Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

46. Phẩm “Phật Mẫu”

28/08/202010:37(Xem: 8429)
46. Phẩm “Phật Mẫu”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-433

 

PHẨM “PHẬT MẪU”

Phần sau quyển 441 đến phần đầu quyển 442, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Phật Mẫu”, quyển 305 đến phần đầu quyển 308,

Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 

Gợi ý:

Phẩm này của Hội thứ II tương đương với phẩm đồng tên “Phật Mẫu”(Mẹ của chư Phật), tập 4, quyển 69 của Đại Trí Độ Luận, nêu lên một số vấn đề như: Vì sao Bát nhã Ba la mật thậm thâm năng sanh chư Phật? Vì sao Bát nhã Ba la mật chỉ thật tướng các pháp thế gian? Vì sao chư Phật từ Bát nhã Ba la mật mà sanh? Thế nào là tướng thế gian? Nhờ phẩm này mà chúng ta biết rõ thế gian (Tục đế) so với xuất thế gian (Thánh đế hay Chân đế) khác nhau như thế nào để từ đó chúng ta rút ra kinh nghiệm sống và tu cho phù hợp với lẽ đạo?

 

Tóm lược:

 

1. Bát nhã Ba la mật có công năng xuất sanh chư Phật. Vì sao?

 

Thiện Hiện! Như người mẹ có nhiều con, hoặc năm, hoặc mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, hoặc trăm, hoặc ngàn. Khi mẹ bệnh, những người con đều gắng sức tìm phương thuốc chữa trị và nghĩ: Phải làm cách nào để mẹ chúng ta mau lành, được an vui sống lâu, thân không bị các khổ, tâm hết sầu lo. Bấy giờ, những người con lo cho mẹ bằng cách tìm cách che thân mẹ, không cho ruồi muỗi, rắn, bò cạp, gió máy v.v... làm hại. Lại dùng các thứ vật ưa thích cung kính dâng lên mẹ và nói rằng: “Mẹ là người hiền từ, sanh thành dưỡng dục chúng con, chỉ dạy các sự nghiệp thế gian, chúng con lẽ nào không báo đền”.

Này Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng vậy, thường dùng Phật nhãn xem xét, hộ niệm Bát Nhã. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát Nhã thường sanh ra tất cả Phật pháp cho chúng ta, thường ban cho chúng ta Nhất thiết tướng trí, thường chỉ ra thật tướng các pháp thế gian. Vô lượng, vô số, vô biên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới đang thanh tịnh thuyết pháp, cũng thường dùng Phật nhãn xem xét, hộ niệm Bát Nhã. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật thường sanh ra Phật pháp cho tất cả Như Lai ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương. Lại thường ban cho chư Như Lai Nhất thiết tướng trí; thường chỉ ra thật tướng các pháp thế gian. Do đó, nên chư Phật của chúng ta thường dùng Phật nhãn xem xét, hộ niệm Bát Nhã để đền ơn, không ngừng nghỉ. Vì sao? Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật đều do Bát Nhã như thế sanh ra. Các pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều do Bát Nhã như thế sanh ra. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; năm loại mắt, sáu phép thần thông đều do Bát Nhã thậm thâm như thế sanh ra. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều do Bát Nhã thậm thâm như thế sanh ra; tất cả môn Đà la ni, môn Tam ma địa, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều do Bát Nhã như thế sanh ra. Ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, sắc thân mầu nhiệm đều do Bát Nhã như thế sanh ra. Quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều do Bát Nhã như thế sanh ra. Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, chư Phật Thế Tôn đều do Bát Nhã thậm thâm như thế sanh ra (nói chung là tất cả pháp Phật).

Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã đắc, hiện và sẽ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đều do Bát Nhã thậm thâm. Vì vậy, Bát Nhã đối với chư Như Lai có ân đức lớn. Nên chư Phật thường dùng Phật nhãn xem xét, hộ niệm.

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, nếu thường ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã thậm thâm này thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường dùng Phật nhãn xem xét, hộ niệm khiến cho thân tâm họ luôn được an vui, việc tu thiện nghiệp được thông suốt.

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, nếu thường ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát Nhã thậm thâm này thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương thế giới đều cùng hộ niệm, giúp họ đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề quyết không thối chuyển.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vậy, thế nào là Bát Nhã thậm thâm thường sanh ra tất cả Phật pháp cho chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường ban Nhất thiết tướng trí cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường sanh chư Phật, thường chỉ thật tướng các pháp thế gian v.v…?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường sanh ra Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Như vậy, vô lượng, vô biên công đức của Như Lai đều được sanh trưởng từ Bát Nhã thậm thâm như thế. Bởi được các công đức của chư Phật như thế, nên gọi là Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường sanh ra và ban Phật pháp, Nhất thiết tướng trí cho tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Do vậy Ta nói: “Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường sanh ra tất cả Phật pháp cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường ban Nhất thiết tướng trí, cũng nói Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác từ đó sanh ra”. Bát Nhã thậm thâm thường chỉ thật tướng các pháp thế gian là thường chỉ thật tướng năm uẩn thế gian. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nói thật tướng năm uẩn thế gian.

Lúc ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát nhã Ba la mật thậm thâm chỉ thật tướng năm uẩn thế gian cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát Nhã đều không thuyết năm uẩn có thành có hoại, có sanh có diệt, có tiếp nối có đoạn, có nhiễm có tịnh, có tăng có giảm, có vào có ra; đều không nói năm uẩn có quá khứ, có vị lai, có hiện tại, có thiện, có bất thiện, có vô ký, có thuộc ở cõi Dục, có thuộc cõi Sắc, có thuộc cõi Vô sắc. Vì sao? Thiện Hiện! Không phải pháp không, vô tướng, vô nguyện có thành có hoại, có sanh có diệt, có tiếp nối có đoạn dứt, có nhiễm có tịnh, có tăng có giảm, có vào có ra, có quá khứ, có vị lai, có hiện tại, có thiện, có bất thiện, có vô ký, có thuộc ở cõi Dục, có thuộc cõi Sắc, có thuộc cõi Vô sắc. Không phải pháp không sanh không diệt, không tạo không tác, không tánh, mà có thành có hoại, có sanh có diệt, có tiếp nối có đoạn dứt, có nhiễm có tịnh, có tăng có giảm, có vào có ra, có quá khứ, có vị lai, có hiện tại, có thiện có bất thiện, có vô ký, có thuộc ở cõi Dục, có thuộc cõi Sắc, có thuộc cõi Vô sắc.

Này Thiện Hiện! Như vậy, Bát Nhã thậm thâm nói thật tướng năm uẩn cho tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Tướng năm uẩn đây tức là thế gian. Vì vậy, nên thế gian cũng không thành không hoại, không sanh không diệt, không nối tiếp không đoạn dứt, không nhiễm không tịnh, không tăng không giảm, không vào không ra, không quá khứ, không vị lai, không hiện tại, không thiện, không bất thiện, không vô ký, không thuộc cõi Dục, không thuộc cõi Sắc, không thuộc cõi Vô sắc và không các tướng. (Q. 441, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều y cứ Bát Nhã thậm thâm như thế, thường khắp biết vô lượng, vô số, vô biên tâm hành sai khác của hữu tình. Nhưng trong nghĩa thậm thâm Bát Nhã đây không hữu tình, cũng không thi thiết hữu tình khá được. Không sắc, cũng không thi thiết sắc khá được. Không thọ tưởng hành thức, cũng không thi thiết thọ tưởng hành thức khá được. Không mười hai xứ, mười tám giới, cũng không thi thiết mười hai xứ, mười tám giới khá được. Không nhãn xúc, cũng không thi thiết nhãn xúc khá được. Không nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, cũng không thi thiết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc khá được. Không nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng không thi thiết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ khá được. Không nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng không thi thiết thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ khá được. Không địa giới, cũng không thi thiết địa giới khá được. Không thủy hỏa phong không thức giới, cũng không thi thiết thủy hỏa phong không thức giới khá được. Không mười hai nhân duyên, cũng không thi thiết mười hai nhân duyên khá được. Không sáu Ba la mật, cũng không thi thiết sáu Ba la mật khá được. Không nội không, cũng không thi thiết nội không khá được. Cho đến không vô tánh tự tánh không, cũng không thi thiết vô tánh tự tánh không khá được. Không 37 pháp trợ đạo, cũng không thi thiết 37 pháp trợ đạo khá được. Như vậy cho đến không Như Lai mười lực, cho đến không mười tám pháp Phật bất cộng, cũng không thi thiết mười tám pháp Phật bất cộng khá được. Không Nhất thiết trí, cũng không thi thiết Nhất thiết trí khá được. Không Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, cũng không thi thiết Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khá được.

Thiện Hiện! Như vậy, Bát Nhã thậm thâm nói chỉ thật tướng thế gian cho tất cả Như Lai Ứng Chánh đẳng giác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thậm thâm không thị hiện sắc; không thị hiện thọ, tưởng, hành, thức. Không thị hiện mười hai xứ, không thị hiện mười tám giới. Không thị hiện nhãn xúc; không thị hiện nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Không thị hiện các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; không thị hiện các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Không thị hiện địa giới; không thị hiện thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Cũng không thị hiện tất cả pháp Phật. Không thị hiện chuyển bánh xe diệu pháp. Không thị hiện thành thục hữu tình; không thị hiện nghiêm tịnh cõi Phật. Vì sao? Thiện Hiện! Trong nghĩa thậm thâm của Bát Nhã như thế, Bát Nhã còn vô sở hữu, bất khả đắc, huống nữa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến tất cả pháp Phật có thể đắc hay thị hiện được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả hữu tình trong ba cõi, năm đường hoạt động nói năng, hoặc có sắc hoặc không sắc, hoặc có tưởng hoặc không tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, hoặc chẳng phải không tưởng, hoặc thế giới này, hoặc vô lượng, vô số, vô biên thế giới khác trong mười phương, các hữu tình này hoặc nhiếp tâm hoặc loạn tâm, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ nghiêm tịnh cõi Phật đều như thật biết.

Thiện Hiện! Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ nghiêm tịnh cõi Phật đều như thật biết nhiếp tâm, hoặc loạn tâm, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký của các loài hữu tình? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm do vì pháp tánh, nên năng như thật biết các loại hữu tình biết nhiếp tâm, hoặc loạn tâm, hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Do pháp tánh nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như thật biết các loại tâm như vậy.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là do pháp tánh mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết các loại tâm như vậy?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm như thật biết pháp tánh trong pháp tánh còn vô sở hữu, bất khả đắc, huống nữa có hữu tình nhiếp tâm, loạn tâm, thiện, bất thiện, vô ký mà có thể đắc.

 

Thiện Hiện! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm như thật biết nhiếp tâm hay loạn tâm hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký của các loài hữu tình?

Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm do tận vậy, lìa nhiễm vậy, diệt, đoạn vậy, vắng lặng, viễn ly vậy và như thật biết nhiếp tâm hay loạn tâm hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký của các loài hữu tình.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm do tận, lìa nhiễm, diệt, đoạn, vắng lặng, viễn ly nên như thật biết nhiếp tâm hay loạn tâm hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký của các loài hữu tình?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm như thật biết các tánh tận, lìa nhiễm, diệt, đoạn, vắng lặng, viễn ly trong tánh tận… còn vô sở hữu, bất khả đắc, huống nữa có hữu tình nhiếp tâm hay loạn tâm, thiện, bất thiện, vô ký, có thể đắc.

Thiện Hiện! Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm do tận, lìa nhiễm, diệt, đoạn, vắng lặng, viễn ly, như thật biết nhiếp tâm hay loạn tâm, hoặc thiện, hoặc bất thiện hoặc vô ký của các loài hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thật biết các loài hữu tình có tâm tham, tâm lìa tham, có tâm sân, tâm lìa sân, có tâm si, tâm lìa si.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình có tâm tham, tâm lìa tham, có tâm sân, tâm lìa sân, có tâm si, tâm lìa si?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm như thật biết các loài hữu tình kia có tâm tham, trong thật tánh chẳng có tâm tham, chẳng có tâm lìa tham. Vì sao? Vì trong thật tánh, tâm và tâm sở còn vô sở hữu, bất khả đắc, huống nữa có tâm tham, tâm lìa tham có thể có. Cũng như thật biết các loài hữu tình kia có tâm sân, trong thật tánh chẳng có tâm sân, chẳng có tâm lìa sân. Vì sao? Vì trong thật tánh, tâm và tâm sở pháp còn vô sở hữu, bất khả đắc, huống nữa có tâm sân, tâm lìa sân có thể có. Cũng biết như thật các loài hữu tình kia có tâm si, trong thật tánh chẳng có tâm si, chẳng có tâm lìa si. Vì sao? Vì trong thật tánh, tâm và tâm sở còn vô sở hữu, bất khả đắc, huống nữa có tâm si, tâm lìa si có thể có.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm như thật biết các loài hữu tình kia có tâm tham, sân, si, chẳng có tâm tham, sân, si, chẳng có tâm lìa tham, sân, si. Vì sao? Vì hai tâm như thế không hòa hợp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình có tâm rộng lớn.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm như thật biết các loài hữu tình kia có tâm rộng lớn?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm rộng lớn, không lớn, không nhỏ, không đi, không đến, không sanh, không diệt; không trụ, không khác, không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì tự tánh tâm xa lìa tất cả, nên Phật không thấy tâm có lớn, có nhỏ, có đi, có đến, có sanh, có diệt, có trụ, có khác, có nhiễm, có tịnh. Vì sao? Vì tự tánh tâm đều vô sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc; nào có lớn, nào có nhỏ, nào có đi, nào có đến, nào có sanh có diệt, nào có trụ có khác, nào có nhiễm có tịnh? Thiện Hiện! Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, biết như thật các loài hữu tình kia có tâm rộng lớn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình có tâm vô lượng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm vô lượng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm vô lượng, chẳng có lượng, chẳng vô lượng; chẳng trụ, chẳng không trụ, chẳng đi, chẳng không đi. Vì sao? Vì tự tánh tâm xa lìa tất cả, nên Phật không thấy tâm có lượng, có vô lượng, có trụ, có không trụ, có đi, có không đi. Vì sao? Vì tâm tánh vô lượng không chỗ nương tựa thì làm sao nói có lượng, có vô lượng, có trụ, có không trụ, có đi, không có đi. Tự tánh tâm đây đã không chỗ nương tựa cũng vô sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc, thì làm sao có lượng, sao có vô lượng, sao có trụ, sao không trụ, sao có đi không đi? Thiện Hiện! Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm vô lượng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã, như thật biết các loài hữu tình có tâm vô kiến, vô đối.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm vô kiến, vô đối?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm vô kiến, vô đối đều không có tướng tâm. Vì sao? Vì tự tướng của tâm là Không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã, như thật biết các loài hữu tình có tâm vô sắc chẳng thể thấy được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao chư Như Lai y cứ Bát Nhã biết như vậy?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loài hữu tình kia có tâm vô sắc chẳng thể thấy; ngũ nhãn của chư Phật cũng không thể thấy được. Vì sao? Vì tự tánh của tâm là Không.

 

(Tại sao Như Lai y cứ vào Bát Nhã như thật biết các loại

hữu tình có tâm và tâm sở hoặc nổi chìm hoặc co duỗi?

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết các loại hữu tình có tâm và tâm sở hoặc nổi, hoặc chìm, hoặc co, hoặc duỗi.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao chư Như Lai y cứ Bát Nhã biết như vậy?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết tâm và tâm sở của các loài hữu tình kia nổi, chìm, co, duỗi đều nương sắc, thọ, tưởng, hành, thức phát sanh.

Thiện Hiện! Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết tâm, tâm sở của các loài hữu tình kia hoặc nổi, hoặc chìm, hoặc co, hoặc duỗi. Nghĩa là các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết tâm, tâm sở của các loài hữu tình kia nổi, chìm, co, duỗi, hoặc nương sắc chấp ngã và thế gian thường, vô thường, cũng thường, cũng vô thường, chẳng thường, chẳng vô thường: Đây là chắc thật, ngoài ra đều là giả dối. Hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian thường, vô thường, cũng thường, cũng vô thường, chẳng thường, chẳng vô thường: Đây là chắc thật, ngoài ra đều là giả dối. Hoặc nương sắc chấp ngã và thế gian hữu biên, vô biên, cũng hữu biên, cũng vô biên, chẳng hữu biên, chẳng vô biên: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp ngã và thế gian hữu biên, vô biên, cũng hữu biên, cũng vô biên, chẳng hữu biên, chẳng vô biên: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Hoặc nương sắc chấp mạng căn tức thân: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Hoặc nương sắc chấp mạng căn khác thân: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Hoặc nương thọ, tưởng, hành, thức chấp mạng căn tức thân: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Hoặc nương thọ, tưởng, hành thức chấp mạng căn khác thân: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Hoặc nương sắc chấp Như Lai sau khi chết có tái sanh. Hoặc nương sắc chấp Như Lai sau khi chết không tái sanh. Hoặc nương sắc chấp Như Lai sau khi chết cũng có tái sanh, cũng không tái sanh. Hoặc nương sắc chấp Như Lai sau khi chết không tái sanh, chẳng phải không tái sanh: Đây là chắc thật, ngoài ra đều giả dối. Nương thọ, tưởng, hành, thức chấp Như Lai cũng lại như thế.

Thiện Hiện! Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết tâm và tâm sở của các loài hữu tình kia hoặc nổi hoặc chìm, hoặc co hoặc duỗi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết về sắc, cũng như thật biết về thọ, tưởng, hành, thức.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao chư Như Lai y cứ Bát nhã Ba la mật mà biết như vậy?

 

(Thế nào là chơn như của các pháp hay pháp như?)

 

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, như thật biết về sắc như (chơn như của sắc)(1), không biến đổi, không phân biệt, không tướng trạng, không tác dụng, không hý luận, không sở đắc. Cũng như thật biết về thọ, tưởng, hành, thức như (chơn như của thức), không biến đổi, không phân biệt, không tướng trạng, không tác dụng, không hý luận, không sở đắc.

Thiện Hiện! Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã như thật biết về sắc, cũng như thật biết về thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Năm uẩn như tức hữu tình như. Hữu tình như tức nổi, chìm, co, duỗi như. Nổi, chìm, co, duỗi như tức năm uẩn như. Năm uẩn như tức mười hai xứ như. Mười hai xứ như tức mười tám giới như. Mười tám giới như tức tất cả pháp như. Tất cả pháp như tức sáu pháp Ba la mật như. Sáu pháp Ba la mật như tức ba mươi bảy pháp phần Bồ đề như, ba mươi bảy pháp phần Bồ đề như tức mười tám pháp không như. Mười tám pháp không như tức tám giải thoát như. Tám giải thoát như tức tám thắng xứ như. Tám thắng xứ như tức chín định thứ đệ như. Chín định thứ đệ như tức Phật mười lực như. Phật mười lực như tức bốn điều không sợ như. Bốn điều không sợ như tức bốn sự hiểu biết thông suốt như. Bốn sự hiểu biết thông suốt như tức đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả như. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả như tức mười tám pháp Phật bất cộng như. Mười tám pháp Phật bất cộng như tức Nhất thiết trí như. Nhất thiết trí như tức Đạo tướng trí như. Đạo tướng trí như tức Nhất thiết tướng trí như. Nhất thiết tướng trí như tức thiện pháp như. Thiện pháp như tức bất thiện pháp như. Bất thiện pháp như tức vô ký pháp như. Vô ký pháp như tức thế gian pháp như. Thế gian pháp như tức xuất thế gian pháp như. Xuất thế gian pháp như tức hữu lậu pháp như. Hữu lậu pháp như tức vô lậu pháp như. Vô lậu pháp như tức hữu vi pháp như. Hữu vi pháp như tức vô vi pháp như. Vô vi pháp như tức quá khứ pháp như. Quá khứ pháp như tức vị lai pháp như. Vị lai pháp như tức hiện tại pháp như. Hiện tại pháp như tức Dự lưu quả như. Dự lưu quả như tức Nhất lai quả như. Nhất lai quả như tức Bất hoàn quả như. Bất hoàn quả như tức A la hán quả như. A la hán quả như tức Độc giác Bồ đề như. Độc giác Bồ đề như tức tất cả Bồ Tát hạnh như. Tất cả Bồ Tát hạnh như tức chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như tức tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như tức tất cả hữu tình như. Hoặc tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như, hoặc tất cả hữu tình như, hoặc tất cả pháp như không hai, không khác, là một như. Các như như vậy không khác biệt nên không hoại, không tận, không phân biệt.

Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y Bát Nhã chứng tất cả pháp rốt ráo như mới được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do đấy nên nói Bát Nhã năng sanh chư Phật, là mẹ chư Phật, năng chỉ thật tướng thế gian.

Thiện Hiện! Như vậy! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác y cứ Bát Nhã thậm thâm, hiểu biết như thật tất cả pháp như tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác. Do hiểu như thật tướng như, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thậm thâm chứng đắc tất cả pháp như, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, rất là sâu xa, khó thấy, khó hiểu.

Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều dùng tất cả pháp như, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng đổi khác chỉ rõ phân biệt chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp như thậm thâm ai có thể tin hiểu? Chỉ có bậc Bồ Tát bất thối và các A la hán lậu tận đầy đủ chánh kiến nghe Phật thuyết pháp như thậm thâm này mới có thể sanh lòng tin hiểu được. Như Lai đã y ctướng như tự chứng vì họ để chỉ rõ phân biệt.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Vì sao? Thiện Hiện! Như, như thế vô tận nên rất thậm thâm, chỉ có Như Lai Chánh đẳng Chánh giác chứng được vô tận như này.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhờ đâu Thế Tôn chứng được vô tận như?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Phật nhờ như nên chứng vô tận như như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như Lai chứng vô tận như như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Chứng tất cả pháp như vô tận. Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc tất cả pháp như vô tận, nên đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các loài hữu tình phân biệt chỉ rõ tướng tất cả pháp như. Do đó nên được gọi là Đấng thuyết pháp chân thật.

 

Thích nghĩa:

(1). “Sắc như” là nói gọn của cụm từ “chơn như của sắc”. Các sắc như chơn như, như pháp giới, như pháp tánh, như thật tế… Tất cả như thế là một như, không hư vọng, chẳng đổi khác, nên không hoại, không tận, không phân biệt nên gọi là như hay “như như”. Phẩm “Điều Phục Tham Thảy”, quyển 446, Hội thứ II, ĐBN nói: “Vì sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác; hoặc thọ, tưởng, hành, thức như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác”.

 

Sơ giải:

 

1. Bát nhã Ba la mật có công năng xuất sanh chư Phật. Vì sao?

 

Vì Bát Nhã thậm thâm có công năng xuất sanh năm loại mắt, sáu thần thông; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên công đức của chư Phật như thế đều từ Bát nhã Ba la mật sanh. Do đó, nên nói Bát Nhã có công năng xuất sanh chư Phật, cũng nói chư Phật từ Bát nhã Ba la mật sanh.

Kinh MHBNBLMĐ, phẩm “Phật Mẫu, Phật dạy:

“Này Tu Bồ Đề! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm xuất sanh ra 10 Phật lực, 18 bất cộng pháp... dẫn đến xuất sanh ra Nhất thiết chủng trí. Người được đầy đủ các pháp như vậy được gọi là Phật, nên nói Bát nhã Ba la mật xuất sanh ra chư Phật”.

 

1.      Bát nhã Ba la mật nói rõ thật tướng năm uẩn thế gian. Vì sao?

 

Phẩm thứ 48, “Phật Mẫu”, tập 4, quyển 69, Đại Trí Độ Luận giải thích rằng:

“Hỏi: Các Kinh đều nói ngũ ấm (5 uẩn) là tán hoại, là thế gian pháp. Vì sao Kinh Bát nhã Ba la mật nói ngũ ấm tán hoại ấy là chẳng có sanh, chẳng có diệt?

Đáp: Bát nhã Ba la mật là Kinh Đại Thừa. Giữa Kinh Đại Thừa và Kinh Thanh Văn có nhiều sai khác:

- Kinh Thanh Văn phần nhiều nói về vô thường, vô ngã. Kinh Đại Thừa phần nhiều nói về pháp “không”.

- Kinh Thanh Văn, trước nói về vô thường, rồi về sau mới dần dần dẫn đến pháp “không”. Kinh Đại Thừa, trước sau đều nói về pháp “không”.

- Kinh Thanh Văn nói các pháp tướng là tán hoại, khiến chúng sanh sợ hãi. Kinh Đại Thừa chẳng nói như vậy, mà nói các pháp thường trú, chẳng sanh, chẳng diệt.

 

--o0o--

 

Ở đoạn kinh trên đây, Phật thuyết về pháp tánh “không, vô tướng và vô tác”, nên chẳng nói đến tán hoại. Như vậy là Bát nhã Ba la mật khai thị thế gian tướng.

Sắc thân của chúng sanh rất dễ thấy, dễ biết, mà chúng sanh còn chẳng biết được thể tánh của sắc thân. Như vậy làm sao có thể biết được các tâm và tâm sở, là những pháp vô hình!

Phật như thật biết hết thảy các pháp; dùng lực phương tiện Bát nhã Ba la mật biết rõ chúng sanh là không, sắc là không… nhất thiết chủng trí cũng là không.

 

--o0o--

 

Phật dùng lực phương tiện Bát nhã Ba la mật mà biết rõ tâm niệm của vô lượng vô biên chúng sanh. Chúng sanh, dù ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc, cõi Hữu tưởng, cõi Vô Tưởng, cõi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng có bao nhiêu tâm niệm, hoặc nhiếp tâm, hoặc loạn tâm, hoặc nhiễm tâm, hoặc vô nhiễm tâm v.v… Phật đều biết tất cả.

Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật dạy như vậy sanh nghi, tự niệm rằng: Chư Phật thường ưa tịch tịch, thường ở nơi pháp “không”, nay vì sao Phật lại nói khắp biết chúng sanh nhiếp tâm hay loạn tâm? Lại nữa, chúng sanh vô lượng vô biên, làm sao chỉ một mình Phật mà có thể biết hết thảy tâm niệm của chúng sanh được? Phật dạy: Phật dùng pháp tướng để biết rõ như vậy.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Phật dùng pháp tướng gì để biết rõ như vậy?

Phật dạy: Dùng thật tướng pháp. Ở nơi thật tướng pháp, thì chẳng còn có “tướng pháp tướng”, huống nữa là các tướng nhiếp tâm hay loạn tâm.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Thế nào là thật tướng pháp?

Phật dạy: Thật tướng pháp là tự tánh không, là rốt ráo không, là bất khả đắc không.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Thật tướng pháp là rốt ráo không, mà ở trong “không” chẳng có phân biệt tâm và tâm sở pháp. Như vậy, làm sao có thể biết được tâm niệm của chúng sanh?

Phật dạy: Tánh của thật tướng pháp cũng là bất khả đắc. Cho nên Phật dùng lực phương tiện trí huệ biết được chúng sanh nhiếp tâm hay loạn tâm. Vì sao? Vì tánh không là bất khả đắc, chẳng có ngăn ngại vậy.

Phật đã vượt qua hết thảy tướng phân biệt, hư vọng, đã an trú trong thật tướng pháp, trong tánh không, nên biết rõ hết thảy chúng sanh tâm.

Trái lại, phàm phu trú tâm nơi hư vọng pháp, nên chẳng có thể biết được tâm niệm của kẻ khác.

 

--o0o--

 

Cũng như vậy, Phật dùng như thật trí huệ, mà biết được nhiễm tâm, sân tâm, si tâm v.v… của chúng sanh. Vì sao? Vì thật tướng của nhiễm tâm, của sân tâm, của si tâm là vô nhiễm, vô sân, vô si. Nên biết chúng sanh tâm là vô lượng, là quảng đại, là bình đẳng vậy.

 

Hỏi: Vì sao trước Phật nói “Thật tướng pháp là vô tướng, nên như thật biết được chúng sanh nhiếp tâm hay loạn tâm; rồi sau đó lại nói “Do tướng tận, tướng đoạn, tướng tịch diệt, tướng ly, nên như thật biết được chúng sanh nhiếp tâm hay loạn tâm?”

Đáp: Bồ Tát dùng “vô thường huệ” mà biết “tướng tận”. Do hành “vô thường huệ” mà tâm ly hết thảy nhiễm, được vô nhiễm. Lại dùng hết thảy “thế gian đạo”, ngăn ngừa và diệt trừ các kiết sử. Đây là tướng “diệt”. Lại dùng “vô lậu đạo”, tận đoạn các kiết sử. Đây là “tướng đoạn”. Lại quán Niết Bàn tịch diệt, ly hết thảy các tướng. Đây là “tướng tịch diệt”, “tướng ly”.

Bởi vậy nên, khi vào được nơi thật tướng pháp, trú nơi thật tướng pháp, thì biết rõ được chúng sanh nhiếp tâm hay loạn tâm. Vì sao? Vì ở nơi thật tướng pháp, thì hết thảy các pháp đều là vô tướng cả.

 

--o0o--

 

Lại nữa, niệm là vô trú, là rốt ráo không, là chẳng thể biết được. Vì sao? Vì niệm quá khứ đã qua, niệm hiện tại chẳng trú, niệm vị lại chưa đến. Nếu khởi niệm là có sanh diệt rồi vậy.

Phàm phu, do chấp tướng, mới vọng chấp phân biệt có ba thời. Trái lại, người trí biết rõ “hiện tại”, cũng là tận tướng, là rốt ráo không. Vì biết rõ tâm niệm là rốt ráo không, nên chẳng chấp trước, chẳng có gì vướng mắc cả.

Do biết rõ thời gian là vô trú, nên được đạo. Do biết rõ thật tướng các pháp là vô tướng, nên chẳng khởi sanh vọng kiến phân biệt, dẫn đến như thật biết được tâm chúng sanh nhiễm hay tịnh.

Lại nữa, vì thật tướng của các pháp là rốt ráo thanh tịnh, nên thật tướng của “nhiễm tâm” là “vô nhiễm tâm” vậy. Vì sao? Vì ở nơi thật tướng, thì chẳng còn có phân biệt tâm và tâm sở pháp. Do vậy, mà biết được nhiễm tâm, sân tâm, si tâm vốn chẳng có tướng nhiễm, tướng sân, tướng si, đều là vô tướng.

Phật dạy: Do nhân duyên “nhiễm tâm” và “vô nhiễm tâm” đều chẳng đầy đủ, chẳng chung nhau, nên ở nơi tâm pháp, chúng sanh thứ lớp sanh tâm; khi có tâm vô nhiễm, thì chẳng có tâm nhiễm, và ngược lại. Thế nhưng, ở cả ba đời, nhiễm tâm và vô nhiễm tâm đều là bất khả đắc. Vì sao? Vì cả hai tâm ấy đều rốt ráo là tánh không. Sở dĩ có phân biệt hai tâm, là do đối đãi mà có vậy.

Nên biết, ở nơi thật tướng pháp chẳng có các tướng nhiễm tâm, vô nhiễm tâm, sân tâm, vô sân tâm, si tâm, vô si tâm… Vì sao? Vì ở nơi thật tướng pháp, thì hết thảy các pháp đều là tướng không, đều là bình đẳng, vô phân biệt.

Người vô trí, do chấp tâm, chấp tướng mà phân biệt tâm có nhiễm, có tịnh, có rộng, có hẹp, có tăng, có giảm v.v… Còn các bậc Thánh thì chẳng phải như vậy, vì các ngài biết rõ tâm là vô sắc, vô hình, vô trước vậy.

 

--o0o--

 

Phật dạy: Tâm tướng là tánh không. Các tướng nhiễm, tịnh, rộng, hẹp, tăng, giảm v.v… đều là bất khả đắc cả.

Do có so lường mà nói tâm có nhiễm, có tịnh, có rộng, có hẹp, có tăng, có giảm v.v… Như vậy là nói tâm có hạn lượng. Thế nhưng vì tâm duyên vô lượng chúng sanh, duyên vô lượng pháp, lại vì tâm tướng là bất khả đắc, nên tâm là vô lượng.

Ví như nhãn căn duyên nhãn trần, sanh ra nhãn thức, mà nhãn thức chẳng phải ở trong hay ở ngoài mắt, chẳng phải ở bên này hay bên kia mắt, nên là vô trú xứ, là bất khả đắc vậy.

Do vậy, nên nói các trần cảnh hiện ra trước mắt đều là như cảnh ở trong mộng, chẳng có định tướng. Thức duyên cũng như vậy, chẳng có y chỉ, chẳng có định tướng nên nói tâm là quảng đại, là vô lượng.

 

Hỏi: Nếu tâm là chẳng thể thấy được, thì Phật làm sao có thể như thật thấy, như thật biết tâm của hết thảy chúng sanh được?

Đáp: Người vào thiền định, được tâm thanh tịnh như lưu ly, nên thấy được các vọng tâm dấy khởi; người quán bạch cốt thấy tâm thứ lớp sanh, chẳng thấy tâm tại thân, cũng chẳng thấy tâm tại duyên; người duyên vô biên xứ, thấy thức vô lượng vô biên v.v…

Nên biết, tâm thể là vô tướng, nên chẳng có các tướng tâm như vậy.

Trái lại, Phật thường trú nơi tịch diệt, nên như thật biết hết thảy tâm chúng sanh.

Vì sao? Vì tự tướng của tâm chúng sanh là vô tướng. Phật dùng ngũ nhãn, thấy rõ tâm thể của chúng sanh là vô tướng, là bất khả đắc.

Người dùng nhục nhãn và thiên nhãn, thì thấy có sắc pháp. Người dùng huệ nhãn, duyên Niết Bàn tướng, thì chẳng thấy có sắc pháp.

Người mới dùng pháp nhãn, thì thấy phân biệt có thiện pháp, có bất thiện pháp, có hữu lậu pháp, có vô lậu pháp; đến khi liễu đạt được thật tướng pháp rồi, thì người dùng pháp nhãn sẽ thấy rõ được các pháp đều là vô tướng, là bình đẳng, là vô phân biệt.

Trước đây đã nói rằng “Hết thảy các pháp đều chẳng có tác giả, chẳng có tri giả, chẳng có kiến giả”. Bởi vậy nên tâm cũng như hết thảy các pháp khác, đều chẳng thể thấy được vậy.

Phật, ở nơi tịch diệt tướng, chẳng dùng sự thấy hư vọng của hàng phàm phu, cũng chẳng dùng ngũ nhãn để thấy, nên mới “như thật thấy, như thật biết tâm niệm của chúng sanh” vậy).

 

3. Tại sao Như Lai y cứ vào Bát Nhã như thật biết các loại

hữu tình có tâm và tâm sở hoặc nổi chìm hoặc co duỗi?

 

Cũng cùng phẩm trên, Đại Trí Độ Luận giải thích tiếp:

“Phật biết rõ chúng sanh, khi hành các pháp, thường rơi vào 62 tà kiến chấp. Đó là do 98 kiết sử phiền não sanh ra. Bởi vậy nên nói là Phật biết rõ tâm và tâm sở pháp lên xuống, ra vào của hết thảy chúng sanh.

Phàm phu, do bị ái dục che tâm, mà thường khởi sanh các phiền não. Hàng xuất gia, nếu còn bị kiêu mạn che tâm, thì cũng còn khởi sanh tà kiến.

Phàm phu, do chấp thế gian lạc, nên tâm bị chìm xuống. Hàng xuất gia nhàm chán sanh tử, muốn cầu Phật đạo, muốn được tâm nổi lên; thế nhưng, nếu chẳng rõ được chánh đạo, thì chẳng ly được ba cõi, khiến tâm vẫn bị chìm xuống.

 

--o0o--

Dùng mắt thường (nhục nhãn) nhìn vào hồ nước trong có thể thấy rõ đàn cá trong hồ, có lúc nổi lên, có lúc chìm xuống, bơi lội mải miết như vậy, mà chẳng thoát ly ra được(không thể lội ra khỏi hồ).

Cũng như vậỵ, dùng Phật nhãn quán tâm chúng sanh, ở trong 6 đạo và khắp 10 phương, cứ mãi lên xuống, ra vào. Vì sao? Vì chúng sanh thường bị 5 dục che tâm, khiến phải bị chìm đắm mãi trong sanh tử, chẳng có thể thoát ly khỏi ngục tù 3 cõi. Ví như:

- Có người phát tâm bố thí, trì giới, nhưng lại bị tà nghi che tâm, khiến tâm huệ bị chìm xuống.

- Có người đã ly 5 dục, đã có được Noãn pháp và Đảnh pháp, quán được 4 Thánh Đế, nhưng nếu chưa liễu đạt được thật tướng pháp, thì tâm huệ vẫn còn bị chìm xuống.

- Có người đã ly dục, đã rõ thông được các pháp vô sở hữu... nhưng nếu chưa vào Niết bàn, thì tâm huệ vẫn còn bị chìm xuống.

 

Hỏi: Thế nào gọi là tâm nổi lên, chìm xuống?

Đáp: Ở đoạn kinh trên đây, Phật nêu lên các trường hợp lầm chấp của chúng sanh, khiến tâm của họ cứ phải nổi lên, chìm xuống mãi trong biển sanh tử.

Các trường hợp lầm chấp của chúng sanh về “thần và thế gian”, y cứ nơi 5 ấm, được chia ra làm 4 nhóm.

 

1/. Nhóm thứ nhất: Chấp thần và thế gian hoặc là thường, hoặc là vô thường, hoặc vừa là thường cũng vừa là vô thường, hoặc chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường.

Phàm phu chấp có thần và thế gian, mà chẳng biết rằng thần và thế gian chẳng thật có, chỉ do ức tưởng phân biệt mà vọng chấp vậy thôi.

- Có người chấp thần là thường. Do chấp thần như vậy, mà thường tu phước đức, mong được thân chứng giải thoát.

- Có người chấp thần là vô thường. Do chấp thần như vậy, mà buông lung theo danh lợi, nhằm thỏa mãn cuộc sống hiện tại.

- Có người chấp “vi tế thần” là thường trú, còn thần tạo ra thân sau là vô thường. Như vậy là chấp thân vừa là thường cũng vừa là vô thường.

- Có người chấp thần chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì họ cho rằng chấp thần thường hay vô thường cũng đều có lỗi cả. Nếu chấp thân là vô thường, thì chẳng có tội, cũng chẳng có phước. Nếu chấp thân là thường thì khổ lạc chẳng có khác nhau, ví như hư không chẳng bị mưa làm ướt, chẳng bị mặt trời làm khô vậy.

Trái lại, nếu chấp thần là vô thường, thì khổ lạc biến đổi. Ví như da trâu, phơi ngoài trời, bị gió mưa làm hư hoại vậy.

- Có người chấp có thân, mà thân chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường. Do chấp như vậy mà tâm thức bị cuồng loạn.

Phật dạy: Tất cả 4 tà chấp về thường và vô thường, nêu trên đây, là do vọng kiến thủ chấp nơi 5 ấm sanh ra cả.

Nên biết, “thế gian” có 3 tướng. Đó là:

- 5 ấm thế gian tướng.

- Chúng sanh thế gian tướng.

- Quốc độ thế gian tướng.

Chúng sanh, trú ở nơi các tướng thế gian này, thường khởi sanh 4 tà kiến chấp về thường và vô thường.

 

2/. Nhóm thứ hai: Chấp thần và thế gian hoặc là hữu biên, hoặc là vô biên, hoặc vừa là hữu biên cũng vừa là vô biên, hoặc chẳng phải hữu biên cũng chẳng phải vô biên.

- Có người chấp thế gian là hữu biên, rồi truy tầm cho được nguồn gốc của thế gian; như vậy là chấp thế gian là hữu thỉ, tức là có đầu mối.

Thế nhưng, tìm mãi cũng chẳng ra đầu mối, chẳng ra nguồn gốc của thế gian. Thế gian đã chẳng có đầu mối, thì cũng chẳng có chặng giữa, và rốt ráo chẳng có tận cùng vậy.

Ví như người vào thâm thiền định, được túc mạng trí, có thể thấy 8 vạn kiếp trong quá khứ. Ngoài 8 vạn kiếp, thì mù mịt chẳng biết gì nữa cả. Do vậy mà cho rằng ngoài 8 vạn kiếp cũng là như vậy.

Lại nữa, họ chỉ thấy được thức, lúc ban đầu, gá vào thân trung ấm, rồi tự nghĩ rằng: “Nếu thức gá vào thân trung ấm như vậy, ắt phải có nhân, có duyên gì mà ta chưa biết được thôi”. Rồi từ đó, họ ức tưởng phân biệt, chấp có một thể tánh vi tế; từ thể tánh vi tế đó sanh ra giác tánh, mà giác tánh là thân trung ấm vậy.

Từ đó, họ lại suy diễn: “Giác tánh sanh ra ngã; từ ngã sanh ra có 5 trần; theo thanh trần, sanh ra không đại; theo thanh trần và xúc trần sanh ra phong đại; theo sắc trần, thanh trần và xúc trần sanh ra hỏa đại; theo sắc trần, thanh trần, vị trần và xúc trần sanh ra thủy đại; theo sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần và xúc trần sanh ra địa đại; theo không đại sanh ra nhĩ căn; theo phong đại sanh ra thân căn; theo hỏa đại sanh ra nhãn căn; theo thủy đại sanh ra thiệt căn; theo địa đại sanh ra tỷ căn”.

Như vậy lần lần chuyển biến từ tế đến thô, rồi từ thô đến tế, trở về với thể tánh. Ví như lấy đất sét làm ra cái bình, cái chậu… khi phá cái bình, cái chậu... thì các vật dụng này lại trở về với đất sét. Ở đây có sự chuyển biến từ tế đến thô, từ thô đến tế, mà thể tánh vẫn thường còn.

Trên đây là quan điểm của hàng ngoại đạo Tăng Khư, diễn giải về thể tánh.

- Có người chấp “vi tế trần” là sơ biên (biên bờ đầu tiên) của thế giới; chấp “vi tế trần” là thường pháp, chẳng thể phá, chẳng thể tiêu, chẳng thể hư nát. Vì vi tế trần quá nhỏ, nên phải hội đủ các nhân duyên tội phước hòa hợp, mới dẫn sanh có thân, từ cõi trời cho đến cõi địa ngục. Thân chẳng phải do cha mẹ sanh ra, nên khi tội phước tán hoại, thì thân cũng tán hoại.

- Có người chấp thế giới tự nhiên có; sự giàu nghèo, sang hèn... của con người chẳng phải do hạnh nguyện làm ra được.

- Có người chấp có một vị “Thiên chủ” là đầu mối, sanh ra thế giới; tạo tác ra muôn sự, muôn vật; tạo tác ra thiện ác, tội phước v.v... Khi nào vị Thiên chủ thu hồi công trình tạo tác, thì muôn sự, muôn vật tự nhiên diệt.

- Có người chấp rằng chúng sanh thọ khổ, thọ lạc trong nhiều đời, nhiều kiếp. Khi hết thọ khổ lạc rồi, thì tự đến chỗ tận đoạn. Ví như cầm đầu mối chỉ, rồi thả cho cuộn chỉ lăn từ trên cao xuống, cho đến khi tháo hết chỉ thì cuộn chỉ chẳng còn lăn xuống nữa. Cũng như vậy, khi tội phước đã đi đến chỗ tận cùng rồi thì trở thành “không”. Dù tinh tấn, dù giải đãi... cũng chẳng có gì khác nhau.

- Có người chấp 8 phương của quốc độ thế gian đều có biên bờ chỉ có phương trên, phương dưới là chẳng có biên bờ.

- Có người chấp bên dưới có địa ngục, bên trên có cõi trời Hữu Đảnh, còn 8 phương kia chẳng có biên bờ.

- Có người chấp thần là hữu biên. Ví như nói thần ở nơi thân nhỏ như hạt cát; hoặc nói thân lớn thì thần lớn, thân nhỏ thì thần nhỏ.

Lại chấp thần thuộc về sắc pháp nên có thể phân chia.

- Có người chấp thần là vô biên, biến khắp hư không, chẳng có chỗ nào là chẳng có thần. Ví như khi thần ở nơi thân, thì thân biết khổ, biết lạc vậy.

- Có người chấp thế gian là vô thỉ, tức chẳng có đầu mối. Họ cho rằng nếu thế gian là hữu thỉ, thì phải là hữu chung. Như vậy thì chẳng có thường thọ thân sau, chẳng có Niết bàn. Cho nên họ chấp thế gian là vô thỉ.

- Có người chấp quốc độ thế gian trong 10 phương là vô biên.

- Có người chấp thần và thế gian là vô biên, mà quốc độ là hữu biên.

- Có người chấp thần và thế gian là hữu biên, mà quốc độ là vô biên.

- Có người chấp thần và thế gian chẳng phải hữu biên mà cũng chẳng phải vô biên. Họ cho rằng chấp thần và thế gian là hữu biên hay là vô biên đều có lỗi cả.

 

3/. Nhóm thứ ba: Chấp thần tức là thân, hoặc thần khác thân hoặc thần vừa là thân cũng vừa khác thân, hoặc thần chẳng phải là thân cững chẳng phải khác thân.

- Có người chấp thần tức là thân, vì cho rằng khi phân chia thân ra thì thần là bất khả đắc. Hơn nữa thân có thọ khổ, thọ lạc, nên thần tức là thân vậy.

- Có người chấp thần là thân; vì khi thân diệt thì thần cũng diệt theo.

- Có người chấp thần khác thân, vì cho rằng thần rất vi tế, nên 5 căn chẳng thể thấy biết được thần. Hơn nữa phải nhất tâm thanh tịnh mới thấy được thần, nên thần khác thân vậy.

- Có người chấp thần khác thân, vì khi thân diệt thì thần vẫn thường còn. Đây thuộc về biên kiến.

-  Có người chấp thần vừa là thân cũng vừa khác thân.

- Có người chấp thần chẳng phải là thân cũng chẳng phải khác thân.

 

4/. Nhóm thứ tư: Chấp sau khi chết sẽ có thần chuyển đi, hoặc chấp sau khi chết sẽ chẳng có thần chuyển đi, hoặc chấp sau khi chết sẽ vừa có thần chuyển đi cũng sẽ vừa có thần chẳng chuyển đi, hoặc chấp sau khi chết sẽ chẳng có thần chuyển đi, cũng sẽ chẳng có thần chẳng chuyển đi.

- Có người chấp đã sanh ra ở cõi đời này rồi, thì sẽ đi đến đời sau. Như vậy là chấp sau khi chết, thần sẽ chuyển đi.

- Có người chấp đời trước chẳng từ đâu đến, nên khi chết cũng chẳng đi về đâu. Như vậy là chấp sau khi chết, thần chẳng chuyển đi.

- Có người chấp khi sống thần và thân hòa hợp, còn sau khi chết, thì thân đi mà thần chẳng đi. Như vậy có nghĩa là vừa chuyển đi cũng vừa chẳng chuyển đi.

- Có người cho rằng chấp thần chuyển đi là có lỗi, mà chấp thần chẳng chuyển đi cũng là có lỗi, nên chấp sau khi chết sẽ chẳng có thần chuyển đi cũng sẽ chẳng có thần chẳng chuyển đi.

 

--o0o--

Tất cả các tà kiến chấp như vậy làm cho tâm chúng sanh cứ phải nổi lên chìm xuống mãi mãi. Vì sao? Vì do tà kiến che tâm mà chúng sanh dù muốn cầu đạo Giải thoát cũng vẫn phải cứ nổi lên và chìm xuống mãi trong biển sanh tử, chẳng sao thoát ra khỏi ngục tù 3 cõi.

Tà kiến chấp rất nhiều chẳng sao kể xiết được.

Thế nhưng, nên biết rằng mười sáu tà chấp, nêu nơi bốn nhóm trên đây, cùng tất cả các tà kiến chấp khác đều do ức tưởng phân biệt khởi sanh ra cả.

 

Vì muốn biết thế nào là tâm nổi chìm co duỗi nên chúng tôi trích lại lời giải thích trong phẩm thứ 48, “Phật Mẫu”, tập 4, trang 69, Đại trí Độ Luận. Nhưng Phật dạy: “Do duyên năm ấm và y chỉ nơi năm ấm, mà chúng sanh điên đảo khởi các vọng kiến, mà chẳng biết rằng năm ấm cùng hết thảy pháp đều là “không, vô tướng, vô tác”, đều là “như tướng” cả.

 

4. Thế nào tất cả các pháp (thế gian cùng xuất thế gian) đều như?

 

Phẩm “Phật Mẫu” của Đại Trí Độ Luận trên, giải thích:

“Nên biết hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều là như. Bởi vậy chẳng nên chấp thiện pháp, bất thiện pháp... dẫn đến chẳng nên chấp Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Vì sao? Vì các pháp “như tướng” là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Vì các pháp đều “như tướng”, nên đều tùy thuận nhau, chẳng chống trái nhau... dẫn đến 10 phương chư Phật cũng đều như vậy.

“Như” là như vậy. Bởi vậy nên ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Chỉ có các bậc Bồ Tát bất thối, các bậc lậu tận A la hán, các bậc đã đầy đủ chánh kiến mới có thể tín giải được.

Phật lại dạy: Hết thảy pháp đều như tướng vô tận, nên đều là thậm thâm vi diệu. Phật như thật biết các pháp như tướng vô tận, nên được gọi là Như Lai, vì chúng sanh thuyết pháp, dẫn dắt chúng sanh vào đạo Niết bàn vậy”.

 

Nói “như tướng” của tất cả pháp hay “chơn như của tất cả pháp” là nói tất cả pháp chẳng lúc nào chẳng như, như đó là như thường tại nên cũng gọi là bình đẳng. Vì bình đẳng nên nói là thanh tịnh. Khi thuyết đến phẩm “Chơn Như” chúng ta sẽ trở lại vấn đề, sẽ giải thích rõ ràng thêm.

Với chiết giải tỉ mỉ này của Đại Trí Độ Luận cho chúng ta cái nhìn thông suốt không những phẩm này mà còn cho tất cả các phẩm có tên là “Phật Mẫu” của các Hội đầu thuộc Kinh Đại Bát Nhã nữa./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com