Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

30. Phẩm “So Lường Công Đức” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

29/06/202010:47(Xem: 9982)
30. Phẩm “So Lường Công Đức” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

Phẩm So Lường Công Đức_photo
PHẨM “SO LƯỜNG CÔNG ĐỨC”

Phần sau quyển 103 cho đến hết quyển 168, Hội thứ I, ĐBN.

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước


Phần 1 (Đoạn 1 - 4)






Phần 2 (Đoạn 5 - 6)





Phần 3 (Đoạn 7 - 8)






 

Gợi ý:

Phẩm “So Lường Công Đức” là một phẩm dài của Kinh Đại Bát Nhã do ngài Huyền Trang dịch từ Phạn ra Hán, HT Thích Trí Nghiệm dịch từ Hán ra Việt, kéo dài từ quyển 103 cho đến đầu quyển 168, tổng cộng gần 66 quyển. Do đó, việc tóm lược và chiết giải trở nên khó khăn. Chúng tôi phải căn cứ vào Kinh MHBNBLMĐ của ngài La Thập dịch, vì Kinh này chia phẩm “So Lường Công Đức” của Kinh ĐBN ra làm 8 phẩm, mỗi phẩm có đặt tên riêng: Phẩm “Bửu Tháp Đại Minh”, phẩm “Thuật Thành”, phẩm “Khuyến Trì”, phẩm “Khiển Trừ Ma Ngoại”, phẩm “Tôn Đạo”, phẩm “Xá Lợi”, phẩm “Pháp Thí” (phần trên), phẩm “Tương Tợ” (phần dưới). Chúng tôi căn cứ vào từng phẩm nêu trên của Kinh MHBNBLMĐ để chiết giải thay vì tóm lược và chiết giải cùng một lúc 66 quyển của phẩm “So Lường Công Đức” của Kinh ĐBN, là công việc quá khó khăn, có thể làm độc giả không nắm trọn vẹn tinh thần của phẩm “So Lường Công Đức” và cũng có thể làm cho độc giả quá mệt mỏi khi phải đọc một lúc 66 quyển Kinh.

Đó là lý do tại sao trong phần TỰA của thiên Tổng luận này chúng tôi giới thiệu trước: Lấy hai Kinh là MHBNBLMĐ và ĐBN làm tài liệu nghiên cứu. Thật sự, chúng tôi dùng Kinh MHBNBLMĐ làm dàn bài để luận giải Kinh ĐBN, vì Kinh MHBNBLMĐ phân chia ra nhiều phẩm ngắn gọn, rõ ràng, mỗi phẩm có tên riêng, nói lên được nội dung của chính nó, dễ lãnh hội hơn Kinh ĐBN nhiều.

 

Tóm lược:

 

1. Đoạn một:

Phần này từ Q.103 đến Q.104, Hội thứ I, ĐBN

(Tương đương phẩm “Bửu Tháp Đại Minh”

quyển thứ 10, Kinh MHBNBLMĐ).

 

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hoặc thiện nam, thiện nữ sao chép Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v... cùng y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, đèn sáng để cúng dường. Hoặc thiện nam, tín nữ sau khi Phật Niết bàn xây dựng Bảo tháp trang nghiêm bằng bảy báu, chứa xá lợi Phật(1) trong hòm báu, trang trí long trọng, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen để cúng dường như trên. Hai loại phước ấy, phước nào nhiều hơn?

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ngươi, nên tùy ý ngươi đáp: Nhất thiết trí trí và thân tướng hảo của Như Lai đã chứng đắc, do tu học những pháp nào mà được?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí trí và thân tướng hảo của Như Lai đã chứng đắc là do tu học Bát nhã Ba la mật này mà được.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói, Ta đã tu học Bát nhã Ba la mật mà chứng đắc Nhất thiết trí trí và được thân tướng hảo. Kiều Thi Ca! Nếu chẳng học Bát nhã Ba la mật mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao là điều không thể có.

Kiều Thi Ca! Chẳng vì được thân tướng hảo mà gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mà chỉ vì chứng đắc Nhất thiết trí trí mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

 

(Như Lai đã được Nhất thiết trí trí là do Bát nhã Ba la mật thậm thâm làm nhân, nên mới khởi Phật thân tướng hảo. Khi Phật nhập Niết bàn, do trà tỳ (thiêu) thân tướng hảo Phật mà có xá lợi (tro). Để tôn trọng Phật, nên tất cả trời, rồng, A tu la, người không phải người đều hết lòng thành kính tôn trọng xá lợi Phật để tưởng niệm bậc Vô thương Giác ngộ. Di thể xá lợi Phật chẳng phải là Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí. Vì di thể xá lợi Phật là phần vật chất do tứ đại hợp thành, không độ được chúng sanh, chỉ có Phật, thể hiện xác thân bằng xương bằng thịt, tu hành Bát nhã Ba la mật, chứng Nhất thiết trí trí mới có thể đưa chúng sanh đến bờ giác).

 

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nên các thiện nam, thiện nữ muốn cúng dường Phật hoặc tâm, hoặc thân, trước phải lóng nghe thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, thơ tả giải nói Bát nhã Ba la mật. Lại đem các thứ thượng diệu, tràng hoa, hương bột, hương xoa, y phục, anh lạc v.v… cúng dường. Vì lẽ này, vậy nên Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ chép Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, dùng các thứ trang nghiêm cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng y phục, anh lạc v.v… mà vì cúng dường.

Hoặc các thiện nam, thiện nữ sau khi Phật Niết bàn. Xây dựng Bảo tháp bảy báu trang sức, hòm báu chứa đựng xá lợi Phật an để trong ấy, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột v.v… mà cúng dường. Hai nhóm phước này, nhóm trước là nhiều hơn! Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, trí tuệ đều từ Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế mà sanh ra vậy.

Mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… đều từ Bát nhã Ba la mật xuất sinh. Tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng đều từ Bát nhã Ba la mật xuất sinh. Tất cả phước quả của loài Người cùng cõi Trời đến cõi Sắc Cứu Cánh Thiên đều từ Bát nhã Ba la mật thậm thâm này xuất sanh.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có người ở châu Thiệm bộ, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng biết cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thì những người đó có được công đức như thế hay không?

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nay Ta hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời. Theo ý ngươi trong châu Thiệm bộ có bao nhiêu người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, Pháp, Tăng? Có bao nhiêu người đối với Phật, Pháp, Tăng không nghi(nghi ngờ)? Có bao nhiêu người hết lòng đối với Phật, Pháp, Tăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Trong châu Thiệm bộ có số ít người thành tựu sự chứng tịnh của Phật, Pháp, Tăng. Có số ít người đối với Phật, Pháp, Tăng không nghi. Có số ít người hết lòng đối với Phật, Pháp, Tăng.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời, này Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi trong châu Thiệm bộ có bao nhiêu người chứng đắc 37 pháp trợ đạo? Có bao nhiêu người chứng đắc 3 pháp môn giải thoát? Có bao nhiêu người chứng đắc 8 giải thoát? Có bao nhiêu người chứng đắc 9 định thứ đệ? Có bao nhiêu người chứng đắc 4 sự hiểu biết thông suốt? Có bao nhiêu người chứng đắc 6 phép thần thông? Có bao nhiêu người vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết đắc quả Dự lưu? Có bao nhiêu người làm mỏng tham, sân, si đắc quả Nhất lai? Có bao nhiêu người đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần(2) đắc quả Bất hoàn? Có bao nhiêu người đoạn trừ năm kiết thuận thượng phần(3), đắc quả A la hán? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc giác? Có bao nhiêu người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Trong châu Thiệm bộ có số ít người chứng đắc 37 pháp trợ đạo. Có số ít người chứng đắc ba pháp môn giải thoát. Có số ít người chứng đắc tám giải thoát. Có số ít người chứng đắc chín định thứ đệ v.v… cho đến có số ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Độc giác.

Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Hơn nữa cũng lại càng ít người đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến hạnh Bồ đề(4). Lại càng ít người phát tâm quyết định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các loài hữu tình trôi dạt sinh tử từ vô lượng kiếp đến nay, phần nhiều chẳng gặp Phật, chẳng nghe Chánh pháp, chẳng thân cận Tăng; chẳng nghe tất cả pháp Phật, chẳng tu tất cả pháp Phật.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Ta nay hỏi ngươi, tùy theo ý ngươi trả lời. Kiều Thi Ca! Theo ý ngươi ngoài loài người ở châu Thiệm bộ ra, trong tam thiên thế giới này: Có bao nhiêu chúng sanh cung kính cúng dường phụ mẫu, sư trưởng? Có bao nhiêu chúng sanh cung kính cúng dường Sa môn, Bà la môn? Có bao nhiêu chúng sanh hành bố thí, thọ trai, trì giới? Có bao nhiêu chúng sanh tu 10 thiện nghiệp đạo? Có bao nhiêu chúng sanh đối với các dục trụ tưởng nhàm chán; tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng vui? Có bao nhiêu chúng sanh tu 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc cho đến có bao nhiêu chúng sanh đã phát tâm rồi, tinh cần tu tập hướng đến Bồ Tát hạnh? Có bao chúng sanh trau dồi trưởng dưỡng hướng đến Bồ đề tâm? Có bao chúng sanh phương tiện thiện xảo tu hành Bát nhã Ba la mật? Có bao chúng sanh được an trụ Bồ Tát bất thối chuyển? Có bao chúng sanh mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Ở trong Tam thiên đại thiên thế giới này có ít chúng sanh cung kính cúng dường phụ mẫu, sư trưởng. Có ít chúng sanh cung kính cúng dường Sa môn, Bà la môn. Có ít chúng sanh hành bố thí, thọ trai, trì giới. Có ít chúng sanh tu mười thiện nghiệp đạo. Có ít chúng sanh đối với các dục, trụ tưởng nhàm chán, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui. Có ít chúng sanh tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Có ít chúng sanh tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Có ít chúng sanh đối với Phật, Pháp, Tăng không nghi. Có ít chúng sanh hết lòng đối với Phật, với Pháp, với Tăng. Có ít chúng sanh tu ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến có ít chúng sanh được an trụ bậc Bất thối chuyển. Có rất ít chúng sanh mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói. Này Kiều Thi Ca! Ở trong Tam thiên đại thế giới rất ít chúng sanh làm được những việc như vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ta dùng Phật nhãn thanh tịnh vô ngại quán sát vô số thế giới trong mười phương, tuy thấy có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình phát tâm quyết định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, tinh cần tu tập hướng đến Bồ Tát hạnh, nhưng vì xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thậm thâm, nên hoặc chỉ một, hai, hoặc ba hữu tình được an trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển, còn phần nhiều bị thối đọa vào các bậc Thanh văn, Độc giác hạ liệt. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì quả vị Giác ngộ tối cao rất khó đạt được, nên những hạng ác tuệ, lười biếng, kém tinh tấn, hiểu biết cạn cợt chẳng có khả năng chứng đắc. (Q.103, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nếu các thiện nam, thiện nữ phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, tinh cần tu tập, hướng đến Bồ Tát hạnh, muốn an trụ bậc Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao mà không bị lưu nạn, nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế luôn luôn lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, lại ưa thưa hỏi thầy, thích giảng cho người khác, làm việc này rồi, lại còn phải sao chép, dùng các thứ vật báu để trang nghiêm cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen v.v…

Kiều Thi Ca! Ngoài ra các thiện nam, thiện nữ, đối với tất cả các thiện pháp thù thắng nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm cũng nên lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu tập, đúng như lý suy nghĩ, lại ưa thưa hỏi thầy, vui vì kẻ khác mà thuyết.

Các thiện pháp thù thắng khác gồm thâu trong Bát nhã Ba la mật là những pháp gì? Đó là lục Ba la mật; hoặc cái không nội đến cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; hoặc tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo; hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; hoặc Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đó gọi là các thiện pháp thù thắng thâu nhiếp trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm.

Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy, đối với vô lượng pháp môn khác như uẩn, xứ, giới v.v... tùy thuận Bát nhã Ba la mật thậm thâm, cũng phải lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, chẳng nên hủy báng, làm cho quả vị Giác ngộ tối cao bị trở ngại. Vì sao? Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy, nên nghĩ: Xưa kia, đức Như Lai lúc tu Bồ Tát đạo, vì thường tinh cần tu học lục Ba la mật nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Xưa kia, Như Lai thường tinh cần an trụ 18 pháp không, thường tinh cần an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh… cho đến vô lượng vô biên các thiện pháp thù thắng nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Xưa kia, khi Như Lai tu Bồ Tát đạo vì thường tinh cần an trụ vô lượng pháp môn khác tùy thuận Bát nhã Ba la mật như uẩn, xứ, giới v.v... nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.103, ĐBN)

Nay đây, chúng ta vì cầu quả vị Giác ngộ tối cao, nên đối với pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, cũng phải theo Phật tinh cần tu học, an trụ. Pháp Bát nhã Ba la mật như thế, nhất định là bậc Đại sư chơn thật của chúng ta, thường tinh cần theo học thì sở nguyện đều viên mãn. Pháp Bát nhã Ba la mật như thế, là pháp ấn(5) chơn thật của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng là pháp ấn chơn thật của tất cả quả Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v... Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với pháp Bát nhã Ba la mật như thế, vì thường tinh cần tu học, nên đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Tất cả quả Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v… đối với pháp Bát nhã Ba la mật như thế, vì thường tinh cần tu học, nên đã đến, sẽ đến và hiện đến bờ giác. (Q.104, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Vì duyên cớ ấy, nên các thiện nam, thiện nữ, hoặc lúc Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết bàn, cần phải y cứ vào Bát nhã Ba la mật, thường tinh cần tu học; cần phải y cứ vào tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, thường tinh cần tu học. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật, tịnh lự Ba la mật v.v... như thế là chỗ y cứ an lạc lợi ích của tất cả Thanh văn, Độc giác, đại Bồ Tát và các trời, người, A tu la v.v...

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ hoặc khi Phật trụ thế, hoặc sau khi Niết bàn, cần phải y cứ vào 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cho đến vô lượng vô biên các thiện pháp thù thắng khác, mà thường tinh cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng, vô biên Phật pháp khác như thế là nơi y cứ lợi ích an lạc của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và các trời, người, A tu la v.v...

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ hoặc khi Phật còn trụ thế, hoặc sau khi Niết bàn, cần phải y cứ vào vô lượng pháp môn tùy thuận Bát nhã Ba la mật thậm thâm như uẩn, xứ,giới v.v... mà thường tinh cần tu học. Vì sao? Vì vô lượng pháp môn tùy thuận Bát nhã Ba la mật thậm thâm như uẩn, xứ, giới v.v... như thế là nơi y cứ lợi ích an lạc của tất cả Thanh văn, Độc giác, đại Bồ Tát và các trời, người, A tu la v.v...

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, lại vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen v.v… thì thiện nam thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được bao nhiêu phước đức?

Phật hỏi Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ngươi, tùy theo ý người mà trả lời. Có thiện nam thiện nữ sau khi Như Lai vào Niết bàn, để cúng dường xá lợi Phật, nên dùng bảy thứ báu xây Bảo tháp, lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… tuyệt diệu của cõi trời suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, phước đức phát sanh có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, lại vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen v.v… thì thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Kiều Thi Ca! Ngoài việc này ra, lại có thiện nam, thiện nữ đối với các đức Như Lai sau khi nhập Niết bàn, để cúng dường xá lợi Phật, đã dùng bảy thứ báu xây Bảo tháp khắp cả bốn châu thiên hạ, hoặc khắp cả các tam thiên đại thiên thế giới, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… tuyệt diệu của cõi trời suốt cả cuộc đời, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Theo ý ông thiện nam tín nữ ấy, do nhân duyên này, phước đức phát sanh có nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy: Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, lại vì hữu tình mà tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Thế Tôn thì thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức đã sanh ra, so với những người kia nhiều hơn vô lượng, vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Đúng vậy! Đúng như Thế Tôn đã dạy. Nếu thiện nam, thiện nữ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, thì thiện nam, thiện nữ ấy, nên biết như thế tức là đã cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại. Giả sử tất cả các hữu tình ở vô số thế giới mười phương, đối với Như Lai sau khi nhập Niết bàn, để cúng dường xá lợi Phật, dùng bảy báu xây Bảo tháp, khắp tất cả tam thiên thế giới, không còn chỗ trống; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… của cõi trời, hoặc trải qua một kiếp, hoặc hơn một kiếp, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Thế Tôn, thì các hữu tình ấy, do nhân duyên này phước đức đã có được nhiều chăng?

Phật dạy: Rất nhiều!

Trời Đế Thích bạch: Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc v.v… tuyệt diệu để cúng dường, thì thiện nam thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức có được, đối với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này, có thể bao gồm chứa nhóm tất cả thiện pháp. Đó là mười thiện nghiệp đạo, hoặc là bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc là tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; hoặc tứ Thánh đế; hoặc là năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc là bốn sự hiểu biết thông suốt; hoặc là lục Ba la mật; hoặc là 18 pháp không; hoặc là chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; hoặc là tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; hoặc là Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc là pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc là Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc là vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều thu nhiếp trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế là pháp ấn chơn thật của các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng là pháp ấn chơn thật của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì đối với Bát nhã Ba la mật đều thường tinh cần tu học, nên đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Bạch Thế Tôn! Vì tất cả Thanh văn, Độc giác đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, đều thường tinh cần tu học, nên đã đạt, sẽ đạt và hiện đạt đến bờ giác.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên đây, nên các thiện nam thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đa đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh cần tu học, rộng vì hữu tình tuyên thuyết lưu khắp, lại dùng các thứ trang nghiêm cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen như tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan, bảo cái v.v… mà cúng dường. Các thiện nam thiện nữ này, nhờ nhân duyên đây sanh ra nhóm phước, rất nhiều so với những người kia vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng kể. (Q.104, ĐBN)

Thích nghĩa cho Đoạn một này:

(1). Xá lợi của Phật: Xá lợi (C: fóshèlì; J: butsushari): Phần còn lưu lại của nhục thân Phật sau khi trà tì (thiêu), chính là Phật cốt hay tro ( s: buddha-dhātu, jina-dhātu)- Từ điển Đạo Uyển.

 (2). và (3). Năm kiết (hay kết) thuận hạ phần và năm kiết thuận thượng phần: Xem lại thích nghĩa ở phẩm “Vô Sanh”.

(4). Hạnh Bồ đề: Cũng gọi là Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo: 1- Tự lợi, lợi tha, giác hạnh viên mãn; 2- Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.

(5). Pháp ấn (Phạm: Dharma-mudrà) Chỉ cho dấu ấn (ấn là con mộc bằng cây hay kim loại có khắc tín hiệu hay chữ ký thí dụ dấu ấn của vua) đóng trên văn kiện hay Kinh Phật. Ấn cũng có nghĩa là chân thực bất biến, là chuẩn mực chứng minh sự chân chính của Phật pháp, cho nên gọi là Pháp ấn.

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn một này)

 

Nếu có người chỉ biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật này mà thờ (chớ không cần phải thọ trì, đọc tụng hay giảng thuyết...) tất cả hàng Nhơn, Phi Nhơn không thể tới đó phá hoại được. Vì Bát nhã Ba la mật này được tất cả chư Thiên Vương, chư Phạm Vương cùng chư Thiên trong đại thiên thế giới mười phương đồng ủng hộ. Chỗ thờ Bát nhã Ba la mật này, chư Thiên thảy đều tôn trọng đến đó cúng dường, đi nhiễu, lễ lạy.

Đó là chỉ nói về công đức của người biên chép Bát nhã Ba la mật huống chi người thọ trì, đọc tụng vì người giảng nói… công đức gấp bội phần. Vì Bát Nhã là nơi xuất sanh chư Phật, chư Bồ Tát và tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian. Công đức biên chép, thọ trì, chánh ức niệm, cung kính cúng dường, tán thán Bát nhã Ba la mật còn hơn xây tháp bảy báu khắp thế giới mười phương để cúng dường xá lợi.

Bát nhã Ba la mật cùng vô lượng thiện pháp là chỗ tôn quý, là pháp ấn của chư Phật, cũng là pháp ấn của Thanh văn, Bích Chi Phật. Thanh văn, Bích Chi Phật học Bát nhã Ba la mật nhẫn đến Nhất thiết trí mà có thể sang được bờ kia. Chư Phật chư Bồ Tát cũng do học Bát nhã Ba la mật nhẫn đến Nhất thiết trí trí mà sang được bờ kia.

 

Thật ra đoạn một này chỉ nêu lên hai đối tượng để so sánh: 1- Là Kinh Bát Nhã và 2- Là xá lợi Phật. Kinh Bát Nhã sanh ra chư Phật, chư Bồ Tát và tất các thiện pháp thế gian, xuất thế gian. Nếu không có Bát Nhã thì không có Phật và nếu không có Bát Nhã huân tu thì ai cung kính tôn trọng cúng dường xá lợi Phật? Vậy xá lợi chỉ là hạng thứ, vì xá lợi không thể gột rửa cho chúng sanh sạch hết phiền não thế gian, chỉ có người hành trì Bát nhã Ba la mật được giác ngộ, đạt Nhất thiết trí trí, thành tựu Vô thượng Chánh giác mới có thể giải thoát và đưa chúng sanh vào vô dư y Niết bàn.

 

2. Đoạn hai:

Cuối quyển 104, Hội thứ I, ĐBN

(Tương đương với phẩm “Thuật Thành” quyển thứ 10, MHBNBLMĐ).

 

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… để cúng dường, thì thiện nam thiện nữ ấy, do nhân duyên này phước đức có được, so với những người kia, nhiều hơn vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả 18 pháp không từ không nội đến không không tánh tự tánh; từ chơn như đến thật tế v.v… được xuất hiện. Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả Tứ đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo được phát sanh. Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí được phát sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả đại Bồ Tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật được thành tựu.Vì do Bát nhã Ba la mật này mà tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa được phát sanh.Vì do Bát nhã Ba la mật này mà quả vị Giác ngộ tối cao và Bát Niết bàn của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, nếu thiện nam thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát Nhã này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi, hoặc sao chép, rồi thiết bày lễ vật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại dùng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, tràng phan v.v… để cúng dường, phước đức đã tạo Bảo tháp trước kia, so với phước đức này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, cho đến vô số phần, toán phần, cực số phần tính đếm chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong cõi người ở châu Thiệm bộ(1), thì Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo trong thế gian này đều trụ chẳng diệt.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có mười thiện nghiệp đạo và thí, giới, tri ơn, báo ơn, cúng dường Hiền thánh... không bao giờ dứt diệt.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có lục Ba la mật, 18 pháp không, thường có chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v… Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo hoặc Phật mười lực hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa hoặc Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến vô lượng, vô biên Phật pháp khác. (Q.104, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Nếu Bát Nhã này trụ trong loài người châu Thiệm bộ thì thế gian thường có dòng họ lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; có chúng trời Tứ đại vương, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại; có các trời Phạm, trời Quang, trời Tịnh, trời Quảng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh; có các trời vô sắc: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ(2).

Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa; có Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng, A la hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có đại Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Kiều Thi Ca! Nếu Bát nhã Ba la mật này trụ trong loài người ở châu Thiệm bộ thì thế gian thường có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Thích nghĩa cho Đoạn hai này:

(1). Châu Thiệm bộ còn gọi là Diêm Phù Đề, danh từ cũ gọi là Uế châu, một trong bốn châu nằm ở phía Nam núi Tu di, cho nên cũng gọi là Nam Diêm Phù Đề (Phạm: Dakwiịa-jambu-dvìpa). Có sách gọi Diêm Phù Đề là Cõi Sa bà (Phạm:Sahàlokadhàtu) hay Ta Bà tức thế giới mà chúng ta đang sống, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa. Đã thích nghĩa rồi, chỉ lặp lại để nhớ.

(2). Xem lại 25 cảnh giới hiện hữu, phần thứ I Tổng luận.

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn hai này)

 

Phật bảo Thiên Đế Thích:“Các thiện nam, thiện nữ biên chép Bát nhã Ba la mật nầy, học tập, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, lại thêm dùng hoa hương, chuỗi ngọc, phan cái, kỹ nhạc cúng dường... sẽ được vô số vô lượng bất khả tư nghì, bất khả xưng lượng phước đức. Vì sao? Vì lục Ba la mật, tứ niệm xứ đến 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao đều xuất sinh từ Bát Nhã. Và chính nhờ Bát Nhã nầy mà có hàng đại tộc, trưởng giả, cư sĩ, trời Tứ Thiên Vương đến trời Sắc Cứu Cánh, A La Hán đến Bích Chi Phật, Bồ Tát đến chư Phật xuất hiện thế gian chuyển pháp luân, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ”.

Ngày nào Bát nhã Ba la mật còn tồn tại ở thế gian thời ngày ấy Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo trọn chẳng thể đoạn diệt. Thế nên phước đức biên chép, thọ trì, chánh ức niệm cho đến cúng dường Bát nhã Ba la mật này hơn phước đức cúng dường bảo tháp chứa xá lợi trăm ngàn phần, muôn ngàn phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến toán số thí dụ đều chẳng thể bằng được.

Thật ra, phẩm “Thuật Thành” nầy chỉ là kết quả tóm lược của việc thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói Bát nhã Ba la mật mà thôi. Các công đức do thọ trì, đọc tụng… đã trình bày quá đầy đủ ở phẩm nói trên, nên không cần lặp lại nữa!

 

3. Đoạn ba:

Mở đầu quyển 105, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Khuyến Trì”, Q.10, MHBNBLMĐ).

 

Bấy giờ, ở thế giới Tam thiên đại thiên đây có bao nhiêu trời Bốn đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại Phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả. Trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, đồng thanh cùng thưa Thiên Đế Thích rằng:

Thưa Đại tiên! Nên lãnh thọ Bát nhã Ba la mật như thế. Thưa Đại tiên! Nên phụng trì, nên đọc, nên tinh siêng tu học, nên như lý suy nghĩ, nên cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát Nhã như thế. Vì sao? Thưa Đại tiên! Vì nếu năng thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, thời khiến tất cả ác pháp tổn giảm, thiện pháp tăng thêm, cũng khiến tất cả thiên chúng tăng lên, các bè lũ A tu la tổn giảm, cũng khiến mắt Phật, Pháp, Tăng chẳng diệt. Nếu có thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, thời khiến giống Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo chẳng dứt.

Thưa Đại tiên! Phải biết, do hạt giống Tam bảo chẳng dứt diệt, nên mới có lục Ba la mật xuất hiện thế gian. Phải biết, do hạt giống Tam bảo chẳng dứt diệt, nên mới có 18 pháp không; chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…xuất hiện thế gian. Do hạt giống Tam bảo chẳng dứt diệt nên tứ Thánh đế, bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng xuất hiện thế gian. Do hạt giống Tam bảo chẳng dứt diệt, nên mới có tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn cho đến Nhất thiết tướng trí xuất hiện thế gian v.v...

Vậy nên, Đại tiên phải thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Ngươi nên lãnh thọ, xướng đọc, tụng niệm, tinh siêng tu học, như lý suy nghĩ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây. Vì sao? Kiều Thi Ca! Nếu bè lũ A tu la khởi ác niệm quyết cùng trời Ba mươi ba giao chiến. Bấy giờ các ngươi Chư thiên quyến thuộc, nếu đều thành tâm niệm tụng Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế và cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, khi ấy ác tâm của bè lũ A tu la hung ác tức khắc bị tiêu diệt, chẳng tái sanh nữa. Kiều Thi Ca! Nếu các thiên tử, hoặc các thiên nữ hiện năm tướng suy(1), tâm kia kinh hoàng run sợ đọa ác thú. Bấy giờ các ngươi chư thiên quyến thuộc nên an trụ, chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật như thế. Khi đó các thiên tử hoặc các thiên nữ vì nghe sáu thiện căn Bát nhã Ba la mật này, nên đối Bát nhã Ba la mật đây sanh lòng tịnh tín, năm tướng suy kia liền mất, thân ý được thư thái, đến khi mệnh chung, sanh lại bản xứ hưởng vui cõi trời giàu bội hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nghe tin Bát nhã Ba la mật được công đức oai lực rất rộng lớn vậy.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ hoặc các thiên tử và các thiên nữ nghe Bát nhã Ba la mật này, vì được công đức nên lần lần sẽ được Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Chư Phật và các đệ tử quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả đều học Bát nhã Ba la mật như thế đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn. Vì sao? Kiều Thi Ca! Do Bát nhã Ba la mật đây, khắp nhiếp tất cả Bồ đề phần pháp, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Như Lai đều nhiếp đủ vậy.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là đại thần chú. Bát nhã Ba la mật như thế là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Bát nhã Ba la mật như thế là tất cả chú vương, rất thượng rất diệu, năng dẹp tất cả mà chẳng bị tất cả uốn dẹp lại. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế năng trừ tất cả pháp ác bất thiện, năng nhiếp sanh trưởng các thiện pháp vậy.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: Như vậy, như vậy. Như lời ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, là chú vương rất thượng rất diệu, năng dẹp tất cả mà chẳng bị tất cả uốn dẹp lại. Vì sao? Vì chư Phật quá khứ đều nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các Phật vị lai, hiện tại đều nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên hiện chứng, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Nhân nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên mười thiện nghiệp đạo(2) mới xuất hiện thế gian. Nhân nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thẳm sâu như thế, ơn thí, thọ trai, trì giới các pháp xuất hiện thế gian. Kiều Thi Ca! Nhân nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên tất cả pháp Phật xuất hiện thế gian.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nhân nương Bát nhã Ba la mật đại chú vương thậm thâm như thế, nên có đại Bồ Tát hiện ra, vì có Bồ Tát hiện ra nên tất cả thiện pháp thế gian, xuất thế gian hiện ra.

Kiều Thi Ca! Thí như nương mặt trăng tròn đầy, nên tất cả dược vật tinh sao núi biển đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian mười thiện nghiệp đạo dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian ơn thí, thọ trai, trì giới các pháp dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn địnhvô sắc, năm thần thông thảy dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian sáu pháp Ba la mật, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian tứ Thánh đế, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, tất cả Đà la ni, tất cả Tam ma địa môn dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí dược thảo vật loại đều được rõ thêm. Nhân nương đại Bồ Tát trăng tròn đầy như thế, nên tất cả thế gian Dự lưu hướng Dự lưu quả, Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả, Độc giác hướng, Độc giác Bồ đề cho đến đại Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác, các núi biển cả đều được rõ thêm.

Kiều Thi Ca! Khi Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chưa ra đời, đại Bồ Tát cũng có đủ phương tiện khéo léo, vì các hữu tình tuyên nói tất cả pháp thế gian, xuất thế gian không trái ngược. Vì sao? Kiều Thi Ca! phải biết, vì đại Bồ Tát này năng sanh ra tất cả Nhân thừa. Thiên thừa, Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa vậy.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát có bao nhiêu phương tiện khéo léo đều từ Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế mà được sanh trưởng. Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng hành Bố thí Ba la mật, cho đến Bát nhã Ba la mật.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng hành tất cả các thiện pháp.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng được 32 tướng đại sĩ, 80 vẻ đẹp tùy hảo trang nghiêm. Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới chẳng đọa bậc Thanh văn, chẳng chứng bậc Độc giác. Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng nhiếp lấy thọ lượng viên mãn, năng nhiếp lấy vật dụng viên mãn, tịnh độ viên mãn, chủng tánh viên mãn, sức lực viên mãn, quyến thuộc viên mãn. Đại Bồ Tát trọn nên sức phương tiện khéo léo, mới năng hành các hạnh thập địa Bồ Tát, năng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Như thế là đại Bồ Tát và bao nhiêu phương tiện khéo léo, đều do Bát nhã Ba la mật mà được trọn nên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử, thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp, thì sẽ được trọn nên công đức thắng lợi hiện tại và vị lai.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thế nào là được trọn nên công đức thắng lợi hiện tại?

Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam tử thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp, các thiện nam thiện nữ này hiện tại chẳng bị trúng phải độc, đao binh làm hại, lửa đốt cháy, nước làm chìm cho đến chẳng bị chết yểu bởi bốn trăm lẻ bốn bệnh, ngoại trừ định nghiệp đời trước, đời này phải chịu. Các thiện nam, thiện nữ này nếu gặp quan sự hay oán giặc bức bách, chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật như thế, nếu phải đến các chỗ ấy trọn chẳng bị khiển trách, gia hại. Vì sao? Vì oai đức thế lực Bát nhã Ba la mật như thế. Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này nếu có đến các chỗ quốc vương, vương tử, đại thần chăm lòng tụng niệm Bát nhã Ba la mật như thế, chắc được quốc vương thảy vui vẻ hỏi han cung kính khen ngợi. Vì sao? Vì các thiện nam thiện nữ này thường đối hữu tình chẳng rời tâm từ bi hỷ xả vậy. Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp, sẽ được trọn nên các việc như thế, tức là các thứ công đức thắng lợi đời hiện tại vậy.

Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Thế nào là sẽ được trọn nên công đức thắng lợi đời vị lai?

Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp. Các thiện nam, thiện nữ này tùy sanh ở chỗ nào thường chẳng xa lìa mười thiện nghiệp đạo. Các thiện nam, thiện nữ này tùy sanh ở chỗ nào thường chẳng xa lìa ơn thí, thọ trai, trì giới các pháp. Các thiện nam, thiện nữ tùy sanh ở chỗ nào thường chẳng xa lìa tất cả pháp mầu Phật đạo.

Các thiện nam, thiện nữ này hẳn chẳng rơi đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, ngoại trừ bản nguyện vãng sanh thú kia để thành thục hữu tình. Các thiện nam, thiện nữ này tùy sanh ở chỗ nào thường đủ các căn không khuyết. Các thiện nam, thiện nữ này hẳn chẳng sanh vào nhà bần cùng hạ tiện, thợ thuyền tạp loại, khiêng thây chết, chẳng sanh nhà hàng thịt, đánh cá, đi săn, trộm cướp, quan ngục. Các thiện nam tử, thiện nữ này thường sanh vào nhà hào quý, hoặc Sát đế lợi, hoặc Bà la môn, hoặc Trưởng giả, Cư sĩ thảy, trọn chẳng sanh nhà làm ruộng đồng. Các thiện nam, thiện nữ này tùy sanh ở chỗ nào đều được ba mươi hai vẽ đẹp, tám mươi tùy hảo trang nghiêm nơi thân, tất cả hữu tình thấy đều vui mừng. Các thiện nam, thiện nữ này phần nhiều sanh trong cõi có Phật nghiêm tịnh hóa sanh nơi hoa sen, chẳng gây ác nghiệp. Các thiện nam, thiện nữ này thường chẳng xa lìa thần thông, từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Phật Thế Tôn, lóng nghe chánh pháp, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, dần dần chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu bố, sẽ được trọn nên các thứ công đức thắng lợi đời vị lai như vậy.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ muốn được công đức thắng lợi hiện tại vị lai như thế, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học… rộng khiến lưu khắp. Lại đem các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột thảy, y phục, anh lạc, bảo tràng, phan cái, các đồ diệu kỳ quý lạ, kỹ nhạc và đèn sáng mà vì cúng dường.

Thích nghĩa cho Đoạn ba này:

(1). Năm tướng suy: Năm tướng hiện ra khi chư Thiên(Thiên tử hay Thiên nữ) ở các cõi trời đã hưởng hết phước đức, sắp phải xả thân để sanh về một cảnh giới khác. Năm tướng suy đó là: 1- Quần áo thường dơ bẩn; 2- Đầu tóc rối bời, hoa trên đầu tàn tạ; 3- Thân thể hôi hám và nhơ nhớp; 4- Dưới nách thường ra mồ hôi; 5- Không ưa thích ngôi vị.

(2). Mười thiện nghiệp đạo hay thập thiện đạo là ba nghiệp lành của thân: Không sát(giết hại), đạo(trộm cắp), dâm(tà dâm); bốn nghiệp lành của khẩu: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác; và ba nghiệp lành của ý: Không tham, không sân, không si. Xem lại phần thứ I Tổng luận.

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn ba này)

 

Phần này của Kinh ĐBN khuyên thiện nam, tín nữ, các thiên tử, thiên nữ nên thọ trì, đọc tụng, tinh siêng tu họcrộng khiến lưu bố Bát nhã Ba la mật thì được các công đức rộng lớn. Vì Bát nhã Ba la mật sanh tất các pháp thế gian và xuất thế gian, và cũng sanh ra Bồ Tát, sanh ra chư Phật. Nên nói Bát Nhã là mẹ sanh, mẹ dưỡng của chư Phật, chư Bồ Tát. Vì vậy, những ai chăm lòng lóng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh siêng tu học, đúng như lý suy nghĩ, thơ tả giảng nói, rộng khiến lưu bố thì những vị đó được rất nhiều công đức rộng lớn trong hiện tại và vị lai. Ngoài ra, Kinh còn tán tụng Bát Nhã là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng thượng chú, là vô đẳng đẳng chú. Bát nhã Ba la mật như thế là chú vương rất thượng rất diệu, năng dẹp tất cả mà chẳng bị tất cả uốn dẹp lại được.

Vì vậy, phẩm “Khuyến Trì”, Kinh MHBNBLMĐ, nói rằng:

 “Chính nhờ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật này mà Phật chủng, Pháp chủng, Tăng chủng chẳng dứt. Vì Phật chủng, Pháp chủng và Tăng chủng chẳng dứt, nên mới có lục Ba la mật, thập thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, có Đàn na Ba la mật đến pháp bất cộng, có pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế... có ngũ nhãn, lục thần thông, quả Tu Đà Hoàn đến Nhất thiết chủng trí xuất hiện trong thế gian.

Thiện nam, thiện nữ hay là Thiên tử, Thiên nữ nghe Bát nhã Ba la mật này, vì được công đức nên lần lần sẽ được Vô thượng Chánh giác. Vì quá khứ chư Phật và hàng đệ tử đều học Bát nhã Ba la mật này mà được Vô Thượng Bồ đề, nhập vô dư Niết Bàn. Vị lai và hiện tại chư Phật cùng hàng đệ tử cũng đều học Bát nhã Ba la mật này mà được Vô Thượng Bồ đề. Bát nhã Ba la mật này nhiếp thọ tất cả pháp lành như là pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát và pháp Phật.

Và cũng chính nhờ thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật mà các thiện nam tín nữ được công đức hiện tại và vị lai:

- Công đức hiện đời là chẳng bị trúng độc mà chết, đao thương chẳng hại được, nước chẳng nhận chìm, lửa chẳng đốt cháy, nhẫn đến bốn trăm lẻ bốn thứ bịnh chẳng xâm hại được. Nếu mắc việc quan gia cũng không bị khiển trách v.v…

- Công đức đời sau là trọn chẳng sa vào ba ác đạo. Trọn chẳng sanh vào nhà nghèo hèn hạ tiện. Thường được thân tướng hoàn hảo. Thường được hóa sanh trong nước có Phật. Trọn chẳng lìa Bồ Tát thần thông. Nếu muốn từ một Phật quốc đến một Phật quốc để cúng dường chư Phật và nghe Phật thuyết pháp thời được như ý.

Vì thế nên thiện nam, thiện nữ phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật này, dùng hương hoa, phan cái, kỹ nhạc cúng dường, thường chẳng rời tâm Nhất thiết trí trí. Thiện nam, thiện nữ nầy được thành tựu công đức đời này, đời sau nhẫn đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Tóm lại, đoạn Kinh này chỉ tán tụng công đức của những ai đã từng thọ trì đọc tụng vì người giảng nói Kinh Đại Bát Nhã và lại dùng hoa quả thượng diệu mà vì cúng dường như các đoạn Kinh đã được trích giảng trước đây để khuyến khích những người con Phật đọc tụng thọ trì Bát Nhã, nên đoạn Kinh này có tên là khuyến trì, nghĩa là khuyên bảo, thọ trì và truyền bá tức là hoằng dương rộng rãi, không để Bát nhã Ba la mật diệt mất.

 

4. Đoạn bốn:

Cuối của Q.105 - Q.106, phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, (Tương đương với phẩm “Khiển Trừ Ma Ngoại”,

Kinh MHBNBLMĐ)

 

Lúc bấy giờ, số đông Phạm chí ngoại đạo xấu ác, vì muốn tìm sở đoản của Phật nên đến chỗ Phật. Khi ấy, trời Đế Thích thấy vậy, nên nghĩ: Bọn Phạm chí ngoại đạo này đi đến pháp hội rình tìm sở đoản của Phật, phải chăng là đểgây trở ngại Bát nhã Ba la mật? Ta nên tụng niệm Bát Nhã đã học từ Phật, khiến cho bọn tà độc kia lui đi. Nghĩ rồi, liền tụng Bát Nhã. Ngay lúc đó, các Phạm chí ngoại đạo đang đi đến, từ xa hiện tướng cung kính, đi vòng bên phải đức Thế Tôn rồi lui về chỗ cũ.

Xá Lợi Tử thấy lạ liền nghĩ: Tại sao bọn họ vì duyên cớ gì mới đến lại rút lui ngay?

Phật biết ý, liền bảo Xá Lợi Tử: Bọn ngoại đạo ấy, vì muốn tìm sở đoản của Ta, mới rủ nhau đến, nhưng trời Đế Thích đã tụng niệm Bát Nhã, do sức của đại chú vương này khiến bọn họ lui về.

Xá Lợi Tử! Ta hoàn toàn chẳng thấy bọn ngoại đạo ấy có một chút thiện ý, mà chỉ có dã tâm, vì muốn tìm sở đoản của Ta mà đến đây. Ta hoàn toàn chẳng thấy Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc ngoại đạo v.v… các loài hữu tình ở thế gian, dám mang ác ý đến phá hoại Bát Nhã mà có thể đạt được ý nguyện. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì tất cả chúng trời từ cõi Dục cho đến trời Sắc cứu cánh, hay tất cả Thanh văn, tất cả Độc giác, Bồ Tát, tất cả long thần, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, Yết lộ đồ, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, người, chẳng phải người v.v... có thế lực lớn ở trong tam thiên đại thiên thế giới đều cùng thủ hộ Bát Nhã, chẳng để bọn ác gây trở ngại. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì chư thiên v.v... ấy đều từ Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Thanh văn, tất cả Độc giác, Bồ Tát và tất cả trời, long thần, Dược xoa, người, chẳng phải người v.v... ở vô số thế giới chư Phật mười phương đều cùng thủ hộ Bát Nhã chẳng để bọn ác kia gây trở ngại. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì chư Phật v.v... ấy cũng đều từ Bát Nhã mà xuất sanh.

Lúc bấy giờ, ác ma thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bốn chúng và các trời, người v.v… trong cõi Dục và cõi Sắc đều cùng tụ hội, tuyên thuyết Bát Nhã liền nghĩ trong ấy chắc chắn có đại Bồ Tát được thọ ký sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Ta phải đi đến để phá đạo tâm của họ. Nghĩ rồi liền hóa bốn binh chủng tinh nhuệ rầm rộ kéo đến chỗ Phật.

Trời Đế Thích thấy rồi liền nghĩ: Chẳng lẽ ác ma hóa ra việc này, muốn đến làm não hại Phật và gây trở ngại cho Bát Nhã? Vì sao? Vì bốn binh chủng trang sức đẹp lạ như thế, bốn binh chủng đẹp của đại vương Ảnh Kiện(1) nước Ma kiệt đà(2), bốn binh chủng đẹp của đại vương Thắng Quân(3) nước Kiều tát la(4), bốn binh chủng đẹp của dòng họ vua Thích Ca nước Kiếp tỷ la(5), bốn binh chủng đẹp của dòng Lật thiếp tỳ(6) nước Phệ xá lê(7), bốn binh chủng đẹp của dòng vua Lực sĩ(8) nước Kiết tường mao(9) cũng chẳng bì kịp. Nhất định là binh chủng của ác ma biến hóa ra. Ác ma luôn luôn rình tìm chỗ sơ hở của Phật, phá hoại thắng nghiệp đã tu của hữu tình, ta phải tụng Bát nhã Ba la mật, khiến cho đám ác ma ấy rút lui. Trời Đế Thích nghĩ rồi, liền tụng Bát Nhã; ngay khi ấy đám ác ma lui về chỗ cũ, vì thần lực của đại chú vương Bát nhã Ba la mật thậm thâm làm xoay chuyển chúng.

Lúc bấy giờ, trong hội có chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Sắc cứu cánh, cùng lúc biến hóa ra các thứ hoa, y phục, anh lạc v.v… rải cúng Phật, rồi các thiên chúng ấy đồng chấp tay cung kính bạch Phật: Nguyện cho Bát nhã Ba la mật này tồn tại lâu dài trong cõi châu Thiệm bộ. Vì sao? Vì nếu Bát nhã Ba la mật được truyền bá rộng rãi trong cõi châu Thiệm bộ, thì nên biết, chẳng những ở nơi này Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo tồn tại lâu dài mà đối với tam thiên đại thiên thế giới này cho đến vô lượng, vô số, vô biên cõi Phật trong mười phương cũng được như vậy.

Bạch Thế Tôn! Tùy theo địa phương có thiện nam, thiện nữ đem lòng tin thanh tịnh sao chép, thọ trì Bát nhã Ba la mật, rồi cung kính, cúng dường, thì nên biết, vùng ấy, xứ ấy có ánh sáng mầu nhiệm, trừ diệt mê mờ, sanh các điều lợi ích thù thắng.

Đức Phật xác nhận lời Đế Thích và các thiên chúng: Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói.

Các chúng trời lại biến hóa ra các thứ hoa v.v… của cõi trời để rải cúng Phật, rồi lại bạch Phật: Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì loài hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy, chẳng bị ma và quyến thuộc của ma làm hại. Chư thiên chúng con thường đi theo thiện nam, thiện nữ ấy, hết lòng ủng hộ khiến không tổn hại. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy, chư thiên chúng con cung kính phụng sự như Phật.

Trời Đế Thích liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí của chư Phật, phải cầu Bát nhã Ba la mật; muốn chứng đắc Bát nhã Ba la mật, phải cầu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng đắc, đều phát sanh từ Bát Nhã; vì Bát Nhã như thế đều phát sanh từ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như thế chẳng khác Nhất thiết trí trí; Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng cùng với Bát Nhã này, nên biết, không hai, cũng không hai phần.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Muốn chứng đắc Nhất thiết trí trí của chư Phật, phải cầu Bát Nhã; muốn chứng đắc Bát Nhã, phải cầu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng đắc, đều phát sanh từ Bát Nhã; Bát Nhã như thế đều phát sanh từ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như thế chẳng khác Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí của chư Phật đã chứng cùng với Bát Nhã này, nên biết, không hai, cũng không hai phần. Vì vậy nên công đức oai thần của Bát nhã Ba la mật thật là hy hữu. (Q.106, ĐBN)

Thích nghĩa cho Đoạn bốn này:

(1). Đại vương Ảnh kiện có lẽ dịch âm Phạn ngữ Ajàtazàtru, Pāli: Ajàtassattu, tức vua A Xà Thế, người cai trị nước Ma kiệt đà, con vua Tần Bà Sa La (Phạm, Pàli: Bimbisàra), sống cùng thời với đức Thích Tôn. Vua Tần Bà Sa la sau bị con là A Xà Thế soán ngôi, bỏ vào ngục thất, cho chết đói. Sau đó A Xà Thế bành trướng bá quyền tại trung Ấn độ, có quân đội hùng mạnh. Xin nhắc thêm rằng: Về sau A Xà Thế hối hận, xám hối với Phật và trở thành một Phật tử thuần thục, cũng là một vị hộ pháp đắc lực cho lần kết tập Kinh điển lần thứ nhất tại đỉnh Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá, nước Ma kiệt đà. TB

(2). Ma kiệt đà(skt & p: Magadha): Còn gọi là Ma Ha Đà—Ma Kiệt Đề—Ma Già Đà—Một trong mười sáu vương quốc cổ ở Ấn Độ trong thời Phật còn tại thế, nằm về phía Đông Bắc Ấn, trong đó có Bồ đề Đạo Tràng, một trung tâm Phật giáo thời cổ, nơi có nhiều tịnh xá gọi là Bahar. Thời Đức Phật còn tại thế, Ma Kiệt Đà là một vương quốc hùng cường, dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (khoảng từ năm 543-493 trước Tây Lịch), có Kinh đô trong thành Vương Xá. Sau đó A Xà Thế soán ngôi và cai trị xứ này- như đã trần thuật ở trên. Vua A Dục cũng đã từng ngự trị xứ nầy vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch. Nước Ma Kiệt Đà nay thuộc các quận Patna và Gaya, tiểu bang Bihar, miền Đông Bắc Ấn Độ. Thành Vương Xá, núi Linh Thứu, và Trúc Lâm Tịnh xá đều nằm trong xứ Ma Kiệt Đà. (Phỏng theo Từ điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)

(3). Đại vương Thắng Quân có lẽ là vua Ba Tư Nặc (Phạm: Prasenajit, Pàli: Pasenadi), vì Kinh có nhắc đến xứ Kosala (Phạm: Kauzàla), một quốc gia lớn thuộc Trung Ấn, cùng thời với đức Thế tôn. Vua cùng hoàng hậu và thái tử Kỳ Đà là những cư sĩ quan trọng trongTăng đoàn Phật giáo thời bấy giờ. Vua Ba Tư Nặc trong Kinh Lăng Nghiêm về sau đi tu, làmTỳ kheo của Phật, một trong 1250 đệ tử Phật.

(4). Kiều tát la(Phạm: Kozàlà, Kauzàla. Pàli:Kosalà) cũng gọi Câu xá la quốc,Kiều Tát La Quốc. Một Vương quốc xưa thuộc Trung Ấn độ, nằm về mạn Tây Bắc Ca tì la vệ, phía Bắc nước Ba la nại. Pháp hiển truyện gọi là Câu tát la quốc, là 1 trong 16 nước lớn có quân đội hùng mạnh ở Ấn độ vào thời đức Phật còn tại thế. Kinh đô của nước này là thành Xá vệ (Phạm:Zrà-vasti), là nơi đức Phật đã thuyết pháp giáo hóa trong suốt 25 năm.

(5). Kiếp tỷ la gọi đủ là Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ, dịch âm từ Phạn ngữ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu), còn gọi là Ca tỳ la vệ, một vương quốc lớn mạnh thời bấy giờ, do dòng họ ThíchCa cai trị. Vua Tịnh Phạn là thân phụ của đức Thích Ca Mâu Ni cai trị quốc gia này. Dòng họ Thích Ca sau bị vua Tỳ Lưu Ly (s: Virūḍhaka) của nước Kiều Tát La (s: Kauśala, Kośalā, p: Kosala) thảm sát, thành Ca Tỳ La Vệ đi đến tình trạng suy vong, vùng đất này dần dần bị hoang phế.

(6). Lật thiếp tỳ (Phạm, Pàli: Licchavi, Lecchavi) cũng gọi Li xa, Lật chiếp bà, Li xa tử, Lợi xa, Lê xương, Tùy xá lợi, Luật xa, Li xiết, Lí gia, Lật sa. Chủng tộc Sát đế lợi ngự trị một quốc gia phồn thịnh, tên Tì xá li (Phạm:Vaizàli) thuộc Trung Ấn. Vaizàli cũng là thành đô của quốc gia này.

(7). Phệ xá lê (Phạm: Vaizàli) cũng gọi Tì già li, Tì xá li, Bệ xá li. Tên 1 nước ở Trung Ấn độ đời xưa, 1 trong 16 nước lớn, cũng là 1 trong 6 đại đô thành thời bấy giờ, là chỗ ở của chủng tộc Li xa tử (Phạm: Licchavi). Cứ theo Kinh Du hành trong Trường a hàm quyển 3 thì khi đức Phật còn tại thế, dân chúng Li xa ở nước này rất phồn vinh, đức Phật đã nhiều lần đến đây thuyết pháp, dân chúng đều kính tin Phật giáo.

(8). Vua Lực sĩ: Đây chỉ cho dòng Mạt la ở thành Câu thi na yết la. Khi đức Phật nhập Niết bàn,  dòng Mạt la này khiêng kim quan của Ngài, vì thế nên Kinh Trường a hàm gọi Lực sĩ là Mạt la. (xt. Mạt La).

(9). Kiết tường mao: Kauzàmbi, Pàli: Kosambì Kusinagara (skt)—Kusinara (p)—Còn gọi là Câu Di Na Kiệt, Cứu Thi, Câu Thi Na Kiệt, Câu Thu Yết La, Giác Thành—Kinh đô của vương quốc Mạt La nằm về phía Bắc Ấn Độ, một trong 16 vương quốc lớn tại Ấn Độ thời Đức Phật. Bây giờ là tỉnh Kasia, khoảng 35 dậm về phía Đông thành phố Gorakhupur thuộc bang Uttar Pradesh vùng Bắc Ấn. Nơi Đức Phật nhập Niết bàn trong vườn Ta La.

Tất cả thích nghĩa từ (1). đến (9). chúng tôi tra cứu cẩn thận. Tuy nhiên, lối chuyễn ngữ từ Phạn sang Hán, rồi từ Hán sang Việt, âm từ khác nhau, có thể gây rối rắm cho chúng ta. Chỉ cần nghĩ một cách giản tiện là: Kinh so sánh binh chủng của ác ma đẹp đẽ, hùng mạnh còn hơn binh chủng của các quốc gia hưng thịnh như Ma kiệt đà của vua A xà thế, Kiều tát la của vua Ba tư nặc, Ca tì la vệ của dòng Thích Ca v.v… vào thời Thế Tôn còn tại thế, là đủ!

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn bốn này)

 

Phẩm nầy có 2 ý:

 

1. Nói về sức mạnh huyền diệu của Bát nhã Ba la mật. 

Không những người thọ trì, đọc tụng Bát Nhã tránh được tai ương, bệnh tật mà cả đến những người thuyết giảng Bát nhã Ba la mật bị bọn Ma, Phạm chí, hoặc trong chúng Sa Môn, Bà La Môn, có ai ác tâm muốn đến phá hoại cũng không thể phá hoại được.

Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì Bát nhã Ba la mật nhẫn đến chánh ức niệm thời ma chúa, ma dân không làm hại được. Trời, Thần, chư Thiên ủng hộ, bảo vệ những người này, xem họ như đức Phật hoặc kế thừa đức Phật. Vì phải biết những người này đời trước ở chỗ đức Phật đã có công đức, đã thân cận cúng dường chư Phật, được bậc thiện tri thức hộ niệm.

Vì vậy, nên nói Bát nhã Ba la mật có thể “Khiển Trừ Ma Ngoại” là ý nghĩa chính của đoạn Kinh này. Có Bát Nhã là không có bọn ác ma, ma vương, ma dân, ma xó, quỷ thần nào có thể hủy hoại Bát Nhã cùng những người thọ trì Bát nhã Ba la mật được. Vì chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thần Tiên, người không phải người khắp mười phương thế giới đều hộ niệm…

 

2. Nói về sự liên hệ giữa Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí.

Kinh MHBNBLMĐ nói: “Nhất thiết trí trí của chư Phật phải tìm cầu trong Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật cũng phải tìm cầu trong Nhất thiết trí trí. Vì Bát Nhã chẳng khác Nhất thiết trí trí. Nhất thiết trí trí chẳng khác Bát Nhã. Bát Nhã cùng Nhất thiết trí trí chẳng phải hai, chẳng phải khác”.

Hay nói khác, Bác nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí không hai không khác. Do tu tập Bát Nhã mà Bồ Tát hay Phật giác ngộ, và khi giác ngộ thì đạt được trí tuệ tối cao gọi là Bát Nhã Trí hay Nhất thiết trí trí.

 

Vì vậy, quyển 106, phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo trời Đế Thích:

“Muốn chứng đắc Nhất thiết trí của chư Phật, phải cầu Bát Nhã; muốn chứng đắc Bát Nhã, phải cầu Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí của chư Phật đã chứng, đều xuất sanh từ Bát Nhã; Bát Nhã như thế đều xuất sanh từ Nhất thiết trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí của chư Phật đã chứng chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã như thế chẳng khác Nhất thiết trí. Nhất thiết trí đã chứng cùng với Bát Nhã này, nên biết, không hai, không khác. Vì vậy, nên công đức oai thần của Bát nhã Ba la mật thật là hy hữu”.

 

Quyển 130, phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN:

“Kiều Thi Ca! Nên biết Bát nhã Ba la mật tức là Ứng Chánh Đẳng Giác, nên biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tức là Bát nhã Ba la mật; nên biết Bát nhã Ba la mật chẳng khác Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; nên biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng khác Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều y nơi Bát nhã Ba la mật tinh cần tu học, mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao”.

 

Qua ba đoạn Kinh trên cho phépchúng ta kết luận: Bát Nhã là Nhất thiết trí trí và Nhất thiết trí trí tức là Giác ngộ. Bát Nhã, Nhất thiết trí trí, Chánh giác hay Giác ngộ không hai không khác. Tánh Không của Bát nhã Ba la mật, Tánh Không của Nhất thiết trí trí và Tánh Không của quả vị Giác ngộ không hai, không khác. Đó là kết quả tất nhiên của những người thọ trì, tu tập và thực hành Bát nhã Ba la mật.

 

5. Đoạn năm:

Phần kế phẩm “So Lường Công Đức” từ Q.106 - Q.127, Hội thứ I.

(Tương đương với Phẩm “Tôn Đạo” Q.10, MHBNBLMĐ).

 

Gợi ý:

Kinh Bát nhã Ba la mật xác định vị trí cao tột, gọi là tôn đạo của nó trong tất cả các pháp môn Phật học. Vì tất cả pháp môn Phật học đều nhiếp thọ vào Bát nhã Ba la mật. Phẩm “So Lường Công Đức” từ quyển 106 đến đầu quyển 127 của ĐBN, lấy Bát Nhã Trí làm tâm điểm, giống như mặt trời nằm chính giữa và tất cả các pháp Phật từ uẩn, xứ, giới, lục Ba la mật, tứ đế, thập nhị nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, tám giải thoát, các pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, Nhất thiết trí v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, ví như các hành tinh và vệ tinh xoay quanh mặt trời, tạo thành một hệ thống mà chúng ta gọi là Thái dương hệ. Không có mặt trời là không có Thái dương hệ, không có sự sống. Ánh sáng của mặt trời là sức sống của muôn loài, muôn vật, không có nó tất cả đều trở thành giá băng!

Vì mặt là trung tâm của Thái vương hệ. Cũng vậy, Bát Nhã là trung tâm của tất cả pháp, là mẹ sanh mẹ dưỡng của chư Phật, chư Bồ Tát xuất sanh tất cả các thiện pháp thế gian và xuất thế gian. Nên giáo lý của đoạn Kinh này chỉ cốt xưng tán tính cách thượng tôn của Bát Nhã Trí. Kết cấu của phẩm này không có gì khó hiểu, chỉ cần giản lược để tránh trùng tụng thì có thể đọc, có thể hiểu không cần luận giải dài dòng.

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ(tức Ngài A Nan) bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật?

Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán 18 pháp không từ không nội cho đến không không tánh tự tánh; vì duyên cớ vì chẳng xưng tán chơn như, pháp giới đến cảnh giới bất tư nghì; vì duyên cớ vì chẳng xưng tán tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo; hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối caomà chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy: Khánh Hỷ! Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát nhã Ba la mật này không những đối với lục Ba la mật, bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định mà cả đến đối với tất cả pháp Phật từ 18 pháp không cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là pháp tôn quí hơn cả, là hướng đạo, cho nên Ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.

 

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông, nếu chẳng hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu bố thí thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bố thí Ba la mật chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Chủ yếu là do hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu bố thí Ba la mật thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bố thí Ba la mật.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông, nếu chẳng hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Chủ yếu là do hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tịnh giới đến Bát Nhã. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự kia là pháp tôn quí, là hướng đạo nên Ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.

Khánh Hỷ! Cũng như vậy, trọng tâm là do hồi hướng Nhất thiết trí trí mà tu hành tất cả các pháp Phật thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tất cả pháp Phật. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với tất cả pháp Phật là pháp tôn quí, là hướng đạo, nên Ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu bố thí Ba la mật?

Phật dạy: Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bố thí Ba la mật thì gọi là hồi hướng Nhất thiết trí trí tu bố thí Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thì gọi là hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu tịnh giới cho đến Bát Nhã.

Cũng như vậy, lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo; Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, từ đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu tập tất cả các pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì gọi là hồi hướng Nhất thiết trí trí để tu tất cả các pháp Phật nói trên.

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào? Lấy vô sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào? Lấy vô sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp không nội, cho đến pháp không không tánh tự tánh? Lấy vô nhị nào? Lấy vô sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ chơn như cho đến an trụ cảnh giới bất nghì? Lấy vô nhị nào? Lấy vô sanh nào? Lấy vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế, 37 pháp trợ đạo cho đến... quả vị Giác ngộ tối cao?

Phật dạy: Khánh Hỷ! Nay ông nên biết, lấy vô nhị của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm phương tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Lấy vô nhị của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện; vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện; vô sở đắc của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.

Khánh Hỷ! Nên biết, lấy vô nhị của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm phương tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh.

Lấy vô nhị của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm phương tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Lấy vô nhị của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện; vô sở đắc của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ 18 pháp không, an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cũng như thế, lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ 12 xứ, 18 giới; lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc của sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, bốn Thánh đế trí, năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, tất cả Đà la ni, Tam ma địa, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả Bồ Tát hạnh và quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ tất cả pháp Phật.

 

(Kinh cứ lấy một pháp để tu một pháp, cho đến hoàn thành tất cả các pháp Phật (từ căn trần xứ giới đến quả vị Giác ngộ tối cao hay nói khác từ một khoa danh tướng cho đến hết 81 khoa danh tướng Bát Nhã) để chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng phải lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc của từng pháp một làm phương tiện tu hành, và hồi hướng Nhất thiết trí trí mà an trụ tất cả các pháp Phật).

 

Để tránh trùng tụng trong phần tóm lược này, chúng tôi không lặp lại nguyên văn mà chỉ lấy một vài đoạn như đoạn Kinh trích dẫn ở quyển 109, ĐBN dưới đây, làm thí dụ:

“Khánh Hỷ! Nên biết, lấy vô nhị của vô minh làm phương tiện, vô sanh của vô minh làm phương tiện, vô sở đắc của vô minh làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Lấy vô nhị của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não(12 duyên khởi) làm phương tiện, lấy vô sanh của 12 duyên khởi làm phương tiện, vô sở đắc của 12 duyên khởi làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.

Khánh Hỷ! Nên biết, lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc của 12 duyên khởi làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí mà an trụ 18 pháp không, an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh..., an trụ Tứ đế, 37 pháp trợ đạo, tu tập 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc. Tu hành 8 giải thoát cho đến 10 biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành các bậc Bồ Tát. Tu hành tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Tu hành Như Lai mười lực cho đến 18 pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.(Q. 109, ĐBN)

Cứ tiếp nối như vậy cho đến lấy vô nhị của quả vị Giác ngộ tối cao, vô sanh của quả vị Giác ngộ tối cao, vô sở đắc của quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập tất cả pháp Phật.

 

Kinh lấy một pháp như uẩn, xứ, giới, 12 duyên khởi, lần lượt tu từng pháp một từ 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tứ đế, 37 pháp trợ đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, v.v… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, nghĩa là tu từng pháp từng pháp một cho đến tu hết tất cả pháp Phật như đã liệt kê ở trên.

 

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của sắc làm phương tiện, vô sanh của sắc làm phương tiện, vô sở đắc của sắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?

Phật dạy: Khánh Hỷ! Sắc và tánh của sắc là không. Vì sao? Vì tánh không của sắc cùng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã không hai, không khác.

Bạch Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, vô sở đắc của thọ, tưởng, hành, thức làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?

Này Khánh Hỷ! Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Vì sao? Vì tánh không của thọ, tưởng, hành, thức cùng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã không hai, không khác.

Này Khánh Hỷ! Do đó nên nói là lấy vô nhị của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sanh của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sở đắc của ngũ uẩn làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.

Bạch Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sanh của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sở đắc của ngũ uẩn làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh?

Này Khánh Hỷ! Ngũ uẩn và tánh của ngũ uẩn là không. Vì sao? Vì tánh không của ngũ uẩn cùng với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia không hai, không khác.

Này Khánh Hỷ! Do đó nên nói là lấy vô nhị của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sanh của ngũ uẩn làm phương tiện, vô sở đắc của ngũ uẩn làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Vì sao lấy vô nhị của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sanh của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sở đắc của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã?

Vì 12 xứ, 18 giới và tánh của 12 xứ, 18 giới là không. Vì sao? Vì tánh không của 12 xứ, 18 giới cùng với lục Ba la mật không hai, không khác.

Do đó, nên nói là lấy vô nhị của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sanh của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, vô sở đắc của 12 xứ, 18 giới làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã.

 

Cũng như vậy, Kinh lần lượt đặt câu hỏi:

Vì sao lấy vô nhị của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, lấy vô sanh của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, lấy vô sở đắc của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện hồi hướng Nhất thiết trí trí tu tập tất cả pháp Phật?

Vì bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là không. Vì sao? Vì tánh Không của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoátv.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cùng với lục Ba la mật không hai không khác.

Do đó, nên nói lấy vô nhị của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, lấy vô sanh của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao làm phương tiện, lấy vô sở đắc của bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, hồi hướng Nhất thiết trí trí, tu tập tất cả pháp Phật.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát nhã Ba la mật này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng Nhất thiết trí trí nên có khả năng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã đạt đến cứu cánh. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự kia là pháp tôn quí, là hướng đạo.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát Nhã này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng Nhất thiết trí trí nên có khả năng an trụ pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh đạt đến cứu cánh. Cho nên Bát Nhã Ba la mật đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là pháp tôn quí, là hướng đạo.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát Nhã này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng Nhất thiết trí trí nên có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đạt đến cứu cánh. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì kia là pháp tôn quí, là hướng đạo.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, do Bát Nhã này nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lại do hồi hướng Nhất thiết trí trí nên có khả năng an trụ tất cả pháp Phật. Cho nên Bát nhã Ba la mật này đối với tất cả pháp Phật nói trên là pháp tôn đạo.

 

 Phẩm “Tôn Đạo” quyển thứ 10, Kinh MHBNBLMĐ bằng đoạn Kinh ngắn sau đây mà có thể tóm lược hơn 15 quyển (từ Q. 110 –Q.125) của phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN như vừa trích dẫn ở trên.

“Đức Phật nói: Này A Nan! Vì sắc không hai pháp (bất nhị), vì thọ, tưởng, hành, thức không hai pháp, nhẫn đến vì Vô Thượng Bồ đề không hai pháp vậy. Tại sao vậy? Vì sắc sắc tướng rỗng không. Đàn na Ba la mật và sắc không hai, không khác, nhẫn đến Vô Thượng Bồ đề và Đàn na Ba la mật không hai, không khác. Năm Ba la mật kia cũng như vậy. Vì thế nên, này A Nan! Chỉ ca ngợi Bát nhã Ba la mật là tôn đạo của năm Ba la mật đến Nhất thiết chủng trí”.

Chỉ có 5 dòng mà có thể tóm tắt 15 quyển kinh có giáo lý tương tự thật quá thần kỳ. Nghiên cứu kỹ mới thấy điểm này!

 

Quyển 126, Đại Bát Nhã  thuyết tiếp:

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được sanh trưởng, nên Bát nhã Ba la mật này đối với bố thí cho đến tịnh lự kia là pháp tôn quí, là hướng đạo. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật. (Q.126, ĐBN)

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát Nhã này đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là pháp tôn quí, là hướng dẫn, cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí, đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì kia là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát nhã Ba la mật này đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì kia là pháp tôn quí, là hướng đạo. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, thí như đại địa lấy hạt giống rải trên đó, nếu các duyên hòa hợp thì được sanh trưởng. Nên biết, đại địa đối với hạt giống sanh trưởng, là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển. Như vậy, Bát nhã Ba la mật và nơi hồi hướng Nhất thiết trí trí đối với tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên đến 37 pháp trợ đạo; 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là chỗ nương tựa, là nơi có thể phát triển, khiến được hiển hiện, nên Bát nhã Ba la mật này đối với tứ Thánh đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, là tôn đạo. Cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát nhã Ba la mật.

 

Đến đây Kinh tán thán những người hành trì Bát Nhã:

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả công đức của Bát nhã Ba la mật này, nói còn không hết. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật mà con đã lãnh thọ từ Thế Tôn, với công đức rộng sâu, không bờ bến. Các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi thì công đức có được cũng không bờ bến. Nếu có người sao chép Bát nhã Ba la mật này rồi dùng các thứ trang trí như hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì công đức có được cũng không bờ bến.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát Nhã thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, giảng thuyết, sao chép, truyền bá rộng rãi, thì do đó mới có mười thiện nghiệp đạo xuất hiện ở thế gian, nhờ đó mới có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, sáu Ba la mật, v.v… hay nói rộng ra tất cả pháp Phật xuất hiện thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, giảng thuyết, sao chép, truyền bá rộng rãi, thì do đó mới có dòng dõi lớn Sát đế lợi, dòng dõi lớn Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; nhờ đó mới có chúng trời Tứ đại vương, chúng trời cõi sắc, vô sắc xuất hiện ở thế gian.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, giảng thuyết, sao chép, truyền bá rộng rãi, thì do đó mới có Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng, A la hán quả; mới có Độc giác và quả vị Độc giác, mới có đại Bồ Tát và Bồ Tát hạnh, mới có tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Giác ngộ tối cao xuất hiện ở thế gian.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Ta không thuyết Bát nhã Ba la mật mà chỉ thuyết riêng về công đức của người hành trì Bát Nhã. Tại sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế có đầy đủ vô lượng vô biên công đức thù thắng. Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí bằng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu vô lượng giới uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng định uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng tuệ uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng giải thoát uẩn thù thắng, thành tựu vô lượng giải thoát tri kiến uẩn thù thắng.

Này Kiều Thi Ca! Nên biết, thiện nam, thiện nữ nhơn ấy như Phật. Vì sao? Vì đã quyết định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Thiện nam, thiện nữ ấy vượt qua bậc Thanh văn và Độc giác. Vì sao? Vì đã cởi bỏ tất cả tâm hạ liệt của Thanh văn, Độc giác.

Này Kiều Thi Ca! Tất cả sự thành tựu về giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn(1) của Thanh văn, Độc giác đối với sự thành tựu về giới uẩn, định uẩn v.v… của thiện nam, thiện nữ này thì trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức ức phần chẳng bằng một, phần toán số, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì thiện nam, thiện nữ ấy vượt qua tất cả tâm hạ liệt của Thanh văn, Độc giác, nên đối với các pháp của Thanh văn, Độc giác thừa chẳng bao giờ khen ngợi; đối với tất cả pháp, không pháp nào là không biết, nghĩa là có khả năng biết đúng đắn rằng tất cả là vô sở hữu.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, rồi dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam, thiện nữ ấy, Ta nói, có được vô lượng vô biên công đức thù thắng trong hiện tại và vị lai.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ làm được như vậy, thì chư thiên chúng con thường theo ủng hộ, chẳng để tất cả loài nhơn phi nhơn, các thứ ác duyên nhiễu hại.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này thọ trì, đọc tụng vì người giảng thuyết, thì khi ấy có vô lượng trăm ngàn chư Thiên, Thiên tử vì muốn nghe pháp nên vui mừng tụ tập ra mắt, kính thọ Bát Nhã. Các chư Thiên, Thiên tử lại còn dùng oai lực của mình khiến người thuyết pháp tăng thêm biện tài, thuyết pháp bất tận, thuyết pháp không sơ hở, dù có vấn nạn cũng chẳng bị trở ngại.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Hoặc có thiện nam, thiện nữ ở trong bốn chúng(2) tuyên thuyết Bát Nhã như vậy, tâm không hề khiếp sợ. Vì sao? Vì những người ấy nhờ sự gia hộ của Bát Nhã thậm thâm. Lại trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này, đã phân biệt các pháp rộng rãi, đầy đủ, đó là hoặc pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký, hoặc pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại, hoặc pháp thuộc dục giới, pháp thuộc sắc giới, pháp thuộc vô sắc giới, hoặc pháp học, pháp vô học, pháp phi học phi vô học, hoặc pháp kiến sở đoạn, pháp tu sở đoạn, pháp phi sở đoạn, hoặc pháp thế gian, pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu lậu, pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, pháp vô vi, hoặc pháp hữu kiến, pháp vô kiến, hoặc pháp hữu sắc, pháp vô sắc, hoặc pháp cộng, pháp bất cộng, hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Như Lai. Vô lượng trăm ngàn pháp môn như vậy, đều tóm thâu trong đó. Lại do các thiện nam, thiện nữ ấy khéo trụ pháp không nội đến khéo trụ pháp không không tánh tự tánh, hoàn toàn chẳng thấy có người vấn nạn, cũng chẳng thấy có kẻ bị vấn nạn, cũng chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật được thuyết.

Vì vậy cho nên, này Kiều Thi Ca, thiện nam, thiện nữ này do được đại oai thần lực của Bát nhã Ba la mật hộ trì, chẳng bị khuất phục, tâm của họ chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo lắng, ăn năn. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy chẳng thấy có pháp có thể khiến kinh hoàng, sợ sệt, khiếp hãi, chìm đắm hay lo lắng, ăn năn.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn được vô biên công đức thắng lợi hiện tại như vậy, thì nên đối với Bát Nhã thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen như đã nói trên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy thường được cha mẹ, Sư trưởng, bà con, bạn bè, trí thức, quốc vương, đại thần và các Sa môn, Bà la môn v.v… thương kính, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đại Bồ Tát, Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v… ở vô biên thế giới trong mười phương nhớ nghĩ. Lại được chư Thiên, ma, phạm, nhơn và phi nhơn, A tu la v.v… trong thế gian thương giúp. Thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu biện tài tối thắng vô đoạn. Thiện nam, thiện nữ ấy tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy an trụ pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy an trụ chơn như, pháp giới đến cảnh giới bất tư nghì thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy an trụ tứ Thánh đế, tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… đến quả vị Giác ngộ tối cao thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thường không ngừng nghỉ. Thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu thần thông thù thắng của đại Bồ Tát, dạo chơi các cõi Phật tự tại vô ngại. Thiện nam, thiện nữ ấy chẳng bị tất cả luận thuyết ngoại đạo hàng phục, mà có khả năng hàng phục các luận thuyết của ngoại đạo.

 

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ muốn được công đức thắng lợi không dứt, không hết trong hiện tại, vị lai như thế, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm ấy, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, lại nên sao chép, trang trí, cúng dường v.v… thì nơi ấy trở nên tôn quí thanh tịnh như có chư Phật hiện diện, khi ấy các chúng trời Dục, sắc, Sắc cứu cánh vì đã phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, nên thường lui tới, chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát nhã Ba la mật ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái, rồi quay về. Các rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, nhơn phi nhơn v.v… trong thế giới này, có đại oai đức cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng, cung kính cúng dường, đi nhiễu, lễ bái rồi quay về.

Các chúng trời cõi Dục, cõi Sắc cứu cánh ở vô biên thế giới trong mười phương cùng các rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, nhơn phi nhơn v.v… cũng thường đến đó chiêm ngưỡng, lễ bái, đọc tụng Bát nhã Ba la mật ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái rồi quay về.

Tất cả các chúng trời đó cùng các rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... cũng thường đến nơi đó ủng hộ, chẳng để ác sự ác duyên, nhơn phi nhơn làm não hại thiện nam, thiện nữ ấy.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy, do oai thần lớn của Bát Nhã này, mà có được các thứ công đức thắng lợi trong đời như thế.

 

Phẩm “Tôn Đạo”, quyển thứ 10, Kinh MHBNBLMĐ, ghi:

Thiên Đế thưa: “Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ nầy làm sao biết được chư Thiên trong thế giới đây cùng chư Thiên trong những thế giới mười phương đều ra mắt Bát nhã Ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, cúng dường, lễ lạy?”

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ thấy quang minh thanh tịnh lớn, thời biết chắc là lúc có chư Thiên đến ra mắt Bát nhã Ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy.

Lại nếu các thiện nam, thiện nữ nghe mùi hương lạ vi diệu, cũng biết chắc là có chư Thiên đến ra mắt để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường, lễ lạy.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Vì các thiện nam, thiện nữ công hạnh tịnh khiết, nên chư Thiên đến ra mắt Bát nhã Ba la mật để thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, cúng dường hoan hỉ lễ lạy.

Trong chỗ đó nếu có hàng tiểu quỉ liền biến đi, vì họ chẳng kham nổi oai đức lớn của chư Thiên.

Do hàng chư Thiên thường lui tới, nên chỗ nào có Bát nhã Ba la mật, thời bốn phía phải sạch sẽ. Phải thắp đèn, đốt hương thơm, rải những hoa đẹp, dù thơm rưới đất, nghiêm sức với những bảo cái, tràng phan.

Lúc thuyết pháp, các thiện nam, thiện nữ nầy trọn không mỏi mệt, tự cảm thấy thân thể thơ thới, tâm thần an vui. Đúng pháp nằm nghỉ, an ổn không ác mộng. Trong giấc mơ thấy Phật ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy hảo. Chúng Tỳ Kheo cung kính vây quanh. Đức Phật vì chư Tăng mà thuyết pháp.

Các thiện nam, thiện nữ nầy nghe và lãnh thọ giáo pháp: Những là lục Ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng. Cũng phân biệt nghĩa của lục Ba la mật đến nghĩa của pháp bất cộng.

Trong giấc mơ, các thiện nam, thiện nữ nầy cũng thấy cây Bồ đề trang nghiêm rất đẹp. Thấy chư Bồ Tát đến cội cây  Bồ đề thành Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân. Cũng thấy trăm ngàn muôn Bồ Tát đồng kết tập chánh pháp, luận nghị rằng: Phải cầu Nhất thiết trí như vậy, phải thành tựu chúng sanh như vậy, phải tịnh Phật quốc độ như vậy. Cũng thấy mười phương vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật. Cũng nghe danh hiệu của chư Phật ấy ở mười phương nào, nước nào, hiệu là gì, có bao nhiêu Bồ Tát, bao nhiêu Thanh Văn vây quanh cung kính, đức Phật ấy vì đại chúng mà thuyết pháp. Lại thấy mười phương vô số trăm ngàn muôn ức chư Phật nhập Niết Bàn. Lại thấy vô số trăm ngàn muôn ức tháp thất bảo của chư Phật. Lại thấy cúng dường bảo tháp với những hương hoa nhẫn đến phan lọng, cung kính, tôn trọng, tán thán.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ nầy chiêm bao thấy những cảnh lành như vậy, nên lúc ngủ cũng yên lành, lúc thức cũng yên lành. Chư Thiên giúp thêm khí lực, nên người nầy tự cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, chẳng quá ham muốn những đồ uống ăn, y phục, đồ nằm, thuốc men. Đối với tứ sự cúng dường(3), người nầy coi nhẹ. Như Tỳ Kheo tọa thiền, sau khi xuất thiền định, tâm hiệp với thiền định, chẳng ham uống ăn, thân tâm họ nhẹ nhàng, thư thái. Tại sao vậy? Vì chư Thiên tự nhiên dùng tinh chất của món ăn để thêm khí lực cho người nầy.

Mười phương chư Phật và hàng Thiên, Long, Quỷ thần, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu na, Khẩn na la, Ma hầu la già cũng giúp thêm khí lực cho người nầy.

Này Kiều Thi Ca! Vì thế nên các thiện nam, thiện nữ muốn được công đức đời hiện tại như vậy, thời phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng rời tâm Nhất thiết trí.

Nếu không thể thọ trì đến chánh ức niệm, các thiện nam, thiện nữ phải biên chép quyển Kinh rồi cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương, anh lạc, tràng phan, bảo cái.

Này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe Bát nhã Ba la mật nầy, rồi thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm, biên chép quyển Kinh, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương, anh lạc, phan cái thời công đức tứ sự cúng dường mười phương chư Phật và hàng đệ tử, cũng xây tháp bảy báu sau khi chư Phật và đệ tử nhập Niết Bàn”.

Thích nghĩa cho Đoạn năm này:

 (1). Giới phẩm, định phẩm, huệ phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát tri kiến phẩm gọi là Năm phần pháp thân (Phạm: Asamasama-paĩcaskandha) cũng gọi là Vô lậu ngũ uẩn: Trong Đại thừa nghĩa chương quyển 20, phần đầu, Ngài Tuệ Viễn giải thích năm phần pháp thân như sau: 1- Giới phẩm (Phạm: Zìla-skandha), cũng gọi Giới thân, Giới uẩn, Giới chúng: Chỉ cho Giới pháp thân Như Lai đã xa lìa hết thảy lỗi lầm của 3 nghiệp thân, khẩu, ý; 2- Định phẩm (Phạm: Samàdhiskandha), cũng gọi Định thân, Định uẩn, Định chúng: Trong Định pháp thân của Như Lai, chân tâm vắng lặng, tự tính không động, xa lìa tất cả vọng niệm; 3- Huệ phẩm (Phạm:Prajĩà-skandha), cũng gọi Huệ thân, Huệ uẩn, Huệ chúng: Huệ pháp thân của Như Lai thể chân tâm tròn sáng, tự tính sáng tỏ, quán xét thấu suốt hết thảy pháp tính, tức chỉ cho căn bản trí; 4- Giải thoát phẩm (Phạm: Vimuktiskandha), cũng gọi Giải thoát thân, Giải thoát uẩn, Giải thoát chúng: Giải thoát pháp thân của Như Lai tự thể không bị câu thúc, giải thoát khỏi tất cả sự trói buộc; 5- Giải thoát tri kiến phẩm (Phạm: Vimukti-jĩàna-darzana-skandha), cũng gọi Giải thoát tri kiến thân, Giải thoát tri kiến uẩn, Giải thoát tri kiến chúng: Giải thoát tri kiến pháp thân của Như Lai tự thể chứng biết xưa nay vốn thanh tịnh vô nhiễm, đã thực sự giải thoát. Đó là năm thứ công đức trong tự thể của Phật hay A la hán. Thân tức là thể, 5 thứ trên là thể của chư Phật, cho nên gọi là thân; thân cũng có nghĩa là chỗ tích tụ mọi công đức, vì thế gọi là thân. Về thứ tự của Ngũ phần pháp thân thì rất rõ ràng, từ giới sinh định, từ định phát huệ, do huệ mà được giải thoát, do giải thoát mà có giải thoát tri kiến. Đó là lối giải thích của Đại thừa. (Phỏng theo tự điển Phật Quang). Đây là thứ tự tu hành quan trọng trong việc tu tập giải thoát. Nên nhắc lại để nhớ!

(2). Bốn bộ chúng: Cũng gọi là Bốn chúng (Tứ chúng), bao gồm hai chúng xuất gia là  Tỳ kheo và  Tỳ kheo ni, hai chúng tại gia là cư sĩ nam (ưu bà tắc) và cư sĩ nữ (ưu bà di).

(3). Tứ sự cúng dường: Bốn thứ cúng dường gồm thức ăn thức uống, chỗ ở, y phục, thuốc men. Đã giải thích nhiều lần.

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn năm này)

 

Kinh nói nhiều, nhưng nội dung Đoạn năm chỉ thuyết hai phần chánh: 1. Kinh ca tụng Bát nhã Ba la mật là tôn đạo trong sáu Ba la mật kể cả các pháp môn Phật học khác và 2. Công đức của người thọ trì, đọc tụng vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật.

 

1. Tính cách tôn đạo của Bát nhã Ba la mật:

 

Phẩm “Tôn Đạo”, quyển thứ 10, MHBNBLMĐ, Phật bảo thị giả của Phật:

“Này A Nan! Vì sắc không hai pháp, vì thọ, tưởng, hành, thức không hai pháp, nhẫn đến vì Vô Thượng Bồ đề không hai pháp vậy. Tại sao? Vì sắc sắc tướng rỗng không. Đàn na Ba la mật và sắc không hai, không khác, nhẫn đến Vô Thượng Bồ đề và Đàn na Ba la mật không hai, không khác. Năm Ba la mật kia cũng như vậy. Vì thế nên, này A Nan! Chỉ ca ngợi Bát nhã Ba la mật là tôn đạo của năm Ba la mật đến Nhất thiết chủng trí.

Này A Nan! Ví như mặt đất, đem hột giống rải lên trên, đủ nhơn duyên hòa hiệp bèn mọc lên. Các hột giống ấy nương nơi đất mà mọc lên. Cũng vậy, năm Ba la mật nương Bát nhã Ba la mật mà sanh. Tứ niệm xứ đến Nhất thiết chủng trí đều nương Bát nhã Ba la mật mà sanh. Thế nên Bát nhã Ba la mật là tôn đạo của năm Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng”.(1)

 

Phẩm “Khen Bát Nhã”, quyển 172, Hội thứ I, ĐBN, cũng nói:

“Các đại Bồ Tát sở học Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự vô số lượng. Thí như bọn người mù bẩm sinh, có cả trăm ngàn mà không có một kẻ sáng mắt dắt dẫn đi, cố nhiên chẳng thể gần tới đường chính, huống là đi xa thấu đại thành phong phú an vui. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự như thế là bọn người mù, nếu không có Bát nhã Ba la mật là kẻ sáng mắt dẫn đường, chẳng thể đạt Bồ Tát Chánh đạo, huống là năng vào được đại thành Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự như thế, do Bát nhã Ba la mật đây nhiếp thọ, nên bố thí, trì giới v.v… tất cả đều được “đến bờ kia”.

(…)Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được gọi là đến bờ kia; vì chẳng phải do tịnh giới Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đến bờ kia; vì chẳng phải do an nhẫn Ba la mật nhiếp thọ v.v… mà năm cái khác được tên là đến bờ kia, chính do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, nên năm cái khác được coi là đến bờ kia. Vì sao? Vì các Bồ Tát cốt yếu là trụ Bát nhã Ba la mật mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; chẳng phải trụ năm cái khác có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy nên Bát nhã Ba la mật đối với năm thứ trước là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu… không gì bằng”.

 

Sáu Ba la mật được coi là “đáo bỉ ngạn” vì Bồ Tát tu sáu pháp nầy sẽ được giác ngộ và đến được bến bờ kia. Nếu tu bố thí không thôi thì có thể giải trừ san tham, vì là xả kỷ, nên thân tâm thoát những trói buộc về vật chất cũng như tinh thần; tu trì giới có thể trừ các ác nghiệp về thân khẩu ý thì thân tâm thanh tịnh; tu nhẫn nhục có thể đối trị sân hận, khiến tâm an tịnh; tu tinh tấn có thể đối trị tâm giải đãi, biếng nhác, làm tăng trưởng pháp lành; tu thiền định có thể đối trị tán loạn, để được cảnh giới tịch lặng của tâm; riêng tu Bát Nhã có thể phá trừ vô minh, phiền não mà trừ vô minh phiền não tức là giải thoát. Vì vậy, Bát Nhã mới được coi là nguyên lý chỉ đạo của năm Ba la mật kia.

Năm Ba la mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định như những người mù bẩm sanh cần có Bát Nhã là người sáng mắt dẫn đường mới có thể đi đến thành Nhất thiết trí trí lợi vui. “Vì muốn đạt được Nhất thiết trí trí phải tìm cầu trong Bát Nhã. Muốn đạt được Bát Nhã phải tìm cầu trong Nhất thiết trí trí”. Một khi đạt được “Nhất thiết trí trí thời có thể xa lìa hết thảy lỗi lầm của 3 nghiệp thân, khẩu, ý (tức thành tựu vô lượng giới phẩm); xa lìa tất cả vọng niệm điên đảo (tức thành tựu vô lượng định phẩm); chân tâm tròn đầy, thấu suốt hết thảy pháp tánh (tức thành tựu huệ phẩm); tự thể không bị câu thúc, có nghĩa là giải thoát khỏi tất cả sự trói buộc thế gian (tức thành tựu giải thoát phẩm); tự thể chứng biết xưa nay vốn thanh tịnh vô nhiễm, đã thực sự giải thoát mọi sở tri (tức giải thoát tri kiến phẩm). Nên Kinh nói phải coi người nầy như Phật.

Vì vậy, Bát nhã Ba la mật được coi là tôn đạo. Do đó, nơi nào có Kinh Bát nhã Ba la mật thì nơi đó thường có chư Thiên, người, A tu la… đến lễ bái, đi nhiễu, cúng dường”!(2)

Thế nên những ai muốn được công đức đời hiện tại, vị lai như vậy, thời phải thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát Nhã và hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Đó chính là trụ trong Bát Nhã. Nhưng phải thấy biết tất cả pháp là không, rỗng không, vô sở hữu bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật cũng rỗng không, vô sở hữu bất khả đắc. Trụ trong Bát Nhã lấy vô nhị, vô sanh, vô sở đắc làm phương tiện, nên không thấy mình trụ, có pháp để trụ, chỗ để trụ. Đó là trụ trong Bát Nhã hay trụ trong Tánh Không. Trụ chỗ vô sở trụ mới được gọi là chân trụ.(3)

 

2. Công đức của người thọ trì.

 

Phật bảo Kiều Thi Ca: 

- “Này Kiều Thi Ca!Nếu thiện nam, thiện nữ nào muốn được vô biên công đức thắng lợi hiện tại như vậy, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen như đã nói trên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy thường được cha mẹ, sư trưởng, bà con, bạn bè, trí thức, quốc vương, đại thần và các Sa môn, Bà la môn v.v… thương kính, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đại Bồ Tát, Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v… ở vô biên thế giới trong mười phương nhớ nghĩ. Lại được chư Thiên, ma, phạm, nhơn và phi nhơn, A tu la v.v… trong thế gian thương giúp. Thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu biện tài tối thắng vô đoạn…”

 

Kết luận:

(cho riêng Đoạn năm này)

 

Xin lấy đoạn Kinh trong phẩm “Thí Dụ” quyển 311 – 312, Hội thứ I, ĐBN để kết luận cho phẩm nầy:

Dù hữu tin, hữu nhẫn, hữu ái, hữu dục, hữu giải, hữu hành, hữu hỉ, hữu lạc, hữu xả, hữu tinh tiến, hữu tôn trọng, hữu tịnh tâm, ly phóng dật, bất tán loạn mà không nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật và tất cả pháp Phật làm phương tiện thì cũng giống như người băng qua sa mạc hay nơi hoang vắng đầy thú dữ trộm cướp mà không mang lương thực, khí giới, thì làm sao thoát hiểm để đến chỗ lợi vui? Cũng giống như những người đi lấy nước dùng bình bằng đất chưa nung, làm sao lấy được nước? Người đi biển không dùng phao làm chỗ nương tựa, làm sao khỏi chết chìm? Người già một trăm hai mươi tuổi lại bệnh tật, không có người xóc nách, làm sao lê thân được vài bước nói chi đi cả dặm? Vì vậy, tu Bát nhã Ba la mật là phải biên chép, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, tu tập, vì người diễn nói mới không bị thối thất nửa đường, phải rơi vào bậc Thanh văn hay Độc giác.

Bát nhã Ba la mật đóng vai trò quan trọng trong việc luyện tâm luyện trí để trở thành Vô Thượng Bồ đề. Nên Bát Nhã là chỗ đáng nương tựa. Do đó, tùy thuận và nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật là phương tiện cần yếu nếu muốn được Nhất thiết trí trí, Chánh giác hay Giác ngộ. Bát nhã Ba la mật như vậy mới được xem là thượng tôn trong tất cả pháp và được nhân cách hóa là mẹ, mẹ sinh mẹ dưỡng của chư Phật và chư Bồ Tát. Vai trò đó đáng được “tâng bốc” hơn bao giờ hết. Vì vậy, mà phải thọ trì đọc tụng vì người tuyên thuyết, không những thế mà còn đem hương hoa, đèn sáng, phẩm vật thượng diệu mà vì cúng dường…

Thích nghĩa cho phần lược giải của Đoạn năm này:

 (1). Chỉ một đoạn Kinh ngắn nầy trong phẩm “Tôn Đạo” quyển thứ 10, Kinh MHBNBLMĐ mà tóm lược được gần 20 quyển thuộc phẩm “So Lường Công Đức”(từ quyển 106 đến hết quyển 125) của Kinh ĐBN.

(2). Phẩm “Tôn đạo” nói trên.

(3). Giáo pháp nầy được lặp đi lặp lại hàng trăm lần trong phẩm “So Lường Công Đức”, kéo dài suốt 66 quyển trong Kinh ĐBN.

 

6. Đoạn sáu:

Đoạn kế tiếp của phẩm “So Lường Công Đức”,

cuối Q.127 đến đầu Q.130, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Xá Lợi” Q. 11, MHBNBLMĐ).

 

Gợi ý:

Trong phân đoạn này, Phật hỏi Đế Thích “giữa Bát nhã Ba la mật và xá lợi Phật”, Đế Thích chọn cái nào? Đế Thích bạch Phật là chọn Bát Nhã với lý do là Bát Nhã sanh ra Phật, còn xá lợi chỉ là Phật thân. Nếu Phật không tu Bát Nhã và được Vô Thượng Chánh giác, thì xá lợi chỉ là tro cốt cũng như tro cốt của bao chúng sanh khác. Nhờ tu Bát Nhã mà Phật thành Vô Thượng Giác, cho nên được người trời hâm mộ, nên xá lợi cũng được tôn kính. Kinh một lần nữa xưng tụng Bát Nhã hơn bao giờ hết. Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại thù thắng; thành tựu công đức quảng đại vô lượng, vô biên, vô đối, vô tận, không gì bằng, không thể nói hết... “Bát nhã Ba la mật là Phật, Phật là Bát nhã Ba la mật không hai, không khác”.

 

Tóm lược:

 

“Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Giả sử lấy xá lợi của Phật làm một phần, lấy việc sao chép Bát Nhã làm một phần. Trong hai phần này, ông chọn phần nào?

Trời Đế Thích liền bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Giả sử xá lợi của Phật đầy cả châu Thiệm bộ này lấy làm một phần,việc sao chép Bát Nhã, làm một phần, trong hai phần này, theo ý con thì con chọn Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì con đối với xá lợi của chư Phật chẳng phải chẳng tín thọ, chẳng phải chẳng ưa thích, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nhưng xá lợi đều do Bát Nhã mà xuất sanh, đều là sự huân tu thế lực công đức của Bát Nhã.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế đã chẳng thể nắm bắt được vì nó không sắc, không thấy, không đối đãi, gọi là vô tướng thì ông làm sao nắm bắt được! Vì sao? Vì Bát Nhã như thế không thủ không xả, không tăng không giảm, không trụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh. Bát Nhã như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng cảnh giới vô vi, chẳng bỏ cảnh giới hữu vi. Bát Nhã như thế chẳng cùng bố thí Ba la mật, chẳng cùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng 18 pháp không. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng chơn như, chẳng cùng pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v… Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tứ Thánh đế khổ, chẳng cùng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tám giải thoát, chẳng cùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đến Nhất thiết trí. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Dự lưu quả đến A la hán quả; chẳng cùng Độc giác quả đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Bấy giờ Thiên Đế Thích trả lời Xá Lợi Tử rằng: Như vậy, như vậy. Thật như lời Đại đức vừa nói. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế thật chẳng khá lấy, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế vô thủ vô xả, vô tăng vô giảm, vô tụ vô tán, vô ích vô tổn, vô nhiễm vô tịnh. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng cùng pháp Thanh văn, chẳng bỏ pháp Dị sanh; chẳng cùng vô vi giới, chẳng bỏ hữu vi giới. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bố thí Ba la mật, chẳng cùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng 18 pháp không, chẳng cùng thập nhị chơn như, chẳng cùng tứ Thánh đế, chẳng cùng bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, chẳng cùng 37 pháp trợ đạo. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tam giải thoát môn, chẳng cùng năm nhãn, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bạch đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, chẳng cùng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chẳng cùng tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Dự lưu quả, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán quả, chẳng cùng Độc giác Bồ đề. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng hạnh Bồ Tát Ma ha tát, chẳng cùng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bạch Đại đức! Nếu đối với Bát Nhã có khả năng biết như thế, là nắm bắt đúng Bát Nhã, là tu hành đúng Bát Nhã. Vì sao? Vì Bát Nhã chẳng phải 2 pháp, vì không 2 tướng(1). Như vậy tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng phải hai pháp, vì không hai tướng.

Lúc bấy giờ, Phật khen trời Đế Thích: Hay thay! Đúng như ông đã nói. Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng phải hai pháp. Vì sao? Vì Bát Nhã không có hai tướng. Như vậy, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng phải hai pháp. Vì sao? Vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật ấy cũng không hai tướng.

Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến chơn như cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với chơn như không hai, không khác.

Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn khiến tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật có 2 tướng, tức là muốn khiến chơn như cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cùng với chơn như không hai, không khác.

Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến pháp giới cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với pháp giới không hai, không khác.

Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn khiến tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật có hai tướng, tức là muốn khiến pháp tánh cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cùng với pháp tánh không hai, không khác.Đối với pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng lại như thế.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát Nhã như thế, trời, người, A tu la v.v... trong thế gian, đều nên cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Nơi nào có thờ Bát nhã Ba la mật thì Thiên chúng, người, A tu la v.v… đều đến nhóm hợp, nghe pháp, đi nhiễu, lễ bái. Vì sao? Vì tất cả đại Bồ Tát đều y nơi Bát nhã Ba la mật như thế mà tinh cần tu học, đã chứng, sẽ chứng, đang chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Như con ngồi ở trong điện Thiện Pháp ở cõi trời Ba mươi ba, trên tòa Thiên Đế, vì các chúng trời tuyên thuyết Chánh pháp. Khi ấy có vô lượng các Thiên vương, thiên tử v.v… đi đến chỗ con để nghe thuyết pháp, cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái. Khi con không ở đó, các Thiên vương, Thiên tử v.v… cũng đi đến đó, tuy chẳng thấy con, nhưng xem như có con, cung kính cúng dường, hoặc nói, chỗ này là tòa của trời Đế Thích, vì chư thiên mà thuyết pháp, chúng ta nên xem như Thiên chủ có mặt, cúng dường, đi nhiễu, lễ bái.

Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế, nếu có người sao chép, thọ trì, đọc tụng, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, thì nên biết ngay ở chỗ ấy có vô lượng, vô số trời, rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la v.v… ở cõi này và vô biên thế giới khác trong mười phương đều đến tụ tập, dù không có người nói, nhưng vì kính trọng pháp nên cũng cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát nhã Ba la mật như thế mà được sanh; tất cả chúng đại Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn..., đều y nơi Bát nhã Ba la mật như thế mà được sanh; xá lợi Phật cũng do Bát nhã Ba la mật như thế mà đượm nhuần công đức, được cúng dường, tôn trọng.   

Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát hạnh và sở chứng Nhất thiết trí trí là nhân, là duyên, là sở nương, là năng dẫn phát. Bạch Thế Tôn! Do duyên cớ này nên con tác thuyết đây: Dù cho xá lợi Phật đầy dẫy châu Thiệm bộ lấy làm một phần, thơ tả Bát nhã Ba la mật lấy làm một phần, trong hai phần này, ý con thà lấy Bát nhã Ba la mật còn hơn!

Bạch Thế Tôn! Đối Bát nhã Ba la mật đây, thọ trì đọc tụng, chân chính nghĩ nhớ, tâm khế hợp với pháp nên đều chẳng thấy các tướng sợ hãi. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết.

Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, cho nên tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết. Bạch Thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, cho nên tất cả pháp cũng không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết.

Bạch thế Tôn! Do Bát nhã Ba la mật này không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết được thật tướng tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết.

Bạch Thế Tôn! Cho nên Bát nhã Ba la mật đáng được nhận lãnh vô lượng tràng hoa, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… của tất cả trời, người, A tu la v.v… trong thế gian đem đến cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen!

 

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí bằng nhiều vật báu, cung kính cúng dường, thì thiện nam, thiện nữ ấy, nhất định chẳng đọa địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, nơi biên địa, chỗ không Phật, chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác, quyết hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, thường thấy chư Phật, được nghe Chánh Pháp, chẳng lìa bạn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các chúng đại Bồ Tát, thường đem vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… mà cúng dường.

Bạch Thế Tôn! Giả sử xá lợi Phật đầy cả tam thiên thế giới này lấy làm một phần; sao chép Bát Nhã làm một phần. Trong hai phần này, con chỉ chọn Bát Nhã. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và xá lợi Phật trong tam thiên thế giới đều từ Bát nhã Ba la mật xuất sanh. Lại nữa, xá lợi Phật trong tam thiên thế giới đều vì do thế lực công đức đã huân tu(2) Bát nhã Ba la mật nên được Chư thiên, người, A tu la v.v... cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Do nhân duyên này nên các thiện nam, thiện nữ v.v... cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xá lợi Phật, nhất định chẳng bị đọa vào ba ác đạo, theo sở nguyện lần lần do pháp Tam thừa mà nhập Niết Bàn.

Vì thế nên, bạch Thế Tôn! Nếu có người được thấy Phật, nếu có người thấy được quyển Kinh Bát nhã Ba la mật, cũng đồng không khác. Vì Bát nhã Ba la mật với Phật không hai không khác vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật trụ thế có ba sự thị hiện, nói mười hai bộ Kinh từ Tu Đa La đến Ưu Bà Đề Xá(3).

Có thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết Bát nhã Ba la mật nầy cũng đồng như đức Phật trụ thế không khác. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật nầy xuất sanh ba sự thị hiện và mười hai bộ Kinh vậy.

Bạch Thế Tôn! Hoặc thấy Phật, hoặc thấy Kinh Bát nhã Ba la mật, hai công đức ấy như nhau không khác. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật, cùng với chư Phật đồng nhau, không hai, không khác.(Q.127, ĐBN)

Bạch Thế Tôn! Hoặc thiện nam, thiện nữ dùng vô lượng các thứ tràng hoa, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương thế giới như cát sông hằng. Hoặc có thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật cũng dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Hai công đức này ngang nhau không khác. Vì sao? Vì các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều y nơi Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh.

Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ biên chép quyển Bát nhã Ba la mật này và thọ trì, đọc tụng, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường, thì sẽ xa lìa tất cả suy não sợ hãi. Ví như người mắc nợ sợ chủ nợ mà kề cận phụng sự Quốc vương, thời chủ nợ trở lại cung kính người này. Người này không còn lo sợ, vì nương oai lực của Quốc vương vậy.

Cũng vậy, nhờ sự huân tu Bát nhã Ba la mật mà xá lợi của chư Phật được cung kính cúng dường. Xá lợi ví như người mắc nợ, còn Bát nhã Ba la mật ví như Quốc vương. Nương nhờ quốc vương mà người mắc nợ được cung kính.

Nhất thiết chủng trí của chư Phật cũng do Bát nhã Ba la mật huân tu mà được thành tựu. Vì những lý lẽ như trên, nên trong hai phần, con lấy phần Bát nhã Ba la mật. Tại sao vậy? Bạch Thế Tôn! Vì trong Bát nhã Ba la mật xuất sanh xá lợi và ba mươi hai tướng của chư Phật. Bát nhã Ba la mật cũng xuất sanh mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ đại bi. Bát nhã Ba la mật xuất sanh năm Ba la mật, được gọi là đáo bỉ ngạn. Bát nhã Ba la mật xuất sanh Nhất thiết chủng trí v.v…

Bạch đức Thế Tôn! Trong đại thiên thế giới, nếu có ai thọ trì, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã Ba la mật, chỗ đó tất cả người hoặc quỷ thần không làm hại được, người này lần lần được nhập Niết Bàn. Bát nhã Ba la mật có lợi ích lớn như vậy, có thể làm Phật sự trong Đại Thiên thế giới.

Bạch Thế Tôn! Nếu ở trong thế giới nào lưu hành Bát nhã Ba la mật như thế thì nên biết nơi ấy chắc chắn có Phật xuất hiện ở thế gian, làm lợi lạc tất cả.

Bạch Thế Tôn! Thí như đại thần châu quí báu vô giá đầy đủ vô lượng các thứ oai đức thắng diệu, tùy nơi có thần châu này, loài nhơn phi nhơn hoàn toàn không làm não hại được. Nếu có người bị các thứ bệnh nhiệt, phong đàm… đem thần châu này đeo vào thân, thì các thứ bệnh ấy, không bệnh nào mà không chữa khỏi. Châu này ở trong tối thì có khả năng phát ra ánh sáng, ở chỗ nóng thì mát, ở chỗ lạnh thì ấm. Tùy địa phương có thần châu này, thời tiết điều hòa, chẳng lạnh chẳng nóng. Nếu nơi nào có thần châu này thì rắn, bò cạp v.v… các loài độc không dám ở. Nếu có nam tử hoặc nữ nhân bị trúng phải độc, đau đớn không chịu nổi, có người cầm thần châu này đưa cho họ thấy, thì do oai thế của thần châu, các độc liền tiêu mất. Nếu các hữu tình thân bị hủi, lác, ghẻ lở, bị các bệnh mắt, tai, mũi, lưỡi, bệnh yết hầu, bệnh thân… đeo thần châu này thì các bệnh đều lành. Nếu trong các ao, rãnh, suối, giếng v.v... nước dơ bẩn, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu thả vào thì nước liền tràn đầy, thơm sạch, lóng trong đủ tám thứ công đức. Nếu dùng vật màu xanh gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền biến thành màu xanh. Nếu dùng vật màu vàng, đỏ, trắng, hồng hay các màu hợp lại gói bửu châu nầy để vào nước, thời nước liền thành các màu ấy. Đại thần châu quí báu vô giá như thế, oai đức vô biên, nói chẳng hết được. Nếu đặt trong rương tráp thì cũng khiến rương tráp ấy thành tựu đầy đủ oai đức vô biên v.v…

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy, là gốc của các đức, có khả năng diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện. Nơi nào có nó thì khiến các loại khổ não về thân tâm của các hữu tình đều được tiêu trừ, loài nhơn phi nhơn v.v... chẳng thể làm hại được.

Bạch Thế Tôn! Đại thần châu quí báu vô giá đã nói đó, chẳng những chỉ dụ cho Bát nhã Ba la mật mà cũng còn dụ cho Nhất thiết trí trí của Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế, đầy đủ vô lượng công đức thù thắng, cũng có khả năng dẫn phát vô lượng công đức thanh tịnh thù thắng thế gian và xuất thế gian.

Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, xá lợi được cúng dường, đều là do đạo lực của Bát nhã Ba la mật, đạo lực của tịnh lự đến Bố thí Ba la mật, nội không đến vô pháp hữu pháp không, pháp tướng, pháp trụ, pháp vị, pháp tánh, thật tế, bất tư nghì giới đến 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Thiện nam, thiện nữ nghĩ rằng: Xá lợi của Phật đây là chỗ Nhất thiết trí, đại từ đại bi, là chỗ những công đức dứt diệt hẳn tất cả kiết sử và tập khí(4), do đây nên xá lợi được cung kính, cúng dường.

Bạch đức Thế Tôn! Xá lợi là trụ xứ của những công đức Ba la mật, là trụ xứ của bất cấu bất tịnh Ba la mật, là trụ xứ của bất sanh bất diệt Ba la mật, là trụ xứ của bất nhập bất xuất Ba la mật, là trụ xứ của bất tăng bất giảm Ba la mật, là trụ xứ của bất lai bất khứ Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Vì xá lợi Phật là kết quả huân tu cực kỳ viên mãn về thật tánh các pháp Ba la mật, là vật nương tựa cực kỳ thanh tịnh của thật tánh các pháp Ba la mật, nên có thể nhận sự cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen của tất cả trời, người, A tu la v.v... trong thế gian.

Bạch đức Thế Tôn! Chẳng luận xá lợi đầy cả Đại Thiên thế giới. Giả sử xá lợi của Phật đầy cả hằng sa thế giới làm một phần. Lại có người chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật làm một phần. Trong hai phần trên đây, con lấy phần Bát nhã Ba la mật. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật nầy xuất sanh xá lợi của chư Phật. Do Bát nhã Ba la mật nầy huân tu nên xá lợi được cúng dường vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán xá lợi, được công đức phước báo vô biên, hưởng thọ phước lạc trong cõi thiên nhơn, nhẫn đến do nhơn duyên phước đức này nên sẽ được dứt hết khổ.

Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật nầy, sẽ được đầy đủ Tịnh lự Ba la mật đến Bố thí Ba la mật, sẽ được đầy đủ tứ niệm xứ đến mười tám pháp Phật bất cộng, hơn bực Thanh Văn, Bích Chi Phật mà an trụ bậc Bồ Tát. Đã an trụ bậc Bồ Tát thì được thần thông Bồ Tát, từ một Phật quốc đến một Phật quốc, cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Nếu thiện nam, thiện nữ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xá lợi Phật, thì thiện nam, thiện nữ ấy do thiện căn này ở cõi người, trời, thọ hưởng giàu sang, sung sướng hoặc sanh ra thuộc dòng Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ hoặc các chúng trời cõi Dục, cõi Sắc cứu cánh v.v…

Bạch đức Thế Tôn! Chẳng phải khinh mạn bất kính mà con chẳng lấy xá lợi. Vì cúng dường Bát nhã Ba la mật thời chính là cúng dường xá lợi vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, làm tăng trưởng tất cả Phật pháp, cũng nhiếp thọ được tất cả sự giàu sang, an lạc, tự tại của thế gian và xuất thế gian. Như vậy là đã cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xá lợi Phật.(Q.128, ĐBN)

Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ muốn được thường thấy pháp thân, sắc thân, trí tuệ thân v.v... của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện thuyết diệu pháp ở vô số vô biên thế giới trong mười phương, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật như thế, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ tu hành Bát nhã Ba la mật, thì nên lấy pháp tướng, tu tùy Phật niệm.

Bạch Thế Tôn! Có hai loại pháp tướng: Những pháp tướng hữu vi và những pháp tướng vô vi:

Thế nào gọi là những pháp tướng hữu vi? Đó là biết như thật về trí nội không nhẫn đến trí vô pháp hữu pháp không, trí chơn như đến trí cảnh giới bất tư nghì; trí tứ Thánh đế nhẫn đến trí mười tám pháp bất cộng; hoặc trí Nhất thiết trí đến trí của Vô Thượng Giác ngộ; hoặc trí pháp thiện, trí pháp bất thiện, trí pháp vô ký; hoặc trí pháp quá khứ, trí pháp vị lai, trí pháp hiện tại; hoặc trí pháp thuộc về dục giới, trí pháp thuộc về sắc giới, trí pháp thuộc về vô sắc giới; hoặc trí pháp học, trí pháp vô học, trí pháp phi học phi vô học; hoặc trí pháp kiến sở đoạn, trí pháp tu sở đoạn, trí pháp phi sở đoạn; hoặc trí pháp hữu sắc, trí pháp vô sắc, hoặc trí pháp hữu kiến, trí pháp vô kiến; hoặc trí pháp hữu đối, trí pháp vô đối; hoặc trí pháp hữu lậu, trí pháp vô lậu; hoặc trí pháp hữu vi, trí pháp vô vi; hoặc trí pháp hữu tội, trí pháp vô tội; hoặc trí pháp thế gian, trí pháp xuất thế gian; hoặc trí pháp tạp nhiễm, trí pháp thanh tịnh. Vô lượng các loại trí như vậy đều gọi là pháp tánh hữu vi.

Thế nào gọi là những pháp tướng vô vi? Đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không tướng, không tạo tác, không tánh tự tánh. Những gì là tự tánh không tánh? Đó là không có tánh ngã, không có tánh hữu tình, cho đến không có tánh cái biết, cái thấy; hoặc không có tánh sắc, không có tánh thọ, tưởng, hành, thức; hoặc không có tánh 12 xứ, 18 giới; hoặc không có tánh tứ Thánh đế đến không có tánh 18 pháp bất cộng; hoặc không có tánh trí Nhất thiết trí đến không có tánh trí của Vô Thượng Giác ngộ; hoặc không có tánh pháp thiện, không có tánh pháp bất thiện, pháp vô ký; hoặc không có tánh pháp quá khứ, không có tánh pháp vị lai, hiện tại; hoặc không có tánh pháp thuộc dục giới, không có tánh pháp thuộc sắc giới, không có tánh pháp thuộc vô sắc giới; hoặc không có tánh pháp học, không có tánh pháp vô học, phi học phi vô học; hoặc không có tánh pháp kiến sở đoạn, không có tánh pháp tu sở đoạn, phi sở đoạn; hoặc không có tánh pháp hữu sắc, không có tánh pháp vô sắc; hoặc không có tánh pháp hữu kiến, không có tánh pháp vô kiến; hoặc không có tánh pháp hữu đối, không có tánh pháp vô đối; hoặc không có tánh pháp hữu lậu, không có tánh pháp vô lậu; hoặc không có tánh pháp hữu vi, không có tánh pháp vô vi; hoặc không có tánh pháp hữu tội, không có tánh pháp vô tội; hoặc không có tánh pháp thế gian, không có tánh pháp xuất thế gian; hoặc không có tánh pháp tạp nhiễm, không có tánh pháp thanh tịnh. Không có vô lượng các loại tánh như vậy, rỗng không vô sở hữu, vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết, vô giác, vô tri, như vậy gọi là tự tánh không tánh. Các pháp tự tánh không tánh như vậy đều gọi là pháp tánh vô vi.

Đức Phật nói: Đúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Chư Phật quá khứ do nơi Bát nhã Ba la mật mà được Vô Thượng Bồ đề. Hàng đệ tử của chư Phật quá khứ cũng do nơi Bát nhã Ba la mật mà được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán, quả Bích Chi Phật đến quả Phật. Chư Phật vị lai và hiện tại cùng hàng đệ tử cũng như vậy. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng vì pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương tiện, vô sanh, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô tạo, vô tác làm phương tiện, vô nhập, vô xuất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm làm phương tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nói như vậy là do thế tục mà nói, chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát nhã Ba la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật, chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu tội, chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc dục giới, chẳng phải thuộc sắc giới, chẳng phải thuộc vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn, chẳng phải tu sở đoạn, chẳng phải chẳng sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải không, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí.

Này Kiều Thi Ca! Bát Nhã như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng cùng pháp Dự lưu cho đến chẳng cùng pháp A la hán, chẳng bỏ pháp phàm phu.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật lớn, là Ba la mật vô thượng, là Ba la mật không gì bằng.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật như thế, tuy biết sự sai biệt về tâm hành cảnh giới của tất cả hữu tình nhưng chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình cho đến chẳng đắc cái biết, cái thấy. Đại Bồ Tát ấy cũng chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ Tát ấy cũng chẳng đắc 12 xứ, 18 giới. Đại Bồ Tát ấy cũng chẳng đắc 12 duyên khởi, lục Ba la mật, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… cũng chẳng đắc tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế đến 37 pháp trợ đạo, từ Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì chẳng phải Bát nhã Ba la mật này do có sở đắc mà hiện tiền. Vì sao? Vì Bát Nhã hoàn toàn không có tự tánh, cũng chẳng thể nắm bắt được; năng đắc, sở đắc hai chỗ nương, tánh, tướng đều không, chẳng thể nắm bắt được.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: “Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát Nhã thậm thâm chẳng đắc Bồ đề và Tát đỏa, huống là đắc Bồ Tát. Bồ Tát nầy đã chẳng thể nắm bắt được thì đâu đắc pháp Bồ Tát. Bồ Tát cùng pháp Bồ Tát còn chẳng thể nắm bắt được, huống là đắc chư Phật và pháp của chư Phật!”

 

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là pháp tôn quí, là hướng đạo, tu tập tất cả Ba la mật khiến mau viên mãn. Đại Bồ Tát ấy khi tu hành bố thí, thì Bát nhã Ba la mật là pháp tôn quí, là hướng đạo, đã tu bố thí Ba la mật không chấp trước thì mau được viên mãn. Đại Bồ Tát ấy khi tu hành tịnh giới, thì Bát nhã Ba la mật là pháp tôn quí, là hướng đạo; đã tu tịnh giới Ba la mật không chấp trước thì mau được viên mãn. Cũng như vậy, Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật, thì Bát Nhã là pháp tôn quí, là hướng đạo; đã tu Bát nhã Ba la mật không chấp trước thì mau được viên mãn.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy đối với tất cả pháp, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật không chấp trước, khiến sự tu tập mau được viên mãn. Đại Bồ Tát ấy đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật; đối với thọ, tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu hành mau được viên mãn. Đại Bồ Tát ấy đối với 12 xứ, 18 giới cho đến từ tứ Thánh đế, 12 duyên khởi... lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật; đối với Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí đến quả vị Giác ngộ tối cao, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu tập Bát nhã Ba la mật. Do duyên cớ không chấp trước này khiến sự tu tập mau được viên mãn.

Này Kiều Thi Ca! Như ở châu Thiệm Bộ có các thứ cây, mà cành, nhánh, thân, gốc, hoa, lá, quả, hạt, tuy có đủ loại hình sắc chẳng đồng nhưng bóng của nó hoàn toàn không sai khác. Như vậy, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, tuy mỗi pháp có sự sai khác, nhưng vì do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, hồi hướng Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên cũng không có sự sai khác.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại thù thắng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô lượng, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô đối, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô tận, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô giới hạn, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng, Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng khó nghĩ bàn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nói hết.

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật như thế, trang trí bằng các vật báu thượng diệu, lại cung kính cúng dường; lại có thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật như thế, biếu cho kẻ khác thọ trì, khiến cho truyền bá rộng rãi thì hai loại phước này, loại nào có phước đức nhiều hơn?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại ngươi, tùy theo ý ngươi mà trả lời: Nếu thiện nam, thiện nữ thỉnh được xá lợi Phật, chứa trong hòm quí, tôn trí chỗ cao nhất, lại đem vô lượng tràng hoa, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại có thiện nam, thiện nữ thỉnh được xá lợi Phật, phân ra biếu cho người khác, nhiều như hạt cải, khiến họ kính thọ, lại dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thì theo ý ông hai loại phước đó, loại nào nhiều hơn?

Trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa pháp mà Phật đã nói, nếu thiện nam, thiện nữ thỉnh được xá lợi Phật, chứa trong hòm quí, tôn trí nơi cao nhất, lại đem vô lượng tràng hoa, hương xoa v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; lại có thiện nam, thiện nữ thỉnh được xá lợi Phật, phân chia biếu tặng cho người khác nhiều như hạt cải, khiến họ kính thọ, lại dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì trong hai loại phước này, loại sau nhiều hơn. Vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vốn lấy đại bi quán sát các loại hữu tình, nên đối với kẻ qui kính cúng dường chỗ tôn trí xá lợi Phật, thì được cứu độ. Ngài dùng sức định Kim cang dụ nghiền nát thân Kim cang nhỏ như hạt cải, lại dùng thần lực đại bi sâu rộng gia trì xá lợi Phật ấy, khiến sau khi Như Lai nhập Niết bàn, ai có được một hạt xá lợi nhỏ như hạt cải, dùng các thứ lễ vật cúng dường thì phước ấy vô biên. Cho nên, người biếu tặng xá lợi cho kẻ khác, phước ấy rất nhiều.

Đức Phật nói: Đúng như vậy. Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ biên chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật không thôi. Nếu lại có người biên chép quyển Kinh Bát nhã Ba la mật đem cho người khác học. Người sau này được phước rất nhiều.

Nếu có thiện nam, thiện nữ đúng với nghĩa trong Bát nhã Ba la mật thư tả diễn nói cho người khác được hiểu biết. Công đức của người này hơn người trước.

Những người theo nghe Bát nhã Ba la mật phải xem người này như Phật. Cũng xem như chư vị phạm hạnh tôn quý. Tại sao vậy? Vì phải biết Bát nhã Ba la mật tức là Phật. Bát nhã Ba la mật chẳng khác Phật. Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật. (Q.130, ĐBN)

Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều từ trong Bát nhã Ba la mật học mà được Vô Thượng Bồ đề, hàng Thanh văn học Bát nhã Ba la mật này mà được A La Hán, người cầu Bích Chi Phật học Bát nhã Ba la mật này mà được Bích Chi Phật, hàng Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật mà được nhập Bồ Tát vị.

Này Kiều Thi Ca! Vì thế nên thiện nam, thiện nữ muốn cung kính, cúng dường chư Phật hiện tại, thời nên cúng dường Bát nhã Ba la mật.

Này Kiều Thi Ca! Khi mới chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, Ta tự hỏi: Ta nương vào đâu mà trụ? Ai có thể nhận sự cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen ta? Ta thấy trong tất cả thế gian, những hàng chư Thiên, Ma Phạm, hoặc Sa Môn, Bà La Môn, chẳng có ai có thể sánh bằng Phật cả, huống là có người hơn Phật. Ta lại tự nghĩ: Ta y nơi pháp này mà đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, pháp này vi diệu thậm thâm tịch tịnh. Nên ta trở lại y vào pháp này mà trụ, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Pháp này là pháp gì? Đó chính là Bát nhã Ba la mật!

Này Kiều Thi Ca! Phật còn tự mình cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán và y chỉ Bát nhã Ba la mật. Huống là thiện nam, thiện nữ muốn được Vô Thượng Bồ đề mà chẳng cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật xuất sanh chư đại Bồ Tát. Chư đại Bồ Tát xuất sanh chư Phật.

Này Kiều Thi Ca! Thế nên thiện nam, thiện nữ hoặc cầu Phật đạo, hoặc cầu Bích Chi Phật đạo, hoặc cầu Thanh văn đạo, thời đều phải cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, cúng dường Bát nhã Ba la mật với những hoa hương, anh lạc nhẫn đến phan lọng v.v… Vì sao? Vì người cầu Thanh văn, đối với Bát nhã Ba la mật này, tinh cần tu học, thì cuối cùng chứng đắc quả A la hán; người cầu Độc giác, đối với Bát nhã Ba la mật này, tinh cần tu học, thì cuối cùng chứng đắc quả vị Độc giác; người cầu Đại thừa, đối với Bát nhã Ba la mật này, tinh cần tu học, thì cuối cùng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Thích nghĩa cho Đoạn sáu này:

(1). Chẳng phải hai pháp, vì không hai tướng: Có bản Kinh khác lại dịch là “chẳng tùy hai hạnh vì không hai tướng”, có bản lại dịch là “chẳng theo hai bên, không có hai tướng”. Kinh MHBNBLMĐ dịch là “chẳng hiện hành hai pháp”. Không có hai pháp tức là pháp môn bất nhị. Nhị nguyên pháp là pháp phân hai, đối đãi: Thủ và xả là hai, tăng và giảm, tụ và tán, nhiễm và tịnh... là hai. Đó là hai tướng đối đãi. Kinh MBHNBLMD nói: Pháp chẳng hai là Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, Bát Nhã được coi là “pháp môn bất nhị”, nên nói “không hiện hai pháp, vì không hai tướng”. TB

(2). Huân tu: Dùng đức để trau giồi cho thân được tốt đẹp như lấy hương hoa xông ướp y phục thì y phục được thơm. Thích nghĩa rồi.

(3). Ba sự thị hiện, nói mười hai phần giáo hay còn gọi là ba lần chuyển mười hai hành pháp luân (nguyên văn bằng chữ Hán là  nhược tam thị đạo .nhược sở tuyên thuyết thập nhị phần/phân giáo”): Ba sự thị hiện là ba thứ biến hóa của chư Phật hay Bồ Tát dùng để cứu độ chúng sanh.

(4). Tập khí: (Phạm, Pàli:Vàsanà) Cũng gọi Phiền não tập, Dư tập, Tàn khí, gọi tắt là Tập. Do tư tưởng, hành vi (đặc biệt là phiền não) nảy sinh hằng ngày, rồi huân tập (xông ướp, tập tành) thành những thói quen, hơi hướng lưu lại trong tâm, gọi là Tập khí, giống như để nước hoa trong lọ thủy tinh, trúc hết ra, xúc sạch, nhưng lọ vẫn còn mùi thơm. Nói cách nôm na là tất cả tư tưởng, hành động lặp đi lặp lại nhiều lần đều được giữ lại trong tâm biến thành những kinh nghiệm và thói quen, đó chính là Tập khí. Thích nghĩa rồi, lặp lại để nhớ.

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn sáu này)

 

1. Ý chính của phẩm nầy là so sánh sự thờ kính xá lợi Phật với việc thọ trì Bát Nhã: Cúng dường xá lợi Phật được nhiều công đức trong đời hiện tại cũng như vị lai, nhưng không bằng thọ trì chánh ức niệm, vì người giảng nói Bát Nhã, công đức gấp vạn lần. Nên Phật hỏi Thiên đế Thích trong hai phần: Một là lấy xá lợi Phật và hai là lấy Bát Nhã, Thiên Đế Thích sẽ chọn cái nào? Thiên Đế Thích chọn Bát Nhã. Vì lẽ:

“Nếu thiện nam thiện nữ cung kính, tôn trọng, tán thán xá lợi sẽ được công đức vô lượng vô biên. Vì Bát Nhã xuất sanh xá lợi của chư Phật và cũng do Bát Nhã nầy huân tu nên xá lợi được cúng dường.

Nhưng nếu thiện nam thiện nữ thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói Bát nhã Ba la mật sẽ thành đạt sáu Ba la mật, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, ngũ nhãn, lục thần thông đến Nhất thiết trí, sẽ chứng Vô Thượng Bồ đề mang nhiều lợi ích cho toàn thể chúng sanh.

Do đó, Thiên đế Thích trình Phật: “Bạch Thế Tôn! Chẳng phải khinh mạn bất kính mà con chẳng lấy xá lợi. Vì thiện nam, thiện nữ cúng dường Bát nhã Ba la mật thời chính là cúng dường xá lợi vậy”.

Nhờ có Bát nhã Ba la mật mà có 3 sự thị hiện, 12 bộ Kinh xuất hiện, có Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ Tát, Phật xuất hiện, các thiên tử, dòng Sát Đế Lợi, Bà La Môn v.v… xuất hiện thế gian. Chỗ nào có Bát Nhã thì chỗ đó không có sự não hại, trái lại được nhiều an lạc, phúc lợi giống như chỗ nào có thần châu Ma ni xuất hiện thì chỗ đó tránh được tai họa bệnh tật v.v…”

Cho nên, Kinh luôn luôn kêu gọi “thiện nam, thiện nữ hoặc cầu Phật đạo, hoặc cầu Bích Chi Phật đạo, hoặc cầu Thanh văn đạo, thời đều phải cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Bát nhã Ba la mật với những hoa hương, anh lạc nhẫn đến phan lọng v.v...”

 

2. Kinh cũng thường lưu ý hành giả Bát Nhã là chẳng vì “pháp cao” như Thanh văn, Bích chi Phật hay Bồ Tát mà lấy, chẳng vì “pháp hạ” như pháp phàm phu mà bỏ. Vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Bát nhã Ba la mật không phải vì có được có mất mà xuất hiện thế gian. Bát Nhã là không, là Tánh không, lấy vô tánh làm tự tánh, nên gọi là vô sở hữu bất khả đắc. Muốn đắc là đắc cái bất khả đắc!

Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, Thiên Đế Thích bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba la mật, là Vô thượng Ba la mật, là Vô đẳng đẳng Ba la mật. Bồ Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, tuy biết tâm hành cảnh giới sai khác của tất cả hữu tình, mà bất đắc ngã, bất đắc hữu tình, mạng giả (dòng sinh mạng), sanh giả (người sanh), dưỡng giả (người dưởng dục), sĩ phu (người trưởng thành), bổ đặt già la (chủ thể luân hồi), ý sanh (người do người sanh), nho đồng( ngã tối thắng), tác giả (người tạo tác), thọ giả (người thọ), tri giả (người biết), kiến giả (người thấy). Bồ Tát Ma ha tát nầy cũng chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ tưởng hành thức. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc tất cả xứ, giới, cũng chẳng đắc ngũ đại chủng. Bồ Tát ma ha tát này cũng chẳng đắc 12 nhân duyên, lục Ba la mật, chẳng đắc chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bồ Tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ Tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Bồ Tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc 37 phẩm trợ đạo, tam giải thoát môn, năm nhãn, sáu thần thông. Bồ Tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ Tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Bồ Tát Ma ha tát này cũng bất đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chẳng đắc tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn. Bồ Tát Ma ha tát này cũng chẳng đắc bốn quả Thanh văn, cũng chẳng đắc Độc giác Bồ đề, chẳng đắc Bồ Tát cũng chẳng đắc Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đây, chẳng phải nhờ có sở đắc mà được hiện tiền. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đều vô tự tánh, cũng bất khả đắc. Năng đắc, sở đắc hai chỗ gá nương, tánh tướng đều trống không bất khả đắc vậy”.

Phật xác nhận: “Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Kiều Thi Ca! Bồ Tát Ma ha tát đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát Nhã chẳng đắc Bồ đề và Tát đỏa, huống là đắc Bồ Tát Ma ha tát. Bồ Tát nầy đã chẳng thể nắm bắt được, thì đâu đắc pháp Bồ Tát. Bồ Tát cùng pháp Bồ Tát còn chẳng thể nắm bắt được, huống là đắc chư Phật và pháp của chư Phật”! 

“Vì là pháp vô tướng vậy, vì là pháp vô sanh, vô diệt vậy, vì là pháp vô cấu, vô tịnh vậy. Vì là pháp vô tác, vô khởi vậy. Vì là pháp bất nhập, bất xuất, bất tăng, bất tổn, bất thủ, bất xả vậy. Bởi là thế tục pháp, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Tại sao vậy? Bát nhã Ba la mật nầy chẳng phải bỉ thử, chẳng phải cao hạ, chẳng phải đẳng bất đẳng, chẳng phải tướng phi tướng, chẳng phải thế gian xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi, chẳng phải thiện bất thiện, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại”(1).

Bát nhã Ba la mật cũng chẳng phải là pháp phân hai, cũng chẳng phải là pháp phân biệt! “Bát nhã Ba la mật chẳng khác Phật. Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật”.

Tục đế lúc nào cũng nói “CÓ”, có uế có tịnh, có sanh có diệt, có thường có đoạn… Thắng nghĩa đế lúc nào cũng nói “KHÔNG”, không uế không tịnh, không sanh không diệt v.v… Nhưng, nói có nói không vẫn không thoát khỏi ngõ cụt hai đầu, nghĩa là vẫn không thoát khỏi sự chi phối của nhị nguyên đối đãi. Muốn giải thoát cảnh trầm luân sâu dầy đó thì phải vượt qua có không, phải siêu vượt nhị nguyên đối đãi. Nên Kinh nói: “Bát nhã Ba la mật này không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, chẳng phải có tướng, có trạng, có ngôn, có thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết”.

Vì Bát Nhã là không, là Tánh Không: “Vô sở hữu, vô tướng, vô trạng, vô ngôn, không thuyết, không hiểu, không biết, như vậy gọi là tự tánh không tánh”.

Bát Nhã nhìn vạn hữu bằng đôi mắt khước từ hay chối bỏ? Bát Nhã soi thấy thế giới này là giả hợp, là duyên sanh, là không tự tánh, là huyễn hóa giống như những mộng mị xa vời. Vậy, Bát Nhã thấy cái gì, biết cái gì? Và với giáo pháp không đó làm sao dẫn dắt chúng sanh ra khỏi những mây mù, huyễn hoặc? Kinh nói: Vì Bát Nhã như thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng vì pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương tiện, vô sanh, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô tạo, vô tác làm phương tiện, vô nhập, vô xuất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm làm phương tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nói như vậy là do thế tục, chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát nhã Ba la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật (phi, chẳng phi), chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu tội, chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc dục giới, chẳng phải thuộc sắc giới, chẳng phải thuộc vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn, chẳng phải tu sở đoạn, chẳng phải chẳng tu sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải không, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí”(3).

Bát Nhã như vậy không phủ nhận tất cả vạn hữu, mà chính vạn hữu là không, là rỗng không. Nên nói “Bát Nhã là vô tri” như một số học giả đã gán, và quan niệm này đã gây một chấn động không ít dưới thời Tăng Triệu. Bát Nhã chỉ là Bát Nhã khi soi thấy vạn hữu trong lăng kính “bất thực”, “rỗng không” như thế. Ai muốn nắm bắt Bát Nhã hãy như hư không mà nắm bắt!

 

Trong nhà Thiền có câu chuyện:

Thạch Củng Huệ Tạng ở Phúc Châu hỏi Trí Tạng Tây Đường:

- Sư đệ biết bắt hư không chăng?

Trí Tạng:

- Biết bắt.

- Làm sao mà bắt được?

Trí Tạng lấy tay chụp hư không.

Thạch Cửng:

- Làm thế ấy đâu bắt được hư không!

Trí Tạng:

- Sư huynh làm sao bắt được?

Thạch Củng liền nắm mũi Trí Tạng kéo mạnh, Trí Tạng đau quá kêu lớn:

- Giết chết lỗ mũi người ta! Buông ngay!

Thạch Củng:

- Không còn cách nào khác để bắt hư không.

 

“Bát nhã Ba la mật chẳng thể nắm bắt được vì nó không sắc, không thấy, không đối đãi, gọi là vô tướng thì làm sao nắm bắt được! Vì sao? Vì Bát Nhã như thế không thủ không xả, không tăng không giảm, không trụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh v.v…”

Đạt tới cứu cánh tức cứu cánh bị giới hạn, cứu cánh không còn là cứu cánh nữa. Nắm bắt được Bát Nhã thì Bát Nhã không còn là Bát Nhã nữa! Đừng mong nắm bắt Bát Nhã mà bị Thạch Củng vặn tréo mũi như trường hợp của Trí Tạng.

Thích nghĩa cho lược giải này:

(1). Phẩm “Xá Lợi”, quyển 11, MHBNBLMĐ.

(2) và (3). Phẩm “So Lường Công Đức” Q.129, Hội thứ I, ĐBN.

 

7. Đoạn bảy:

Phẩm “So Lường Công Đức” đầu Q.130 - Q.135, Hội thứ I, (Tương đương với phẩm “Pháp Thí”(1), Q.11, MHBNBLMĐ).

 

Gợi ý:

Đoạn bảy: Phần trên nói về so lường công đức trong việc giáo hóa pháp Phật, phần dưới nói nhiều về công đức của người truyền bá Bát Nhã, coi đó như là một loại bố thí mà Kinh MHBNBLMĐ gọi là “pháp thí”. Nhưng muốn được vô vàn công đức trong việc bố thí pháp thì phải lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đó là châm ngôn tu hành Bát Nhã.

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ dạy các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, khiến đều tu học mười thiện nghiệp đạo, thì theo ý ông thế nào, thiện nam, thiện nữ v.v... ấy, do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật  như thế, biếu tặng kẻ khác đọc tụng, rồi chuyền nhau sao chép truyền bá rộng rãi, thì thiện nam, thiện nữ ấy, phước đức có được sẽ hơn người trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mậtnhư thế, trong tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp vô lậu, bậc chủng tánh(2) Thanh văn tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, đắc quả Dự lưu, Nhất laihay Bất hoàn hoặc đắc quả A la hán; bậc chủng tánh Độc giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Độc giác, lần luợt chứng đắc quả vị Độc giác; bậc chủng tánh Bồ Tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, lần luợt tu hành Bồ Tát hạnh chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế, trong tạng bí mật(3), rộng nói tất cả pháp vô lậu, đó là sáu pháp Ba la mật; pháp không nội đến pháp không không tánh tự tánh; chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; bốn Thánh đế trí,; bốn tịnh lự vô lậu, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; 37 pháp trợ đạo; pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; năm loại mắt, sáu phép thần thông; Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều là tất cả pháp vô lậu.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ dạy một hữu tình trụ quả Dự lưu, thì phước đức có được vượt hơn sự giáo hóa các loại hữu tình trong cả châu Thiệm Bộ, khiến đều tu học mười thiện nghiệp đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình tu hành mười thiện nghiệp đạo chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Nếu các hữu tình trụ quả Dự lưu thì vĩnh viễn được thoát ba đường ác, huống là giáo hóa khiến trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, thì phước đức có được chẳng hơn kia sao?

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ đều trụ quả Dự lưu đến A la hán, thì phước đức có được chẳng bằng có người giáo hóa một hữu tình khiến họ an trụ quả vị Độc giác. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì công đức của quả vị Độc giác hơn Dự lưu v.v... gấp trăm, ngàn lần.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, khiến đều an trụ quả vị Độc giác, thì phước đức có được chẳng bằng người giáo hóa một hữu tình khiến hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nếu giáo hóa hữu tình khiến hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, thì khiến cho Phật đạo trong thế gian chẳng dứt. Vì sao? Vì do có đại Bồ Tát nên mới có quả Dự lưu, quả A la hán, đến quả vị Độc giác. Vì do có đại Bồ Tát nên mới có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì do có đại Bồ Tát nên mới có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, tất cả thế gian quy y cúng dường. Vì vậy cho nên, này Kiều Thi Ca! Tất cả thế gian, hoặc trời, hoặc ma, hoặc phạm, hoặc Sa môn, hoặc Bà la môn, A tu la, nhơn phi nhơn v.v... nên dùng vô lượng tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen đại Bồ Tát.

Này Kiều Thi Ca! Do đó nên biết, nếu thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật như thế, biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì phước đức có được hơn phước đức người trước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, trong tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp thiện thù thắng của thế gian và xuất thế gian. Vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của dòng dõi lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; vì do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này nên thế gian mới có được sự hiện hữu của chúng trời cõi Dục, Sắc và Vô sắc; do pháp đã nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật này nên thế gian mới có Phật, Pháp, Tăng bảo, có 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc,  có 6 Ba la mật, có 4 Thánh đế, 12 nhân duyên, có 37 pháp trợ đạo, có Nhất thiết trí v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Lại nữa, nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình không những trong bốn châu thiên hạ, mà giáo hóa tất cả hữu tình khắp thế giới mười phương như cát sông Hằng khiến đều tu học mười thiện nghiệp đạo, cũng không bằng công đức của một người sao chép Bát Nhã, biếu tặng kẻ khác đọc tụng, rồi chuyền nhau sao chép truyền bá rộng rãi, thì người này phước đức có được hơn kẻ trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát Nhã như thế, trong tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp vô lậu, bậc chủng tánh Thanh văn tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, đắc quả A la hán; bậc chủng tánh Độc giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Độc giác, lần luợt chứng đắc quả vị Độc giác; bậc chủng tánh Bồ Tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, lần luợt tu hành Bồ Tát hạnh, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. (Q.135, ĐBN)

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự lưu, thì phước đức có được, còn hơn giáo hóa các loại hữu tình trong mười phương thế giới như số cát sông Hằng tu học mười thiện nghiệp đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các loại hữu tình tu hành mười thiện nghiệp đạo chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; nhưng nếu các hữu tình trụ quả Dự lưu thì được vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, huống là giáo hóa, khiến trụ quả vị Giác ngộ tối cao phước đức có được thật vô biên. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì công đức của quả vị Giác ngộ tối cao hơn Dự lưu gấp trăm ngàn vạn ức lần.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiên nữ giáo hóa các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, khiến đều tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông. Nếu thiện nam, thiện nữ sao chép Bát nhã Ba la mật biếu tặng người khác đọc tụng, hoặc chuyền nhau sao chép, truyền bá rộng rãi, thì những người này phước đức có được, hơn kẻ trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế, trong tạng bí mật, rộng nói tất cả pháp vô lậu, bậc chủng tánh Thanh văn tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, hoặc đắc quả A la hán; bậc chủng tánh Độc giác tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Độc giác, lần luợt chứng đắc quả vị Độc giác; bậc chủng tánh Bồ Tát tu học pháp này, mau nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, lần luợt tu hành Bồ Tát hạnh chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Tất cả pháp vô lậu, đã rộng nói trong tạng bí mật Bát nhã Ba la mật như thế, đó là 6 pháp Ba la mật, là chân như, pháp giới, là 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa một hữu tình trụ quả Dự lưu, thì phước đức có được, còn hơn giáo hóa các loại hữu tình trong bốn châu thiên hạ cả đến khắp thế giới 10 phương như cát sông Hằng tu học 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 5 phép thần thông chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; nhưng nếu các hữu tình trụ quả Dự lưu thì được vĩnh viễn thoát khỏi 3 đường ác, huống chi trụ quả vị Giác ngộ tối cao.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy, phước đức có được hơn sự giáo hóa các loại hữu tình cả bốn châu thiên hạ cho đến tất cả thế giới 10 phương như cát sông Hằng khiến đều an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông.

Này Kiều Thi Ca! Ở đây nói như lý tư duy ấy, có nghĩa là dùng hạnh phi nhị phi bất nhị(4) để hiểu Bát Nhã này mà thọ trì đọc tụng, như lý suy nghĩ; lại dùng hạnh phi nhị phi bất nhị để hiểu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, thọ trì đọc tụng, như lý suy nghĩ.

Này Kiều Thi Ca! Lại dùng hạnh phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp không nội, như lý suy nghĩ; lại dùng hạnh phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp không ngoại đến pháp không không tánh tự tánh, như lý suy nghĩ.

Này Kiều Thi Ca! Lại dùng hạnh phi nhị phi bất nhị để hiểu chơn như, như lý suy nghĩ; lại dùng hạnh phi nhị phi bất nhị để hiểu pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, như lý suy nghĩ.

Này Kiều Thi Ca! Lại dùng hạnh phi nhị phi bất nhị để hiểu bốn Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, ba giải thoát môn, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, như lý suy nghĩ.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô lượng phương pháp vì người khác rộng nói, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được, hơn công đức tự thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, như lý tư duy Bát nhã Ba la mật như thế.

Này Kiều Thi Ca! Cái gọi là nghĩa thú của Bát nhã Ba la mật này, là Bát Nhã phi nhị phi bất nhị, phi hữu tướng phi vô tướng, phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi sanh phi diệt, phi thủ phi xả, phi chấp phi bất chấp, phi trụ phi bất trụ, phi thật phi hư, phi tương ưng phi bất tương ưng, phi hòa hợp phi bất hòa hợp, phi nhân duyên phi phi nhân duyên, phi pháp phi phi pháp, phi chơn như phi phi chơn như, phi thật tế phi phi thật tế. Nghĩa thú như vậy có vô lượng pháp môn. (Q.135, ĐBN)

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ thường giáo huấn rộng rãi cho những người khác về nghĩa thú thậm thâm của Bát Nhã như thế, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được, hơn công đức tự thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, như lý tư duy Bát nhã Ba la mật như thế, gấp vô lượng lần, so với phước đức có được của những người nói trước vô biên.

Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ thường dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc tuyên thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật như thế, thì thiện nam, thiện nữ ấy thành tựu vô lượng, vô số, vô biên đại công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Này Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ suốt cả cuộc đời dùng vô lượng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số thế giới trong mười phương; lại có thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật tự thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại nương vào các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc dùng vô lượng phương pháp vì người khác rộng nói, chỉ bày, khai diễn giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy, phước đức có được, hơn kẻ trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều do học Bát nhã Ba la mật nên đã chứng, sẽ chứng và đang chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; lại có thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, chỉ trong khoảnh khắc vì người khác biện thuyết, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được, hơn kẻ trước rất nhiều.

Kẻ dùng sở đắc làm phương tiện là vì ngã, ngã sở nên có chấp(chấp ngã, chấp pháp v.v…), vì vậy không thể viên mãn sáu pháp đáo bỉ ngạn, nghĩa là không thể qua bờ bên kia. Nếu đại Bồ Tát khi tu hành bố thí, chẳng thấy có người cho, kẻ nhận, sự cho, kết quả sự cho và vật cho, vì đã dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn bố thí Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát khi tu hành tịnh giới, chẳng thấy có người thọ trì, kết quả sự hộ giới và giới được trì, lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn tịnh giới Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát khi tu hành an nhẫn, không chấp có thân thọ nhục, chẳng thấy có người nhẫn, kết quả sự nhẫn và tự tánh của sự nhẫn, vì đã dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát khi tu hành tinh tấn, chẳng thấy có người siêng năng, kết quả của siêng năng và tự tánh của tinh tấn, vì đã dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn tinh tấn Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát khi tu hành tịnh lự, chẳng thấy có người định, cảnh định, kết quả của định và tự tánh của tịnh lự, lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn tịnh lự Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng thấy có người tu tuệ, cảnh tuệ, kết quả sự tu tuệ và tự tánh của Bát Nhã, lại dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn Bát nhã Ba la mật.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ nên dùng tuệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa khéo léo thậm thâm mà tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Kiều Thi Ca! Nếu đời vị lai, có thiện nam, thiện nữ vì người khác tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật tương tợ; người sơ phát tâm Vô Thượng Bồ đề nghe người ấy nói pháp Bát nhã Ba la mật tương tợ, tâm liền mê lầm, làm mất Trung đạo(5). Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo thậm thâm, vì người sơ phát tâm Vô Thượng Bồ đề mà tuyên nói Bát nhã Ba la mật.

Thích nghĩa cho Đoạn bảy này:

(1). Pháp thí (s: dharma-deśanā, p: dhamma-desanā): Bố thí pháp, tức tuyên thuyết giáo pháp, làm lợi ích chúng sanh; còn gọi là pháp cúng dường, thuyết giáo, thuyết pháp, thuyết Kinh, đàm nghĩa, khuyến hóa.

(2). Chủng tánh: Có thể nói là tánh có được do huân tu nhiều kiếp như Thanh văn có chủng tánh Thanh văn, Bồ Tát có chủng tánh Bồ Tát. Tánh này không thể nói do bẩm sanh (thiên bẫm hay “thiên phú”), tánh này cũng không thể giải thích theo đạo Khổng “là nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Theo Duy thức Học, chủng tử (hạt giống do mình gieo trong quá khứ hay hiện tại) tốt hay xấu tích tụ nhiều kiếp trong A lại da thức(thức thứ tám còn gọi là tàng thức), nên tùy theo chủng tử nầy mà thọ sanh và tiếp nối cuộc sống. Bồ Tát trụ chủng tánh là Bồ Tát có nhiều chủng tử vô lậu huân tập nhiều kiếp trong A lại da thức, hay nói khác là Bồ Tát có căn tánh Đại thừa vững chắc, khi thọ sanh có khả năng chứng đắc Bồ đề. Chủng tánh thường được chia làm năm loại là: 1- Vô chủng tánh(không có giống vô lậu), 2/. Thanh văn chủng tánh, 3- Duyên giác chủng tánh, 4- Đại thừa chủng tánh (Bồ Tát, Phật) và Bất định chủng tánh(không nhất định Tiểu thừa hay Đại thừa).

(3). Tạng bí mật hay bí mật tạng: Pháp tạng (kho pháp) rất sâu xa bí ẩn, duy có Phật với Phật mới biết rõ được, chứ chẳng phải pháp môn phổ thông mà mọi người đều có thể hiểu biết. Lại vì là pháp kín nhiệm được đức Như Lai đặc biệt hộ niệm, nếu không phải người có căn khí, thì không thể gìn giữ, cho nên gọi là Bí mật tạng. Bởi vậy, Bí mật tạng là tên chung của các kinh hiển bày nghĩa thú rất sâu, bí ẩn. (4). Phi nhị phi bất nhị: Chẳng hai chẳng phải chẳng hai.

(5). Trung Đạo (s: madhyamā-pratipad, p: majjhima-paṭipadā). Trung: Không có nghĩa là ở giữa, trung gian, mà có nghĩa là vượt qua hai lập trường cực đoan, đối lập mâu thuẫn lẫn nhau, không trú ở bên nào cả và cũng không trú ở giữa. Đạo: Chỉ cho phương pháp thực tiễn. Nó chỉ cho sự chứng ngộ của đức Thích Tôn nhờ Bát Chánh Đạo (Astangika-marga (skt)—Ashtangika-Magga (p), với nội dung tập trung tinh thần, không thiên chấp một bên nào cả, chủ nghĩa khổ hạnh hay chủ nghĩa khoái lạc. Đó được gọi là Trung Đạo của Không Khổ Không Lạc. Trong Phật Giáo thời kỳ đầu, Trung Đạo của Không Khổ Không Lạc này đóng vai trò chủ chốt; nhưng Trung Đạo của Không Đoạn Không Thường hay Trung Đạo của Phi Hữu Phi Vô cũng được đề cập đến. Tác phẩm Trung Luận (s: Mādhyamakakārikā) của Long Thọ (s: Nāgārjuna, khoảng 150-250) đặt Duyên Khởi, Không Tánh, Giả và Trung Đạo đồng hàng với nhau; cho nên, Trung Quán Phái lấy Trung Đạo làm tôn chỉ. Theo Du Già Hành Phái đối tượng nhận thức không phải là cái bên ngoài, mà chỉ là sự hiển hiện của Thức, nên nó không phải là có (phi hữu); nhưng vì sự hiển hiện của Thức vốn tồn tại trong hiện thực, nên nó không phải không có (phi vô). Vì vậy, họ chủ trương Duy Thức Trung Đạo, có nghĩa rằng trong Nhất Thiết Duy Thức (tất cả đều là tác dụng của nhận thức), tìm ra Trung Đạo. Hơn nữa, tại Trung Quốc, trên cơ sở của Trung Luận, Tam Luận Tông thì chủ trương Bát Bất Trung Đạo trên cở sở của Bất Sanh Bất Diệt (không sanh không diệt), Bất Thường Bất Đoạn (không thường không đoạn), Bất Nhất Bất Dị (không một không khác), Bất Lai Bất Khứ (không đến không đi); Thiên Thai Tông thì thuyết về Trung Đạo theo Tam Quán của Không, Giả, Trung. (Phật Học Tinh Tuyển)

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn bảy này)

 

1. Một trong sáu pháp đáo bỉ ngạn là bố thí. Bố thí gồm có tài thí (tiền của vật chất như cơm ăn, áo mặc, thuốc men, chỗ ở kể cả thân mạng như máu mủ, xương tủy, tay chân…); pháp thí (bút thí, Kinh thí, thuyết pháp thí…) và vô úy thí (bảo vệ, bênh vực kẻ yếu để họ không bị sợ hãi trước bạo lực hay uy quyền). Bố thí theo Tiểu thừa là phương pháp phá ngã tốt nhất, quên mình vì kẻ khác nên được nhiều phúc lợi cho đời nầy và đời sau. Bố thí theo Đại thừa là đem đại từ đại bi tâm cứu giúp chúng sanh ra khỏi biển sanh tử, được Niết bàn an vui. Phẩm nầy Kinh nói về bố thí pháp theo Đại thừa.

Nếu có thiện nam, thiện nữ dạy chúng sanh ở cõi Châu Thiệm bộ tu học thập thiện đạo để được sanh lên cõi Trời thì được phước đức rất nhiều hiến chi dạy cho tất cả chúng sanh khắp cõi Tiểu thiên, Trung thiên, Đại thiên thế giới, nhẫn đến dạy tất cả chúng sanh trong hằng sa thế giới mười phương thực hành thập thiện đạo. Nhưng phước đức nầy chẳng bằng phước đức dạy cho người ở cõi Châu Thiệm bộ được quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích chi Phật, Bồ Tát hay quả vị Vô Thượng Bồ đề. Nhưng nếu có thiện nam, thiện nữ chỉ ghi chép Kinh Bát nhã Ba la mật đem biếu cho người khác, rồi người khác lại sao chép truyền bá rộng rãi. Người ghi chép, biếu Kinh sẽ được phước đức rất nhiều so với những người nói trên.

Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 130, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo: “Nếu thiện nam thiện nữ v.v... sao chép Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, trang trí bằng các vật báu, dùng vô lượng các thứ tràng hoa, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu v.v… cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, y Kinh mà nói, như lý tư duy; hoặc có thiện nam tín nữ v.v... sao chép Bát nhã Ba la mật như thế, biếu tặng cho người khác thọ trì, truyền bá rộng rãi, thì hai loại phước này, loại sau nhiều hơn. Vì sao? Vì do biếu tặng (Kinh cho) người khác, có thể khiến cho vô lượng, vô biên các hữu tình được pháp hỷ”.

Chỉ cần sao chép trang trí cúng dường Bát Nhã mà còn được nhiều công đức hiến chi biếu tặng người khác sao chép lưu hành rộng rãi.

 

2. Nhưng muốn được vô vàn công đức hơn, muốn được quả vị Bồ Tát bất thối hay Vô Thượng Bồ đề thì phải y theo nghĩa thú Bát nhã Ba la mật mà thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại dùng vô lượng phương pháp vì người khác rộng nói, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến họ dễ hiểu, thì thiện nam thiện nữ... ấy phước đức hơn phước nói trước vô lượng, vô số, vô biên chẳng thể nghĩ bàn.

Phẩm “So Lường Công Đức” quyển 135, Hội thứ I, ĐBN lưu ý rằng: “... Cái gọi là nghĩa thú của Bát nhã Ba la mật này, là Bát Nhã phi nhị phi bất nhị, phi hữu tướng phi vô tướng, phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi sanh phi diệt, phi thủ phi xả, phi chấp phi bất chấp, phi trụ phi bất trụ, phi thật phi bất thật, phi tương ưng phi bất tương ưng, phi hòa hợp phi bất hòa hợp, phi nhân duyên phi phi nhân duyên, phi pháp phi phi pháp, phi chơn như phi phi chơn như, phi thật tế phi phi thật tế. Nghĩa thú như vậy có vô lượng pháp môn”.

Tu hành Bát Nhã với nghĩa thú đó có nghĩa là tu hành không, tu hành vô tướng, tu hành vô nguyện, tu hành không hai tướng trong đó không có người hành, không có pháp để hành; bố thí không thấy có người cho, không thấy kẻ nhận, không có vật thí; trì giới mà không thấy giới cấm, không thấy kẻ phạm hay không phạm, tu an nhẫn mà không thấy có người thọ nhẫn, pháp nhẫn; tu tinh tấn mà không thấy giải đãi, biếng nhác hay tinh tấn; tu tịnh lự mà không thấy định, kẻ định, cảnh định, quả định; tu huệ mà không thấy có người tu, không thấy có huệ để tu, không thấy người khôn người dại… Đó chính là tu hành viên mãn các Ba la mật và tất cả các pháp Phật. Nhưng với điều kiện là phải lấy vô sở đắc, vô nhị làm phương tiện thì mới không thối thất đạo Bồ đề!

Đoạn kinh này chỉ so lường công đức giữa các pháp tu và quả vị tu hành so với tu Bát Nhã cũng như phạm vi dạy bảo trao truyền rộng hẹp tùy theo ở Thiệm bộ châu so với Tiểu thiên, Trung thiên hay Đại thiên thế giới v.v… Ai đọc cũng có thể hiểu nên không cần giải thích nữa.

 

8. Đoạn tám:

Phẩm “So Lường Công Đức” thuộc Q.136 đến đầu Q .168, Hội thứ I, (Tương đương với phẩm “Tương Tợ” Q.12, MHBNBLMĐ).

 

Tóm lược:

 

- Trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật tương tợ?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật có sở đắc thì như vậy gọi là thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật tương tợ.

- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam, thiện nữ thuyết Bát nhã Ba la mật có sở đắc mà nói là thuyết Bát nhã Ba la mật tương tợ?

Phật bảo: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… thuyết sắc hoặc thường hoặc vô thường; thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường; thuyết sắc hoặc lạc hoặc khổ; thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc hoặc khổ; thuyết sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã; thuyết sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh; thuyết thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà hành Bát Nhã thì ta gọi hành hữu sở đắc tương tợ Bát nhã Ba la mật. (Q.137, ĐBN)

Phật bảo: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… cầu sắc hoặc thường, hoặc vô thường; cầu thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường; cầu sắc hoặc lạc, hoặc khổ; cầu thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ; cầu sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã; cầu sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; cầu thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà hành Bát Nhã thì ta gọi là hành hữu sở đắc tương tợ Bát nhã Ba la mật.

Cũng như vậy, nếu các thiện nam, thiện nữ, vì kẻ phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thuyết hay cầu 12 xứ, 18 giới, Tứ Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao,… nói rộng ra là tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu y vào các pháp như thế hành Bát Nhã, thì ta gọi là hành hữu sở đắc tương tợ Bát nhã Ba la mật.

 Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về Bát nhã Ba la mật hữu sở đắc tương tợ. (Q.137, ĐBN)

- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v... thuyết hay cầu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, trì giới, bố thí Ba la mật hữu sở đắc như thế nào mà gọi là thuyết hay cầu tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật tương tợ?

Cũng như vậy, nếu các thiện nam, thiện nữ, vì kẻ phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thuyết hay cầu 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, Tứ 4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao,… nói rộng ra là tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Nếu y vào các pháp như thế hành Bát Nhã,thì ta gọi là hành hữu sở đắc tương tợ tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật. (Q.138, ĐBN)

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, nói thế này: Đến đây! Thiện nam tử! Ta sẽ dạy ngươi tu học Bát nhã Ba la mật. Nếu ai theo lời dạy của ta thì sẽ mau trụ ở bậc Bồ Tát thập địa: Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ và Pháp vân địa.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện mà dạy người khác tu học Bát nhã Ba la mật thời nói Bát nhã Ba la mật tương tợ.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, nói thế này: Đến đây! Thiện nam tử! Ta sẽ dạy ngươi tu học tịnh lự đến bố thí Ba la mật. Nếu ai theo lời dạy của ta mà tu hành thì sẽ mau trụ ở bậc Bồ Tát thập địa. Đây gọi là nói tịnh lự đến bố thí Ba la mật tương tợ.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, hoặc nói tịnh lự Ba la mật, hoặc nói tinh tấn Ba la mật, hoặc nói an nhẫn Ba la mật hoặc nói tịnh giới Ba la mật, hoặc nói bố thí Ba la mật, nói thế này: Đến đây! Thiện nam tử! Ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nếu ai theo lời dạy của ta mà tu học thì mau vượt bậc Thanh văn và Độc giác. Đây gọi là thuyết tịnh lự đến bố thí Ba la mật tương tợ.

Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát Nhã hoặc nói tịnh lự, hoặc nói tinh tấn cho đến bố thí Ba la mật, rằng các người tu hành các Ba la mật này xong, sẽ nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh rồi, liền đắc Vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Đã đắc Vô sanh pháp nhẫn, liền đắc Thần thông bất thối của Bồ Tát. Đã đắc Thần thông bất thối thì có khả năng du hành tất cả các cõi Phật trong mười phương, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Do đó, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Đây gọi là nói tịnh lự đến bố thí Ba la mật tương tợ.

Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật đạo, thiện nam, thiện nữ giảng thuyết rằng các người học Bát nhã Ba la mật nầy thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, thời sẽ được vô lượng vô biên vô số công đức. Đây gọi là nói tương tợ Bát nhã Ba la mật.

Lại này Kiều Thi Ca! Vì cầu Phật đạo, thiện nam, thiện nữ nói rằng quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, tất cả công đức thiện căn từ sơ phát tâm đến thành Phật, đều phải hồi hướng Vô Thượng Bồ đề. Như vậy, thiện nam, thiện nữ ấy dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, nói như thế là nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật tương tợ.

 

- Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chơn chánh?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nói Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật vô sở đắc như thế gọi là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chơn chánh.

- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ thuyết Bát nhã Ba la mật vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói Bát nhã Ba la mật một cách chơn chánh?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán sắc hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật: Chẳng nên quán sắc hoặc lạc - hoặc khổ, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc - hoặc khổ. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắc, thọ, tưởng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật.

Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi hẳng nên quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã - hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc - bất tịnh.Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát Nhã này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã - vô ngã, cái tịnh - bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, cái ngã- vô ngã, cái tịnh - bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắc, thọ, tưởng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã, tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật một cách chơn chánh.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán 12 xứ, 18 giới, Tứ Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao,… nói rộng ra là tất cả pháp Phật hoặc thường-hoặc vô thường, hoặc vui-hoặc khổ, hoặc ngã-hoặc vô ngã, hoặc tịnh-hoặc bất tịnh… Vì sao? Vì tự tánh 12 xứ, 18 giới cho đến tự tánh của các pháp Phật ấy là không. Tự tánh của 12 xứ, 18 giới tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tất cả pháp Phật ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật này, 12 xứ, 18 giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường-vô thường đến cái tịnh-bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp Phật đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường-vô thường đến cái tịnh-bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có 12 xứ, 18 giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường, vô thường đến có cái tịnh, bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật một cách chơn chánh.

- Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn: Các thiện nam, thiện nữ nói tịnh lự Ba la mật vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói tịnh lự Ba la mật một cách chơn chánh?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết tịnh lự Ba la mật, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh lự Ba la mật, chẳng nên quán sắc hoặc thường - hoặc vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường- hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba la mật. Đối với tịnh lự Ba la mật này, sắc chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sắc, thọ, tưởng v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu tịnh lự Ba la mật.

Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh lự Ba la mật, chẳng nên quán 12 xứ, 18 giới, Tứ 4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 37 Bồ đề phần pháp, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao… nói rộng ra là tất cả pháp Phật hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới v.v… và tự tánh của 12 xứ, 18 giới v.v… là không; tất cả pháp Phật và tự tánh của tất cả pháp Phật là không. Tự tánh của 12 xứ, 18 giới v.v… ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tất cả pháp Phật ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba la mật. Đối với tịnh lự Ba la mật này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái vui và khổ cho đến cái tịnh và bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp Phật đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái vui và khổ cho đến cái tịnh và bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có 12 xứ, 18 giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái vui và khổ cho đến cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu như thế là tu tịnh lự Ba la mật.

Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự Ba la mật một cách chơn chánh.

 

Cũng như thế, Phật trả lời Kiều Thi Ca từng pháp thế nào là tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chơn chánh đối với từng pháp một của tất cả pháp Phật từ 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, 4 Thánh đế, 12 duyên khởi, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao…, nói rộng ra là tất cả Pháp Phật đều như thế cả.

 

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, hoặc thuyết tịnh lự Ba la mật, hoặc thuyết tinh tấn, hoặc thuyết an nhẫn, tịnh giới, bố thí, thì nói thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Khi ngươi tu học, chớ quán các pháp mảy may có thể trụ, có thể vượt, có nhập, có đắc, có chứng, có thể thọ trì v.v... chỗ đạt được công đức và khá tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao? Vì đối với Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật này, rốt ráo không có một mảy may pháp có thể trụ, có thể vượt, có nhập, có đắc, có chứng, có thể thọ trì v.v... chỗ đạt được công đức và khá tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả các pháp đều không, hoàn toàn không có sở hữu. Nếu không sở hữu, tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối với Bát Nhã cho đến Bố thí Ba la mật này, rốt ráo không một mảy may pháp có nhập, có xuất, có sanh, có diệt, có đoạn, có thường, có một, có khác, có đến, có đi, để có thể nắm bắt được. Thiện nam, thiện nữ ấy nói những điều đó là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chơn chánh.

Vì vậy nên, này Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy; nên dùng các thứ văn nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu.

Kiều Thi Ca! Do duyên cớ này, ta nói: Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy; lại dùng các thứ văn nghĩa xảo diệu, vì người biện thuyết, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức đạt được hơn trước rất nhiều.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong bốn châu Thiệm bộ, Đông thắng thần, Tây ngưu hóa, Bắc câu lô đều trụ quả Dự lưu thì theo ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát Nhã, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; lại nói thế này: Này thiện nam tử! Hãy đến đây! Đối với Bát nhã Ba la mật này, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến dễ thông đạt, như lý tư duy, theo pháp môn này, nên siêng tu học thì thiện nam, thiện nữ ấy, đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Dự lưu và Dự lưu quả đều xuất sinh từ Bát nhã Ba la mật ấy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Để riêng các loại hữu tình trong bốn châu, nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong tiểu thiên, trung thiên, đại thiên thế giới hay nói rộng cho đến thế giới mười phương như cát sông Hằng đều trụ quả Dự lưu, thì theo ý ông thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Bát Nhã này, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; lại nói thế này: Thiện nam tử! Hãy đến đây! Đối với Bát Nhã thậm thâm này, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến dễ thông đạt, như lý tư duy, theo pháp môn này, nên siêng tu học thì thiện nam, thiện nữ ấy, đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả Dự lưu và Dự lưu quả đều xuất sanh từ Bát nhã Ba la mật ấy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong bốn châu cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều trụ quả A la hán, thì theo ý ông thế nào? Thiện nam, thiện nữ ấy, do nhân duyên này, được phước nhiều chăng?

Trời Đế Thích bạch: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nhơn đối với Bát nhã Ba la mật này, dùng vô lượng pháp môn, văn nghĩa  xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu; lại nói thế này: Thiện nam tử! Đến đây! Đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, khiến dễ thông suốt, như lý tư duy, theo pháp môn này, nên siêng tu học thì thiện nam, thiện nữ nhơn ấy, đạt được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả A la hán và  A la hán quả đều phát xuất từ Bát nhã Ba la mật ấy. (Hết Q.166, ĐBN)

 

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong Thiệm bộ châu, Đông thắng thần, Tây ngưu hóa, Bắc câu lô cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều trụ bậc Bồ Tát bất thối chuyển. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ, do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiên Đế Thích thưa: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát Nhã đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo vì người phân biệt nghĩa thú khiến cho kẻ kia dễ hiểu. Lại tác lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát Nhã đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho khéo thông lợi, như lý suy nghĩ, tùy thuận Bát Nhã đã thuyết pháp môn đây nên chánh tin hiểu. Nếu chánh tin hiểu thời năng tu học được Bát Nhã như thế. Nếu năng tu học Bát Nhã như thế, thời năng chứng Nhất thiết trí. Nếu năng chứng Nhất thiết trí, thời tu Bát Nhã càng thêm viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật càng thêm viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả bậc Bất thối chuyển của đại Bồ Tát đều do Bát nhã Ba la mật này xuất sanh ra vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các hữu tình trong Thiệm bộ châu, Đông thắng thần, Tây ngưu hóa, Bắc câu lô cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều hướng tới Vô Thượng Bồ đề. Có các thiện nam, thiện nữ đối Bát Nhã đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo vì người rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến cho kẻ kia dễ hiểu. Lại tác lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát Nhã thẳm sâu đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho khéo thông lợi, như lý suy nghĩ, tùy thuận Bát Nhã đã thuyết pháp môn đây nên chánh tin hiểu. Nếu chánh tin hiểu thời năng tu học được Bát Nhã như thế. Nếu năng tu học Bát Nhã như thế, thời năng chứng Nhất thiết trí. Nếu năng chứng Nhất thiết trí, thời tu Bát Nhã càng thêm viên mãn. Nếu tu Bát Nhã càng thêm viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các loại hữu tình trong bốn đại châu cho đến tất cả thế giới mười phương như cát sông Hằng đều đối Vô Thượng Bồ đề được chẳng quay lui. Có các thiện nam, thiện nữ đối Bát Nhã đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa khéo léo vì người rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại tác lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát Nhã đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho khéo thông lợi, như lý suy nghĩ, tùy thuận Bát Nhã đã thuyết pháp môn đây nên chánh tin hiểu. Nếu chánh tin hiểu thời năng tu học được Bát Nhã như thế. Nếu năng tu học Bát Nhã như thế, thời năng chứng được pháp Nhất thiết trí. Nếu năng chứng Nhất thiết trí, thời tu Bát Nhã càng thêm viên mãn. Nếu tu Bát Nhã càng thêm viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước.

(…)Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình trong trong bốn đại châu cho đến tất cả thế giới 10 phương như cát sông Hằng đều đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Lại đem Bát Nhã, vô lượng pháp môn văn nghĩa khéo léo vì kia rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Nhưng lại có các thiện nam thiện nữ, với trong số ấy chỉ khuyên một người mau tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khiến thuyết pháp tam thừa cứu độ tất cả. Lại đem Bát Nhã, vô lượng pháp môn văn nghĩa khéo léo vì kia rộng nói, tuyên tỏ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến cho kẻ kia dễ hiểu. Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ nhân, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ Tát an trụ bậc Bất thối chuyển chẳng cần nương nhờ pháp sở thuyết, đối Vô thượng giác quyết định hướng tới, với Đại Bồ đề chẳng quay lui. Đại Bồ Tát mau tới Đại Bồ đề rất cần nương nhờ pháp sở thuyết vậy, đối Vô thượng giác cầu mau tới vậy, quán khổ sanh tử của tất cả hữu tình vận tâm Đại bi rất thống thiết vậy.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát càng gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy, nên cần đem lục Ba la mật giúp đỡ.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát càng gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy, nên cần đem 18 pháp không, thập nhị chân như, tứ Thánh đế, bốn tĩnh lự,bốn vô lượng, bốn vô sắc định,tám giải thoát,tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chóng dạy bảo, dạy trao đại Bồ Tát kia. Đồng thời cần đem quần áo, thức ăn thức uống, đồ nằm, thuốc thang, cùng pháp thí, tài thí cúng dường nhiếp thọ đại Bồ Tát kia. Các thiện nam thiện nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát kia nhờ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật dạy bảo dạy trao nhiếp thọ như vậy, nên mới mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng: Hay thay, hay thay! Kiều Thi Ca! Ngươi mới là năng khuyên gắng đại Bồ Tát, lại năng nhiếp thọ đại Bồ Tát, cũng năng hộ trợ Bồ Tát. Ngươi nay đã làm Thánh đệ tử của Phật là việc đáng làm. Các Thánh đệ tử của tất cả Như Lai vì muốn lợi vui các hữu tình, nên mới phương tiện khuyên gắng đại Bồ Tát, khiến mau tới Vô Thượng Bồ đề, đem pháp thí, tài thí nhiếp thọ hộ trợ đại Bồ Tát, khiến mau chứng Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả Như Lai, Thanh Văn, Độc giác là thắng sự thế gian do đại Bồ Tát mà xuất sanh được vậy. Vì sao? Vì nếu không có đại Bồ Tát là kẻ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời không có kẻ năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng không có kẻ năng an trụ tất cả các pháp Phật nói trên. (Q.167, ĐBN)

Nếu không có đại Bồ Tát tu học, an trụ các việc như thế, thời không có kẻ năng chứng được Vô Thượng Bồ đề. Nếu không có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời không có kẻ năng an lập được Bồ Tát, Thanh Văn, Độc giác làm thắng sự cho thế gian.

Kiều Thi Ca! Do có đại Bồ Tát phát tâm Vô Thượng Bồ đề, nên mới có kẻ năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng lại có kẻ năng an trụ và tu học các pháp mầu Phật đạo.

Do có đại Bồ Tát tu học, an trụ việc như thế, nên mới năng chứng được Vô Thượng Bồ đề. Do có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Bồ đề, thời dứt được tất cả địa ngục, bàng sanh, quỷ giới của thế gian, cũng năng tổn giảm bè lũ của A tu la, tăng thêm thiên chúng.

Kiều Thi Ca! Do có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên mới có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, đại tộc Trưởng giả, đại tộc Cư sĩ xuất hiện thế gian. Do đây lại có trời Bốn đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đổ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại xuất hiện thế gian. Do đây lại có trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, Trời Biến tịnh, Trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng Quảng quả xuất hiện thế gian. Do đây lại có Trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện Hiện, trời Thiện kiến, Trời Sắc cứu cánh xuất hiện thế gian. Do đây lại có trời Không vô biên xứ, trời Thức vô biên xứ, trời Vô sở hữu xứ, Trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện thế gian.

Do đây lại có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật xuất hiện thế gian. Do đây mới có tất cả pháp thế gian và xuất thế gian xuất hiện.  

 

Chúng tôi trích dẫn phần cuối của phẩm “Tương Tợ”, Kinh MHBNBLMĐ để Quý vị đọc thêm và cũng để Quý vị nắm vững Đoạn tám của phẩm “So Lường Công Đức” này:

 

“Lại nầy Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ giáo hóa chúng sanh trong một Diêm Phù Đề (tức Châu Thiệm bộ) nhẫn đến giáo hóa chúng sanh trong hằng sa quốc độ mười phương, làm cho phát tâm Bồ đề nhẫn đến bậc bất thối chuyển, dù được phước rất nhiều, nhưng vẫn không bằng người đem Bát nhã Ba la mật giảng thuyết cho người khác, dùng những nhơn duyên khai thị, phân biệt cho họ được hiểu biết, bảo họ tu hành đúng như lời dạy trong Bát nhã Ba la mật, sẽ được Nhất thiết trí và Vô Thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì trong Bát nhã Ba la mật xuất sanh những đại Bồ Tát sơ phát tâm, nhẫn đến xuất sanh những đại Bồ Tát bất thối chuyển.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Chúng sanh trong một Diêm Phù Đề nhẫn đến trong hằng sa thế giới mười phương phát tâm cầu Vô Thượng Bồ đề. Nếu có thiện nam, thiện nữ vì họ mà giảng rộng nghĩa Bát nhã Ba la mật và khai thị, phân biệt cho họ được hiểu biết.

Có người vì một Bồ Tát bất thối chuyển mà diễn thuyết Bát nhã Ba la mật và khai thị, phân biệt cho được hiểu biết, người nầy được phước rất nhiều.

Lại nầy Kiều Thi Ca! Nếu có chúng sanh trong một Diêm Phù Đề nhẫn đến trong hằng sa thế giới mười phương đều được bậc bất thối chuyển. Có thiện nam, thiện nữ đem Bát nhã Ba la mật giảng giải ý nghĩa cho những bậc nầy. Trong đây có một Bồ Tát muốn mau chứng Vô Thượng Bồ đề, nếu có người đem Bát nhã Ba la mật giảng giải ý nghĩa cho Bồ Tát nầy, thời được phước nhiều hơn hết”.

Thiên Đế thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như đại Bồ Tát càng gần đến Vô Thượng Bồ đề, lại càng nên giáo hóa thực hành sáu Ba la mật, càng nên giáo hóa thực hành nội không đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng. Lại nên cúng dường y phục, ngọa cụ, ẩm thực, y dược, tùy theo chỗ cần dùng mà cung cấp.

Thiện nam, thiện nữ pháp thí và tài thí cúng dường đại Bồ Tát nầy thời được công đức. Vì đại Bồ Tát nầy mau thành Vô Thượng Bồ đề vậy”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Lành thay, lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ngài vì thánh đệ tử mà an ủy chư đại Bồ Tát vì Vô Thượng Bồ đề, nên đem pháp thí, tài thí làm lợi ích, theo lẽ thời phải như vậy.

Tại sao thế? Vì trong hàng Bồ Tát xuất sanh chư Phật Thánh chúng.

Nếu Bồ Tát chẳng phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thời Bồ Tát nầy chẳng thể học sáu Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng, chẳng thể được Vô Thượng Bồ đề.

Nếu chẳng thể được Vô Thượng Bồ đề, thời không có Thanh văn và Bích Chi Phật.

Nầy Kiều Thi Ca! Vì thế nên chư đại Bồ Tát học sáu Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng. Do học sáu Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng mà được Vô Thượng Bồ đề. Do được Vô Thượng Bồ đề nên dứt diệt ba ác đạo Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Thế gian bèn có những dòng hào tộc, bèn có các cõi trời từ Tứ Thiên Vương đến Phi Phi Tưởng Thiên, bèn có Đàn na Ba la mật, bèn có nội không đến vô pháp hữu pháp không, bèn có tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, bèn có Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Phật thừa đều xuất hiện thế gian”.

 

Lược giải:

(cho riêng Đoạn tám này)

 

1. Nếu có thiện nam, thiện nữ... trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp dùng hữu sở đắc làm phương tiện, tu hành lục Ba la mật, lại có thiện nam thiện nữ trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp đối với Bát nhã Ba la mật, dùng vô sở đắc làm phương tiện thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, lại dùng các thứ văn nghĩa khéo léo sâu sắc, vì người khác biện thuyết, chỉ bày, khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú, khiến họ dễ hiểu, thì phước đức có được hơn kẻ trước rất nhiều.

Hữu sở đắc là hành bố thí mà thấy có người cho - kẻ nhận - vật thí, tức là bố thí chấp tướng; hành tịnh giới mà chấp giữ giới hay hủy phạm và tự khen “Ta là kẻ trì giới hơn người” thì chẳng thể gọi là tịnh giới Ba la mật; hành an nhẫn mà chấp vào thân hay tâm có thể chịu đựng được những nỗi vinh nhục não hại hơn người, thì không thể gọi là an nhẫn Ba la mật; hành tinh tấn mà chấp tinh tấn hay giải đãi, thì chẳng thể gọi là tinh tấn Ba la mật; hành tịnh lự mà nghĩ: “Ta có khả năng tu thiền - tập định, kẻ khác không thể tập trung tư tưởng nói chi đến thiền định”, như thế là chấp vào tịnh lự, thì chẳng thể gọi là tu tịnh lự Ba la mật; hành Bát Nhã mà nghĩ: “Ta có khả năng tu hành trí tuệ, kẻ khác trí óc kém cỏi không thể” như thế là chấp vào cái danh Bát Nhã thì chẳng thể gọi là Bát nhã Ba la mật. Vì thiện nam, thiện nữ dùng hữu sở đắc làm phương tiện nên chẳng thể viên mãn sáu pháp Ba la mật. Đây gọi là hành Bát nhã Ba la mật tương tợ. Người sơ phát tâm Vô Thượng Bồ đề nghe người ấy nói pháp Bát nhã Ba la mật tương tợ, tâm mê lầm, liền mất Trung đạo.

Ngược lại, bố thí mà tam luân thể không (tam luân thanh tịnh) thì được coi là bố thí Ba la mật; trì giới mà không thấy mình là người thọ, không thấy giới để trì thì được coi là trì giới Ba la mật; an nhẫn mà không chấp có thân thọ nhục; tinh tấn chẳng thấy có người siêng năng hay giải đãi, thiền định mà chẳng thấy có người định, cảnh định, kết quả của định; hành Bát Nhã, chẳng thấy có người tu tuệ, cảnh tuệ, kết quả sự tu tuệ vì dùng vô sở đắc làm phương tiện, thì có thể viên mãn sáu pháp đáo bỉ ngạn. Cho nên, phải dùng tuệ vô sở đắc và các thứ văn nghĩa khéo léo vì người sơ phát tâm mà tuyên nói Bát nhã Ba la mật.

 

2. Nếu người tu hành cầu sắc, thọ, tưởng, hành, thức; cầu thập nhị xứ, thập bát giới và tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc bất lạc, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành các Ba la mật và tất cả thiện pháp thì được coi là tu hành tuong tự Ba la. Tương tự có nghĩa là bề ngoài tu hành giống như tu Bát nhã Ba la mật, nhưng thực chất không phải như vậy, vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện chấp tâm, thủ tướng.

Cũng vậy, vì người phát tâm Vô Thượng Bồ đề mà thiện nam thiện nữ tuyên thuyết lục Ba la mật và nói: “Ta sẽ dạy lục Ba la mật cho các ngươi. Nếu ai theo lời dạy của ta mà tu học thì mau nhập Chánh tánh ly sanh…(1)”. Ta dạy… “phải nghe theo…” và “quả quyết sẽ đạt được danh vị thế này hay thế nọ...”. Nếu thiện nam, thiện nữ ấy dạy người như vậy là dùng hữu tướng (ngã, nhơn, chúng sanh và mạng giả) làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện dạy người tu học lục Ba la mật và tất cả thiện pháp thì đó là tuyên nói Bát nhã Ba la mật tương tợ.

Thiện nam thiện nữ cả quyết nói với bậc chủng tánh Bồ Tát: “Nếu thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy Bát nhã Ba la mật thậm thâm thì quyết định sẽ đạt được vô lượng, vô số, vô biên công đức”(2). Thọ trì như vậy, học như vậy…“bảo đảm là được vô lượng vô biên công đức”. Nếu thiện nam thiện nữ ấy dạy người như vậy là dùng hữu tướng làm phương tiện, hữu sở đắc làm phương tiện, đó chính là tuyên nói Bát nhã Ba la mật tương tợ.

Tu Bát Nhã là không chấp tướng, là tu như không, chẳng thủ chẳng xả, không được không mất, “rốt ráo không thấy mảy may có pháp có nhập, có xuất, có sanh, có diệt, có đoạn, có thường, có một, có khác, có đến, có đi, để có thể nắm bắt được” và tâm niệm lấy vô sở đắc, vô thủ trước làm phương tiện thì mới được gọi là tu hành chân chánh Bát nhã Ba la mật.

Nói tóm lại, Bát nhã Ba la mật tương tợ và Bát nhã Ba la mật chân chánh khác nhau ở chỗ có sở đắc và vô sở đắc. Tu hành là không nắm bắt cất giữ thứ gì thì mới được xem là phước đức vô lậu, lại dùng phước đức này bình đẳng ban cho tất cả chúng sanh cùng nhau hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì công đức này mới được xem là vô thượng không gì bằng.

 

3. Như thế nào coi là tuyên thuyết Bát Nhã chân chánh?

Hơn nữa, khi tu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán tất cả các thiện pháp hoặc thường-hoặc vô thường, hoặc lạc-hoặc khổ, hoặc ngã-hoặc vô ngã, hoặc tịnh-hoặc bất tịnh... Vì sao? Vì các thiện pháp đều không có tự tánh. Nếu không có tự tánh tức là không. Bát nhã Ba la mật cũng tánh không. Nếu không có tự tánh thì tức là Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật này các thiện pháp còn chẳng thể nắm bắt được huống là có cái thường, cái vô thường kia! Nếu có khả năng tu như thế là tu Bát nhã Ba la mật. Nếu thiện nam thiện nữ tuyên thuyết được như thế thì đó là tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật một cách chân chánh(3).

Nếu tuyên thuyết các Ba la mật khác như tịnh lự, tinh tiến, an nhẫn… như thế thì cũng được coi tuyên thuyết các Ba la mật một cách thanh tịnh. Vì tự tánh của tất cả các pháp đều không, hoàn toàn vô sở hữu. Nếu vô sở hữu, tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối với Bát Nhã cho đến Bố thí Ba la mật này, rốt ráo không pháp nào mảy may có xuất-có nhập, có sanh-có diệt, có đoạn-có thường, có một-có khác, có đến-có đi để có thể nắm bắt được.

Thiện nam thiện nữ ấy tuyên thuyết như vậy là tuyên thuyết Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật một cách chân chánh. Vì vậy nên, các thiện nam thiện nữ đối với Bát nhã Ba la mật, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy; nên dùng các thứ văn nghĩa xảo diệu, vì người rộng nói, diễn đạt chỉ bày, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến họ dễ hiểu, thì phước đức đạt được vô lượng, vô biên.

Giáo pháp này không có gì khó chỉ cần nhớ là tu có sở đắc hay không có sở đắc là được. Khi thực hành tu Bát nhã Ba la mật là phải hồi hướng Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Một khi muốn có đắc tức còn nắm bắt là còn trở ngại, là còn phiền não. Vì vậy, người tu chân chánh là không mong cầu nắm bắt!

Thích nghĩa cho phần lược giải của Đoạn tám này:

(1). (2). và (3). Là nằm trong phẩm “So Lường Công Đức”, từ quyển 145 đến quyển 166, Hội thứ I, ĐBN.

 

Lưu ý:

1. Tụng tới đây là xong phẩm “So Lường Công Đức” của Kinh ĐBN. Như trên đã nói phẩm này kéo dài đến 66 quyển từ quyển 103 cho đến hết quyển 168, tổng cộng 622 trang. Không ai có thể cùng một lúc chiết giải một phẩm quá dài với nhiều giáo lý cũng như các tình tiết khác nhau như vậy. Nếu ôm đồm ghi chép trích dẫn và chiết giải nguyên văn một lúc 622 trang, có thể gây mệt mỏi cho người đọc tụng thọ trì. Nhưng nói chung, Kinh dùng cùng một công thức như nhau rất trùng tụng để diễn tả phẩm này, vì vậy nên dễ tóm lược mà không sợ lầm lẫn.

      Kinh MHBNBLMĐ cũng là đại phẩm, được Phật thuyết vào Hội thứ II, và theo các nhà khảo cứu Phật học thì Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa có trước Kinh Đại Bát Nhã. Kinh Đại Bát Nhã chỉ triển khai các Tiểu phẩm hay đại phẩm trước khi ĐBN ra đời. MHBNBLMĐ có tổng cộng tám phẩm là: “Bửu Tháp Đại Minh”, “Thuật Thành”, “Khuyến Trì”, “Khiển Trừ Ma Ngoại”, “Tôn Đạo”, “Xá Lợi”, “Pháp Thí”(phần trên), “Tương Tợ”(phần dưới) tương đương với một phẩm duy nhất là phẩm “So Lường Công Đức” của Kinh Đại Bát Nhã.

 

    Thay vì, Kinh ĐBN chia từng phẩm như Kinh MHBNBLMĐ mà diễn giảng, nhưng Kinh ĐBN lại gộp tất cả 8 phẩm của Kinh MHBNBLMĐ thành một phẩm duy nhất lấy tên là phẩm “So Lường Công Đức”. Để tránh sự khó khăn trong việc tóm lược và chiết giải, chúng tôi phân chia phẩm “So Lường Công Đức” làm 8 đoạn tương đương với tám phẩm của Kinh MHBNBLMĐ như quý vị vừa tụng qua.

 

2. Điểm thứ hai, cần lưu ý độc giả là chúng tôi có trích dẫn nhiều đoạn Kinh MHBNBLMĐ trong khi tóm lược hay chiết giải không những cho phẩm này mà còn cho toàn bộ Kinh ĐBN. Vì sao? Vì Kinh MHBNBLMĐ thuyết gọn, dễ nắm. Quý vị tụng kỹ sẽ thấy rõ lối trình bày của chúng tôi. Tuy nhiên, phải nói trình bày, lý giải cũng là kiến, có kiến là có chấp, khó tránh phiền não. Xin hãy tạm xem đây như là những phương tiện cần thiết hơn là những trích dẫn có tánh cách áp đặt.

 

***
Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com