cả pháp không năng hòa hợp, tánh có sở hòa hợp, vì tự tánh do duyên sanh. Phải biết vô tánh tự tánh do vô tánh tự tánh không, chẳng thường chẳng hoại. Vì sao? Vì lẽ bản tánh như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tánh do hữu tánh không, vô tánh do vô tánh không, tự tánh do tự tánh không, tha tánh do tha tánh không.
Sao nói hữu tánh do hữu tánh không? Hữu tánh là pháp hữu vi tức là năm uẩn. Hữu tánh do hữu tánh không như thế, vì sắc thảy năm uẩn bất khả đắc vậy, vì tánh vô sanh vậy.
Sao nói vô tánh do vô tánh không? Vô tánh là pháp vô vi. Pháp vô vi trong đây do vô vi không, tức là vô tánh do vô tánh không.
Sao nói tự tánh do tự tánh không? Nghĩa là tất cả pháp tự tánh đều không. Không đây chẳng phải trí làm ra, chẳng phải kiến làm ra, cũng chẳng phải ai làm ra được, nên gọi tự tánh do tự tánh không.
Sao nói tha tánh do tha tánh không? Nghĩa là tất cả pháp, Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp trụ, pháp định, pháp giới, chơn như, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng biến khác, thật tế lẽ như vậy là như vậy. Bởi tha tánh không, nên gọi tha tánh do tha tánh không.
Thiện Hiện! Đấy là tướng Đại Thừa các đại Bồ Tát hành Bát nhã. (Q. -488, ĐBN)
3- Các Tam Ma Địa cũng là tướng Đại Thừa Bồ Tát:
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại Thừa các đại Bồ Tát ấy là Kiện hành Tam ma địa, Bảo ấn Tam ma địa, Sư tử du hý Tam ma địa, Diệu nguyệt Tam ma địa, Nguyệt tràng tướng Tam ma địa, Nhất thiết pháp dũng Tam ma địa, Quán đỉnh Tam ma địa, Pháp giới quyết định Tam ma địa, Quyết định tràng tướng Tam ma địa, Kim cương dụ Tam ma địa, Nhập thập pháp ấn Tam ma địa, Đẳng trì vương Tam ma địa, Thiện an lập Tam ma địa, Đẳng dũng Tam ma địa, Nhập ngôn từ quyết định Tam ma địa, Đẳng nhập tăng ngữ Tam ma địa, Quán phương Tam ma địa, Trì ấn Tam ma địa, Vô vong thất Tam ma địa, Chư pháp đẳng thú hải ấn Tam ma địa, Biến phú hư không Tam ma địa, Kim cương luân Tam ma địa, vô lượng quang Tam ma địa, vô trước vô chướng Tam ma địa, Đoạn chư pháp luân Tam ma địa, Xả bảo Tam ma địa, Biến chiếu Tam ma địa, Bất luyến Tam ma địa, Vô tướng trụ Tam ma địa, Bất tư duy Tam ma địa, Vô cấu đăng Tam ma địa, Vô biên quang Tam ma địa, Phát quang Tam ma địa, Phổ chiếu Tam ma địa, Tịnh kiên Tam ma địa, Vô cấu quang Tam ma địa, Phát diệu lạc Tam ma địa, Cụ oai quang Tam ma địa, Ly tận Tam ma địa, Bất khả hủy Tam ma địa, Khai phát Tam ma địa, Nhật đăng Tam ma địa, Tịnh nguyệt Tam ma địa, Tịnh quang Tam ma địa, Vô động Tam ma địa, Trí tràng tướng Tam ma địa, Kim cương man Tam ma địa, Trụ tâm Tam ma địa, Phổ minh Tam ma địa, Thiện trụ Tam ma địa, Bửu tích Tam ma địa, Diệu pháp ấn Tam ma địa, Pháp bình đẳng tánh Tam ma địa, Xả ái lạc Tam ma địa, Pháp dũng mãn Tam ma địa, Phiêu tán Tam ma địa, Phân biệt pháp cú Tam ma địa, Bình đẳng tự tướng Tam ma địa, Đoạn sở duyên Tam ma địa, Vô biến dị Tam ma địa, Vô phẩm loại Tam ma địa, Nhập danh tướng Tam ma địa, Vô tướng hành Tam ma địa, Ly ế ám Tam ma địa, Cụ hành Tam ma địa, Bất biến động Tam ma địa, Độ cảnh giới Tam ma địa, Ly tập chúng đức Tam ma địa, Quyết định trụ Tam ma địa, Tịnh diệu hoa Tam ma địa, Cụ giác chi Tam ma địa, Vô biên biện Tam ma địa, Vô đẳng đẳng Tam ma địa, Phổ siêu nhất thiết Tam ma địa, Quyết phán nhất thiết Tam ma địa, Tán do dự Tam ma địa, Vô sở trụ Tam ma địa, Nhất tướng trang nghiêm Tam ma địa, Dẫn phát hành tướng Tam ma địa, Nhất hành tướng Tam ma địa, Ly hành tướng Tam ma địa, Diệu hành tướng Tam ma địa, Đạt chư hữu để tán hoại Tam ma địa, Bảo kiên cố Tam ma địa, Giải thoát âm thanh văn tự Tam ma địa, Nhập thi thiết ngữ ngôn Tam ma địa, Cự xí nhiên Tam ma địa, Nghiêm tịnh tướng Tam ma địa, Vô tiêu xí Tam ma địa, Cụ diệu tướng Tam ma địa, Bất hỷ nhất thiết khổ lạc Tam ma địa, Vô tận hành tướng Tam ma địa, Cụ tổng trì Tam ma địa, Nhiếp phục nhất thiết chánh tánh tà tánh Tam ma địa, Tức vi thuận Tam ma địa, Cụ ái tắng Tam ma địa, Vô cấu minh Tam ma địa, Cụ kiên cố Tam ma địa, Mãn nguyệt tịnh quang Tam ma địa, Đại trang nghiêm Tam ma địa, Phổ chiếu thế gian Tam ma địa, Định bình đẳng tánh Tam ma địa, Viễn ly trần cấu Tam ma địa, Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú Tam ma địa, Vô sào huyên vô tiêu xí vô ái lạc Tam ma địa, Quyết định an trụ chơn như Tam ma địa, Ly thân ngữ ý uế ác Tam ma địa, Như hư không Tam ma địa, Vô nhiễm vô trước Tam ma địa. Các Tam ma địa như thế thảy có vô lượng trăm ngàn, đấy là tướng Đại Thừa Bồ Tát. (Q.488, ĐBN)
Thiện Hiện! Trong đây vì sao gọi là Kiện hành Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa này khắp năng nhiếp thọ hành xứ các định. Vậy nên gọi là Kiện hành Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bảo ấn Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây năng ấn hành tướng sai khác các định. Vậy nên gọi là Bảo ấn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Sư tử du hý Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì du hý tự tại. Vậy nên gọi là Sư tử du hý Tam ma địa.
Vì sao gọi là Diệu nguyệt Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, như trăng tròn sáng khắp soi các định. Vậy nên gọi là Diệu nguyệt Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nguyệt tràng tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng giữ gìn tướng cờ các định. Vậy nên gọi là Nguyệt tràng tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhất thiết pháp dũng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng vọt ra tất cả thắng định. Vậy nên gọi là Nhất thiết pháp dũng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Quán đỉnh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng quán sát đến đỉnh các thắng định. Vậy nên gọi là Quán đỉnh Tam ma địa.
Vì sao gọi là Pháp giới quyết định Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng đối pháp giới quyết định soi rõ. Vậy nên gọi là Pháp giới quyết định Tam ma địa.
Vì sao gọi là Quyết định tràng tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, quyết định nắm được tướng cờ các định. Vậy nên gọi là Quyết định tràng tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Kim cương dụ Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng xô ngã các định mà chẳng bị kia xô lại. Vậy nên gọi là Kim cương dụ Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhập pháp ấn Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng ngộ vào tất cả pháp ấn. Vậy nên gọi là Nhập quán ấn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đẳng trì vương Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối trong các định khác đều được tự tại. Vậy nên gọi là Đẳng trì vương Tam ma địa.
Vì sao gọi là Thiện an lập Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối Đẳng trì vương năng khéo an lập. Vậy nên gọi là Thiện an lập Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phóng quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối quang các định năng khắp khai phát. Vậy nên gọi là Phóng quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Lực chúng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng phát thế lực nhiều các định khác. Vậy nên gọi là Lực chúng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đẳng dũng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các thắng định bình đẳng vọt lên. Vậy nên gọi là Đẳng dũng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhập ngôn từ quyết định Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối lời lẽ định tất năng ngộ vào. Vậy nên gọi là Nhập ngôn từ quyết định Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đẳng nhập tăng ngữ Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối danh các định bình đẳng ngộ vào giải thích lý thú. Vậy nên gọi là Đẳng nhập tăng ngữ Tam ma địa.
Vì sao gọi là Quán phương Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các định phương khắp năng quán soi. Vậy nên gọi là Quán phương Tam ma địa.
Vì sao gọi là Trì ấn Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng nắm giữ trọn diệu ấn các định. Vậy nên gọi là Trì ấn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô vong thất Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tướng các định không quên mất được. Vậy nên gọi là Vô vong thất Tam ma địa.
Vì sao gọi là Chư pháp đẳng thú hải ấn Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các thắng định bình đẳng tới vào như biển cả ấn nhiếp thu nhận các dòng. Vậy nên gọi Chư pháp đẳng thú hải ấn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Biến phú hư không Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì năng khắp che hộ không chỗ lựa riêng như thái hư không. Vậy nên gọi là Biến phú hư không Tam ma địa.
Vì sao gọi là Kim cương luân Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng trụ trì tất cả thắng định khiến chẳng tán loạn, như Kim cương luân. Vậy nên gọi là Kim cương luân Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô lượng quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, phóng vô lượng quang soi loại hữu tình khiến nó nghĩ nhớ pháp đã từng lãnh thọ và làm các việc nhiêu ích lớn lao. Vậy nên gọi là Vô lượng quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô trước vô chướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, lìa các nhiễm đắm và tất cả ngăn ngại. Vậy nên gọi là Vô trước vô chướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đoạn chư pháp luân Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tất cả pháp chứng lý vô sanh, khiến dứt hẳn khổ sanh tử chẳng nối nhau nữa. Vậy nên gọi là Đoạn chư pháp luân Tam ma địa.
Vì sao gọi là Xả bảo Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tướng các định hãy năng vứt bỏ, huống các phiền não và tướng các pháp mà chẳng năng bỏ ư? Vậy nên gọi là Xả bảo Tam ma địa.
Vì sao gọi là Biến chiếu Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp soi các định khiến rất rõ sáng. Vậy nên gọi là Biến chiếu Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bất luyến Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tất cả pháp không chỗ mong cầu. Vậy nên gọi là Bất luyến Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô tướng trụ Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy trong các định có chút pháp khá trụ. Vậy nên gọi là vô tướng trụ Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bất tư duy Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, bao nhiêu pháp tâm tâm sở hèn kém thảy đều chẳng chuyển. Vậy nên gọi là Bất tư duy Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô cấu đăng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, như cầm đèn sáng soi rõ các định. Vậy nên gọi là Vô biên quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phát quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng phát tất cả quang minh thắng định. Vậy nên gọi là Phát quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phổ chiếu Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, tức năng khắp soi pháp môn các định. Vậy nên gọi là Phổ chiếu Tam ma địa.
Vì sao gọi là Tịnh kiên Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, được tánh tịnh bình đẳng các đẳng trì. Vậy nên gọi là Tịnh kiên Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô cấu quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng khắp trừ sạch tất cả bẩn nơi định, cũng năng soi rõ tất cả đẳng trì. Vậy nên gọi là Vô cấu quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phát diệu lạc Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng lãnh thọ vui mầu nhiệm nơi các định. Vậy nên gọi là Phát diệu lạc Tam ma địa.
Vì sao gọi là Điển đăng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, soi các đẳng trì như lửa điện sáng. Vậy nên gọi là Điển đăng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô tận Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì chẳng thấy có tận. Vậy nên gọi là Vô tận Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cụ oai quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng oai quang độc thịnh. Vậy nên gọi là Cụ oai quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly tận Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy các đẳng trì lìa hết tất cả mà chẳng thấy có chút phần Pháp Tướng. Vậy nên gọi là Ly tận Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bất khả hủy Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến thấy các đẳng trì không vết hở. Vậy nên gọi là Bất khả hủy Tam ma địa.
Vì sao gọi là Khai phát Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy các đẳng trì không chẳng mở bày. Vậy nên gọi là Khai phát Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhật đăng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các cửa định phát sáng soi khắp. Vậy nên gọi là Nhật đăng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Tịnh nguyệt Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các đẳng trì phá tối như trăng. Vậy nên gọi là Tịnh nguyệt Tam ma địa.
Vì sao gọi là Tịnh quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì được vô ngại giải. Vậy nên gọi là Tịnh quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô động Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các đẳng trì không lung lay, kiêu mạn, dao động, cũng không hý luận. Vậy nên gọi là Vô động Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phát minh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến sáu cửa đẳng trì phát sáng soi khắp. Vậy nên gọi là Phát minh Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ưng tác bất ưng tác Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, soi các đẳng trì tất cả việc nên làm chẳng nên làm đều khiến rõ ràng. Vậy nên gọi là Ưng tác bất ưng tác Tam ma địa.
Vì sao gọi là Trí tràng tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy tướng cờ diệu trí các đẳng trì. Vậy nên gọi là Trí tràng tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Kim cương man Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, dù năng thông suốt tất cả pháp mà chẳng thấy có tướng tất cả. Vậy nên gọi là Kim cương man Tam ma địa.
Vì sao gọi là Trụ tâm Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, tâm chẳng lay động, chẳng chuyển chẳng soi, cũng chẳng tổn giảm, chẳng nhớ có tâm. Vậy nên gọi là Trụ tâm Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phổ minh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các định sáng khắp năng xem soi. Vậy nên gọi là Phổ minh Tam ma địa. Vì sao gọi là Thiện trụ Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì khéo năng an trụ. Vậy nên gọi là Thiện trụ Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bảo tích Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, quán các đẳng trì đều như đống của báu. Vậy nên gọi là Bảo tích Tam ma địa.
Vì sao gọi là Diệu pháp ấn Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng ấn các đẳng trì, lấy ấn mà ấn vậy. Vậy nên gọi là Diệu pháp ấn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Pháp bình đẳng tánh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy có chút pháp lìa tánh bình đẳng ấy. Vậy nên gọi là Pháp bình đẳng tánh Tam ma địa.
Vì sao gọi là Xả ái lạc Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tất cả định và tất cả pháp đều bỏ ưa muốn vui. Vậy nên gọi Xả ái lạc Tam ma địa.
Vì sao gọi là Pháp dũng mãn Tam tam địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, tướng tất cả pháp thảy đều vọt lên, tất cả pháp chư Phật không chẳng viên mãn. Vậy nên gọi là Pháp dũng mãn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phiêu tán Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng khiến các định bay tan các pháp. Vậy nên gọi là Phiêu tán Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phân biệt pháp cú tam ma địa? Là nếu khi trụ tam ma địa đây, khéo năng phân biệt pháp cú các định. Vậy nên gọi là Phân biệt pháp cú tam ma địa.
Vì sao gọi là Bình đẳng tự tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, được các đẳng trì tướng chữ bình đẳng nên rất ưa thích. Vậy nên gọi là Bình đẳng tự tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly văn tự tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì chẳng đắc tướng văn tự đáng ưa muốn. Vậy nên gọi là Ly văn tự tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đoạn sở duyên Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng đắc tướng các pháp biến khác. Vậy nên gọi là Vô biến dị Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô phẩm loại Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng đắc tướng phẩm loại riêng các pháp. Vậy nên gọi là Vô phẩm loại Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhập danh tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, ngộ vào danh tướng riêng biệt của các pháp. Vậy nên gọi là Nhập danh tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô tướng hành Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tướng các định đều vô sở đắc. Vậy nên gọi là Vô tướng hành Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly ế ám Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng khiển trừ mù tối của các định. Vậy nên gọi là Ly ế ám Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cụ hành Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy đủ hành tướng riêng biệt các đẳng trì. Vậy nên goị là Cụ hành Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bất biến động Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì chẳng thấy biến động. Vậy nên gọi là Bất biến động Tam ma địa.
Vì sao gọi là Độ cảnh giới Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, vượt tướng cảnh sở duyên các đẳng trì. Vậy nên gọi là Độ cảnh giới Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly tập chúng đức Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tất cả pháp và tất cả định chẳng đắc tướng nhóm, vì tất cả pháp chẳng thể nhóm được vậy. Vậy nên gọi là Ly tập chúng đức Tam ma địa.
Vì sao gọi là Quyết định trụ Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các định tâm tuy quyết định trụ, mà biết tưởng kia trọn chẳng thể đắc. Vậy nên gọi là Quyết định trụ Tam ma địa.
Vì sao gọi là Tịnh diệu hoa Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các đẳng trì đều được thanh tịnh trau dồi sáng đẹp inh như diệu hoa. Vậy nên gọi là Tịnh diệu hoa Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cụ giác chi Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, tu đủ bảy nhánh giác mau được viên mãn. Vậy nên gọi là Cụ giác chi Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô biên biện Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tất cả pháp được vô biên biện. Vậy nên gọi là Vô biên biện Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô đẳng đẳng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, được tánh vô đẳng đẳng các đẳng trì. Vậy nên gọi là Vô đẳng đẳng Tam ma địa. (Hết Q.488, ĐBN)
Vì sao gọi là Phổ siêu nhất thiết Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp vượt các pháp hữu tình ba cõi. Vậy nên gọi là Phổ siêu nhất thiết Tam ma địa.
Vì sao gọi là Quyết phán nhất thiết Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng quyết phán các pháp hữu tình. Vậy nên gọi là Quyết phán nhất thiết Tam ma địa.
Vì sao gọi là Tán do dự Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì và tất cả pháp có bao do dự đều tan diệt hết. Vậy nên gọi là Tán do dự Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô sở trụ Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy có chỗ sở trụ. Vậy nên gọi là Vô sở trụ Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhất tướng trang nghiêm Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy các pháp có chút xíu tướng. Vậy nên gọi là Nhất tướng trang nghiêm Tam ma địa.
Vì sao gọi là Dẫn phát hành tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì và tất cả pháp tuy năng dẫn phát các thứ hành tướng mà trọn chẳng thấy năng sở dẫn phát. Vậy nên gọi là Dẫn phát hành tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhất hành tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy các đẳng trì không hai hành tướng. Vậy nên gọi là Nhất hành tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly hành tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy các đẳng trì đều không có hành tướng. Vậy nên gọi là Ly hành tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Diệu hành tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các đẳng trì hành tướng mầu nhiệm lìa các hý luận. Vậy nên gọi là Diệu hành tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đạt chư hữu để tán hoại Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì và tất cả pháp được trí thông đạt như thật ngộ vào. Được ngộ rồi, đối các hữu pháp thông suốt tán hoại khiến không có chỗ sót. Vậy nên gọi là Đạt chư hữu để tán hoại Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bảo kiên cố Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy Phật Pháp Tăng chẳng thể phá hoại được, vì đồng vô tướng vậy. Vậy nên gọi là Bảo kiên cố Tam ma địa.
Vì sao gọi là Giải thoát âm thanh văn tự Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, thấy các tướng đẳng trì vắng lặng giải thoát tất cả âm thanh văn tự. Vậy nên gọi là Giải thoát âm thanh văn tự Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhập thi thiết ngữ ngôn Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, ngộ vào tất cả các thi thiết ngữ ngôn đẳng trì không chấp không ngại. Vậy nên gọi là Nhập thi thiết ngữ ngôn Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cự xí nhiên Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì oai quang soi sáng. Vậy nên gọi là Cự xí nhiên Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nghiêm tịnh tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khắp năng nghiêm tịnh tất cả tướng định. Vậy nên gọi là Nghiêm tịnh tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô tiêu xí Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì chẳng thấy cờ tiêu biểu. Vậy nên gọi là Vô tiêu xí Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cụ diệu tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, diệu tướng các định không chẳng đầy đủ. Vậy nên gọi là Cụ diệu tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Bất hỷ nhất thiết khổ lạc Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối tướng vui khổ các đẳng trì chẳng muốn quan sát. Vậy nên gọi là Bất hỷ nhất thiết khổ lạc Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô tận hành tướng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy hành tướng các định có hết. Vậy nên gọi là Vô tận hành tướng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cụ tổng trì Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, năng tổng giữ gìn thắng sự các định. Vậy nên gọi là Cụ tổng trì Tam ma địa.
Vì sao gọi là Nhiếp phục tất cả chánh tà tánh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì chánh tánh tà tánh nhiếp dẹp các kiến đều chẳng cho khởi. Vậy nên gọi là Nhiếp phục tất cả chánh tà tánh Tam ma địa.
Vì sao gọi là Tức vi thuận Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì và tất cả pháp trọn chẳng thấy có tướng trái thuận. Vậy nên gọi là Tức vi thuận Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly ái tắng Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì và tất cả pháp trọn chẳng thấy tướng ưa ghét. Vậy nên gọi là Ly ái tắng Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô cấu minh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, trọn chẳng thấy tướng bẩn tướng sáng. Vậy nên gọi là Vô cấu minh Tam ma địa.
Vì sao gọi là Cụ kiên cố Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các đẳng trì đều được vững chắc. Vậy nên gọi là Cụ kiên cố Tam ma địa.
Vì sao gọi là Mãn nguyệt tịnh quang Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến công đức các đẳng trì tăng thêm như trăng tịnh tròn đầy nước biển thêm sáng. Vậy nên gọi là Mãn nguyệt tịnh quang Tam ma địa.
Vì sao gọi là Đại trang nghiêm Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, khiến các đẳng trì trọn nên các thứ nhiệm mầu hiếm có và việc trau dồi lớn lao. Vậy nên gọi là Đại trang nghiêm Tam ma địa.
Vì sao gọi là Phổ chiếu thế gian Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, soi các đẳng trì và tất cả pháp, khiến các hữu tình đều được mở trí hiểu biết. Vậy nên gọi là Phổ chiếu thế gian Tam ma địa.
Vì sao gọi là Định bình đẳng tánh Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy đẳng trì định tán sai khác. Vậy nên gọi là Định bình đẳng tánh Tam ma địa.
Vì sao gọi là Viễn ly trần cấu Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, diệt được tất cả đất bụi phiền não. Vậy nên gọi là Viễn ly trần cấu Tam ma địa.
Vì sao gọi là Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, chẳng thấy tánh tướng các pháp và tất cả định có cãi không cãi khai khác. Vậy nên gọi là Hữu tránh vô tránh bình đẳng lý thú Tam ma địa.
Vì sao gọi là Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, phá các ổ hang, xả các nêu cờ, dứt các ưa muốn mà không sở chấp. Vậy nên gọi là Vô sào huyệt vô tiêu xí vô á lạc Tam ma địa.
Vì sao gọi là Quyết định an trụ chơn như Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối các đẳng trì và tất cả pháp thường chẳng nới bỏ thật tướng chơn như. Vậy nên gọi là Quyết định an trụ chơn như Tam ma địa.
Vì sao gọi là Ly thân ngữ ý uế ác Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, đối thân ngữ ý đều vô sở đắc, phá hoại tất cả ác nơi thân ngữ ý, đối các đẳng trì không chướng tự tại. Vậy nên gọi là Ly thân ngữ ý uế ác Tam ma địa.
Vì sao gọi là Như hư không Tam ma địa? Là nếu khi trụ Tam ma địa đây, quán tất cả pháp đều vô sở hữu, không chướng không ngại như thái hư không. Vậy nên g