Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Phẩm “Thắng Quân” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

08/08/202009:09(Xem: 8861)
08. Phẩm “Thắng Quân” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


Phẩm Thắng Quân_photo

 

 

PHẨM “THẮNG QUÂN”



Cuối quyển 408 đến phần đầu quyển 409, Hội thứ II.

(Tương đương với phẩm “Vô Trụ”, cuối quyển 36 và 37, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước





 


 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đối với Bồ Tát và Bát Nhã, con đều không biết, không đắc, thì làm sao bảo con đem pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát?

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp hoặc tăng, hoặc giảm, con không biết, không đắc, nếu đem các pháp dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát chắc con sẽ hối hận. Đối với các pháp hoặc tăng, hoặc giảm, con không biết, không đắc, làm sao có thể nói đây là Bồ Tát, đây là Bát nhã Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Danh Bồ Tát và danh Bát Nhã đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì hai nghĩa này vô sở hữu, nên hai danh này đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với sắc cho đến thức hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là sắc cho đến thức. Danh của tất cả sắc này đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của tất cả sắc đều vô sở hữu, nên danh của tất cả sắc đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Đối với mười hai xứ, mười tám giới hoặc tăng, hoặc giảm con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là mười hai xứ, mười tám giới. Danh của mười hai xứ, mười tám giới đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của mười hai xứ, mười tám giới đều vô sở hữu, nên mười hai xứ, mười tám giới đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Đối với vô minh cho đến lão tử hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là vô minh cho đến lão tử. Danh của vô minh cho đến lão tử đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của vô minh cho đến lão tử vô sở hữu, nên danh của vô minh cho đến lão tử đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với vô minh diệt cho đến lão tử diệt hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là vô minh diệt cho đến lão tử diệt. Danh của vô minh diệt cho đến lão tử diệt đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của vô minh diệt cho đến lão tử diệt vô sở hữu, nên danh của vô minh diệt cho đến lão tử diệt đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với tham, sân, si và các tùy miên trói buộc, các kiến thú hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là tham, sân, si v.v.... Tên của tham, sân, si, v.v... này đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của tham, sân, si v.v... này vô sở hữu, nên danh của tham, sân, si v.v... này đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là bố thí cho đến Bát Nhã. Danh của bố thí cho đến Bát Nhã đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của bố thí cho đến Bát Nhã vô sở hữu, nên danh của bố thí cho đến Bát Nhã đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với ngã cho đến cái biết, cái thấy hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là ngã cho đến cái biết, cái thấy. Danh của ngã cho đến cái biết, cái thấy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của ngã cho đến cái biết, cái thấy vô sở hữu, nên danh của ngã cho đến cái biết, cái thấy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với ba mươi bảy pháp trợ đạo, ba giải thoát môn, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng v.v... hoặc tăng, hoặc giảm con không biết, không đắc. Như vậy sao có thể nói đây là ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Danh của ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu, nên danh của ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với năm uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh ảo, như sóng nắng, như hình tượng, như huyễn, như hóa hoặc tăng, hoặc giảm, con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là năm uẩn như mộng cho đến như hóa. Danh của năm uẩn như mộng cho đến như hóa đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của năm uẩn như mộng cho đến như hóa vô sở hữu, nên danh của năm uẩn như mộng cho đến như hóa đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với viễn ly, tịch tịnh, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, dứt hết các hý luận, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ hoặc tăng, hoặc giảm, con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là viễn ly cho đến pháp trụ. Danh của viễn ly cho đến pháp trụ đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của viễn ly cho đến pháp trụ vô sở hữu, nên danh của viễn ly cho đến pháp trụ đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp hoặc thiện, hoặc chẳng thiện, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc tăng, hoặc giảm v.v... con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là các pháp thiện, chẳng thiện. Danh của các pháp thiện, chẳng thiện v.v... đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của các pháp thiện, chẳng thiện v.v... vô sở hữu, nên danh của các pháp thiện, chẳng thiện v.v... đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại và đối với các pháp chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại hoặc tăng, hoặc giảm, con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là các pháp quá khứ, đây là các pháp chẳng phải quá khứ v.v.... Danh của pháp quá khứ và tên của pháp chẳng phải quá khứ đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì nghĩa của pháp quá khứ và nghĩa của pháp chẳng phải quá khứ vô sở hữu, nên danh của pháp quá khứ và danh của pháp chẳng phải quá khứ đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

 

Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là pháp chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại?

Bạch Thế Tôn! Đó là pháp vô vi.

Bạch Thế Tôn! Pháp vô vi là pháp không sanh, không trụ, không diệt. Đối với tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Bồ Tát, Thanh văn v.v... trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương hoặc tăng, hoặc giảm, con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đây là Bồ Tát, đây là Thanh văn v.v... Các danh như vậy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì các nghĩa như vậy vô sở hữu, nên các danh như vậy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp đã nói như trên hoặc tăng, hoặc giảm, con đều không biết, không đắc. Như vậy, sao có thể nói đây là các Bồ Tát, đây là Bát Nhã. Đối với Bồ Tát và Bát Nhã con đều không biết, không đắc, thì làm sao làm bảo con đem pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát? Danh các Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì hai nghĩa này vô sở hữu nên danh hai pháp này đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Các pháp như vậy do nhân duyên hòa hợp, giả gọi là Bồ Tát, giả gọi là Bát Nhã. Hai giả danh này ở trong uẩn xứ giới không thể nói cho đến ở trong mười tám pháp Phật bất cộng không thể nói, ở trong năm uẩn như mộng không thể nói, cho đến ở trong năm uẩn như hóa không thể nói, ở trong viễn ly, tịch tịnh v.v... không thể nói, cho đến ở trong tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các Bồ Tát, Thanh văn v.v... trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương không thể nói. Vì sao? Vì các pháp nói trên tăng, giảm đều không thể biết, không thể đắc.

Bạch Thế Tôn! Năm uẩn v.v... nói trên không chỗ nào có thể nói, danh các Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật cũng không chỗ nào có thể nói; danh như mộng thảy như vậy không chỗ nào có thể nói; danh như hư không không chỗ nào có thể nói; danh như địa, thủy, hỏa, phong không chỗ nào có thể nói; danh như giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến không chỗ nào có thể nói; danh như Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Như Lai và các pháp kia không chỗ nào có thể nói; danh thiện, chẳng thiện, thường, vô thường, lạc, khổ, ngã, vô ngã, viễn ly, không viễn ly, tịch tịnh, không tịch tịnh v.v... hoặc có hoặc không đều không chỗ nào có thể nói. Danh Bồ Tát và danh Bát nhã Ba la mật cũng không chỗ nào có thể nói. Vì sao? Vì các danh như vậy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ. Vì sao? Vì các nghĩa như vậy vô sở hữu nên các danh như vậy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải không trụ.

Bạch Thế Tôn! Do nương vào nghĩa này nên nói đối với pháp hoặc tăng, hoặc giảm, con đều không biết, không đắc, như vậy sao có thể nói đây là Bồ Tát, đây là Bát Nhã!

Bạch Thế Tôn! Đối với hai điều này hoặc nghĩa, hoặc danh, con không biết, không đắc, thì làm sao bảo con đem pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát? Do nhân duyên này, nếu đem pháp đó dạy bảo, truyền trao cho các Bồ Tát, con nghĩ sẽ hối hận.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khi nghe rồi đem tướng trạng như vậy giảng nói Bát nhã Ba la mật mà tâm không chìm đắm, cũng không lo lắng, ăn năn, tâm không kinh, không sợ thì nên biết Bồ Tát này quyết chắc đã an trụ địa vị Bất thối chuyển; đem vô sở trụ làm phương tiện mà trụ.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không nên trụ vào sắc cho đến thức. Không nên trụ vào mười hai xứ, mươi tám giới. Không nên trụ vào vô minh cho đến lão tử. Vì sao? Vì sắc, tánh sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức, tánh thọ, tưởng, hành, thức là không. Sắc không này chẳng phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ sắc cho đến thức. Cho đến lão tử, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì cớ sao? Vì bốn niệm trụ, tánh bốn niệm trụ không. Bốn niệm trụ này chẳng phải bốn niệm trụ không, bốn niệm trụ không này chẳng phải bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ chẳng lìa không, không chẳng lìa bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ tức là không, không tức là bốn niệm trụ. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ bốn niệm trụ. Cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Vì cớ sao? Vì Bố thí, tánh bố thí không. Bố thí này chẳng phải bố thí không, bố thí không này chẳng phải bố thí. Bố thí chẳng lìa không, không chẳng lìa bố thí. Bố thí tức là không, không tức là bố thí. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng nên trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ các văn tự, chẳng nên trụ các văn tự sở dẫn, hoặc một lời sở dẫn, hoặc hai lời sở dẫn, hoặc nhiều lời sở dẫn, chẳng nên trụ thần thông thù thắng. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Các văn tự, tánh các văn tự không. Các văn tự này chẳng phải các văn tự không, các văn tự không này chẳng phải các văn tự. Các văn tự chẳng lìa không, không chẳng lìa các văn tự. Các văn tự tức là không, không tức là các văn tự. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ các văn tự. Các văn tự sở dẫn thần thông thù thắng, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ các pháp hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc không hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì sao? Vì các pháp thường vô thường, tánh các pháp thường vô thường không. Các pháp thường vô thường này chẳng phải các pháp thường vô thường không, các pháp thường vô thường không này chẳng phải các pháp thường vô thường. Các pháp thường vô thường chẳng lìa không, không chẳng lìa các pháp thường vô thường. Các pháp thường vô thường tức là không, không tức là các pháp thường vô thường. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ các pháp hoặc thường hoặc vô thường. Cho đến các pháp xa lìa chẳng xa lìa, viễn ly hay chẳng viễn ly nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không nên trụ vào các pháp như, pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, thật tế. Vì sao? Vì các pháp như, tánh như là không. Như này chẳng phải không, không này chẳng phải như. Như chẳng lìa không, không chẳng lìa như. Như tức là không, không tức là như. Do nhân duyên này, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật không nên trụ vào các pháp như; cho đến thật tế, nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không nên trụ vào tất cả các Đà la ni môn, Tam ma địa môn? Vì sao? Vì tất cả Đà la ni môn, tánh của nó là không. Đà la ni môn chẳng phải không, không này chẳng phải Đà la ni môn. Đà la ni môn chẳng lìa không, không chẳng lìa Đà la ni môn. Đà la ni môn tức là không, không tức là Đà la ni môn. Do nhân duyên này các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật không nên trụ tất cả Đà la ni; Tam ma địa môn nên biết cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành Bát Nhã sẽ bị trói buộc, quấy nhiễu, bởi chấp có ngã, ngã sở, tâm liền trụ vào sắc, trụ vào thọ, tưởng, hành, thức. Do trụ vào các pháp này, nên đối với sắc phát sanh tạo tác, đối với thọ, tưởng, hành, thức phát sanh hành động. Do phát sanh tạo tác, hành động như thế, nên không thể lãnh thọ Bát Nhã, không thể tu học Bát Nhã, không thể viên mãn Bát Nhã, không thể thành tựu Nhất thiết trí trí.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, thì khi tu hành Bát Nhã, sẽ bị trói buộc, quấy nhiễu, bởi chấp có ngã, ngã sở, nên tâm liền trụ tất cả Đà la ni môn, tất cả Tam ma địa môn. Do trụ vào các pháp này nên đối với tất cả Đà la ni môn phát sanh tạo tác, đối với tất cả Tam ma địa môn phát sanh hành động. Do phát sanh tạo tác, hành động nên không thể lãnh thọ Bát Nhã, không thể tu học Bát Nhã, không thể viên mãn Bát Nhã, không thể thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì sắc không đáng để lãnh thọ; thọ, tưởng, hành, thức không đáng để lãnh thọ. Sắc không đáng để lãnh thọ nên chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không đáng để lãnh thọ, nên chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức bản tánh đều không. Cho đến tất cả Đà la ni môn không đáng để lãnh thọ. Tất cả Tam ma địa môn không đáng để lãnh thọ. Vì tất cả Đà la ni môn không đáng để lãnh thọ nên chẳng phải tất cả Đà la ni môn. Vì tất cả Tam ma địa môn không đáng để lãnh thọ, nên chẳng phải tất cả Tam ma địa môn. Vì sao? Vì tất cả Đà la ni môn và Tam ma địa môn bản tánh đều không.   

Bạch Thế Tôn! Việc lãnh thọ tu học, viên mãn Bát nhã Ba la mật ấy cũng không đáng để lãnh thọ. Vì Bát nhã Ba la mật không đáng để lãnh thọ, nên chẳng phải Bát nhã ba la mật. Vì sao? Vì bản tánh không. Như vậy, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nên dùng bản tánh không mà quán tất cả pháp. Khi quán như vậy, tâm không có chỗ tác động. Đây gọi là Bồ Tát không lãnh thọ Tam ma địa. Tam ma địa này vi diệu, thù thắng rộng lớn vô lượng, có thể tập hợp vô biên vô ngại tác dụng, không cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác.

Việc thành tựu Nhất thiết trí trí đó cũng không đáng để lãnh thọ. Như vậy, vì Nhất thiết trí trí không đáng để lãnh thọ, nên chẳng phải Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bản tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không bất khả đắc, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Nhất thiết trí trí này chẳng chấp tướng tu đắc. Vì sao? Vì chấp thủ tướng đều là phiền não.

Những tướng đó là gì? Đó là tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức cho đến tướng tất cả Đà la ni môn, tướng tất cả Tam ma địa môn. Đối với các tướng này mà chấp trước thì gọi là phiền não. Vì thế, không thể chấp tướng mà tu đắc Nhất thiết trí trí. Nếu người chấp tướng tu đắc Nhất thiết trí trí thì phạm chí Thắng Quân, đối với Nhất thiết trí trí không cần tin hiểu. Những gì gọi là tướng tin hiểu đó? Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu sanh lòng tin thanh tịnh. Do lực thắng giải, suy lường, quán sát Nhất thiết trí trí. Không dùng tướng làm phương tiện, cũng không dùng phi tướng làm phương tiện. Vì tướng và phi tướng đều không thể nắm giữ. Phạm chí Thắng Quân này tuy do sức tín giải qui y Phật Pháp gọi là tùy tín hành, nhưng có thể nhờ bản tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Đã ngộ nhập rồi nên không chấp giữ tướng sắc, không chấp giữ tướng thọ, tưởng, hành, thức; cho đến không chấp giữ tướng tất cả Đà la ni môn, tướng tất cả Tam ma địa môn. Vì sao? Vì nhất thiết pháp tự tướng đều là không, năng thủ, sở thủ đều bất khả đắc. Vì sao? Vì phạm chí không dùng hiện quán nội đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không dùng hiện quán ngoại đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không dùng hiện quán nội ngoại đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không dùng hiện quán vô trí đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Không dùng hiện quán đắc những pháp khác mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng không dùng hiện quán bất đắc mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì phạm chí Thắng Quân này không thấy sở quán Nhất thiết trí trí; không thấy Bát Nhã là năng quán, không thấy người quán, không thấy chỗ y cứ để quán và không thấy lúc khởi quán.

Phạm chí Thắng Quân này chẳng ở trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng ở ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng ở trong ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán Nhất thiết trí trí, cho đến chẳng phải ở trong tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng phải ở ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng phải ở trong ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì hoặc là nội, hoặc là ngoại, hoặc nội ngoại, hoặc lìa nội ngoại, tất cả đều không, bất khả đắc. Phạm chí Thắng Quân này do lìa các tướng môn như vậy, nên đối với Nhất thiết trí trí phát sanh lòng tin hiểu thâm sâu. Do tin hiểu như vậy nên đối với tất cả pháp đều không chấp trước. Vì thật tướng các pháp bất khả đắc. Như vậy, phạm chí nhờ môn lìa tướng, đối với Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối với tất cả pháp đều không chấp tướng, cũng không tư duy các pháp vô tướng, vì pháp: Tướng, vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy, phạm chí do lực thắng giải đối với tất cả pháp không lấy, không bỏ, vì trong pháp thật tướng không có lấy bỏ. Bấy giờ, phạm chí đó với sự tự tin hiểu của mình cho đến Niết bàn cũng không chấp trước. Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không, không thể nắm giữ.

Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát chứng đắc Bát Nhã cũng lại như vậy. Đối với tất cả pháp không có chấp trước nên có thể từ bờ này đến bờ kia. Nếu đối với các pháp có chấp trước dù nhỏ nhiệm bằng mảy lông thì chẳng thể đến được bờ kia. Vì thế, Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã không nắm giữ tất cả sắc, không nắm giữ tất cả thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả pháp không thể nắm giữ, cho đến không chấp tất cả môn Đà la ni, không nắm giữ tất cả môn Tam ma địa. Vì sao? Vì tất cả pháp không thể nắm giữ. Bồ Tát này tuy đối với tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn, hoặc chung, hoặc riêng đều không nắm giữ. Nhưng vì bản nguyện thực hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chưa viên mãn. Và vì bản nguyện chứng đắc Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chưa thành tựu, nên trong thời gian đó hoàn toàn không thể nắm giữ tất cả tướng để vào Niết bàn.

Bồ Tát này tuy có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo và có thể thành tựu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng không thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo và không thấy Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì bốn niệm trụ này tức chẳng phải bốn niệm trụ, cho đến tám chi Thánh đạo tức chẳng phải tám chi Thánh đạo. Và Phật mười lực tức chẳng phải Phật mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng tức chẳng phải mười tám pháp Phật bất cộng. Vì tất cả pháp chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã tuy không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, cho đến không chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng mà có thể thành tựu tất cả sự nghiệp.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã nên quán sát kỹ như vầy: Những gì là Bát nhã Ba la mật? Vì sao gọi là Bát nhã Ba la mật? Bát nhã Ba la mật của ai? Bát nhã Ba la mật như vậy dùng để làm gì?

Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật quán sát kỹ pháp nào vô sở hữu bất khả đắc, pháp vô sở hữu bất khả đắc đó chính là Bát nhã Ba la mật. Ở trong vô sở hữu bất khả đắc đó, còn chỗ nào để gạn hỏi!

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Trong đây, pháp nào gọi là vô sở hữu bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp:

- Pháp Bát Nhã cho đến pháp bố thí Ba la mật là vô sở hữu bất khả đắc, bởi nội không cho đến cho đến vô tánh tự tánh không vậy.

Này Xá lợi Tử! Pháp sắc là vô sở hữu bất khả đắc; pháp thọ, tưởng, hành, thức là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội là vô sở hữu bất khả đắc, cho đến pháp không không tánh tự tánh là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp bốn niệm trụ cho đến pháp tám chi Thánh đạo là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Phật mười lực cho đến pháp mười tám pháp Phật bất cộng là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp sáu phép thần thông là vô sở hữu bất khả đắc, pháp chơn như cho đến pháp thật tế là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Dự lưu là vô sở hữu bất khả đắc; pháp Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Bồ Tát là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp chư Phật là vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Nhất thiết trí trí là vô sở hữu bất khả đắc, bởi nội không cho đến cho đến vô tánh tự tánh không vậy.

Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã có thể quán sát kỹ các pháp đều vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, thì tâm không chìm đắm, cũng không lo lắng, ăn năn, không kinh, không hãi, không sợ. Nên biết Bồ Tát này có thể đối với Bát nhã Ba la mật thường chẳng xa lìa.

Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Do đâu mà biết các Bồ Tát này thực hành Bát Nhã, có thể đối với Bát nhã Ba la mật thường chẳng xa lìa?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật, như thật biết sắc lìa tự tánh sắc; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức; như thật biết bố thí lìa tự tánh bố thí, cho đến Bát nhã Ba la mật, lìa tự tánh Bát nhã Ba la mật; như thật biết mười tám pháp Phật bất cộng, lìa tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng; như thật biết thật tế, lìa tự tánh thật tế.

Này Xá lợi Tử! Do đó nên biết các Bồ Tát này khi thực hành Bát nhã Ba la mật có thể đối với Bát nhã Ba la mật thường không xa lìa.

 

Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Những gì là tự tánh của sắc? Những gì là tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức? Cho đến những gì là tự tánh thật tế?

Thiện Hiện đáp:

- Vô tánh là tự tánh của sắc, vô tánh là tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức, cho đến vô tánh là tự tánh của thật tế. Do đó nên biết sắc lìa tự tánh sắc; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức, cho đến thật tế lìa tự tánh thật tế. Sắc cũng lìa tướng sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lìa tướng thọ, tưởng, hành, thức; cho đến thật tế cũng lìa tướng thật tế. Này Xá lợi Tử! Tự tánh cũng lìa tự tánh; tướng cũng lìa tướng. Tự tánh cũng lìa tướng; tướng cũng lìa tự tánh.

Bấy giờ, Xá lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Bồ Tát nào học điều này có thể mau thành tựu Nhất thiết trí trí chăng?

Thiện Hiện bảo:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Bồ Tát nào học điều này có thể mau thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bồ Tát này biết tất cả pháp không sanh thành vậy.

Xá lợi Tử lại hỏi:

- Do đâu các pháp là không sanh, không thành?

Thiện Hiện đáp:

- Vì sắc là không nên sanh hay thành đều bất khả đắc; vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên sanh hay thành đều bất khả đắc. Như vậy, cho đến vì thật tế là không nên sanh hay thành đều bất khả đắc.

Này Xá lợi Tử! Bồ Tát có thể đối với Bát nhã Ba la mật học như vậy thì gần với Nhất thiết trí trí. Học như vậy, được thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh, tướng thanh tịnh. Như vậy, đắc được bốn pháp thân, ngữ, ý, tướng thanh tịnh. Như vậy, không sanh tâm tham, sân, si, mạn, dối gạt, xan tham, kiến chấp tương ưng với tà kiến. Bồ Tát này do không sanh tâm tham, sân, si v.v... nên rốt ráo không đọa vào thai người nữ, thường được hóa sanh, xa lìa cảnh giới hiểm ác; trừ khi vì nhân duyên làm lợi lạc cho hữu tình. Bồ Tát này từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã mong cầu, thường không xa Phật.

Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát muốn được công đức thắng lợi như vậy, phải học Bát Nhã, không được bê trễ!

 

Thích nghĩa:

Giáo thuyết Bát Nhã của năm Hội đầu đại cương do Phật thuyết đều giống nhau: Hiểu một Hội là có thể hiểu năm Hội. Các thích nghĩa của các Hội tiếp theo Hội thứ I (từ Hội thứ II cho đến hết Hội thứ V) đều giống nhau, nên không cần lặp lại mất thời giờ chỉ trừ một vài trường hợp đặc biệt cần cập nhật. Thích nghĩa của phẩm nầy giống như thích nghĩa ở phẩm “Vô Trụ”, cuối quyển 36 cho đến quyển 37, Hội thứ I, ĐBN. Xin Quý vị xem lại thích nghĩa ở Hội thứ I, ĐBN.

 

(1). Phạm chí(Phạm: Bràhmaịa) có 3 nghĩa:

1- Phạm Chí. Hán âm: Bà la môn, Phạm sĩ. Hán dịch: Tịnh duệ, Tịnh hạnh. Cũng gọi Tịnh hạnh giả, Tịnh hạnh phạm chí. Chỉ cho người Bà la môn, sống thanh tịnh, cầu được sinh về cõi Phạm thiên. Theo Huyền ứng âm nghĩa quyển 18 thì Bà la môn lẽ ra phải đọc là Bà la hạ ma noa, chỉ cho người tu tập theo pháp của Phạm thiên. Bà la môn tự nhận mình sinh ra từ miệng Phạm thiên, là dòng họ cao quí nhất trong 4 dòng họ, cho nên đặc biệt lấy tên là Phạm. Theo Du già luận kí quyển 19 phần đầu thì Phạm là tiếng Ấn độ, Hán dịch là Tịch tĩnh, Niết bàn; Chí là tiếng Trung quốc, quyết chí cầu Phạm, cho nên ghép chung 2 chữ lại thành là Phạm chí (nửa Ấn nửa Tàu). Các Phạm chí thấy ghi rải rác trong Kinh điển như Phạm chí Trường trảo, Phạm chí Loa kế... đều là Bà la môn, sau trở thành đệ tử nổi tiếng của đức Phật. Ngoài ra, con gái của Phạm chí, hoặc cô gái tu theo đạo Phạm, gọi là Phạm nữ. [X. Kinh Mã ấp trong Trung a hàm Q.48; Kinh Tăng nhất a hàm Q.9; Kinh Pháp cú Q.hạ; Đại nhật Kinh sớ Q.4]. (xt. Bà La Môn).

2- Phạm Chí: Từ gọi chung tất cả những người xuất gia của ngoại đạo Ấn độ. Luận Đại Trí Độ quyển 56 (Đại 25, 461 trung) nói: Phạm chí chỉ cho tất cả những người xuất gia của ngoại đạo. Hoặc người chỉ theo đạo Phạm mà không xuất gia, cũng gọi là Phạm chí.

Phạm Chí: Đối lại với Ni kiền mà gọi Bà la môn tại gia là Phạm chí. Theo Pháp hoa văn cú kí quyển 9 thượng, người tại gia thờ Phạm thì gọi là Phạm chí, còn ngoại đạo xuất gia thì gọi chung là Ni kiền. Nhưng Pháp hoa Kinh yếu giải quyển 5 thì ngược lại cho rằng ngoại đạo tại gia gọi là Ni kiền, còn ngoại đạo xuất gia thì gọi là Phạm chí. (Phật Quang tự điển)

 

Sơ giải:

 

Dẫn ý:

Phẩm này thuyết về “vô trụ” và lòng tin thanh tịnh, lìa tướng của Phạm Chí. Mở đầu phẩm này giải thích được “Tâm Kinh” khi nói về Sắc, Tâm và Tánh không Bát Nhã. Khi Tâm không thì Sắc chẳng khác Tâm, Tâm chẳng khác Sắc, Sắc tức là không, không tức là Sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Hiểu đoạn đầu của phẩm này thì hiểu được “Tâm Kinh”. Vì sao? Vì thấy Sắc mê Sắc, liền trụ Sắc, bị Sắc che, nên gặp trở ngại. Vì vậy, Kinh bảo:

 “… Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không nên trụ vào sắc cho đến thức. Không nên trụ vào mười hai xứ, mươi tám giới. Không nên trụ vào vô minh cho đến lão tử. Vì sao? Vì sắc, tánh sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức, tánh thọ, tưởng, hành, thức là không. Sắc không này chẳng phải sắc. Sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Bởi nhân duyên đây, các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ sắc cho đến thức. Cho đến lão tử, nên biết cũng như vậy”.

Đoạn Kinh này khác với “Tâm Kinh’ ở chỗ “Tâm Kinh” do tâm không mà không bị trần cảnh làm quái ngại, còn đoạn kinh này nói vô sở đắc, vô trụ thì tâm không bị chướng ngại. Cách nói có khác nhưng “giáo nghĩa” không khác. Tâm Kinh lấy Tánh không làm cốt tủy, trong khi vô sở hữu, bất khả đắc cũng được xem là “từ khác của Không”. Nên nói giáo nghĩa không khác.

Phần chính còn lại của phẩm này đề cập hai vấn đề: 1. Vô trụ và 2. Phạm Chí tu Nhất thiết trí trí với pháp môn ly tướng:

 

1. Vô trụ:

 

“Cả đến Nhất thiết tướng trí đã hoàn thành đó, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, Nhất thiết tướng trí đã chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Nhất thiết tướng trí này chẳng phải thủ đắc tướng mà tu đắc. Vì sao? Vì có thủ đắc là có phiền não!”

Những gì là tướng? Đó là tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức cho đến tướng của tất cả pháp Phật. Nếu chấp đắm các tướng này, liền bị nó trói, không còn tự tại nữa, nên gọi là phiền não. Vì vậy, không thể lấy tướng mà tu đắc Nhất thiết trí trí, chỉ do tín giải mà thành tựu Nhất thiết trí trí.

Những gì gọi là tín giải? Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật thâm sanh tịnh tín. Do sức hiểu biết thù thắng mà tư duy, quán sát Nhất thiết trí trí, không dùng tướng làm phương tiện, cũng chẳng phải dùng phi tướng làm phương tiện, vì tướng và phi tướng đều không thể thủ đắc. Người tu hành dõng mãnh có khả năng dùng bản tánh không mà ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Đã ngộ nhập rồi, chẳng thủ đắc tướng sắc, chẳng thủ đắc tướng thọ, tưởng, hành, thức cho đến chẳng thủ đắc tướng tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì tự tướng của tất cả pháp đều không, nên năng thủ, sở thủ đều chẳng thể nắm bắt được.

Như vậy, người tu hành chẳng dùng các hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Người tu hành dõng mãnh ấy, chẳng thấy sở quán là Nhất thiết trí trí, chẳng thấy năng quán là Bát Nhã, chẳng thấy người quán và chỗ dựa vào để quán. Người tu hành dõng mãnh ấy, chẳng phải đối với nội sắc, chẳng phải đối với nội thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối với ngoại sắc, chẳng phải đối với ngoại thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối với nội ngoại sắc, chẳng phải đối với nội ngoại thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí, cũng chẳng phải lìa sắc, cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí, cho đến chẳng phải đối với tất cả pháp Phật mà quán Nhất thiết trí trí.

Người tu hành dõng mãnh ấy, dùng các pháp môn lìa tướng như vậy v.v... đối với Nhất thiết trí trí phát sanh tín giải sâu sắc. Vì do tín giải này, nên đối với tất cả pháp, chẳng thủ đắc, đắm trước, vì thật tướng của các pháp chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, người tu hành dùng pháp môn lìa tướng đối với Nhất thiết trí trí, đắc tín giải rồi, đối với tất cả pháp đều không thủ đắc tướng, cũng chẳng tư duy về cái vô tướng của các pháp, vì tướng, phi tướng của các pháp đều chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, kẻ tu do sức thắng giải nên đối với tất cả pháp chẳng thủ, chẳng xả, vì trong thật tướng của tất cả pháp chẳng thủ, chẳng xả. Khi ấy, kẻ tu kia, đối với sự tín giải của mình, cho đến đối với Niết bàn, cũng chẳng thủ đắc đắm trước. Vì sao? Vì bản tánh của tất cả pháp đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

 

Quán tất cả pháp đều không, bất khả đắc nên không trụ bất cứ pháp nào dù đó là pháp gọi là thắng diệu nhất, cũng không thủ, không trụ. Phạm chí Thắng Quân nhờ xa lìa tất cả tướng mà phát sanh tín giải sâu sắc nên có thể tu hành Bát nhã Ba la mật mà ngộ nhập Nhất thiết trí trí.

Tất cả luận giải này là sự phối hợp của Tánh không với các pháp vô sở hữu, bất khả đắc và vô trụ (không chấp, không thủ, ly tướng).

 

2. Phạm Chí Thắng quân và môn ly tướng:

 

Kinh nói rằng: “Nếu lấy tướng tu đắc Nhất thiết trí trí ấy, Phạm chí Thắng Quân đối Nhất thiết trí trí chẳng nên tin hiểu. Thắng Quân Phạm chí này do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, mà năng đem chút ít trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ vào Nhất thiết trí trí. Đã ngộ vào rồi, chẳng thủ tướng sắc, cũng chẳng thủ tướng thọ tưởng hành thức. Chẳng lấy vui mừng quán thấy trí đây, chẳng lấy được nghe quán thấy trí đây. Chẳng lấy nội sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại sắc quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại sắc quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa sắc quán thấy trí đây. Chẳng lấy nội thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, chẳng lấy nội ngoại thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây, cũng chẳng lìa thọ tưởng hành thức quán thấy trí đây.

Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy gẫm các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu cao, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, không chứng, không đắc. Khi Phạm chí kia đối sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát bằng Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng nhiếp thọ sắc, cũng chẳng nhiếp thọ: Thọ, tưởng, hành, thức. Dù đối các pháp không sở nhiếp thọ, nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật bất cộng thảy, quyết chẳng giữa đường vào bát Niết bàn. Phải biết đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật sâu xa dù không lấy đắm mà năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích an vui tất cả hữu tình”.

 

Phạm Chí Thắng quân do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi tùy tín hành, mà năng đem chút trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Một khi đã ngộ vào, không thủ tướng các uẩn, dùng các môn ly tướng đối với các pháp đều không lấy đắm, cũng chẳng tư duy về pháp vô tướng. Đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, không chứng không đắc cho đến Niết Bàn cũng chẳng chấp đắm. Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không, không thể nắm giữ.

Các Bồ Tát chứng đắc Bát Nhã cũng lại như vậy. Đối với tất cả pháp không có chấp đắm, chẳng nhiếp thọ các uẩn, tu tập các pháp Phật cho được viên mãn, quyết giữa đường không nhập Niết bàn, thì phải biết các vị tu hành Bát Nhã như thế năng thành xong Nhất thiết trí trí, lợi ích yên vui tất cả hữu tình.

Bởi vì, một khi chấp thủ tướng tức theo tướng mà hành. Theo tướng hành thì không tránh khỏi chướng ngại, nên kinh bảo “thủ đắc tướng đều là phiền não!”

 

Đây là một phẩm rất khó tu. Đại Trí Độ Luận phẩm thứ chín, “Tập Tán”, tập 3, quyển 42, nói rằng:

 “Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật phải chẳng thủ, mà cũng chẳng xả mới vào được Bát nhã Ba la mật, mới được đầy đủ Bát nhã Ba la mật.

Vì sao? Vì tướng thế gian và tướng Niết Bàn là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Thế gian và Niết Bàn chỉ là một tướng (nhất tướng), là chẳng có tướng (vô tướng).

Cứ như vậy mà tu hành, thì sẽ diệt được hết thảy các chấp tướng. Thế nhưng, nếu chưa có được đầy đủ công đức thì chưa nên diệt sạch các chấp tướng. Vì sao? Vì còn phải cần dùng đến các pháp tướng để hành đạo; còn phải lấy các pháp tướng để làm phương tiện hành đại từ đại bi.

Bồ Tát cầu Phật đạo ở trong các pháp tướng mà vẫn biết rõ các pháp tướng đều là vô tướng. Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng thấy một pháp nào có định tướng cả, chẳng thấy có tướng xấu, có tướng tốt, dẫn đến chẳng thấy có tướng thủ, có tướng xả.

Bởi nhân duyên vậy, nên trong kinh nói: Pháp chẳng phải là pháp (phi pháp), mà cũng chẳng phải chẳng phải pháp (phi phi pháp)”.

 

Kinh đã khó hiểu mà Luận cũng không dễ gì. Vậy, cứ tu ly tướng như Phạm Chí Thắng quân: Do sức tin hiểu quay về Phật pháp gọi là tùy tín hành, năng đem chút trí quán tất cả pháp tánh không, ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Một khi đã ngộ vào, không thủ tướng các uẩn, đối với các pháp đều không lấy đắm, cũng chẳng tư duy về pháp vô tướng. Đối với tất cả pháp chẳng thủ chẳng xả, không chứng không đắc cho đến Niết Bàn cũng chẳng chấp. Như vậy, mới hy vọng ly tướng. Tu Bát Nhã là phải lìa tướng, lìa tướng mới thấy Như Lai ./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com