- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM “NHIẾP THỌ”
Cuối quyển 427 đến đầu quyển 428, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Nhiếp Thọ”, đầu Q.101- Q.103, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phẩm “Nhiếp Thọ” này của Hội thứ II, ĐBN cũng tương đồng với phẩm “Diệt Tránh”(Diệt trừ cạnh tranh) của Kinh MHBNBLMĐ. Phẩm tựa tuy có khác nhưng nội dung không khác, Quý vị có thể đọc song song với phẩm này, để bổ túc sự thiếu sót hay vấn đề chuyển ngữ trong việc dịch thuật có thể gây trở ngại cho sự hiểu biết hay thọ trì.
Tóm lược:
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát rất là hiếm có. Đối với Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố, nhiếp thọ hiện pháp công đức thắng lợi hiếm có như thế, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ một nước Phật đến một nước Phật, gần gũi vâng thờ chư Phật Thế Tôn, đem các căn lành mà mình ưa thích để cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; tức có khả năng làm cho các căn lành sanh trưởng, sớm được viên mãn. Từ chỗ chư Phật được thọ Chánh pháp, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở thời gian giữa chưa từng quên mất. Chóng được dòng tộc viên mãn, cha mẹ viên mãn, sinh thân viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, quang minh viên mãn, thắng nhãn viên mãn, thắng nhĩ viên mãn, thắng âm viên mãn, đẳng trì viên mãn, tổng trì viên mãn.
Lại đem sức phương tiện khéo léo, đại Bồ Tát tự biến hóa thân mình như thân Phật. Từ một thế giới tới một thế giới, đến cõi không Phật, khen nói bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật. Khen nói nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Khen nói bốn lĩnh tự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Khen nói bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Lại đem sức phương tiện khéo léo, vì các hữu tình tuyên nói pháp yếu, tùy nghi an để(1) trong pháp Tam thừa, khiến giải thoát hẳn sanh lão bệnh tử, chứng Vô dư y bát Niết bàn. Hoặc lại cứu vớt khổ, khiến sanh trong trời người hưởng các thú vui. (Q.427, ĐBN)
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có. Nếu năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật như thế, thời là nhiếp thọ đầy đủ sáu Ba la mật. Nói rộng là nhiếp thọ đầy đủ mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng là nhiếp thọ đầy đủ quả Dự lưu cho đến A la hán, Độc giác Bồ đề cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:
- Như vậy! Như ngươi đã nói, nếu năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật như thế, là nhiếp thọ đầy đủ sáu món Ba la mật. Nói rộng cho đến nhiếp đầy đủ thọ Nhất thiết tướng trí.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ năng đối Bát nhã Ba la mật chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này nhiếp thọ các loại hiện pháp công đức thắng lợi đời này hay đời sau. Ngươi nên nghe kỹ, rất khéo tác ý, ta sẽ vì các ngươi phân biệt giải nói.
Thiên Đế Thích thưa:
- Dạ, xin Đại Thánh, nguyện xin nói, chúng con muốn nghe.
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu có các thứ tộc loại ngoại đạo, hoặc các thiên ma và quyến thuộc ma ở cõi Dục, hoặc các kẻ bạo ác tăng thượng mạn muốn đối các thiện nam thiện nữ như thế, phát khởi ác tâm, gây xa lìa, chống trái hủy báng Bát nhã Ba la mật, bọn kia vừa khởi tâm liền bị tai họa tự phải tiêu diệt, chẳng đạt sở nguyện. Vì sao? Vì các Bồ Tát này thường hành bố trí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.
Nếu hữu tình vì xan tham nên thường tranh đấu, Bồ Tát này đối với pháp nội ngoại tất cả đều xả, phương tiện dạy họ an trụ bố thí Ba la mật. Nếu hữu tình thường phá giới, Bồ Tát này với pháp nội ngoại tất cả đều xả, phương tiện dạy họ an trụ tịnh giới Ba la mật. Nếu hữu tình thường giận dữ, Bồ Tát này phương tiện dạy họ an trụ an nhẫn Ba la mật. Nếu hữu tình thường biếng nhác, Bồ Tát này phương tiện dạy họ an trụ tinh tiến Ba la mật. Nếu hữu tình thường tán loạn, Bồ Tát này phương tiện dạy họ an trụ tĩnh lự Ba la mật. Nếu hữu tình thường ngu si u tối, Bồ Tát này phương tiện dạy họ an trụ Bát nhã Ba la mật.
Nếu các hữu tình trôi lăn sanh tử, thường bị tham sân si, tùy miên buộc bẩn rối loạn nơi tâm, tạo tác nhiều sự bất nhiêu ích(2), Bồ Tát này phương tiện khéo léo khiến họ dứt diệt tham sân si cùng tùy miên buộc bẩn, khiến an trụ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc khiến an trụ bốn niệm trụ, nói rộng cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc khiến an trụ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc khiến an trụ quả Dự lưu cho đến quả A la hán; hoặc khiến an trụ Độc giác Bồ đề cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy, gọi đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố(3). Đó chính là các Bồ Tát nhiếp thọ công đức thắng lợi hiện pháp.
Kiều Thi Ca! Bồ Tát này do nhân duyên đây, ở đời vị lai mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, hóa độ vô lượng chúng sanh. Tùy bản sở nguyện, phương tiện an lập khiến đối Tam thừa tu học rốt ráo cho đến chứng được vô dư y Niết bàn. Như vậy, gọi là đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Đó chính là các Bồ Tát nhiếp thọ công đức thắng lợi tương lai.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… Chỗ địa phương kia, nếu có ác ma và quyến thuộc ma, nếu có tộc loại các thứ ngoại đạo, hoặc các kẻ bạo ác tăng thượng mạn, ganh ghét Bát nhã Ba la mật muốn ngăn ngại, phá hoại, ẩn mất, phương tiện gạn trách, lăng nhục chống trái. Dù có ý muốn này nhưng trọn chẳng thực hiện được. Ngược lại, chúng ma nhờ nghe Bát Nhã mà ác tâm dần dần tiêu mất, công đức lần lượt nẩy sanh. Về sau nhờ pháp Tam thừa được hết ngằn mé khổ, hoặc thoát ác thú sanh trong trời người được nhiều lợi vui.
Như có diệu dược tên là mạc kỳ, thuốc này oai thế năng tiêu các độc. Diệu dược như vậy tùy sanh chỗ nào các loại độc trùng chẳng thể đến gần. Có rắn độc lớn đói đi kiếm ăn, thấy sinh loại muốn mổ nuốt. Sanh loại kia sợ chết chạy tới chỗ có diệu dược, rắn nghe hơi thuốc bèn thối lui. Vì sao? Vì diệu dược như thế có đủ đại oai thế, năng ích thân mệnh, dẹp tiêu các độc. Phải biết Bát nhã Ba la mật có đủ đại oai thế cũng lại như thế.
Nếu các thiện nam, thiện nữ chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… Các ác ma đến chỗ Bồ Tát đây muốn làm việc ác, do sức oai thần Bát nhã Ba la mật này nên khiến việc ác kia tự phải tiêu diệt, không làm gì được. Vì sao? Bởi vì Bát nhã Ba la mật đây có đủ đại oai lực, năng xô các ác pháp, tăng trưởng thiện pháp vậy. (Q.427, ĐBN)
Kiều Thi Ca! Vì sao Bát nhã Ba la mật năng xô các ác tăng trưởng các thiện?
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế, năng diệt tham dục, sân nhuế, ngu si vô minh, cho đến trọn nhóm đại khổ ngăn che, tùy miên, quấn bẩn trói buộc, hoặc ngã kiến, hữu tình kiến, bổ đặc già la kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cho đến nhiều thứ ác kiến thú, xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, ngu si, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh và tất cả tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, hành v.v...
Kiều Thi Ca! Như vậy Bát nhã Ba la mật năng diệt chấp trước sắc cho đến chấp trước thức. Năng diệt chấp trước nhãn cho đến chấp trước ý. Năng diệt chấp trước sắc thanh hương vị xúc cho đến chấp trước pháp. Năng diệt chấp trước nhãn thức cho đến chấp trước ý thức. Năng diệt chấp trước nhãn xúc cho đến chấp trước ý xúc. Năng diệt chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến chấp trước ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Năng diệt chấp trước bố thí Ba la mật cho đến chấp trước Bát nhã Ba la mật. Năng diệt chấp trước nội không cho đến chấp trước vô tánh tự tánh không. Năng diệt chấp trước bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chấp trước mười tám pháp Phật bất cộng. Năng diệt chấp trước Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Năng diệt chấp trước Bồ đề, Niết bàn.
Kiều Thi Ca! Như vậy, Bát nhã Ba la mật năng diệt tất cả các pháp ác đây và năng tăng trưởng các pháp đối trị kia. Vậy nên, Bát nhã Ba la mật có đủ đại thế lực rất tôn rất thắng.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này thường được các Thiên vương, Thiên tử, long thần, dược xoa, A tu la, cùng những thiên thần trong Tam thiên đại thiên đều đến ủng hộ, chẳng cho tất cả tai hoạnh não hại; các điều mong cầu đều được viên mãn. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong thế giới chư Phật như cát sông Hằng, cũng thường hộ niệm các thiện nam thiện nữ này, khiến ác nghiệp dần dần diệt tận, thiện pháp lần lược tăng trưởng: Nghĩa là khiến tăng trưởng bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khiến tăng trưởng quán nội không cho đến quán vô tánh tự tánh không, cũng khiến tăng trưởng bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng khiến tăng trưởng tất cả Tam ma địa môn và Đà la ni môn, cũng khiến tăng trưởng Nhất thiết trí và Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây, nên lời lẽ oai nghiêm, người nghe đều cung kính, luận nói cân xứng, lời không lầm lộn, khéo biết trả ơn, luôn thờ bạn lành; chẳng bị san tham, đố kị, giận hờn, phiền não, nịnh dối, kiêu mạn… làm che khuất.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tự lìa giết hại, cũng khuyên người lìa giết hại, tùy thuận tán dương pháp lìa giết hại, vui mừng ngợi khen kẻ lìa giết hại. Cho đến tự lìa tà kiến, cũng khuyên người lìa tà kiến, tùy thuận tán dương pháp lìa tà kiến, vui mừng ngợi khen kẻ lìa tà kiến. Tự thường hành bố thí Ba la mật, cũng khuyên người hành bố thí Ba la mật, tùy thuận tán dương pháp hành bố thí Ba la mật, vui mừng ngợi khen kẻ hành bố thí Ba la mật. Cho đến tự thường hành Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người hành Bát nhã Ba la mật, tùy thuận tán dương pháp hành Bát nhã Ba la mật, vui mừng ngợi khen kẻ hành Bát nhã Ba la mật. Tự thường hành nội không, cũng khuyên người hành nội không, tùy thuận tán dương pháp hành nội không, vui mừng ngợi khen kẻ hành nội không. Cho đến tự thường hành vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người hành vô tánh tự tánh không, tùy thuận tán dương pháp hành vô tánh tự tánh không, vui mừng ngợi khen kẻ hành vô tánh tự tánh không. Tự thường tu bốn tĩnh lự cũng khuyên người tu bốn tĩnh lự, tùy thuận tán dương pháp tu bốn tĩnh lự, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn tĩnh lự. Tự thường tu bốn vô lượng, cũng khuyên người tu bốn vô lượng, tùy thuận tán dương pháp tu bốn vô lượng, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn vô lượng. Tự thường tu bốn định vô sắc, cũng khuyên người tu bốn định vô sắc, tùy thuận tán dương pháp tu bốn định vô sắc, vui mừng ngợi khen kẻ tu bốn định vô sắc. Nói rộng cho đến thường tu tất cả pháp Phật, cũng khuyên người tu tất cả pháp Phật, tùy thuận tán dương phương pháp tu tập tất cả thiện pháp (tức pháp Phật), vui mừng ngợi khen kẻ tu tất cả các thiện pháp.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ này thường khởi nghĩ rằng: Nếu ta chẳng hành bố thí Ba la mật, thì phải sanh vào nhà bần tiện, không thế lực, đâu có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi sẽ chứng Nhất thiết trí trí. Nếu ta chẳng trì tịnh giới Ba la mật, phải đọa ác thú, chẳng được thân người, thì đâu có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi đắc Nhất thiết trí trí. Nếu ta chẳng tu an nhẫn Ba la mật, thân căn tàn tạ, hình mạo xấu xí, chẳng đủ sắc thân Bồ Tát viên mãn, lấy đâu thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng được Nhất thiết trí trí. Nếu ta biếng nhác, chẳng khởi tinh tiến Ba la mật, hãy chẳng được Bồ Tát đạo, chẳng thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu ta loạn tâm, chẳng vào tĩnh lự Ba la mật, chẳng năng khởi thắng định Bồ Tát, đâu có thể thành thục tất cả hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng đắc Nhất thiết trí trí? Nếu ta vô trí, chẳng học Bát nhã Ba la mật, chẳng được phương tiện khéo léo vượt bậc Nhị thừa, đâu có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, huống chi năng đắc Nhất thiết trí trí.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này thường khởi nghĩ: Ta chẳng nên theo thế lực tham lam. Nếu theo lực kia thời bố thí Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực phá giới. Nếu theo lực kia thời tịnh giới Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực giận dữ. Nếu theo lực kia thời an nhẫn Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực lười biếng. Nếu theo lực kia, thời tinh tiến Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực loạn tâm. Nếu theo lực kia, thời tĩnh lự Ba la mật chẳng được viên mãn. Ta chẳng nên theo thế lực ác huệ. Nếu theo lực kia, thời Bát nhã Ba la mật chẳng được viên mãn. Nếu ta sở tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật chẳng viên mãn, quyết chẳng có khả năng đắc Nhất thiết trí trí.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này tâm chẳng lìa Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố, quyết được sẽ được công đức thắng lợi trong tương lai. (Q.427, ĐBN)
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có, điều phục chúng Bồ Tát chẳng để cống cao mới có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được.
Phật hỏi Thiên Đế Thích rằng:
- Kiều Thi Ca ! Sao là Bát nhã Ba la mật điều phục chúng Bồ Tát chẳng để cống cao, mới có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được?
Thiên Đế Thích bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn ! Các Bồ Tát khi hành bố thí theo thế gian, nếu ở chỗ Phật hành bố thí mà khởi nghĩ này: Ta đã cúng dường chư Phật, hoặc ta đã thí phát cho vô số Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, những kẻ côi cùng, già bệnh, kẻ lỡ đường, hành khất. Bồ Tát hành bố thí vì không phương tiện khéo léo, nên hành bố thí mà tự mãn, khởi cống cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được. Các Bồ Tát khi hành thế gian tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật mà khởi nghĩ này: Ta đã từng tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Hơn nữa lại khởi nghĩ: Ta hoàn thành tốt đẹp tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát này vì không phương tiện khéo léo, nên dù hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật mà khởi cống cao, chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được. Các Bồ Tát khi tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất cộng. Nếu khởi nghĩ này: Ta đã từng tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc khởi nghĩ nữa: Ta đã hoàn thành tốt đẹp ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Bồ Tát này vì không phương tiện khéo léo, nên dù hành tất cả pháp Phật như thế mà khởi cống cao, chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được.
Bạch Thế Tôn! Chúng Bồ Tát như thế, nương tâm thế gian tu các thiện pháp, vì không phương tiện khéo léo, bị chấp ngã, ngã sở làm rối tâm, nên dù có tu Bát Nhã mà chẳng đắc, nên chẳng như thật điều phục cống cao, cũng chẳng như thật hồi hướng Nhất thiết trí trí được.
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khi hành bố thí Ba la mật xuất thế, vì khéo tu Bát Nhã, thì chẳng thấy người thí, kẻ thọ thí, vật bố thí. Bồ Tát này nương tựa Bát nhã Ba la mật mà hành bố thí, nên có khả năng như thật điều phục tâm cống cao, do đó cũng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu Bồ Tát khi hành xuất thế tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, khéo tu Bát Nhã, nên chẳng thấy đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã và tất cả pháp. Bồ Tát này nương dựa Bát nhã Ba la mật mà hành tịnh giới cho đến Bát Nhã, nên có khả năng như thật điều phục cống cao, do đó cũng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu Bồ Tát khi hành xuất thế bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Vì khéo tu Bát Nhã nên chẳng thấy đắc bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí và tất cả pháp. Bồ Tát này nương dựa Bát nhã Ba la mật hành bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, nên có khả năng như thật điều phục cống cao, do đó cũng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu Bồ Tát khi thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khéo tu Bát Nhã nên chẳng thấy đắc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật và tất cả pháp. Bồ Tát này nương dựa Bát nhã Ba la mật mà thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, nên có khả năng như thật điều phục cống cao, do đó cũng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Bạch Thế Tôn ! Do nhân duyên đây con tác thuyết: Bát nhã Ba la mật như thế rất là hiếm có, điều phục chúng Bồ Tát chẳng để cống cao nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.
Thích nghĩa:
(1). An để: An trú, an trụ hay an định.
(2). Bất nhiêu ích có nghĩa là không có lợi ích hay vô ích.
(3). Lưu bố: Lưu hành, truyền bá.
Sơ giải:
1. Thế nào là nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật?
Nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật có nghĩa là không những đối Bát nhã Ba la mật mà cả đối với tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Vì tất cả pháp đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật. Những ai tu hành Bát nhã Ba la mật có phương tiện khéo léo, nhất định sẽ được công đức thắng lợi trong hiện tại hay vị lai không thể nghĩ bàn. Vì sao?
Vì “Bát nhã Ba la mật như thế, năng diệt tham dục, sân nhuế, ngu si vô minh, cho đến trọn nhóm đại khổ ngăn che, tùy miên, quấn bẩn trói buộc, hoặc ngã kiến, hữu tình kiến, bổ đặc già la kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cho đến nhiều thứ kiến thú, xan tham, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, ngu si, tưởng thường, tưởng lạc, tưởng ngã, tưởng tịnh và tất cả tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, hành khác v.v…”
Nhờ nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật như thế, nên các thiện pháp và các căn lành được tăng trưởng thù thắng, chóng giải thoát khổ não, mau chứng Niết bàn, đạt Nhất thiết trí trí, thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình yên vui rốt ráo!
2. Thế nào tu Bát nhã Ba la mật để tự điều phục thân tâm?
Phật hỏi Thiên Đế Thích:
- Kiều Thi Ca! Sao là Bát nhã Ba la mật điều phục chúng Bồ Tát chẳng để cống cao, mới có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được?
Nếu hành sáu pháp Ba la mật mà chẳng lìa ngã-ngã sở, vẫn còn chấp tướng, ví như bố thí mà vẫn còn chấp có người thí, có người thọ và có vật thí, thì chưa tự mình điều phục, hiến chi có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nên Kiều Thi Ca nhân đây mới nói đến Bố thí thế gian và xuất thế gian:
1- Hành bố thí thế gian: Khi hành thế gian bố thí mà khởi nghĩ này: Ta đã từng tu hành bố thí. Ta hoàn thành tốt đẹp pháp bố thí. Không ai hy sinh giúp đở mọi người như ta v.v... Như vậy Bồ Tát vì không phương tiện khéo léo, nên dù hành bố thí mà khởi cống cao, chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí được. Đó là cái khiếm khuyết của người tu bố thí nên gọi là hành bố thí thế gian. Bố thí tuy có phước đức nhưng chỉ là nhân hữu lậu.
Nên Kinh nói: “Chúng Bồ Tát như thế, nương tâm thế gian tu các thiện pháp, vì không phương tiện khéo léo, bị chấp ngã, ngã sở làm rối tâm, nên dù có tu Bát Nhã mà chẳng đắc, nên chẳng như thật điều phục cống cao, cũng chẳng như thật hồi hướng Nhất thiết trí trí được”.
2- Hành bố thí xuất thế gian: Bồ Tát khéo tu Bát nhã Ba la mật, thì chẳng thấy người thí, kẻ thọ, vật bố thí. Bố thí như vậy thì gọi là tam luân không tịch. Bồ Tát này nương Bát nhã Ba la mật mà hành bố thí được tịnh hạnh, nên có thể điều phục thân tâm. Tu như vậy gọi là có phương tiên khéo léo, nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí. Đó chính là nhận vô lậu, phước đức không thể nghĩ bàn.
Phẩm này giáo lý đơn giản. Mục đích thuyết về tu lục Ba la mật để điều phục thân tâm hay nói khác trước hết là được tịnh hạnh sau nữa là tịnh đạo Bồ đề. Nên Kinh MHBNBLMĐ nói rằng:
“Khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật, tự niệm rằng:
- Nếu ta chẳng hành bố thí, thì ta sẽ thọ báo bần cùng, sẽ chẳng thành tựu được chúng sanh, chẳng thanh tịnh được Phật độ, dẫn đến chẳng được nhất thiết chủng trí.
- Nếu ta chẳng trì giới, thì sẽ thọ báo sanh vào 3 đường ác, chẳng được làm thân người, chẳng thành tựu được chúng sanh, chẳng thanh tịnh được Phật độ, dẫn đến chẳng được nhất thiết chủng trí.
- Nếu ta chẳng hành nhẫn nhục, thì ta sẽ chẳng được các căn đầy đủ, chẳng được sắc thân toàn vẹn như Bồ Tát, chẳng thành tựu được chúng sanh, chẳng thanh tịnh được Phật độ, dẫn đến được nhất thiết chủng trí.
- Nếu ta giải đãi, thì ta sẽ chẳng hành được Bồ Tát đạo, chẳng thành tựu được chúng sanh, chẳng thanh tịnh được Phật độ, dẫn đến chẳng được nhất thiết chủng trí.
- Nếu ta loạn tâm, thì ta chẳng vào được các thiền định, chẳng thành tựu được chúng sanh, chẳng thanh tịnh được Phật độ, dẫn đến chẳng được nhất thiết chủng trí.
- Nếu ta vô trí, thì ta sẽ chẳng có được các lực và phương tiện, chẳng có thể thắng được hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, chẳng thành tựu được chúng sanh, chẳng thanh tịnh được Phật độ, dẫn đến chẳng được nhất thiết chủng trí.
Này Kiều Thi Ca! Các Thiện Nam, Thiện Nữ này, khi thực hành Bát Nhã Ba La Mật, lại tự niệm rằng:
- Nếu xan tham, thì chẳng được đầy đủ Đàn Ba La Mật.
- Nếu phạm giới, thì chẳng được đầy đủ Thi La Ba La Mật.
- Nếu sân nhuế, thì chẳng được đầy đủ Sẵn Đề Ba La Mật.
- Nếu giải đãi, thì chẳng được đầy đủ Tỳ Lê Gia Ba La Mật.
- Nếu loạn tâm, thì chẳng được đầy đủ Thiền Ba La Mật.
- Nếu ngu si, thì chẳng được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.
Nói chung, nếu chẳng tu đầy đủ 6 pháp Ba La Mật, thì chẳng thế nào được nhất thiết chủng trí vậy”.
Các giáo lý này cũng được thuyết đi thuyết lại nhiều lần nên ai cũng có thể nhiếp thọ, không cần giải thích thêm.
---o0o---
Sau đây là thí dụ nói lên thế nào là Bố thí theo thế gian và bố thí xuất thế gian trong tác thứ nhất Bích Nham Lục:
Bồ Đề Đạt Ma, vị La Hán thứ 28 truyền thừa từ Đức Thích Ca mâu Ni, theo phó chúc của Tổ thứ 27 là Bát Nhã Đa La sang Tàu truyền pháp, nên Tổ Đạt Ma mới diện kiến vua Lương Võ Đế để xin ủng hộ. Lương Võ Đế là người mộ đạo, thường mặc áo cà sa, đích thân giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã, thí phát qui y cho hàng trăm ngàn tín đồ, xây chùa độ Tăng, tu hành theo giáo lý. Thiên hạ gọi ông là Phật Tâm Thiên Tử.
Lúc mới gặp Đạt Ma, Võ Đế bèn hỏi: “Trẫm xây chùa độ Tăng như thế có công đức chăng?” Đạt Ma bảo “Chẳng có công đức gì cả”. Câu trả lời đó chẳng khác nào tạt nước lã vào mặt người ta. Tục truyền rằng Võ Đế nghi Đạt Ma chỉ là “Tổ giả”, nên muốn đánh thuốc độc, Tổ đoán biết nên nửa đêm vượt sông mà sang đất Ngụy.
Trở lại câu chuyện, Tổ Đạt Ma thấy Võ Đế tu hành mà còn nói tới công đức, tức còn chấp tướng, còn nắm bắt mới trả lời là không có công đức. Đó là lối tu theo thế gian, cái tu hữu lậu, tức cái tu đó thật ra cũng có công đức nhưng chỉ là công đức hữu lậu, vì còn chấp đắm, không được rốt ráo. Vì vậy, mà Tổ trả lời là không có công đức. Nhưng Võ Đế không hiểu, nên phật lòng.
Còn về phần Tổ đã dày công tu luyện, biết thế nào tu vô lậu. Không mong cầu nắm bắt, nên mới được gọi là tu Ba la mật xuất thế gian./.
---o0o---