Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Phẩm "Học Quán" (Tống Luận Đại Bát Nhã, Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên)

29/04/202012:14(Xem: 9601)
02. Phẩm "Học Quán" (Tống Luận Đại Bát Nhã, Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


 Duc The Ton 9

PHẨM "HỌC QUÁN"

Quyển 03 cho đến đầu quyển 04, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phần sau “Phẩm Tự” quyển thứ 01, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên

 



 

 

 

 

 

Tóm lược:

 

1.(Học Bát Nhã)(1)

 

Đức Như Lai biết hàng đại Bồ Tát(2) cùng chư Nhơn Thiên ở hằng sa thế giới đều vân tập (tụ hợp), liền bảo Cụ thọ Xá Lợi Tử(3): “Nếu đại Bồ Tát, đối với tất cả pháp, muốn giác ngộ cùng tột tất cả tướng, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nghe Phật nói rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vui mừng đi đến trước Phật, đầu lạy chân Phật, phủ kín vai bên trái, gối phải quỳ xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, đối với tất cả pháp, muốn giác ngộ cùng tột tất cả tướng, phải học Bát nhã Ba la mật như thế nào?

Phật bảo Cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát nên lấy vô trụ làm phương tiện, để an trụ Bát nhã Ba la mật; vì sở trụ, năng trụ đều không thể nắm bắt được(4).

Các đại Bồ Tát nên lấy vô xả làm phương tiện để hoàn thành Bố thí Ba la mật, vì người thí, kẻ nhận và vật thí, đều không thể nắm bắt được; nên lấy vô hộ làm phương tiện để hoàn thành tịnh giới, vì tướng phạm, không phạm đều không thể nắm bắt được; nên lấy vô thủ làm phương tiện để hoàn thành an nhẫn vì tướng động, không động đều không thể nắm bắt được; nên lấy vô cần làm phương tiện để hoàn thành tinh tấn, vì thân tâm siêng, lười đều không thể nắm bắt được; nên lấy vô tư làm phương tiện, để hoàn thành tịnh lự, vì có thiền vị, không có thiền vị đều không thể nắm bắt được; nên lấy vô trước làm phương tiện để hoàn thành Bát Nhã, vì tánh, tướng của các pháp đều không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, vì tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc và 37 pháp trợ đạo đều không thể nắm bắt được. Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, vì tất cả pháp này không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành mười tùy niệm(5): Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiên, thở vào ra tùy niệm, nhàm chán tùy niệm, chết tùy niệm và thân tùy niệm; vì các tùy niệm này, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành mười phép quán tưởng(6) đó là: Quán tưởng vô thường, quán tưởng khổ, quán tưởng vô ngã, quán tưởng bất tịnh, quán tưởng nhàm ăn, quán tưởng tất cả thế gian không có gì ưa thích, quán tưởng chết, quán tưởng đoạn, quán tưởng xa lìa, quán tưởng diệt; vì các quán tưởng này, không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, để hoàn thành mười một trí, đó là trí biết khổ, trí biết tập, trí biết diệt, trí biết đạo, trí dứt phiền não, trí chứng vô sanh, trí biết pháp, trí phân loại pháp, trí thế gian, trí biết tâm kẻ khác, trí biết đúng lời Phật dạy; vì các trí ấy không thể nắm bắt được.

Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên hoàn thành mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng vô biên pháp Phật khác; vì các pháp ấy, không thể nắm bắt được.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát muốn mau chứng Nhất thiết trí trí, muốn mau viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu Bồ Tát muốn mau viên mãn nhất thiết hữu tình tâm hành tướng trí, nhất thiết tướng vi diệu trí, nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn bứng gốc phiền não tập khí, muốn vượt khỏi bậc Thanh văn và Độc giác, muốn an trú ở bậc bất thối chuyển, muốn chứng sáu phép thần thông nhanh chóng, muốn biết sự sai khác về tâm hành và chỗ đến của tất cả hữu tình, muốn chứng tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, muốn khiến cho việc thực hành sáu pháp Ba la mật: Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ, lìa các chướng ngại, mau được thành tựu, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn đời đời thường gặp chư Phật, dung trồng cội phúc, luôn được nghe Chánh pháp, được giác ngộ như Phật; muốn được đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, và tám mươi vẻ đẹp, thân Phật trang nghiêm; muốn đời đời đầy đủ đại oai đức, xua đuổi các ma oán, điều phục các ngoại đạo, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn dùng các sức mạnh của căn lành thù thắng, tùy ý thường đem một món ăn, một đóa hoa, một nén hương, một cái phan, một cái lọng, một cái trướng, một ngọn đèn, một chiếc áo, một bản nhạc v.v…, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đệ tử trong vô số thế giới ở mười phương, khiến cho các căn lành mau được viên mãn; muốn thỏa mãn tất cả nhu cầu của hữu tình như ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc men, các món hoa hương, đèn sáng, xe cộ, nhà cửa, của cải, lúa gạo, ngọc quý, kỹ nhạc; muốn khéo an lập tất cả hữu tình trong khắp cõi hư không, cõi pháp, cõi đời, khiến họ đều an trú sáu pháp Ba la mật, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu Bồ Tát muốn thông đạt tất cả các pháp mầu Phật đạo, thông đạt tất cả các pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh, như bóng sáng, như quáng nắng, như hoa đốm trên không, như trò ảo thuật, như ảo thành chỉ do tâm biến hiện, tánh tướng đều không, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn biết hư không đại địa, các núi, biển lớn, các sông, ao, hồ, khe, suối, vũng nước, đất, nước, gió, lửa, và các thứ nhỏ nhiệm nhất, trong Tam thiên đại thiên thế giới; muốn chẻ một sợi lông làm trăm phần, rồi lấy một phần của sợi lông ấy, đưa hết nước trong biển lớn, các sông, ao, hồ, khe suối, trong Tam thiên đại thiên thế giới, trút vào vô biên thế giới ở phương khác, mà không làm tổn hại đến các sinh vật sống dưới nước, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát thấy có hỏa hoạn đốt cháy khắp trời đất, muốn một hơi thổi, khiến cho tắt ngay, hoặc muốn dùng một ngón tay ngăn chận phong luân bùng phát, sắp thổi núi Tô mê lô(7), núi Luân vi(8), và các núi nhỏ khác cùng vạn vật trong đại địa, ở Tam thiên đại thiên thế giới nát ra như cám, khiến ngưng ngay; hoặc muốn dùng một sợi lông buộc núi Tô mê lô, núi Luân vi và các núi nhỏ khác, cùng vạn vật trong đại địa, ném qua vô lượng, vô số, vô biên thế giới phương khác, mà không tổn hại các loài hữu tình nào, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn cùng an lập các loài hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, khiến họ trụ vào nhóm giới, hoặc nhóm định, hoặc nhóm huệ, hoặc nhóm giải thoát, hoặc nhóm giải thoát tri kiến, hoặc trụ vào quả Dự lưu, hoặc trụ vào quả Nhất lai, hoặc trụ vào quả Bất hoàn, hoăc trụ vào quả A la hán, hoặc Độc giác cho đến trụ vào quả vị Giác ngộ tối cao, hoặc khiến nhập cảnh giới Vô dư y Niết bàn(9), thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, năng như thật biết bố thí được đại quả báo như thế, nghĩa là như thật biết bố thí như thế được sanh vào dòng đại tộc Sát đế; sanh vào dòng dõi lớn Bà la môn; sanh vào dòng dõi lớn Trưởng giả; được sanh vào dòng dõi lớn Cư sĩ; được sanh vào các cõi trời Lục dục và cõi trời Sắc giới(10). Do bố thí ấy, mà được ba mươi bảy Bồ đề phần pháp. Do bố thí ấy, mà được ba môn giải thoát. tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, hoặc chín định thứ đệ, mười biến xứ. Do bố thí ấy, mà được pháp môn Đà la ni, Tam ma địa. Do bố thí ấy, mà được lìa phiền não, nhập Niết bàn của Bồ Tát. Do bố thí ấy, mà được thập vị Bồ Tát, được năm thứ mắt, hoặc sáu phép thần thông. Do bố thí ấy, mà được mười lực Phật, hoặc tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất công, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Do bố thí ấy, mà được ba mươi hai tướng của bậc đại trượng phu, hoặc tám mươi vẻ đẹp kèm theo. Do bố thí ấy, mà được pháp không quên mất, hoặc thường trụ trong tánh xả. Do bố thí ấy, mà được Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí. Do bố thí ấy, mà được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc quả Độc giác Bồ đề, hoặc được quả vị Giác ngộ tối cao; và có khả năng biết như thật: Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, trí tuệ, được quả báo lớn, cũng như vậy.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật có khả năng biết như thật: Khéo léo dùng phương tiện bố thí như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ Bố thí Ba la mật, hoàn thành đầy đủ tịnh giới; hoàn thành đầy đủ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát Nhã; Có khả năng biết như thật: Khéo léo dùng phương tiện giữ tịnh giới như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ tịnh giới Ba la mật, có thể hoàn thành đầy đủ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát Nhã v.v…

Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, có khả năng biết như thật: Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã như thế, và do dùng phương tiện khéo léo mà hoàn thành đầy đủ: Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Cụ thọ Xá Lợi Tử: Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, có khả năng biết như thật: Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí Ba la mật, thì hiểu thấu tất cả người cho, kẻ nhận, vật cho đều không thể nắm bắt được; khéo léo dùng phương tiện bố thí như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành tịnh giới Ba la mật, thì hiểu thấu tất cả tướng phạm, không phạm đều không thể nắm bắt được; khéo léo dùng phương tiện giữ tịnh giới như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ tịnh giới và năm pháp Ba la mật kia.

Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành an nhẫn Ba la mật, thì hiểu thấu tất cả tướng động, không động, đều không thể nắm bắt được; khéo léo dùng phương tiện an nhẫn như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ an nhẫn và năm pháp Ba la mật kia.

Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành tinh tấn Ba la mật, thì hiểu thấu tất cả thân tâm siêng, lười đều không thể nắm bắt được; khéo léo dùng phương tiện tinh tấn như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ tinh tấn và năm pháp Ba la mật kia.

Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành tịnh lự Ba la mật, thì hiểu thấu tất cả có thiền vị, không thiền vị đều không thể nắm bắt được; khéo léo dùng phương tiện tịnh lự như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ tịnh lự, và năm Ba la mật kia.

Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu hành Bát nhã Ba la mật, thì hiểu thấu tánh tướng của các pháp, đều không thể nắm bắt được; khéo léo dùng phương tiện Bát Nhã như thế, thì có thể hoàn thành đầy đủ Bát Nhã và năm Ba la mật kia.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn có được công đức của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong quá khứ, hiện tại, vị lai; muốn đạt đến khắp bờ giác các pháp hữu vi, vô vi; muốn đạt đến tột cùng thật tế của các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, vô sanh, trong quá khứ, hiện tại, vị lai; muốn làm người dẫn dắt cho tất cả Thanh văn, Độc giác; muốn làm thị giả thân cận chư Phật; muốn làm bà con thân thích với chư Phật, muốn thân được thanh tịnh, để kham nhận sự cung kính cúng dường của thế gian thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn xua đuổi vĩnh viễn tâm xan tham; muốn xa lìa tâm phạm giới; tâm tức giận; bỏ tâm lười biếng, lắng dịu tâm tán loạn, lìa tâm ác huệ thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn được năm loại mắt, đó là mắt phàm, mắt trời, mắt tuệ, mắt pháp, mắt Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn dùng mắt trời chiêm ngưỡng khắp tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong vô số thế giới chư Phật ở mười phương, muốn dùng tai trời, nghe hết lời nói pháp của tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong vô số thế giới chư Phật ở mười phương, muốn biết như thật các tâm, tâm sở của tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong vô số thế giới ở mười phương, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn được nghe Chánh pháp nơi các cõi Phật, trong vô số thế giới chư Phật ở mười phương, thường không lười bỏ, làm theo pháp đã nghe, cho đến khi đạt được quả vị Giác ngộ cao tột mà không quên mất, muốn thấy các cõi Phật, ở quá khứ, hiện tại, vị lai, trong mười phương thế giới, muốn cho các vị Thanh văn, đã nghe hoặc chưa nghe, đều có thể thông đạt được nghĩa thú sâu xa của tất cả Mười hai bộ kinh(11) mà chư Phật mười phương nói, trong quá khứ, hiện tại, vị lai, muốn tự thọ trì, đọc tụng, thông suốt, hiểu thấu nghĩa thú, và truyền bá cho kẻ khác, những pháp môn mà chư Phật mười phương nói trong quá khứ, hiện tại, vị lai, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn phóng quang minh chiếu rọi ở vô số cõi u tối, trong mười phương, và ở trong tất cả thế giới, nơi mà ánh sáng mặt trời, mặt trăng không chiếu tới được, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu trong vô số thế giới tối tăm, ngu muội, ở mười phương, có loài hữu tình tà kiến rất mạnh, không đếm xĩa việc ác, không tin việc làm lành, không tin quả báo, không tin tiền kiếp, không tin tái sanh, không tin khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế, không tin bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã v.v… thường thu, chỉ thu nhặc pháp thế gian, không muốn nghe tên Phật, tên Pháp, tên Tăng; Bồ Tát muốn phương tiện khai hóa, khiến cho họ phát khởi Chánh kiến, lắng nghe Tam bảo, hoan hỷ tin theo, bỏ ác, tu thiện, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn khiến cho hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng oai lực mình, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người điên được tỉnh, người loạn được định, người nghèo được giàu, người không có áo được áo, người đói được ăn, người khát được uống, người bệnh được lành, người xấu được đẹp, người tàn tật được lành lặn, người thiếu giác quan được đầy đủ, người sầu muộn được tỉnh , người mỏi mệt được khỏe khoắn, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn khiến hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng oai lực mình, những ai phạm giới, đều trụ trong nhóm giới; những ai tán loạn, đều trụ trong nhóm định; những ai ngu si, đều trụ trong nhóm tuệ; những ai chưa được giải thoát, đều trụ trong nhóm giải thoát; những ai chưa được giải thoát tri kiến, đều trụ trong nhóm giải thoát tri kiến(12), thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn khiến hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng thần lực mình, ai chưa thấy được chân lý, thấy được chân lý, an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác, cho đến chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn học oai nghi thù thắng của chư Phật, khiến cho hữu tình xem thấy không chán, dứt tất cả ác, sanh tất cả thiện, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

(…) Nếu đại Bồ Tát ước nguyện:

- Lúc ta được quả vị Giác ngộ tối cao, trong cõi Phật ta, tất cả các loài hữu tình đều thành tựu trí tuệ, từng cá nhân đều tự nguyện: Bố thí, điều phục, an nhẫn, dũng tấn, tịch tịnh, đế quán, lìa bỏ phóng dật, siêng tu phạm hạnh, đối với tất cả sanh linh đầy lòng từ bi hỷ xả, không gây đau khổ cho nhau;

- Lúc ta chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, trong cõi Phật ta, các loại hữu tình, thành tựu các loại công đức thù thắng, các cõi Phật khác, chư Phật và Bồ Tát đồng khen ngợi;

- Lúc ta chứng quả vị Giác ngộ tối cao, việc hóa độ đã xong, sau khi nhập Niết bàn, Chánh pháp không tận diệt;

- Lúc ta chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, các loài hữu tình, trong vô số thế giới mười phương, ai nghe tên Ta, nhất định đạt được Giác ngộ.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát muốn được vô lượng vô số công đức, không thể nghĩ bàn này, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

 

2.(Phụng Bát)

 

Phật bảo: Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, có thể thành tựu được công đức như vậy, thì khi ấy, Tứ đại thiên vương ở thế giới Tam thiên đại thiên, đều rất vui mừng, cùng khởi lên ý nghĩ: Nay, chúng ta nên đem bốn bát dâng lên Bồ Tát này, như xưa kia, các Thiên vương đã dâng bát lên các đức Phật quá khứ. Khi ấy, các thiên vương trong cõi Lục Dục trong Tam thiên đại thiên thế giới, đều rất vui mừng, cùng khởi nghĩ: Chúng ta đều nên cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Bồ Tát như thế, khiến hung đảng A Tu la tổn giảm dần, và khiến cho các Thiên chúng, quyến thuộc tăng thêm. Đồng thời, các cõi trời Sắc giới trong Tam thiên đại thiên thế giới, vui mừng hớn hở, cùng khởi lên ý nghĩ: Chúng ta nên thỉnh Bồ Tát như thế, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển bánh xe pháp mầu nhiệm, đem lại lợi ích cho tất cả.

Các thiện nam, thiện nữ trong các thế giới đó, hoặc thấy hoặc nghe, đều rất vui mừng, cùng khởi lên ý nghĩ: Chúng ta nguyện sẽ làm cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, quyến thuộc, bằng hữu với Bồ Tát như thế; nhờ phương tiện này mà tu hành các thiện nghiệp, cũng sẽ chứng được quả vị Giác ngộ tối cao.

Khi ấy, Thiên chúng trong cõi Tứ đại thiên vương, ở thế giới ấy, cho đến trời Sắc cứu cánh, hoặc thấy, hoặc nghe, đều rất vui mừng, cùng khởi lên ý nghĩ: Chúng ta sẽ tạo các phương tiện, để cho vị Bồ Tát ấy xa lìa ái nhiễm, từ khi mới phát tâm cho đến thành Phật, thường tu phạm hạnh. Vì sao? Vì nếu nhiễm sắc dục, thì sinh nơi cõi Phạm thiên còn bị chướng ngại, huống là Chứng được quả vị Giác ngộ tối cao. Cho nên, Bồ Tát là người đoạn dục, xuất gia, tu phạm hạnh, mới có thể chứng được quả vị Giác ngộ, người không đoạn dục chẳng thể làm được.

Cụ thọ Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát cần phải có cha mẹ, vợ con, các thân hữu không?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Hoặc có Bồ Tát có đủ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, tu Bồ Tát hạnh; hoặc có đại Bồ Tát không có vợ con, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, thường tu phạm hạnh, không hoại đồng chơn(13); hoặc có đại Bồ Tát, phương tiện khéo léo, thị hiện thọ ngũ dục, rồi nhàm bỏ, xuất gia tu phạm hạnh, mới Chứng được quả vị Giác ngộ tối cao.

Ví như huyễn sư hoặc đệ tử của ông, rất giỏi phương pháp ảo thuật, tạo ra nhiều thứ rất hấp dẫn của ngũ dục, rồi cùng nhau tự do vui hưởng. Theo ông thì sao? những thứ do trò ảo thuật kia làm ra, có thật không?

Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật bảo: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì muốn thành thục hữu tình, phương tiện khéo léo, giả hiện hưởng thụ ngũ dục. Nhưng đại Bồ Tát này, ở trong ngũ dục, cực kỳ nhàm chán, không bị ngũ dục làm ô nhiễm, mà còn mạt sát: Dục là lửa dữ thiêu đốt thân tâm, dục là thứ dơ bẩn làm ô nhiễm mình và người, dục là đầu sỏ đã, đang và sẽ luôn gây tổn hại, dục là giặc oán rình rập gây suy tổn, dục như đuốc cỏ, dục như trái đắng, dục như gươm bén, dục như đống lửa, dục như thuốc độc, dục như huyễn hoặc, dục như giếng tối, dục như quỉ Chiên đà la giả làm người thân v.v...

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát dùng vô lượng môn tội lỗi như thế thảy, để chê quở các món dục. Đã khéo biết tội lỗi của các dục, thì đâu có thật sự hưởng thụ dục, chỉ vì nhiêu ích(14) hữu tình, mới phương tiện khéo léo thị hiện thọ các dục vậy thôi.

 

3. (Quán Bát Nhã)

(quán tự tánh tất cả pháp là không)

 

Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nên tu hành Bát nhã Ba la mật như thế nào?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Khi đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, nên như thật quán: Có Bồ Tát mà chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có tên Bồ Tát, chẳng thấy có Bát Nhã, chẳng thấy có tên Bát Nhã, chẳng thấy tu hành, chẳng thấy chẳng tu hành. Vì sao?

Xá Lợi Tử! Vì tự tánh Bồ Tát là không, tên Bồ Tát là không, vì sao? Vì tự tánh của sắc là không, chứ chẳng phải do không có mà không, cái không của sắc chẳng phải sắc, sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, chứ chẳng phải do không có mà không, cái không của thọ tưởng hành thức chẳng phải là thọ tưởng hành thức; thọ, tưởng, hành, thức chẳng lìa không, không chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao?

Xá Lợi Tử! Vì đây, chỉ có tên gọi là Bồ đề(15); đây, chỉ có tên gọi là Tát đỏa(16); đây, chỉ có tên gọi là Bồ đề tát đỏa(17); đây, chỉ có tên gọi nên gọi đó là không; đây, chỉ có tên gọi đó là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; tự tánh là như vậy, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh. Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã như vậy, chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, chẳng thấy nhiễm, chẳng thấy tịnh. Vì sao? Chỉ vì giả lập khách danh, tạm đặt cái tên đối với các pháp để phân biệt; rồi theo cái giả lập đó, khởi lên ngôn thuyết, gọi như thế này, như thế kia, nên sanh khởi chấp trước thế này, thế nọ. Khi đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, đối với tất cả những cái như thế, chẳng thấy có; do chẳng thấy có, mà không sanh chấp trước. (Q.04, ĐBN)

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, nên quán sát: Bồ Tát, chỉ có tên gọi; Phật, chỉ có tên gọi; Bát Nhã, chỉ có tên gọi; sắc, chỉ có tên gọi, thọ, tưởng, hành, thức, chỉ có tên gọi; 12 xứ, 18 giới chỉ có tên gọi; nhân duyên, chỉ có tên gọi; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên(18), chỉ có tên gọi; thập nhị nhân duyên, chỉ có tên gọi; lục Ba la mật, chỉ có tên gọi; 18 pháp không, chỉ có tên gọi; 37 pháp trợ đạo, chỉ có tên gọi; tam giải thoát môn, tứ thánh đế, tứ thiền bát định, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chỉ có tên gọi; pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, chỉ có tên gọi; bậc Cực hỷ, chỉ có tên gọi; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân(19), chỉ có tên gọi; bậc Chánh quán, chỉ có tên gọi; bậc Chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạt, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc giác, bậc Bồ Tát, bậc Như Lai(20), chỉ có tên gọi; năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chỉ có tên gọi; ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, chỉ có tên gọi; pháp không quên mất, tánh hằng trụ xả, chỉ có tên gọi; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chỉ có tên gọi; cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, chỉ có tên gọi; pháp Thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, chỉ có tên gọi; pháp hữu vi, pháp vô vi, chỉ có tên gọi(21).

Xá Lợi Tử! Như ngã, chỉ có tên gọi, đó là ngã, thật không thể nắm bắt được. Như vậy hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy(22), cũng chỉ có tên gọi; nghĩa là từ hữu tình đến cái thấy, vì là không, nên không thể nắm bắt được, chỉ tùy theo thế tục, mà giả lập tên tạm. Các pháp cũng vậy, không nên chấp trước. Vì thế, đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không thấy có ngã, cho đến cái thấy, cũng không thấy tất cả pháp tánh.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát tu hành thậm thâm Bát Nhã như thế, trừ trí tuệ của chư Phật, còn tất cả trí tuệ của Thanh văn, Độc giác đều không thể sánh kịp. Vì cái không, không thể nắm bắt được. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đối với năng danh và sở danh đều không thể nắm bắt được, vì không nắm bắt được, nên không chấp. Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát nếu có thể tu hành Bát Nhã như thế, thì gọi là khéo tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Trí tuệ tu hành trong một ngày của một vị đại Bồ Tát, tu hành Bát Nhã, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không thể sánh kịp. Xá Lợi Tử! Kể cả bốn đại châu, giả sử trí tuệ của Ngươi và Đại Mục Kiền Liên nhiều như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng v.v… đầy Tam thiên đại thiên thế giới, sánh với trí tuệ của một vị đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, thì trăm ức phần không bằng một, ngàn ức phần không bằng một, trăm ngàn ức phần không bằng một, kể cả tính số, thí dụ, cho đến vô cực cũng không bằng một. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trí tuệ của vị đại Bồ Tát ấy, có khả năng khiến cho tất cả hữu tình hướng đến Niết bàn, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác chẳng được như thế.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu trí tuệ của bốn quả Thanh văn, của Độc giác; của Bồ Tát; của các Đức Như Lai, các trí tuệ ấy đều không sai biệt, không chống trái nhau, không sinh không diệt, tự tánh đều không; nếu là pháp không sai biệt, không chống trái nhau, không sanh diệt, tự tánh không, vậy sự sai biệt của pháp này đã không thể nắm bắt được, thì tại sao Thế Tôn bảo là trí tuệ của một vị đại Bồ Tát, tu hành Bát Nhã chỉ trong một ngày, mà ngần trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác không thể sánh kịp?

Phật bảo: Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao, trí tuệ của một vị đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã chỉ trong một ngày đã thành đạt thù thắng, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác có làm nổi không?

Xá Lợi Tử bạch: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Một vị đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, tu trí tuệ trong một ngày, khởi lên ý nghĩ: Ta nên tu hành tất cả tướng vi diệu, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, lợi ích an lạc tất cả hữu tình. Vị đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp, giác ngộ tất cả tướng rồi, phương tiện an lập tất cả hữu tình vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác có làm nổi không?

Xá Lợi Tử bạch: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Lại, Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Tất cả Thanh văn, Độc giác, có ai có thể khởi lên ý nghĩ: Ta sẽ chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, rồi phương tiện an lập tất cả hữu tình ở cảnh giới Vô dư y Niết bàn không?

Xá Lợi Tử bạch: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Lại, Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Tất cả Thanh văn, Độc giác có ai có thể khởi lên ý nghĩ: Ta sẽ tu hành lục Ba la mật, 37 pháp trợ, tứ thánh đế, tứ thiền bát định, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến Quả vị Giác ngộ tối cao, vĩnh viễn bứng gốc phiền não tập khí đeo đẳng nhiều đời, chứng được quả vị Giác ngộ cao tột, rồi phương tiện an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, ở cảnh giới Vô dư y Niết bàn?

Xá Lợi Tử bạch: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật bảo: Xá Lợi Tử! Tất cả đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã đều khởi lên ý nghĩ: Ta phải tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cho đến khi vĩnh viễn bứng gốc phiền não tập khí đeo đẳng nhiều đời, để chứng được quả vị Giác ngộ, rồi phương tiện an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, ở cảnh giới Vô dư y Niết bàn.

Xá Lợi Tử! Thí như loài đom đóm không dám nghĩ: Ánh sáng của ta có thể chiếu khắp châu Thiệm bộ, khiến cho đâu đâu cũng sáng rực lên; cũng như vậy, tất cả Thanh văn, Độc giác không dám nghĩ: Ta sẽ tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, cho đến khi vĩnh viễn bứng gốc phiền não tập khí đeo đẳng nhiều đời, chứng được quả vị Giác ngộ, rồi phương tiện an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, ở cảnh giới Vô dư y Niết bàn.

Xá Lợi Tử! Thí như ánh sáng chói chang của mặt trời, chiếu khắp châu Thiệm bộ, không chỗ nào không chiếu đến; cũng như vậy, đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, thường khởi lên ý nghĩ: Ta sẽ tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cho đến khi vĩnh viễn bứng gốc phiền não tập khí đeo đẳng nhiều đời, chứng được quả vị Giác ngộ, rồi phương tiện an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, ở cảnh giới Vô dư y Niết bàn.

Vì những lẽ ấy, Xá Lợi Tử! Nên biết, trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác so với trí tuệ của đại Bồ Tát dù tu hành Bát Nhã chỉ một ngày, ngàn ức phần không bằng một, trăm ngàn ức phần không bằng một, kể cả tính số, thí dụ, cho đến vô cực phần cũng không bằng một.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát có khả năng vượt các bậc Thanh văn, Độc giác; có khả năng chứng được bậc Bất thối chuyển; có khả năng làm sáng tỏ đạo giác ngộ của đức Phật?

Phật bảo cụ thọ: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện khéo léo, nguyện lành, trí lực Ba la mật; an trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện, liền có khả năng vượt hơn tất cả các bậc Thanh văn, Độc giác; có khả năng chứng đắc bậc Bất thối chuyển, và có khả năng làm sáng tỏ đạo giác ngộ của đức Phật.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ ở bậc nào mà có khả năng làm ruộng phước tốt cho tất cả Thanh văn, Độc giác?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện khéo léo, nguyện, lực, trí Ba la mật, an trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện, cho đến an tọa trên tòa Bồ đề, thường làm ruộng phước cho tất cả Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì nương vào đại Bồ Tát, mà tất cả thiện pháp xuất hiện ở thế gian, nghĩa là do nhờ đại Bồ Tát mà có mười thiện nghiệp đạo, năm giới cận sự, tám giới cận trụ. Lại do nhờ đại Bồ Tát mà có tất cả thiện pháp xuất hiện ở thế gian.

Vì có các pháp lành như vậy, nên thế gian mới có dòng dõi lớn Sát đế lợi, dòng dõi lớn Bà la môn, dòng dõi lớn Trưởng giả, dòng dõi lớn Cư sĩ.

Vì có các pháp lành như vậy, nên thế gian mới có các trời trong cõi Dục, Sắc và Vô sắc.

Vì có các pháp lành như thế, nên thế gian mới có Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, và các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác.

Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát có phải báo ơn thí chủ không?

Phật bảo: Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khỏi phải báo ơn các thí chủ. Vì sao? Vì đã báo ơn nhiều rồi. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì các đại Bồ Tát là Đại thí chủ, đã bố thí cho các hữu tình vô lượng pháp lành, nghĩa là bố thí cho hữu tình mười thiện nghiệp đạo, năm giới cận sự, tám giới cận trụ, tứ thiền bát định, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát bố thí cho hữu tình vô lượng, vô số, vô biên các loại thiện pháp như thế, cho nên gọi Bồ Tát là Đại thí chủ. Như vậy, là đã báo ơn các thí chủ, và là ruộng phước tốt, làm sanh trưởng phước đức thù thắng.

 

Thích nghĩa:

(1). Tựa mỗi đoạn kinh ngắn trong ngoặc đơn là do chúng tôi tự đặt hay phỏng theo Kinh MHBNBLMĐ hay chúng tôi thấy ý nghĩa của đoạn Kinh đó phù hợp với các Kinh khác mà đặt ra.

(2). Đại Bồ Tát: Website “thuvienhoasen.org” gọi Bồ Tát Ma ha tát là đại Bồ Tát. Ma ha tát có nghĩa lớn, là đại. Trong khi website “tuvienquangduc.com” gọi là Bồ Tát Ma ha tát. Gọi là đại hay Ma ha tát cũng chỉ là danh xưng, nhưng danh xưng có vẻ phân biệt, nên bị châm biếm là “Bồ Tát mỗi người một khác”. Dù là Bồ Tát sơ phát tâm hay Bồ Tát Đẳng giác tuy giai vị có khác, nhưng ý vị không khác. Vì vậy, trong phần lược giải, chúng tôi chỉ dùng từ đơn giản là Bồ Tát. Đã là Bồ Tát thì phân biệt Bồ Tát lớn, Bồ Tát nhỏ làm gì?

(3). Xá Lợi Phất: (s: Śāriputra, p: Sāriputta): Một trong 10 vị đệ tử lớn của đức Phật, còn gọi là Xá Lợi Phất Đát La, Xá Lợi Phú Đa La… ý dịch là Thu Lộ Tử, Cù Dục Tử; thường gọi tắt là Xá Lợi Tử. Mẹ ông là con gái của một vị luận sư Bà La Môn ở Thành Vương xá. Khi vừa mới sanh ra, con mắt ông giống như mắt con chim Xá Lợi, nên ông được đặt tên là Xá Lợi Phất (con của chim Xá Lợi). Hay ông có tên khác là Ưu Ba Để Sa, Ưu Ba Đế Tu v.v… Theo Bản Hạnh Tập Kinh quyển 48, Phẩm Xá Lợi Mục Liên Nhân Duyên, từ nhỏ tướng mạo của Xá Lợi Phất đã đoan nghiêm; đến khi lớn lên, rèn luyện các kỹ năng, thông hiểu các bộ kinh Phệ Đà. Năm lên 16 tuổi, ông đã có thể hàng phục các luận sư, mọi người đều quy phục ông. Thời niên thiếu, ông từng kết giao với Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna) ở làng bên cạnh, thường đến tham dự những buổi tế lễ ngoài Thành Vương Xá, thấy mọi người vui chơi hỗn tạp, chợt cảm ngộ lẽ vô thường, bèn cắt bỏ râu tóc, theo xuất gia học đạo với một trong 6 vị thầy ngoại đạo là San Xà Da Tỳ La Chi Tử, chỉ trong 7 ngày đêm mà có thể thông suốt toàn bộ giáo nghĩa của vị này, hội chúng có 250 người đều tôn kính ông là bậc thượng thủ, song Xá Lợi Phất vẫn thầm cảm rằng mình chưa được giải thoát. Lúc bấy giờ, đức Phật thành đạo không được bao lâu, hiện đang trú tại Tịnh Xá Trúc Lâm ở Thành Vương Xá. Đệ tử Ngài là A Thuyết Thị (đệ tử của Phật), còn gọi là Tỳ Kheo Mã Thắng đắp y, cầm bình bát vào trong thành khất thực. Xá Lợi Phất thấy vị này oai nghi đoan chính, bước đi khoan thai, bèn đến hỏi xem thầy là ai và thực hành pháp môn gì? A Thuyết Thị bèn lấy pháp nhân duyên do đức Phật thuyết giảng cho Xá Lợi Phất, để hiểu về lý các pháp là vô ngã. Nghe xong, Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên, mỗi người thống lãnh 250 đệ tử, cùng đến Tịnh Xá Trúc Lâm quy y với đức Phật. Theo Thập Nhị Du Kinh, sau khi quy y với đức Phật, ông thường tháp tùng theo Ngài, giúp giáo hóa mọi người. Ông là người thông minh xuất chúng, được tôn xưng là Đệ Nhất Trí Tuệ. Lại căn cứ vào Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh quyển 11, 12, Hiền Ngu Kinh quyển 10, Phẩm Tu Đạt Khởi Tinh Xá v.v... Xá Lợi Phất tinh thông ngoại điển, từng dùng biện tài siêu tuyệt để hàng phục ngoại đạo Mắt Đỏ. Ông là người khuyến khích trưởng giả Tu Đạt Đa (còn gọi là Cấp Cô Độc) quy y theo đức Phật và phát tâm xây dựng Kỳ Viên Tịnh Xá. Vào cuối đời của đức Phật, Đề Bà Đạt Đa tuyên xướng về 5 điều không đúng pháp, muốn phá hoại Tăng đoàn, dẫn 500 Tỳ kheo của Tăng đoàn Phật, lên núi Già Da (còn gọi là núi Kỳ Đà Quật). Khi ấy Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên đến ngọn núi này khuyến dụ, khiến cho 500 Tỳ kheo kia nhận ra sai lầm của mình, quay trở về với Phật. Suốt cả đời Xá Lợi Phất luôn được mọi người tôn kính, lại được đức Phật tán dương. Ông nhập diệt trước đức Phật, sau 7 ngày thì làm lễ Trà Tỳ; y bát và di cốt của ông được an táng tại Kỳ Viên. Trưởng giả Tu Đạt Đa dựng tháp cho ông. Theo Phẩm Thí Dụ của Kinh Pháp Hoa cho biết rằng Xá Lợi Phất được đức Phật thọ ký vào thời tương lai sẽ làm Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai. (Rút gọn theo Phật Quang Tự điển).

(4). Không thể nắm bắt, được dịch từ cụm từ “bất khả đắc” (Phạm: an-upalambha): Tên khác của Không. Dù có tìm cầu như thế nào đi nữa, cũng đều không thể biết được. Phật giáo cho rằng, sự tồn tại của tất cả các pháp, không có hình thái cố định, nếu cố suy xét tìm cầu cũng đều không thể được. Cụm từ bất khả đắc này bao hàm bốn nghĩa sau đây: 1- Không thể nào tìm thấy một ngã thể bất biến, nguyên si trong tất cả mọi hiện hữu (s: nāvadhāryate, anupalabdhi); 2- Không thể đạt, không thể thực hiện; 3- Không tồn tại; 4- Sự vắng mặt của chấp trước vào một cơ sở tự tồn.

(5). Mười tùy niệm: Xem lại phần thứ I Tổng luận.

(6). Mười quán tưởng: Xem lại phần thứ I Tổng luận.

(7) Núi Tô mê Lô là âm dịch của Tu Di Sơn (s, p: Sumeru), ý dịch là Diệu Cao Sơn. Theo như thuyết về vũ trụ của Ấn Độ cổ đại, ngay trọng tâm của thế giới có núi Tu Di, dưới núi ấy có các lớp chồng chất lên nhau theo thứ tự là Địa Luân, Thủy Luân, Phong Luân. Núi ấy bao bọc giao nhau bởi 9 ngọn núi và 8 biển, có các quần đảo xoay quanh các biển. Hòn đảo phía Nam (Nam Diêm Phù Đề) có con người cư trú. Bốn phương Tu Di sơn có 4 vị Thiên vương trấn giữ, phía trên đỉnh núi có trời Đế Thích với 33 cung điện của cõi trời, mặt trời và mặt trăng thường xuyên chiếu sáng ngay trong lòng núi này. (Phật học Tinh Tuyển)

(8). Núi Luân Vi hay núi Thiết Vi (sanskrist là Cakravala)- Hai vòng núi đồng tâm tạo nên chu vi của thế giới. (Từ điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)

(9). Vô dư y Niết Bàn: Đã giải thích ở phần thứ I, Tổng luận.

(10). Nếu lặp đi lặp lại thì quá nhiều, nên chúng tôi chỉ ghi tắt là cõi trời Lục Dục và cõi trời Sắc giới. (Xem lại phần thứ I Tổng luận).

(11). Mười hai bộ kinh(Thập nhị bộ kinh): Bao gồm: 1- Tu đa la (Phạn ngữ: Stra), dịch nghĩa: Khế kinh, trường hàng, pháp bổn, là những lời Phật dạy thích hợp với từng căn cơ chúng sanh; 2- Kỳ dạ (Phạn ngữ: Geya), dịch nghĩa: Ứng tụng, trùng tụng là những lời dạy trong kinh được lặp lại để người nghe ghi nhớ và thực hành; 3- Hòa ca la na (Phạn ngữ: Vyakarana), dịch nghĩa: Thọ ký là lời dạy của Phật về kết quả tu tập trong tương lai của các vị đệ tử, nói trước về sự chứng đắc quả vị của mỗi người căn cứ vào nỗ lực tu tập, hành trì của họ; 4- Già đà (Phạn ngữ: Gth), dịch nghĩa: Phúng tụng, cô khởi tụng hay kệ tụng, là những lời dạy của Phật được diễn đạt theo thể kệ tụng để dễ ghi nhớ, thường là lặp lại phần ý nghĩa đã diễn thuyết trong khế kinh; 5- Ưu đà na (Phạn ngữ: Udana), dịch nghĩa: Tự thuyết, hay vô vấn tự thuyết, là những kinh điển do đức Phật quán xét căn cơ chúng sanh rồi tự nói ra, không cần có nhân duyên dẫn khởi, không cần đợi người thưa hỏi; 6- Ni đà na (Phạn ngữ: Nidna), dịch nghĩa: Nhân duyên, là những nhân duyên dẫn khởi sự thuyết dạy của Phật, như do có việc thế này nên thuyết dạy pháp như thế này...; 7- A ba đà na (Phạn ngữ: Avadna), dịch nghĩa: Thí dụ, là những lời dạy bằng phương thức thí dụ, dẫn dụ, so sánh nghĩa là so sánh các sự việc; 8- Y đế mục đa già (Phạn ngữ: Itivrtaka), dịch nghĩa: Bổn sự, là những lời dạy về tiền thân tu tập của các vị đệ tử Phật, được dẫn ra như những bài học cho thính chúng; 9- Xà đà già (Phạn ngữ: Jtaka), dịch nghĩa: Bổn sanh, là lời dạy về các tiền thân của chính đức Phật, cũng được dẫn ra vì mục đích giáo hóa; 10- Tỳ phật lược (Phạn ngữ: Vaipulya), dịch nghĩa: Phương quảng, là chỉ chung các kinh điển truyền dạy giáo pháp Đại thừa; 11- A phù đà đạt ma (Phạn ngữ: Adbhutadharma), dịch nghĩa: Vị tằng hữu, là những kinh điển thuyết giảng những điều bất khả tư nghị, xưa nay chưa từng có, như nói về thần lực, phước đức của chư Phật, Bồ Tát...; 12- Ưu ba đề xá (Phạn ngữ: Upadçsa), dịch nghĩa: Luận nghị, là những lời dạy mang tính luận thuyết, bàn giải, để giúp người nghe nắm hiểu được giáo pháp cũng như các pháp môn tu tập. Trong 12 bộ kinh này thì 9 bộ trước là thuộc về giáo nghĩa quyền thừa, nhằm dẫn dắt mọi chúng sanh sơ cơ, 3 bộ cuối cùng giảng thuyết những ý nghĩa cứu cánh rốt ráo, đưa đến quả vị Phật. Từ điển mở rộng tâm hồn. (Ban Tư liệu Rộng mở tâm hồn).

(12). Nhóm định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến: (Ý nói về ngũ phần pháp thân, Phạm: Asamasama-paĩcaskandha): Năm thứ công đức đầy đủ trong tự thể của Phật và A la hán. Văn chương Phật học thường đề cập cụm từ này nhất là Đại thừa giáo. Bát Nhã thuộc Đại thừa, vì vậy chúng tôi thích nghĩa cụm từ nầy theo Từ điển Phật Quang. Trong “Đại thừa Nghĩa chương”, quyển 20, phần đầu, Ngài Tuệ Viễn giải thích năm phần pháp thân như sau: 1- Giới thân: Chỉ cho Giới pháp thân Như Lai đã xa lìa hết thảy lỗi lầm của 3 nghiệp thân, khẩu, ý. 2- Định thân: Trong Định pháp thân của Như Lai, chân tâm vắng lặng, tự tính không động, xa lìa tất cả vọng niệm. 3- Tuệ thân: Tuệ pháp thân của Như Lai thể chân tâm tròn sáng, tự tính sáng tỏ, quán xét thấu suốt hết thảy pháp tính, tức chỉ cho trí căn bản. 4- Giải thoát thân: Giải thoát pháp thân của Như Lai tự thể không bị câu thúc, giải thoát khỏi tất cả sự trói buộc. 5- Giải thoát tri kiến thân: Giải thoát tri kiến pháp thân của Như Lai tự thể chứng biết xưa nay vốn thanh tịnh vô nhiễm, đã thực sự giải thoát. Về danh nghĩa của Ngũ phần pháp thân thì sách đã dẫn trên giải thích rằng: Phần tức là nhân, vì 5 thứ nói trên là nhân để thành thân, nên gọi là phần; Pháp là tự thể, vì 5 thứ trên là tự thể của bậc Vô học nên gọi là pháp; lại nữa, pháp nghĩa là khuôn phép, mà 5 thứ trên là khuôn phép để thành thân nên gọi là pháp; Thân tức là thể, 5 thứ trên là thể của chư Phật, cho nên gọi là thân; thân cũng có nghĩa là chỗ tích tụ mọi công đức, vì thế gọi là thân. Về thứ tự của Ngũ phần pháp thân thì rất rõ ràng, từ giới sinh định, từ định phát tuệ, do tuệ mà được giải thoát, do giải thoát mà có giải thoát tri kiến. Giới, định, huệ là căn cứ theo nhân mà đặt tên, còn giải thoát và giải thoát tri kiến thì căn cứ theo quả mà đặt tên, tuy nhiên, cả 5 thứ đều là công đức của Phật.

(13). Bậc đồng chơn hay đồng chân: Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bản nghiệp phân chia giai vị thứ bậc của Bồ Tát rõ ràng và được xử dụng rộng rãi nhất. Theo kinh này một người từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả Vô thượng Bồ đề phải trải qua 52 địa vị khác nhau: Thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, Đẳng giác, vào Diệu giác tức thành Phật. Bậc đồng chân theo chúng tôi hiểu là thuộc thập trụ. Thập trụ gồm 10 giai vị là 1- Sơ phát tâm trụ, 2- Trị địa trụ, 3- Tu hành trụ, 4- Sinh quí trụ, 5- Phương tiện cụ túc trụ, 6- Chính tâm trụ, 7- Bất thoái trụ, 8- Đồng chân trụ, 9- Pháp vương tử trụ, 10- Quán đính trụ.

Bậc đồng chân nằm ở giai vị thứ tám trong thập trụ (cũng gọi Cưu ma la phù đồng nam Bồ Tát pháp trụ): Nghĩa là từ khi phát tâm trở đi, trước sau không sụt lùi, không khởi tà ma thoái thất tâm Bồ đề, đến đây thì 10 thân linh tướng của Phật cùng lúc đầy đủ.

(14). Nhiêu ích: Hàm ý ban pháp đem lại lợi ích cho người.

(15). Bồ đề có hai nghĩa:

1- Bồ đề (Phạm, Pàli: bodhi. Dịch ý là giác, trí, tri, đạo). Nói theo nghĩa rộng, bồ đề là trí tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết bàn. Tức là trí giác ngộ mà Phật, Duyên giác, Thanh văn đã đạt được ở quả vị của các Ngài. Trong ba loại Bồ đề này, Bồ đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, dịch là Vô thượng Chính Đẳng Chính giác, Vô thượng Chính biến trí, Vô thượng Chính chân đạo, Vô thượng Bồ đề. Về Bồ đề của Phật, theo luận Đại trí độ, quyển 53, có năm loại sau: 1- Phát tâm Bồ đề, nghĩa là Bồ Tát ở giai vị Thập tín phát tâm Bồ đề, tâm ấy là nhân đưa đến quả Bồ đề. 2- Phục tâm Bồ đề, nghĩa là Bồ Tát ở các giai vị Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng v.v... tu các hạnh Ba la mật, chế phục phiền não, hàng phục tâm mình. 3- Minh tâm Bồ đề, nghĩa là Bồ Tát ở giai vị Đăng địa biết rõ thực tướng các pháp rốt ráo trong sạch, là tướng Bát nhã Ba la mật. 4- Xuất đáo Bồ đề, nghĩa là Bồ Tát ở ba giai vị Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa, ở trong Bát nhã Ba la mật, diệt trừ phiền não trói buộc, ra khỏi ba cõi, đến Nhất thiết trí, nên gọi là xuất đáo Bồ đề. 5- Vô thượng Bồ đề, nghĩa là bậc Đẳng giác, Diệu giác chứng thành A nậu Đa la Tam miệu tam Bồ đề, tức là giác trí của quả Phật. Trên đây gọi chung là năm loại Bồ đề. Còn Pháp hoa kinh luận, quyển hạ, ở nơi ba thân pháp, báo, hóa của Phật, lập ba loại Bồ đề là Pháp Phật Bồ đề (Pháp thân Bồ đề), Báo Phật Bồ đề (Báo thân Bồ đề), và Ứng Phật Bồ đề (Ứng thân Bồ đề), gọi là tam chủng Bồ đề. Đại thừa nghĩa chương quyển 18 thì chia Vô lượng Bồ đề làm hai thứ là Phương tiện Bồ đề và Tính tịnh Bồ đề. Ngoài ra, trong mười Ba Pháp của tông Thiên thai cũng có ba Bồ đề, đó là: 1- Thực tướng Bồ đề, cũng gọi Vô thượng Bồ đề: Chân tướng Bồ đề ngộ lý thực tướng, tương đương với đức pháp thân. 2- Thực trí Bồ đề, cũng gọi Thanh tịnh Bồ đề: Trí tuệ ngộ lý khế hợp, tương đương với đức Bát Nhã. 3- Phương tiện Bồ đề, cũng gọi Cứu kính Bồ đề: Ngộ được tác dụng tự tại giáo hóa chúng sinh, tương đương với đức giải thoát. Lại cứ theo luận Vãng sinh tịnh độ, thì: 1) Chấp trước tự ngã; 2) Không muốn làm cho tất cả chúng sinh được yên ổn; 3) Chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình. Ba điều trên đây trái với cửa Bồ đề, gọi là ba tâm xa lìa hoặc là ba chướng lìa Bồ đề. Cùng sách đã dẫn lại nêu ra ba thứ tâm thanh tịnh: 1- Không cầu yên vui cho bản thân mình (Vô nhiễm thanh tịnh tâm) 2- Trừ khổ cho chúng sinh khiến họ được yên vui (An thanh tịnh tâm) 3- Khiến chúng sinh đến Bồ đề và cho họ yên vui vĩnh viễn (Lạc thanh tịnh tâm). Đây là ba thứ tâm thuận theo cửa Bồ đề. Người tu Đại thừa cầu Vô thượng Bồ đề, gọi là Bồ đề tát đỏa, gọi tắt là Bồ Tát. Tâm cầu Vô thượng Bồ đề, gọi là Vô thượng Bồ đề tâm, Vô thượng đạo ý hoặc Bồ đề tâm. Hướng tới 73 đạo phẩm Bồ đề, gọi là Bồ đề phần pháp. Nơi đức Phật thành đạo, gọi là Bồ đề đạo tràng, Bồ đề tràng, cây ở đạo tràng ấy gọi là Bồ đề thụ. Tu phúc cầu nguyện cho tổ tông thành Phật, gọi là Tăng thượng Bồ đề. Kết khóa niệm Phật, nguyện cầu chúng sinh tăng tiến Phật đạo, gọi là Bồ đề giảng. Các chùa viện thuộc về đàn na (thí chủ), gọi là Bồ đề tự, Bồ đề sở. [Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.22; Kinh Bồ đề tâm, Q.1; Kinh Hoa nghiêm (bản dịch cũ) Q.38, Q.52; Kinh Hoa nghiêm (bản dịch mới), Q.70; Kinh Duy ma, Q.thượng; Kinh Đại bảo tích, Q.1, Q.27; Luận Đại trí độ, Q.44; Luận Thành duy thức, Q.1].

2- Bồ đề: Tức là Ngài Bồ đề Tiên na đến Trung quốc vào đời nhà Đường. (xt. Bồ Đề Tiên Na). Từ điển Phật Quang

(16). Tát đỏa: Tát đỏa (Phạm:Sattva. Pàli:Satta): Cũng gọi Tát đa bà, Tát hòa tát, Tát bà tát đỏa, Tát đát phạ, Tát đỏa. Tát đỏa gồm có các nghĩa: Tồn tại, sinh, thực, chân, thiện, mỹ, hiền... Tát đỏa cũng chỉ cho Bồ Tát, tức gọi đủ là Bồ đề tát đỏa.

(17). Bồ đề tát đỏa (S: bodhisattva; P: bodhisatta): Bồ Tát.

(18). Nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Nhân duyên, thứ đệ duyên, duyên duyên và tăng thượng duyên của các pháp: Bốn duyên này phát triển nhiều nhất trong Duy thức học: 1- Nhân duyên (cái duyên thuộc về duyên, Phạm: Hetu-pratyaya): Từ gọi chung nhân và duyên. Nhân là nguyên nhân bên trong trực tiếp sinh ra kết quả. Duyên chỉ cho nguyên nhân gián tiếp giúp đỡ bên ngoài. Do vậy mà Nhân duyên còn được gọi là Nội nhân ngoại duyên, Thân nhân sơ duyên. Thí dụ: Hạt lúa nhờ đất nước, ánh sáng mà sanh ra cây lúa. Vậy, hạt lúa là nhân, đất nước, nắng… là duyên. Có nhân mà thiếu duyên thì cũng không thành. Nói theo nghĩa rộng thì Nhân hàm ý là Nhân và duyên, bao gồm Nội nhân ngoại duyên. Hết thảy muôn vật đều tùy thuộc vào sự tan hợp của nhân duyên mà sinh diệt, gọi là Nhân duyên sinh, Duyên sinh, Duyên thành, Duyên khởi. Tất cả pháp do nhân duyên mà sinh diệt, gọi là Nhân duyên sinh diệt pháp; còn cái kết quả do nhân và duyên hòa hợp mà sinh ra thì gọi là Nhân duyên hòa hợp. Hết thảy vạn hữu đều do nhân duyên hòa hợp mà giả sinh, không có tự tính, đó chính là lí Nhân duyên tức không. Nếu lấy phiền não làm nhân, lấy nghiệp làm duyên thì sẽ chiêu cảm quả cõi mê; còn nếu lấy trí làm nhân, lấy định làm duyên thì sẽ chiêu cảm quả cõi ngộ, 2- Đẳng vô gián duyên hay (cái duyên bình đẳng tương tục, không gián đoạn, tiếng Phạm: Samanantara-pratyaya): Chỉ cho tác dụng của tâm pháp ở niệm trước mở đường, nhường chỗ cho tâm pháp ở niệm sau sinh ra. Đẳng nghĩa là đồng đẳng (cùng nhau, giống nhau). Số tâm và tâm sở của niệm trước và niệm sau tuy có thêm bớt, nhưng thể dụng của chúng thì đều như nhau và không một pháp nào có hai thể cùng khởi lên một lượt. Tuy có trước, có sau, nhưng các niệm đều giống nhau, như nhau, nên gọi là Đẳng. Niệm trước, niệm sau, niệm niệm sinh diệt, sát na không dừng, không có xen hở, gọi là vô gián. Vô gián duyên là giữa tâm trước, tâm sau không có gián cách, dù trong thời gian bao lâu thì tâm pháp của niệm trước vẫn làm duyên cho tâm pháp của niệm sau sinh khởi. 3- Duyên duyên hay sở duyên duyên (Cái duyên thuộc về sở duyên, tiếng Phạn là Àlambana-pratyaya): Sở duyên chỉ cho đối tượng của tâm và tác dụng tâm (đối tượng của tác dụng nhận thức). Nếu khi đối tượng của tâm và tác dụng tâm trở thành nguyên nhân khiến tâm và tác dụng tâm sinh ra kết quả, thì đối tượng của tâm và tác dụng tâm được gọi là Sở duyên duyên. Nói theo Duy thức học: Khi kiến phần duyên qua tướng phần, thì gọi “kiến phần” là năng duyên (như mắt), “tướng phần” là sở duyên (như lãng hoa). Duy thức học cho rằng phải những vật có thật thể như Tâm vương và Tâm sở, nó cập hợp cái tướng phần của nó, có sở lự (bị phân biệt) và nương gá (sở thác) để phát sanh, mới được gọi là sở duyên duyên. Thí dụ: Lẵng hoa đặt trên bàn là vật có thật thể cho nhãn thức nương gá vào đó mà sanh phân biệt. Khi nhãn căn thấy lẵng hoa, thì Tâm vương Tâm sở của nhãn thức tập hợp cái tướng của lng hoa, nó làm cái chỗ phân biệt (sở lự) của nhãn thức, nên gọi lẵng hoa là sở duyên duyên của nhãn thức. 4- Tăng thượng duyên (Phạm: Adhipati-pratyaya): Nguyên nhân gián tiếp giúp cho tất cả pháp hữu vi sinh khởi hay kết quả, nghĩa là bất cứ lực dụng mạnh mẽ nào có khả năng giúp thêm sức cho sự sinh khởi hoặc đưa đến kết quả của các pháp khác thì đều gọi là Tăng thượng duyên. Cũng như sức lao động, phân, nước... đều là Tăng thượng duyên giúp cho lúa mạ phát triển mạnh và kết quả tốt. (Từ điển Phật Quang). Đã thích nghĩa trong “Phần thứ I Tổng luận”.

(19). Gọi là Bồ Tát thập địa: Trong 52 giai vị Bồ Tát, giai vị Thập Tín, Thập trụ, Thập hạnh. Thập hồi hướng và Thập địa. Bồ Tát Thập địa được coi là cao nhất, chỉ còn hai bậc nữa là Đẳng giác và Diệu giác tức thành Phật. Chúng tôi đã giải thích đầy đủ trong phần thứ I tổng luận. Để so sánh với thập vị Tam thừa, chúng tôi xin lặp lại thập địa Bồ Tát gồm: 1- Cực hỷ địa (Phạm: Pramuditàbhùmi) cũng gọi là Hoan hỷ địa; 2- Ly cấu địa (Phạm: Vimalàbhùmi) cũng gọi là Vô cấu địa; 3- Phát quang địa (Phạm: Prabhàkarìbhùmi) cũng gọi là Minh địa; 4- Diệm tuệ địa (Phạm: Prabhàkarìbhùmi) cũng gọi là Diệm địa. Tăng diệu địa; 5- Nan thắng địa (Phạm:Sudurjayàbhùmi) cũng gọi là Cực nan thắng địa; 6- Hiện tiền địa (Phạm: Abhimukhìbhùmi) cũng gọi là Hiện tại địa, Mục kiến địa; 7- Viễn hành địa (Phạm: Dùraôgamàbhùmi) cũng gọi là Thâm hành địa, Thâm viễn địa; 8- Bất động địa (Phạm: Acalà-bhùmi) cũng gọi là Sắc tự tại địa, Tịch diệt tịnh địa; 9- Thiện tuệ địa (Phạm: Sàdhumatìbhùmi) cũng gọi là Thiện tai ý địa, Thiện căn địa; 10/. Pháp vân địa (Phạm: Dharma= meghàbhùmi) cũng gọi là Tác vũ địa.

(20). Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; nói đủ là Thập vị cộng Tam thừa (còn gọi Tam thừa cộng thập địa, hoặc Cộng thập địa, Cộng địa. Tông Thiên thai gọi là Thông giáo thập địa) với tên gọi khác là Càn Huệ Địa hay Tánh quán địa (Phạm: Zukla-vidar= zanà-bhùmi); Tánh Địa hay Tánh địa nhơn (Phạm: Gotra-bhùmi); Bát Nhân Địa (Phạm: Awỉamakabhùmi); Cụ Kiến Địa hay Tu Đà Hoàn (phạm: Durzana-bhùmi); Bạc Địa hay Tư Đà Hàm (Phạm: Tanù-bhùmi); Ly Dục Địa hay A Na Hàm (Phạm: Vìta-ràga-bhùmi); Dĩ Biện Địa hay A La Hán (Phạm: Kftàvì-bhùmi); Bích Chi Phật Địa hay Độc giác Bồ đề; Bồ Tát Địa và Phật Địa. Tam thừa cộng thập địa liệt kê là ghi theo phần vị của Kinh ĐBN. Theo một số tông phái thì có tới năm loại thập địa khác nhau.

Xin đừng lẫn lộn Thập địa Bồ Tát và Thập vị cộng Tam thừa. Tuy cách diễn tả có khác nhưng kết quả chỉ là một. Tu đến chỗ rốt ráo rồi thì thành Phật như nhau. Nhưng khác ở chỗ Thập địa Bồ Tát phải trải qua 50 giai vị, leo từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng rồi mới vào được Thập địa. Còn Thập vị cộng Tam thừa phải tu từ Tánh quán địa, qua bốn bậc Tiểu thừa Thanh văn, Trung thừa Duyên giác, rồi mới tới Đại thừa là Bồ Tát hay Phật. Tam thừa cộng thập địa liệt kê như trên là ghi theo phần vị của Kinh ĐBN.

Theo một số tông phái thì có tới năm loại thập địa khác nhau. Cách phân chia và xếp loại cũng khác nhau và rất phức tạp. Lại càng phức tạp hơn nữa trong cách cách xưng hô danh vị do chuyển ngữ (từ Tạng sang Hán rồi từ Hán sang Việt) tạo thành. Nếu muốn thâm cứu, quý vị có thế tìm trong các websites Phật học, chúng tôi chỉ liệt kê, không đi vào chi tiết.

(21). Tất cả các pháp này tức là pháp Phật, còn gọi là thiện pháp, các pháp hi hữu, pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát… đã được đút kết và giải thích tỉ mỉ trong phần thứ I Tổng luận, được tách riêng ra, viết thành phần thứ I, một trong ba phần chính của thiên Tổng luận này. Tất cả pháp Phật liệt kê trên, được trùng tụng cả trăm, cả ngàn trong ĐBN, nên kể từ đây chúng tôi khi tóm lược chỉ liệt kê: Ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí v.v… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Khi đọc phần rút gọn này, độc giả nên hiểu là chúng tôi muốn nói đến tất cả pháp Phật hay tất cả pháp mầu Phật đạo. Xin lưu ý cho!

(22). Ngã, chúng sanh, thọ giả, mạng giả, sanh giả, dưỡng dục giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ giả, sử thọ giả, tri giả, kiến giả. Đây là 14 khoa danh tướng trong Bát thập nhất khoa (Tám mươi mốt khoa): 1- Ngã: Trong 5 ấm (sắc thọ tưởng hành thức), vọng chấp có thực ngã, ngã sở. 2- Chúng sinh: Trong pháp 5 ấm hòa hợp, vọng chấp có chúng sinh từ đó sinh ra. 3- Thọ giả: Trong 5 ấm, vọng chấp có thọ mệnh dài ngắn. 4- Mạng giả: Trong 5 ấm, vọng chấp mệnh căn của ta liên tục không dứt mất. 5- Sanh giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có khả năng sinh khởi các việc, trong vị lai ta sẽ sinh vào cõi người. 6- Dưỡng dục giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta sinh ra được cha mẹ nuôi nấng và ta có thể nuôi dưỡng người khác. 7- Tác giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có sức mạnh của thân thể, tay chân và có năng lực làm việc. 8- Sử tác giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có thể sai khiến người khác làm việc. 9- Khởi giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có năng lực khởi tạo các nghiệp tội phúc ở đời sau. 10- Sử khởi giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có thể sai khiến người khác khởi tạo các nghiệp tội phúc ở đời sau. 11- Thọ giả: Trong 5 ấm, vọng chấp thân sau của ta sẽ nhận chịu quả báo tội phúc. 12- Sử thọ giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có khả năng sai khiến người khác nhận chịu quả báo tội phúc đời sau. 13- Tri giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có 5 căn và nhận biết được 5 trần. 14- Kiến giả: Trong 5 ấm, vọng chấp ta có căn mắt, thấy được tất cả sắc tướng. Lại vọng chấp ta có thể khởi lên các tà kiến, chính kiến cũng gọi là Kiến giả. Mười bốn tri kiến trên đây đều là tên khác của Ngã. (Từ điển Phật Quang).

Vì Bát Nhã luôn luôn đề cập đến 81 khoa danh tướng Bát Nhã, được chép trong Đại Tạng Nhất Lãm Tập, quyển 3 mà chúng tôi đã trình bày trong Phần thứ I, Tổng luận. Quý vị có thể xem lại nếu muốn.

 

Lược giải:

 

1. Học Bát Nhã:

 

Trước hết để khuyến khích cũng như gây tin tưởng cho người tụng đọc thọ trì Bát nhã Ba la mật, Phật thuyết về huyền lực kỳ diệu của kinh này. Phật nói:

Muốn biết tất cả Tam thiên đại thiên thế giới từ những vật to lớn như hư không, đại địa, biển cả, đất nước gió lửa... cho đến những thứ nhỏ nhiệm nhất như các sông, ao, hồ, khe, suối, vũng nước... thì nên học Bát nhã Ba la mật. Muốn chẻ một sợi lông làm trăm ngàn phần, rồi lấy một phần của sợi lông ấy, đưa hết nước trong biển lớn, các sông, ao, hồ, khe suối, trong Tam thiên đại thiên thế giới, trút vào vô biên thế giới ở phương khác, mà không làm tổn hại đến các loài thủy tộc, thì nên học Bát nhã Ba la mật. Muốn dùng một hơi thổi mà có thể dập tắt tất cả cuồng phong hỏa hoạn đốt khắp cả trời đất các núi lớn nhỏ cùng vạn vật trong đại địa, nát ra như cám khiến ngưng ngay, thì phải học Bát nhã Ba la mật. Muốn dùng một sợi lông buộc núi Tô mê lô, núi Luân vi và các núi nhỏ khác, cùng vạn vật trong đại địa, ném qua vô lượng, vô số, vô biên thế giới phương khác, mà không tổn hại các loài hữu tình, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

“Nếu đại Bồ Tát muốn khiến hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng oai lực mình, những ai phạm giới, đều trụ trong nhóm giới; những ai tán loạn, đều trụ trong nhóm định; những ai ngu si, đều trụ trong nhóm tuệ; những ai chưa được giải thoát, đều trụ trong nhóm giải thoát; những ai chưa được giải thoát tri kiến, đều trụ trong nhóm giải thoát tri kiến, thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát muốn khiến hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng thần lực mình, ai chưa thấy được chân lý, thấy được chân lý, an trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác, cho đến chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, thì nên học Bát nhã Ba la mật v.v...”

“Nếu đại Bồ Tát muốn khiến cho hữu tình, trong vô số thế giới ở mười phương, tự dùng oai lực mình, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người điên được tỉnh, người loạn được định, người nghèo được giàu, người không có áo được áo, người đói được ăn, người khát được uống, người bệnh được lành, người xấu được đẹp, người tàn tật được lành lặn, người thiếu giác quan được đầy đủ, người sầu muộn được tỉnh, người mỏi mệt được khỏe khoắn, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

Nói tóm lại, để gióng lên tiếng chuông mở đầu cho cuộc thuyết pháp “Đại Bát Nhã Ba La Mật” trường kỳ, tại bốn chỗ khác nhau ròng rã suốt 22 năm(1), Phật nhằm gởi một thông điệp cho toàn cõi Tam thiên đại thiên thế giới này rằng: Muốn có đầy đủ uy lực, các pháp mầu, các thần thông, các biện tài, các công đức thắng diệu và muốn Giác ngộ, được Nhất thiết trí trí, trở thành Vô thượng Bồ đề để thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp hóa độ cho toàn thể chúng sanh, thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nhưng phải lấy vô trụ, vô đắc, vô xả, vô hộ, vô thủ, vô cần, vô tư, vô trước…làm phương tiện!

Vô trụ là không trụ các chỗ, không trụ ở lành dữ, có không… Vô đắc là không được, không mất. Vô thủ là không nắm, không bỏ. Vô hộ là phạm tội hay không phạm đều không. Vô cần là tinh tấn hay giải đãi không khác. Vô tư, định hay loạn như nhau. Vô trước là tánh tướng đều không, tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc, nên không chấp trước v.v…

 

2. Phụng bát:

 

Nếu học và hành như thế có thể thành tựu các công đức, “thì khi ấy, Tứ đại thiên vương ở thế giới Tam thiên đại thiên, đều rất vui mừng, cùng khởi lên ý nghĩ: Nay, chúng ta nên đem bốn bát dâng lên Bồ Tát này, như xưa kia, các Thiên vương đã dâng bát lên các đức Phật quá khứ. Chúng ta nên thỉnh Bồ Tát như thế, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển bánh xe pháp mầu nhiệm, đem lại lợi ích cho tất cả.

Các thiện nam, thiện nữ trong các thế giới đó, hoặc thấy hoặc nghe, đều rất vui mừng, cùng khởi lên ý nghĩ: Chúng ta nguyện sẽ làm cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, quyến thuộc, bằng hữu với Bồ Tát như thế; nhờ phương tiện này mà tu hành các thiện nghiệp, cũng sẽ chứng được quả vị Giác ngộ tối cao”. Nhưng muốn được như thế thì:

 

3. Phải học, hành và quán Bát Nhã như thế nào?

 

Như thật quán tất cả pháp là không. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp là không, chứ không phải do không mà không. Có lẽ Phật thuyết quá sớm phép quán Không này khi mở đầu phẩm “Học Quán”. Tuy nhiên, để hiểu rõ Tánh Không Bát Nhã nên cũng phải luận sơ qua sự tự chứng của Phật.

Đối với Phật tất cả pháp đều duyên hội (hay duyên sanh) do nhiều yếu tố hợp lại thành như cây lúa. Cây lúa không tự sanh. Nó được sanh ra là do duyên chính (hạt=tự) và duyên phụ (đất nước, phân bón, ánh sáng mặt trời, sự chăm sóc của con người= tha). Nhờ có nhân chánh và nhân phụ (tự và tha) hợp lại nên mới có cây lúa. Cũng vậy, không có pháp nào tự sanh, không có pháp nào có bản thể riêng của nó nên nói không có tự tánh. Không có tự tánh nên nói là vô sanh. Vô sanh có nghĩa là không tự nó sanh ra.

Toàn bộ quan điểm này nằm gọn trong câu nói “Tất cả pháp là không, không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh, nên bảo là không, chứ không phải là không có”, trở thành quan điểm trọng yếu của “chủ thuyết” duyên khởi Tánh không, mà Phật (trong giáo lý thống nhất được ghi lại thuộc hệ thống kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền) cho là tự chứng của Phật. Nói theo thế tục nên dùng từ chủ thuyết, nói theo đạo Phật là giác biết, tự chứng của Phật.

Chúng ta khó chấp nhận sự tự chứng này phải không? Phải tu tập, quán tưởng nhiều mới hiểu sự chứng biết này. Trong nhất thời khó biết khó giác. Nên phẩm này mới có tên là “Học Quán”, nghĩa là mới bắt đầu học và quán lần hồi mới hiểu được. Toàn bộ hệ Bát Nhã cũng như một số các Kinh Phật nói nhiều về chỗ này.

Bây giờ, chúng ta bàn qua câu Phật bảo: “Xá Lợi Tử! Khi đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, nên như thật quán: Có Bồ Tát mà chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có tên Bồ Tát, chẳng thấy có Bát Nhã, chẳng thấy có tên Bát Nhã, chẳng thấy tu hành, chẳng thấy chẳng tu hành”.

Trong các đoạn kinh khác của ĐBN, kinh nói: Năm uẩn tức thị Bồ Tát. Sắc thọ tưởng hành thức tức thị 5 thủ uẩn. Các uẩn này chính là sắc thân Bồ Tát, mà sắc thân Bồ Tát lại do tứ đại hợp thành giống như bất cứ pháp hữu vi nào khác. Phật “dạy hết thảy pháp hữu vi đều là vô thường, do 5 ấm hòa hợp mà có, chẳng phải là thật có. Nên bảo là không”. Đã là pháp hữu vi thì phải chịu qui luật vô thường chi phối. Khi thân hoại mệnh chung, tứ đại phân tán, cát bụi trở về với cát bụi, nên gọi là không. Vậy, Bồ Tát cũng không. Thấy như vậy là không còn chấp ngã chấp pháp nữa.

Còn tên của Bồ Tát là cái do con người đặt ra, chỉ do người khác gán cho mình, chẳng phải là thật có. Chẳng thấy Bồ Tát, chẳng thấy tên Bồ Tát vì tất cả đều không thật, giả có nên bảo là không. Bát Nhã cũng như vậy, nên cũng chẳng thấy có Bát Nhã, chẳng thấy có tên Bát Nhã, chẳng thấy tu hành, chẳng thấy ngươi tu, chẳng người hành. Tất cả đều thi thiết giả có, nên bảo là không.

 

Vì vậy, phẩm thứ hai, nói về “Phụng Bát”, tập 2, quyển 35, Đại Trí Độ Luận. Phật dạy:

“Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Bát Nhã Ba la mật, Bồ Tát chẳng thấy mình là Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát, chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng thấy mình chẳng tu Bát nhã Ba la mật.

Vì sao? Vì Bồ Tát, danh tự Bồ Tát là tự tánh “Không”. Trong “Không” chẳng có sắc, chẳng có thọ, chẳng có hành, thức. Lại nữa, ly sắc cũng chẳng có “không”, nhẫn đến ly thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có “không”. Sắc tức là “không” và “không” tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức tức là “không” và “không” tức là thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao? Vì Bồ Đề chỉ có ở nơi danh tự, Bồ Tát chỉ có ở nơi danh tự nên đều là “không”.

Vì sao? Vì Thật tánh của hết thảy các pháp vốn chẳng có sanh, chẳng có diệt, chẳng có cấu, chẳng có tịnh.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát Ba la mật thực hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy sanh cũng chẳng thấy diệt, chẳng thấy cấu cũng chẳng thấy tịnh.

Vì sao? Vì danh tự cũng do duyên hòa hợp mà có. Chỉ do phân biệt, ức tưởng mà các pháp giả danh được diễn bày vậy thôi.

Bồ Tát Ma ha tát khi thực hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy có danh pháp, và vì chẳng thấy có danh pháp nên chẳng có chấp trước”.

 

Đại Trí Độ Luận giải thích tiếp:

Người thực hành Bát nhã Ba la mật phải quán các pháp đều là giả danh, nên chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật... Vì sao? Vì ở nơi thật tướng hết thảy các pháp đều là “không”, hết thảy các pháp chỉ có ở nơi danh tự, đều do nhân duyên hòa hợp sanh, đều là tự tánh “không”.

Trước đây đã nói các pháp đều là giả danh, nay nếu lại biết rõ Bát nhã Ba la mật cũng là giả danh thì phá được tất cả hý luận Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật cũng là tự tánh “không”, nên chẳng thể được (bất khả đắc), chẳng thể thấy (bất khả kiến) vậy. Ví như củi cháy mà giả danh có lửa. Tuy rằng lửa chẳng có thật sự mà có thể đốt nóng, có thể thiêu rụi các vật vậy”.

 

Muốn tin và hành Bát Nhã là không, thì phải vượt ra khỏi chấp ngã chấp pháp. Đại Trí Độ luận thuyết tiếp:

“Trước đây đã nói Bát nhã Ba la mật là thật pháp, nhưng muốn vượt ra khỏi sự chấp pháp đó, thì phải tin và hành Bát nhã Ba la mật. Tin và hành mới vượt ra khỏi sự chấp về pháp Bát nhã Ba la mật được. Vì sao? Vì có tin, có hành Bát nhã Ba la mật, mới biết rõ Bát nhã Ba la mật cũng là “không”, là bất khả đắc. Nếu vào được Bát nhã Ba la mật rồi, thì sẽ biết rõ 5 ấm đều là “không”, trong “không” chẳng có sắc, mà ly sắc cũng chẳng có “không”...

Đối với người mới nghe Bát nhã Ba la mật thì chưa có thể vì họ nói về hết thảy pháp đều “không” (nhất thiết pháp không) được. Vì sao? Vì họ còn nặng về chấp ngã, còn dùng 5 tình để cầu pháp, do vậy mà còn ức tưởng, phân biệt, từ đó dẫn sanh chấp có tướng ngã. Vì họ chẳng biết 5 tình là “không”, nên duyên nơi ức tưởng phân biệt mà khởi chấp 5 tình là thật. Do vậy chẳng có thể phá được chấp ngã. Nếu họ được nghe thuyết về vô ngã, thì họ mới có thể nhận biết được sắc tức là “không”
và “không” tức là sắc. Nhưng nếu ngay lúc đầu nói tất cả các pháp đều là “không”, thì họ chẳng sao tin được. Bởi vậy trước phải nói về “chúng sanh không” (hay nhân không) để phá chấp về ngã và ngã sở. Khi đã phá được ngã và ngã sở rồi thì sẽ biết rõ hết thảy pháp đều là “không” cả. Rồi từ đó mới ly được dục, mới vào được đạo Bồ Đề, mới vào được Niết bàn tịch tịnh.

Lại nữa, Bát nhã Ba la mật là pháp rốt ráo “không”, nên Bồ Tát chẳng thấy có mình thật hành Bát nhã Ba la mật nữa”.

 

Nhưng tại sao lại nói chẳng hành Bát Nhã? Chẳng hành Bát Nhã làm sao giác ngộ, đắc Nhất thiết trí trí. Đại Trí Độ Luận giải thích tiếp:

Bồ Tát đã hành thâm Bát nhã Ba la mật, thâm nhập pháp “không”, nên nói là chẳng thấy chẳng hành vậy.

Đối với một vị quốc vương, nếu chỉ được một vật nhỏ thì chưa có thể gọi là được của. Cũng như vậy, đối với Bồ Tát nếu hành Bát nhã Ba la mật mà còn ít trí huệ, còn vướng mắc kiết sử, thì chưa có thể gọi là hành Bát nhã Ba la mật được. Phật là vị pháp vương, dạy cho các Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật. Nhưng nếu Bồ Tát chỉ hành được một phần nhỏ, thì cũng chưa có thể gọi là hành Bát nhã Ba la mật được.

Lại nữa, người hành Bát nhã Ba la mật chẳng sanh kiêu mạn, chẳng có tự nói là mình có hành Bát nhã Ba la mật. Vì nếu nói có hành Bát nhã Ba la mật thì còn chấp tướng. Người hành Bát nhã Ba la mật cũng chẳng tự nói là mình chẳng hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì nếu nói chẳng có hành Bát nhã Ba la mật thì sanh tâm giải đãi. Như vậy là còn vướng mắc vào 2 chấp CÓ và KHÔNG (hữu và vô).

Người thật sự hành Bát nhã Ba la mật thì phải là người hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng thấy là mình có hành Bát nhã Ba la mật, lại cũng chẳng thấy là mình chẳng có hành Bát nhã Ba la mật. Được như vậy là phá được cả hai chấp CÓ và KHÔNG, là được giải thoát.

Lại nữa, chẳng thấy mình có hành Bát nhã Ba la mật là dứt các hý luận, chẳng thấy mình chẳng hành Bát nhã Ba la mật là dứt tâm giải đãi. Ví như người cỡi ngựa mà thấy ngựa chạy quá mau thì phải kềm lại, thấy ngựa chạy quá chậm thì thúc ngựa chạy mau hơn. Như vậy là còn trụ chấp nơi tốc độ của con ngựa. Cũng như vậy, người hành Bát nhã Ba la mật mà còn có phân biệt là mình có hành hay mình chẳng có hành là còn trụ chấp nơi tướng, là chưa được giải thoát.

Lại nữa, Phật dạy các pháp do duyên sanh mà có danh, có nghĩa vậy. Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là tự tánh “không”, Bồ Tát cũng chỉ là danh pháp, Bồ Đề cũng chỉ là danh pháp, Bát nhã Ba la mật cũng chỉ là danh pháp. Tất cả đều là “không”, đều là bất khả đắc.

KHÔNG nói ra đây, có nghĩa là danh cũng “không”, pháp cũng “không”.

KHÔNG nói ra đây có nghĩa là chẳng có một pháp nào được dựng lập, từ các pháp thô sắc nhẫn đến pháp “không” vậy.

Tuy nhiên “không” cũng chẳng có ly sắc. Vì sao? Vì nhằm phá sắc mà nói “không”. Cũng như vậy, “không” cũng chẳng có ly thọ, tưởng, hành, thức. Tất cả 5 ấm đều “không”.

Trước đây nói “chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát, chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật...” Nay nói chẳng thấy luôn các nhân duyên tạo lập ra các danh tự Bồ Tát, Bồ Đề, Bát nhã Ba la mật... Bởi vậy nên nói là rốt ráo “không”.

 

Toàn bộ Bát Nhã Tánh Không gói ghém trong lời luận giảng này. Thế nào là nhất thiết pháp không? Thế nào là giả danh trong danh tự ngôn thuyết Bát Nhã? Thế nào là học và hành Bát Nhã? Trên đây là các pháp tối cao của Bát nhã Ba la mật. Thoáng đọc không thể nào một sớm một chiều mà có thể thâm hiểu ngay được. Phải có thời gian! Chỉ có người lợi căn, hiểu liền hiểu, không cần đắng đo suy nghĩ. Nếu căn tánh chậm lục thời phải đọc, suy nghĩ tư duy nhiều. Quý vị còn rất nhiều cơ hội, vì các giáo lý này sẽ được Phật xiển dương nhiều lần trong toàn bản ĐBN. Đọc tới quý vị sẽ rõ!

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Phật thuyết pháp tổng cộng 45 năm nói theo kinh sách Nguyên thỉ, còn kinh sách Bắc tông thì nói 49 năm, chia ra như sau:

 

Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt

A Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát

Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm

Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.

 

Dịch:

 

Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày

A Hàm mười hai, Phương Đẳng tám

Hai mươi hai năm nói Bát Nhã

Pháp Hoa, Niết Bàn cộng tám năm.

 

Riêng Bát Nhã, Phật thuyết tổng cộng 22 năm./.

 

---o0o---

 

 


 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com