Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Phẩm "Đế Thích"

09/11/202007:31(Xem: 8295)
02. Phẩm "Đế Thích"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-473

 

II. PHẨM "ĐẾ THÍCH"

Giữa quyển 539, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, trời Đế Thích cùng bốn vạn Thiên tử ở cõi trời thứ Ba mươi ba đồng đến câu hội (vân tập hay tụ tập). Bốn Thiên vương hộ đời cùng hai vạn Thiên tử, trời Tứ đại thiên vương đồng đến câu hội. Đại Phạm thiên vương, chủ cõi Sách ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến câu hội. Như vậy, cho đến trời Ngũ tịnh cư đều cùng vô lượng trăm ngàn Thiên tử đồng đến câu hội. Các Thiên chúng này có nghiệp cảm dị thục ánh sáng nơi thân, tuy có thể chiếu soi nhưng vì oai lực ánh sáng của Như Lai nên ánh sáng của họ không chiếu rõ được.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:

- Nay có vô lượng Thiên chúng trong Tam thiên đại thiên thế giới đồng đến câu hội, muốn nghe Đại đức giảng thuyết, khai thị Bát Nhã sâu xa, dạy bảo giáo giới các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật mau được rốt ráo. Cúi xin Đại đức thương xót vì nói: Đại Bồ Tát làm sao nên trụ Bát nhã Ba la mật? Đại Bồ Tát làm sao nên học Bát nhã Ba la mật?

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ta nhờ sức oai thần của Phật, thuận theo ý Như Lai giảng thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật sâu xa cho chúng đại Bồ Tát. Như vậy, chúng đại Bồ Tát có thể ở trong ấy nên trụ như vậy, nên học như vậy. Thiên chúng các ông đều nên lắng nghe, chú tâm suy nghĩ kỹ.

Này Kiều thi ca! Các trời các ông, người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề nay nên phát tâm. Có các vị đã vào Thanh văn, Độc giác, Chánh tánh ly sanh, chẳng năng phát lại tâm Đại Bồ đề. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì họ đối dòng sanh tử đã lâu hạn cách, nên trong ấy nếu có kẻ năng phát được tâm Vô thượng Bồ đề, tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Vì các thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi chắc chắn đối với sự thắng thiện của họ chẳng bị trở ngại.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Hay thay! Nay ngươi đã giảng thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật sâu xa cho các đại Bồ Tát. Cũng có thể khuyên bảo các đại Bồ Tát làm cho họ vui mừng siêng năng tu Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ơn như thế lẽ nào không trả ơn. Vì sao? Vì chư Phật và các đệ tử đời quá khứ đã giảng thuyết bố thí cho đến Bát Nhã cho các đại Bồ Tát, dạy bảo giáo giới nhiếp thọ hộ trì. Bấy giờ, Thế Tôn cũng ở trong ấy học phạm hạnh thanh tịnh, nay chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi ích cho chúng con. Nên ngày nay con theo lời Phật dạy, giảng thuyết bố thí cho đến Bát Nhã cho các đại Bồ Tát, dạy bảo giáo giới, giúp đỡ hộ trì, làm cho họ siêng năng tu học phạm hạnh thanh tịnh, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai. Đó gọi là đền ơn trả ơn chư Phật. (Q. 539, TBBN)

 

(Làm sao nên học, làm sao nên trụ Bát nhã Ba la mật?)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Ông hỏi các đại Bồ Tát làm sao nên trụ, nên học Bát nhã Ba la mật ấy? Hãy lắng nghe kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói về các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật nên học tướng như vậy, nên trụ tướng như vậy.

Này Kiều thi ca! Các đại Bồ Tát mặc áo giáp đại công đức, nên đem tướng không an trụ Bát Nhã. Không nên trụ sắc; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ vào quả Dự lưu; không nên trụ vào quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Không nên trụ Độc giác; không nên trụ vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Không nên trụ đây là sắc; không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ đây là quả Dự lưu; không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Không nên trụ đây là Độc giác; không nên trụ đây là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Không nên trụ sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường. Không nên trụ sắc hoặc vui hoặc khổ; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui hoặc khổ. Không nên trụ sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Không nên trụ sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Không nên trụ sắc hoặc Không hoặc bất Không; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc Không hoặc bất Không. Không nên trụ vào quả Dự lưu hoặc vô vi hiển lộ; không nên trụ vào quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán hoặc vô vi hiển lộ. Không nên trụ vào quả Độc giác Bồ đề hoặc vô vi hiển lộ; không nên trụ vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật hoặc vô vi hiển lộ. Không nên trụ vào quả Dự lưu là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Dự lưu còn bảy lần sanh trở lại mới vào Niết bàn. Không nên trụ vào quả Nhất lai là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Nhất lai chưa được rốt ráo, còn một lần sanh trở lại chịu khổ biên tế. Không nên trụ vào quả Bất hoàn là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả Bất hoàn sau khi diệt độ chẳng còn sanh trở lại. Không nên trụ vào quả A la hán là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ vào quả A la hán nhất định đời này nhập vào Vô dư Niết bàn. Không nên trụ quả Độc giác là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ quả Độc giác vượt hơn địa vị Thanh văn, thẳng đến địa vị Phật mà nhập Niết bàn. Không nên trụ quả Phật là chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ quả Phật vượt qua địa vị phàm phu, vượt qua địa vị Thanh văn, vượt qua địa vị Độc giác, vượt qua địa vị Bồ Tát, an trụ vào địa vị Phật, làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, được nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến đối Tam thừa đều được quyết định, làm các Phật sự như thế thảy rồi vào cõi Vô dư y bát Niết bàn.

Khi ấy, Xá lợi Tử suy nghĩ: Đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa thì không nên trụ vào quả Phật, an trụ quả Phật làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình được nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình đối với Tam thừa đều được quyết định, làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Cũng không nên trụ vào các pháp khác, chúng đại Bồ Tát này phải trụ ở đâu?

Cụ thọ Thiện Hiện nhờ oai thần của Phật, biết tâm niệm của Xá Lợi Tử, liền bảo:

- Ý Tôn giả thế nào? Tâm của các đức Như Lai nên an trụ chỗ nào?

Khi đó, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Tâm của các đức Như Lai đều không chỗ trụ. Vì sao? Vì tâm không chỗ trụ nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nghĩa là không trụ cõi hữu vi, cũng không trụ cõi vô vi, cũng chẳng phải không trụ cõi hữu vi, vô vi.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử:

- Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp tâm không chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.

Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên trụ như vậy, nên học như vậy.

Bấy giờ, trong chúng có các Thiên tử suy nghĩ: Như câu thần chú, các lời nói khác nhau của những Dược xoa, tuy là ẩn mật, kín đáo nhưng chúng ta còn có thể hiểu được. Đại đức Thiện Hiện đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa tuy đã dùng nhiều lời lẽ để chỉ rõ, nhưng tất cả chúng ta vẫn không thể hiểu được gì cả.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo:

- Này các Thiên tử! Những lời tôi nói, các ông không hiểu sao?

Các Thiên tử thưa:

- Đúng vậy! Đại đức đã nói ý nghĩa của Bát nhã Ba la mật sâu xa, chúng tôi đều không hiểu được gì cả.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo:

- Tôi đã từng đối với ý nghĩa tương ưng với Bát nhã Ba la mật sâu xa này không nói, không chỉ bày, các ông không nghe thì hiểu cái gì. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì trong ý nghĩa tương ưng với Bát nhã Ba la mật sâu xa đều lìa văn tự, lời nói.

Khi ấy, các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện Hiện ở trong nghĩa Bát nhã Ba la mật sâu xa này, tuy lại đem các thứ phương tiện để nói rõ, muốn làm cho dễ hiểu, nhưng nghĩa lý ấy lại càng quá sâu xa, lại quá vi tế, khó có thể so lường.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm của các Thiên tử, liền bảo:

- Thiên tử nên biết! Sắc không sâu xa, không vi tế; thọ, tưởng, hành, thức không sâu xa, không vi tế. Quả Dự lưu không sâu xa, không vi tế; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán không sâu xa, không vi tế. Độc giác Bồ đề không sâu xa, không vi tế. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không sâu xa, không vi tế. Vì sao?

Này các Thiên tử! Vì tất cả pháp sâu xa, vi tế, người nói, người nghe đều bất khả đắc. Bởi vậy, các ông đối với pháp đã nói nên tu hạnh nhẫn bền chắc.

Thiên tử nên biết! Những người nào muốn chứng, muốn trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề chođến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cần phải nương vào hạnh nhẫn này mới có thể chứng trụ được.

 

(Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn, nói pháp như huyễn)

 

Khi đó các Thiên tử suy nghĩ: Đại đức Thiện Hiện muốn vì hữu tình nào, thuyết những pháp nào?

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của các Thiên tử, liền bảo:

- Thiên tử nên biết! Nay tôi muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng, cũng lại giảng thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Này các Thiên tử! Như vậy, người nghe pháp đã nói, không nghe, không hiểu, không chỗ tu chứng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Người nói, người nghe và pháp được nói ra đều như huyễn, như hóa, như mộng đã thấy chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì người như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng, nói pháp như mộng. Tất cả hữu tình và tất cả pháp đều như cảnh huyễn hóa, như mộng, vì tất cả pháp, tất cả hữu tình đều huyễn hóa, cũng như mộng, không hai, không khác.

Thiên tử nên biết! Những bậc Dự lưu và quả Dự lưu, hoặc bậc Nhất lai và quả Nhất lai, hoặc bậc Bất hoàn và quả Bất hoàn, hoặc A la hán và quả A la hán, hoặc các Độc giác và Độc giác Bồ đề, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật đều như cảnh huyễn hóa, như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Lẽ nào chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng như huyễn hóa, như mộng đã thấy sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Cho đến Niết bàn ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Không lẽ Niết bàn cũng như huyễn hóa, như mộng?

Thiện Hiện đáp:

- Giả sử lại có pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng nói là như huyễn hóa, như mộng. Vì sao? Vì cảnh huyễn hóa, như mộng cùng tất cả pháp, cho đến Niết bàn không hai, không khác, đều bất khả đắc, bất khả thuyết. (Q.539, TBBN)

 

Bấy giờ, Xá lợi Tử, Chấp Đại Tạng, Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v… cùng hỏi Thiện Hiện:

- Đại đức đã nói Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy có người nào có thể tín thọ được không?

Cụ thọ Khánh Hỷ (A nan đà) thưa cùng các đại Thanh văn và Xá lợi Tử:

- Có các đại Bồ Tát Bất thối chuyển đối với Bát nhã Ba la mật này có thể tin hiểu sâu xa được. Lại có vô lượng đại A la hán đầy đủ chánh kiến, đoạn tận các lậu, đối với Bát nhã Ba la mật này cũng có thể tín thọ được. Nhưng, cụ thọ Thiện Hiện đã nói Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy không ai tín thọ được. Cụ thọ Thiện Hiện nói như vầy: Đã nói Bát nhã Ba la mật sâu thẳm như thế không ai tín thọ được. Vì sao? Vì trong đây không pháp khá rõ, khá chỉ và khá thi thiết. Đã thật không pháp khá rõ, khá chỉ và khá thi thiết, nên kẻ tín thọ cũng chẳng khá được.

Khi ấy, trời Đế Thích suy nghĩ: Đại đức Thiện Hiện rưới trận mưa pháp, ta nên hóa ra các đóa hoa nhiệm mầu dâng rải cúng dường.

Suy nghĩ như vậy rồi, liền hóa ra các đóa hoa nhiệm mầu rải lên Thiện Hiện.

Cụ thọ Thiện Hiện suy nghĩ: Những đóa hoa này chưa từng thấy ở chỗ chư thiên. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất nước, cỏ cây sanh ra, mà do tâm chư thiên hóa sanh.

Khi ấy, trời Đế Thích biết tâm niệm của Thiện Hiện, liền nói:

- Hoa đã rải này thật chẳng phải do đất nước, cỏ cây sanh ra, cũng chẳng phải do tâm chư thiên hóa sanh. Vì sao? Vì hoa đã rải này tánh vốn vô sanh.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Hoa này không sanh, tức chẳng phải hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ: Trí tuệ của Đại đức Thiện Hiện thật là sâu xa, chẳng hoại giả danh mà nói thật nghĩa. Nghĩ như vậy rồi, liền thưa Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Như Tôn giả đã dạy, các đại Bồ Tát đối với các pháp đều nên theo sở thuyết của Tôn giả mà học.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Các đại Bồ Tát đối với các pháp nên theo sở thuyết của ta mà học.

Này Kiều Thi Ca! Khi các đại Bồ Tát học như thế, chẳng học đối sắc, chẳng học đối thọ tưởng hành thức. Chẳng học đối quả Dự lưu; chẳng học đối quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, chẳng học đối Độc giác Bồ đề. Chẳng học đối chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu chẳng đối các bậc này mà học, đấy gọi học Phật Nhất thiết trí trí. Nếu học được Phật Nhất thiết trí trí, thời học vô lượng vô biên Phật pháp.

Nếu học vô lượng vô biên Phật pháp, thời chẳng học sắc có tăng có giảm, cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có tăng có giảm. Nếu chẳng học sắc có tăng có giảm, cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có tăng có giảm, thời chẳng học sắc có lấy có bỏ, cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có lấy có bỏ. Nếu chẳng học sắc có lấy có bỏ, cũng chẳng học thọ tưởng hành thức có lấy có bỏ, thời chẳng học tất cả pháp có lấy có bỏ. Nếu chẳng học tất cả pháp có lấy có bỏ, thời chẳng học các pháp có thể nhiếp thọ, có thể diệt hoại. Nếu chẳng học các pháp có thể nhiếp thọ có thể diệt hoại, thời chẳng học Nhất thiết trí trí có thể nhiếp thọ có thể diệt hoại.

Khi các đại Bồ Tát học như thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại; cũng chẳng học Nhất thiết trí trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại thì khi đại Bồ Tát này học như vậy gọi là học Nhất thiết trí trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí không?

Thiện Hiện đáp:

- Đại Bồ Tát nào chẳng học các pháp có thể hộ trì, có thể diệt hoại, cũng chẳng học Nhất thiết trí trí có thể hộ trì, có thể diệt hoại thì khi đại Bồ Tát này học như vậy gọi là học Nhất thiết trí trí một cách chơn chánh, có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, vì đem vô sở đắc làm phương tiện.

 

Bấy giờ, trời Đế Thích hỏi Xá lợi Tử:

- Sở học(1)Bát Nhã của các đại Bồ Tát phải cầu ở đâu?

Xá lợi Tử đáp:

- Sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ Tát nên y theo sở thuyết của Thiện Hiện đã nói mà cầu.

Trời Đế Thích hỏi Xá lợi Tử:

- Nhờ thần lực của ai hỗ trợ để cho Tôn giả nói lời như vậy?

Xá lợi Tử đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên ta nói lời này.

Khi ấy, trời Đế Thích lại hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nhờ thần lực của ai hỗ trợ nên Tôn giả Thiện Hiện có thể nói Bát nhã Ba la mật?

Xá lợi Tử đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên cụ thọ Thiện Hiện có thể nói Bát nhã Ba la mật.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ông hỏi nhờ thần lực ai hỗ trợ làm cho tôi có thể nói Bát nhã Ba la mật. Này Kiều thi ca! Ông nên biết, nhất định là nhờ thần lực của Như Lai hỗ trợ nên Thiện Hiện tôi có thể nói Bát nhã Ba la mật.

Này Kiều thi ca! Ông đã hỏi, sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ Tát phải cầu ở đâu? Này Kiều thi ca! Sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ Tát chẳng cầu ở sắc, cũng chẳng nên lìa sắc để cầu. Chẳng nên cầu ở thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức để cầu. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng không lìa sắc mà có Bát nhã Ba la mật. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng không lìa thọ, tưởng, hành, thức mà có Bát nhã Ba la mật. (Q.539, TBBN)

 

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:

- Có phải sở học Bát nhã Ba la mật của các Bồ Tát là đại Ba la mật, là vô lượng Ba la mật, là vô biên Ba la mật không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Này Kiều thi ca! Sở học Bát nhã Ba la mật của các Bồ Tát là đại Ba la mật, là vô lượng Ba la mật, là vô biên Ba la mật.

Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì sắc đại nên biết Bát Nhã cũng đại; vì thọ, tưởng, hành, thức đại nên biết Bát nhã Ba la mật cũng đại.

Này Kiều thi ca! Sắc vô lượng nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô lượng; thọ, tưởng, hành, thức vô lượng nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô lượng.

Này Kiều thi ca! Sắc vô biên nên biết Bát Nhã cũng vô biên; thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Lại nữa, này Kiều thi ca! Sở duyên vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Này Kiều thi ca! Sở duyên vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên là như thế nào? Nghĩa là tiền tế, trung tế, hậu tế của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên gọi là vô biên. Vì pháp vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Bởi Bát nhã Ba la mật đây vô biên nên ta nói sở duyên vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Lại nữa, này Kiều thi ca! Tất cả pháp vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Này Kiều thi ca! Tất cả pháp vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên là sao? Nghĩa là biên tế của tất cả pháp bất khả đắc. Vì sao? Vì tiền tế, trung tế, hậu tế của tất cả sắc đều bất khả đắc. Biên tế trước, sau, giữa của tất cả thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc. Bởi biên tế trước, sau, giữa của Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc nên ta nói tất cả pháp vô biên, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Lại nữa, này Kiều thi ca! Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát Nhã cũng vô biên. Vì sao? Vì biên tế tất cả hữu tình bất khả đắc nên ta nói tất cả hữu tình vô biên, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Bạch Đại đức! Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên là sao?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều thi ca! Không thể tính đếm vô số loài hữu tình vì bất khả đắc, nên nói là: Tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Trời Đế Thích thưa:

- Vì nghĩa gì nên nói như vậy?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều thi ca! Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông đáp. Ý ông thế nào? Nói hữu tình, hữu tình ấy có thêm nghĩa cho pháp nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Hữu tình, hữu tình ấy chẳng phải tăng nghĩa cho pháp cũng chẳng phải chẳng tăng nghĩa cho pháp. Chỉ là giả lập khách danh, thuộc về tên gọi tạm thời, thuộc về tên gọi không thật, thuộc về tên gọi không có nhân duyên(2).

Thiện Hiện bảo:

- Này Kiều thi ca! Ý ông thế nào? Ở trong Kinh Bát nhã Ba la mật sâu xa này, vì hiển bày thật có hữu tình không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa Đại đức! Không thật.

Thiện Hiện bảo:

- Trong Kinh Bát nhã Ba la mật sâu xa này đã chẳng hiển bày thật có hữu tình nên nói vô biên, vì trong ấy biên tế cũng bất khả đắc.

Này Kiều thi ca! Ý ông thế nào? Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua hằng hà sa số đại kiếp, đem vô biên lời để nói vô lượng danh tự loài hữu tình, thì trong ấy thật có hữu tình có sanh có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa Đại đức! Không thật. Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh vốn tịnh, xưa nay vô sở hữu, chẳng phải vô sở hữu có sanh diệt.

Thiện Hiện bảo:

- Do nghĩa này nên tôi nói là tất cả hữu tình vô biên nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Này Kiều thi ca! Do đây nên biết sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ Tát nói là lớn, vô lượng, vô biên. (Q.539, TBBN)

Bấy giờ, trong hội trời Đế Thích, các Phạm thiên vương cõi Dục, chư Thiên cõi Sắc và Thần tiên Thiên nữ cõi Đại tự tại vô cùng hoan hỷ, đồng thời ba lần hô lớn rằng:

- Hay thay! Vì có Phật ra đời nên Tôn giả Thiện Hiện nhờ oai thần của Phật giảng thuyết, khai thị pháp tánh vi diệu nhiệm mầu cho chúng tôi. Pháp Bát nhã Ba la mật làm cho trời, người, A tu la v.v... đều được lợi ích lớn. Nếu đại Bồ Tát có thể đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa thì chúng tôi đối với các vị ấy sẽ cung kính cúng dường như Phật Thế Tôn.

Bấy giờ, Phật bảo chư Thiên:

- Đúng vậy! Nếu đại Bồ Tát nào đối với Bát Nhã này đem vô sở đắc làm phương tiện có thể tu hành đúng như lời nói, luôn không xa lìa, thì chư thiên các ông đều nên cúng dường như Phật Thế Tôn.

Chư Thiên nên biết: Xưa kia Ta đối với Phật Nhiên Đăng, lúc ấy ở nơi ngã tư thuộc vương đô Liên Hoa, ta gặp đức Phật Nhiên Đăng, liền dâng năm cành hoa sen, trải tóc che bùn, cần cầu nghe Chánh pháp, đem vô sở đắc làm phương tiện, luôn không xa lìa Bát Nhã sâu xa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác.

Bấy giờ, Phật Nhiên Đăng liền thọ ký cho Ta được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nói như vầy: “Này thiện nam tử! Ở đời sau, trải qua vô số kiếp, trong thế giới Hiền kiếp này ông sẽ được làm Phật hiệu là Năng Tịch Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng cho đến Phật Thế Tôn, giảng thuyết Kinh điển Bát Nhã sâu xa, độ vô lượng chúng”.

Khi ấy, chư Thiên đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này thật là hi hữu, làm cho chúng đại Bồ Tát có thể mau chóng đến Nhất thiết trí trí, ở tận đời vị lai làm lợi ích an vui cho loài hữu tình.

 

Thích nghĩa:

(1). Trong Tiểu Bản Bát Nhã, Hội thứ IV, các Thiên tử hỏi Xá lợi Phất:

- “Sở học Bát nhã Ba la mật của các đại Bồ Tát phải cầu ở đâu?”

Kinh TBBN dùng từ “sở học”, trong khi các Hội khác dùng từ “sở hành”. Học là còn nằm trong tư tưởng nghĩa là để bồi dưỡng, mở mang kiến thức; nhưng hành là thực hành hay còn gọi là tạo tác. Có học mới có kiến thức để hành. Hành mà không học là “hành mù”, học mà không hành như cái đãi đựng sách. Cả hai hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, hành được xem quan trọng, chính cái hành mới đem đến chứng ngộ!

(2). Dịch câu chữ Hán: “Chỉ là đã nhiếp giả lập khách danh, đã nhiếp danh vô sự, đã nhiếp danh vô chủ, đã nhiếp danh vô duyên”.

 

Lược giải:

 

1. Chỗ trụ:

 

Trời Đế Thích (Kiều Thi Ca) thỉnh cụ thọ Thiện Hiện giảng thuyết, khai thị Bát nhã Ba la mật cho các đại Bồ Tát: Làm sao an trụ trong Bát Nhã chóng được viên mãn?

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Đế Thích: Các ông nên đem “tướng không an trụ” mà trụ sắc, mà trụ thọ, tưởng, hành, thức. Nghĩa là không nên trụ sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường; không nên trụ ngũ uẩn hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc Không hoặc bất Không; không nên trụ vào các quả tiểu thừa, trung thừa hay đại thừa làm chơn ruộng phước đáng thọ sự cúng dường; không nên trụ quả Phật độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình làm các Phật sự như vậy rồi nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn.

Câu hỏi được đặt ra là: Nếu không trụ vào ngũ uẩn thường hay vô thường, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, không trụ vào các quả vị tam thừa, cũng không trụ vào bất cứ các pháp nào… thì Bồ Tát trụ ở đâu để làm Phật sự?

Kinh đáp: “Các Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã sâu xa cũng như tâm của Như Lai không có chỗ trụ. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả tâm pháp đều không chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã sâu xa như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên trụ như vậy, nên học như vậy”.

Trụ ở chỗ không có sở trụ là trụ trong Tánh Không, lấy vô đắc, vô thủ, vô chấp…làm phương tiện. Đó là giáo nghĩa vô sở trụ của Bát Nhã. Nên học, nên trụ như vậy.

Nên câu hỏi “phải cầu Bát nhã Ba la mật ở đâu?” Câu trả lời là phải cầu Bát nhã Ba la mật trong sở học hay trong sở hành của Thiện Hiện mà sở học hay sở hành của Thiện Hiện là học không, hành vô tướng, vô nguyện.

 

2. Cái khó hiểu của Bát nhã Ba la mật là người nói,

người nghe đều bất khả đắc.

 

“Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Người nói, người nghe và pháp được nói ra đều như huyễn, như hóa, như mộng?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì người như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng, nói pháp như mộng. Tất cả hữu tình và tất cả pháp đều như cảnh huyễn hóa, như mộng, vì tất cả pháp, tất cả hữu tình cũng huyễn hóa, cũng như mộng, không hai, không khác.

Thiên tử nên biết! Những bậc Dự lưu và quả Dự lưu, hoặc bậc Nhất lai và quả Nhất lai, hoặc bậc Bất hoàn và quả Bất hoàn, hoặc A la hán và quả A la hán, hoặc các Độc giác và Độc giác Bồ đề, hoặc chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật đều như cảnh huyễn hóa, như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Lẽ nào chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật cũng như huyễn hóa, như mộng sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Cho đến Niết bàn ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Không lẽ Niết bàn cũng như huyễn hóa, như mộng?

Thiện Hiện đáp:

- Giả sử lại có pháp nào cao hơn Niết bàn, ta cũng nói là như huyễn hóa, như mộng. Vì sao? Vì cảnh huyễn hóa, như mộng cùng tất cả pháp, cho đến Niết bàn không hai, không khác, đều bất khả đắc, bất khả thuyết”.

Chỗ cao nhất mà người tu hành muốn đạt là Niết bàn cũng đều huyễn hóa, như mộng… thì nói chi tất cả các pháp khác. Vì sao? Vì huyễn hóa, mộng mị là không, kể cả pháp nào cao nhất như Niết bàn cũng là không, tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc. Học Bát Nhã là học không, như hư không mà học, trong đó không có chứng, không có đắc, không năng sở chủ khách, không bờ này bờ kia hay giữa dòng… Có trụ dù là trụ bất cứ đâu kể cả trong tánh Không đều có trở ngại, có dính mắc, trói buộc làm cho con người không còn tự do trong tri thức, đạo đức hay tâm linh. Vì vậy, Bát Nhã lúc nào và ở đâu cũng chủ trương vô sở trụ! Trụ vô sở trụ mới là chân trụ!

Vậy, trong không không có pháp để nói, không có người nói, không có người nghe, không có pháp điều qui định. Nên, Bát Nhã nhiều lần ví tu Bát Nhã như tu hư không!

 

Kết luận:

(có trụ hay không trụ?)

 

Những đon Kinh của phẩm “Nhiếp Thọ” quyển 101, Hội thứ I, ĐBN và các kiến giải sau đây có thể thay lời kết luận cho hai phẩm “Diệu Hạnh” và phẩm “Đế Thích”:

 

1. Trụ:

 

 “Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy tự an trụ pháp chơn như, dạy người khác an trụ pháp chơn như, khen ngợi pháp chơn như, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp chơn như. Tự an trụ pháp giới, dạy người khác an trụ pháp giới, khen ngợi pháp giới, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp giới. Tự an trụ pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, dạy người khác an trụ pháp tánh cho đến cảnh giới bất tư nghì, khen ngợi pháp tánh cho đến cảnh giới bất tư nghì, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp tánh cho đến cảnh giới bất tư nghì”.

Đại Bồ Tát ấy không những tự an trụ chơn như, dạy người khác an trụ chơn như, khen ngợi pháp chơn như, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp chơn như mà còn tự an trụ tất cả pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vui vẻ khen ngợi người an trụ thập nhị chơn như như đã nói trên. Nên biết an trụ chơn như cũng là an trụ trong pháp không.

Những người nào chưa thâm nhập pháp không này, khi nghe nói như vậy mà không khủng, không bố, không thối thất đạo Bồ đề, thì những người đó có căn tánh Đại thừa, có thể học Bát nhã Ba la mật!

 

2. Trụ nhưng không chấp ngã và ngã sở:

 

Đoạn Kinh tiếp theo cũng cùng một phẩm, nhưng nói:

“Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi an trụ chơn như, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ chơn như thì đại Bồ Tát ấy, vì do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ chơn như, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí.

Đại Bồ Tát khi an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì đại Bồ Tát ấy vì do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí”.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát khi an trụ tứ Thánh đế, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ tứ Thánh đế thì đại Bồ Tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ tứ Thánh đế, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí. Đại Bồ Tát khi an trụ tất cả pháp Phật nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ tất cả pháp Phật thì đại Bồ Tát ấy vì do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ tất cả pháp Phật, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí.

Vì vậy, nên Kinh nói: Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Chẳng trụ là đừng lấy ngã, ngã sở mà trụ. Chẳng trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh... thì làm sao chứng đắc? Vì vậy, nên nói chẳng phải chẳng trụ. Mục kế tiếp sẽ thuyết rõ vấn đề này.

 

3. Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

 

 Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 54, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:

“Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy là trụ chỗ nào? Thiện Hiện! Đại thừa như vậy đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì chỗ trụ của các pháp bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Nhưng Đại thừa đây trụ vô sở trụ!

Thiện Hiện! Như tánh chơn như chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh chơn như không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh chơn như, chơn như tánh không. Thiện Hiện! Như tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp giới, pháp giới tánh không, cho đến tánh thật tế, thật tế tánh không vậy.

(…) Thiện Hiện! Như tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, danh tự giả tưởng thi thiết lời nói tánh không vậy.

Thiện Hiện! Như tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi; vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi tánh không vậy.

Thiện Hiện! Do những duyên cớ này, nên Đại thừa như vậy, tuy đều không có chỗ trụ, mà trụ nơi vô sở trụ”.

Trong không, rỗng không làm gì có chỗ bám víu mà trụ. Do đó có thể nói: Đại thừa như vậy đều không có chỗ trụ, nhưng Đại thừa đây trụ vô sở trụ!

 

Đoạn kinh số 1. chỉ “chỗ an trụ” của Bồ Tát. Đoạn Kinh số 2.  Kế tiếp cùng một phẩm nói về “trụ” nhưng dưới điều kiện là “không được chấp ngã và ngã sở”. Đoạn kinh số 3. trong phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 54 đều nói “chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ”. Nếu không trụ vào tất cả pháp Phật thì làm sao hoàn thành sự nghiệp mà hóa độ chúng sanh. Như vậy là có trụ nhưng đừng chấp mình trụ (ngã) mình chứng (pháp), vì tất cả pháp đều giả danh, giả pháp, không thật như huyễn như mộng, nên nói là không. Nên Kinh  nói “Đại thừa tuy đều không có chỗ trụ mà trụ nơi vô sở trụ”.

Kết luận đó chính là chỗ tự hội của Lục tổ Huệ Năng khi nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ừng khởi tâm trụ chấp nơi nào) mà đại ngộ. Có trụ là có quái ngại, tu tất cả pháp nhưng chẳng trụ ở bất cứ pháp nào. Tuy không trụ ở bất cứ pháp nào nhưng Bồ Tát vẫn có khả năng hoàn thành sự nghiệp. Không trụ tất cả chỗ là trụ vô sở trụ. Trụ vô sở trụ đây mới được coi là chân trụ!

Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền luận III kết luận cho vấn đề trụ hay chẳng trụ như sau:

“Cho nên, các nhà Đại thừa là những người tùy thuận chân lý Tánh Không, trụ trong Bát Nhã, từ chối không tìm gốc rễ của mình trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức, cũng không tìm trong thế giới Hữu vi hay Vô vi. Trụ xứ đó được gọi là trụ xứ vô sở trụ. Vì lý do này, trụ trong Bát Nhã, theo bất cứ ý nghĩa nào khác, đều trụ nơi chấp thủ, và cái đó phải tránh nếu người ta muốn tự mình tác chủ. Khi có trụ điểm cố định, ở đâu đó, dù ở trong Bát Nhã, đấy là một kết quả nó trói buộc chúng ta, và chúng ta không còn độc lập trong tri thức, đạo đức hay tâm linh. Bát nhã Ba la mật như thế dạy chúng ta quét sạch mọi trụ điểm cố định có thể có, hay quét sạch mọi vọng tưởng. Khi đạt được thế giới không còn những vọng tưởng, đấy là vô trụ xứ hay trụ trong Tánh Không. Phật hay Bồ Tát nói ra giáo pháp của mình từ chỗ vô trụ xứ đó; cho nên, trong đó, không có người thuyết, không có pháp được thuyết cũng không có người nghe thuyết”. Đó là giáo thuyết tuyệt hảo của Bát Nhã. Nếu chấp hành một cách nghiêm chỉnh thì mau thâm nhập được pháp không, pháp như mà được tự tại./.

 

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com