Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Phẩm “Như Lai”

03/01/202118:35(Xem: 8022)
15. Phẩm “Như Lai”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-520

 

 
XV. PHẨM “NHƯ LAI”
Phần cuối Q. 561 cho đến phần đầu Q. 562, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Gợi ý: 

Đây là phẩm phối hợp nhiều phẩm như “Chơn Thiện Hữu”, “Trí Hướng Đến”, “Chơn Như” và “Bồ Tát An Trụ”, đã thuyết giảng nhiều lần ở bốn Hội trước. Có một điều chúng tôi ngạc nhiên là trong các phẩm “Chơn Như” của các Hội khác thường thuyết kèm theo phần “Như Lai tùy sanh” để nói về vai trò của những của những vị tu hành Bát Nhã tùy theo tự tướng như của Như Lai như trường hợp của cụ thọ Thiện Hiện. Chỉ có phẩm “Như Lai” này thuyết về Như Lai tùy sanh khác với bốn Hội trước. Có lẽ trong phẩm có tên là “Như Lai” này, phù hợp với quan điểm “Như Lai tùy sanh” hơn các phẩm “Chơn Như chăng?”. Các Hội trước không có phẩm riêng biệt nào có tên là Như Lai cả.

Điểm cần nêu ra đây là phẩm này thuyết nhiều đề tài rất khác nhau nên rất khó đúc kết thành một phẩm duy nhất.

 

Tóm lược:

 

(Chơn thiện hữu)

 

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát tân học làm thế nào để học Bát Nhã sâu xa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ Tát mới học muốn học Bát Nhã sâu xa, trước nên gần gũi, phụng sự bạn lành. Nếu ai có thể tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa, dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát, thì gọi là bạn lành. Người ấy nói thế này: “Thiện nam tử, đến đây! Ông nên siêng năng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Khi ông siêng năng tu tập, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi ông hồi hướng, chớ dùng sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà chấp thủ Bồ đề. Vì sao? Vì tánh của Nhất thiết trí trí chẳng phải là sở thủ. Thiện nam tử! Ông chớ sanh tham đắm các địa vị Thanh văn, Độc giác v.v..”. Nếu ai có thể dạy bảo, trao truyền như thế cho Bồ Tát tân học, làm cho họ dần dần thâm nhập vào Bát nhã Ba la mật, thì nên biết đó là bạn lành của Bồ Tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này phát Bồ đề tâm, muốn thẳng tới Bồ đề là việc làm rất khó!

 

(Hạnh nguyện của Bồ đề Bồ Tát)

 

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như ngươi nói! Việc làm của các chúng Bồ Tát rất khó, nghĩa là vì lợi ích an vui cho các thế gian nên phát tâm hướng đến Vô Thượng Bồ đề, với lời thề: Ta vì cứu giúp thế gian nên làm nhà cửa cho thế gian, làm chỗ quay về nương tựa cho thế gian, làm hòn đảo cho thế gian, chỉ dạy con đường rốt ráo cho thế gian, làm vị thầy dẫn đường cho thế gian, làm chỗ đến cho thế gian... nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ đề.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát thề cứu giúp tất cả thế gian nên phát khởi siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát thấy các thế gian chìm đắm trong khổ sanh tử chẳng thể ra khỏi, nên siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ đề, vì dứt khổ cho người nên thuyết giảng pháp yếu của chánh pháp cho họ.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát làm nhà cửa cho tất cả thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát muốn vì thế gian thuyết tất cả pháp đều chẳng hòa hợp, nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề.

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát muốn vì thế gian thuyết tất cả pháp đều chẳng hòa hợp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các chúng Bồ Tát muốn vì thế gian tuyên thuyết năm uẩn và tất cả pháp đều chẳng hòa hợp, không buộc, không mở, không sanh, không diệt. Do vậy, có thể che chở, giúp đỡ tất cả, giống như nhà cửa.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát làm chỗ quay về nương tựa cho các thế gian nên phát khởi sự siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát muốn làm cho thế gian thoát khỏi tất cả sanh, lão, bệnh, tử v.v… nên phát khởi siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề, phương tiện thiện xảo giảng thuyết điều cốt yếu của chánh pháp.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát làm hòn đảo cho các thế gian nên phát khởi siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát hướng đến đại Bồ đề vì muốn thuyết cho thế gian ranh giới trước sau của năm thủ uẩn đều dứt. Do cái này dứt nên tất cả pháp đều dứt. Tất cả pháp này dứt tức là Niết bàn tịch diệt vi diệu; cũng là tánh như thật không điên đảo. Ví như trong biển, sông, ao lớn nhỏ, chỗ đất cao ở được gọi là hòn đảo; Niết bàn cũng thế, là chỗ an ổn.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát chỉ dạy con đường rốt ráo cho thế gian nên phát khởi siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát hướng đến đại Bồ đề, muốn vì thế gian nói sắc rốt ráo chẳng gọi là sắc; thọ tưởng hành thức và các pháp cũng vậy. Pháp tánh rốt ráo chẳng phải sắc đều như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu pháp sắc thảy pháp tánh rốt ráo chẳng gọi sắc thảy, lẽ các Bồ Tát đã được Bồ đề, vì trong tánh rốt ráo không phân biệt vậy?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như ngươi nói! Trong tánh rốt ráo hoàn toàn không phân biệt, nhưng đối với các Bồ Tát là việc rất khó làm. Tuy có thể quán tất cả pháp như thế nhưng chẳng chứng đắc, cũng chẳng chìm đắm. Nghĩ thế này: Ta đối với pháp này hiện Đẳng giác rồi, nên tuyên thuyết chỉ dạy cho thế gian, làm cho họ biết được đạo tướng rốt ráo như thế.

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát làm thầy dẫn đường(đạo sư) cho thế gian phát khởi siêng năng tinh tấn, hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát hướng đến đại Bồ đề muốn thuyết cho thế gian bản tánh sắc không sanh không diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Muốn thuyết cho thế gian quả Dự lưu cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề bản tánh các pháp không sanh, không diệt. (Q.561, ĐBN)

Thiện Hiện! Thế nào là các chúng Bồ Tát làm chỗ đến cho các thế gian nên phát khởi siêng năng tinh tấn hướng đến đại Bồ đề? Nghĩa là các Bồ Tát hướng đến đại Bồ đề, muốn tuyên thuyết chỉ dạy cho thế gian: Sắc lấy hư không làm chỗ đến. Thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lấy hư không làm chỗ đến. Muốn tuyên thuyết, chỉ dạy cho thế gian: Sắc không chỗ đến, ngang đồng với hư không. Thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng không chỗ đến,

ngang đồng với hư không. Như hư không rộng lớn, không đến, không đi, không tạo, không tác, không trụ, không sanh, không diệt. Các pháp cũng vậy, đều như hư không, không có sự phân biệt. Vì sao? Vì sắc Không, nên không đến, không đi… Thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng đều Không, nên không đến, không đi. Vì sao? Vì tất cả pháp đều dùng: Không, vô tướng, vô nguyện, không tạo, không tác, không sanh, không tánh… như mộng, như huyễn, không ngã, không biên, Niết bàn tịch tĩnh, không thủ, không xả, không đến, không đi, tịch diệt cùng cực… để làm chỗ đến. Người kia đối với chỗ tới này cũng chẳng thể vượt khỏi.

 

(Ai là người có thể tin hiểu Bát Nhã?)

 

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể tin hiểu pháp sâu xa như thế?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát từ lâu tu đại hạnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật phát thệ nguyện rộng lớn, đã trồng căn lành, đều được thành thục, được vô lượng bạn lành giúp đỡ hộ niệm, thì có thể tin hiểu pháp sâu xa này.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này lấy gì làm tánh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát này lấy điều phục, viễn ly làm tánh. Nhờ tánh này nên có thể biết, có thể rõ Bát Nhã.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này có thể biết, có thể rõ Bát Nhã sâu thẳm sẽ đạt đến chỗ  nào?

Phật dạy Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát này sẽ đạt đến Nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát chứng đắc rồi thì có thể làm chỗ quay về và chỗ đến cho vô lượng, vô biên hữu tình?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như ngươi nói! Nếu các Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì có thể làm chỗ quay về, chỗ đến cho vô lượng, vô biên hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này thường làm việc khó làm, nghĩa là mặc giáp đội mũ bền chắc như thế vì muốn độ vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho vào Niết bàn, nhưng loài hữu tình hoàn toàn chẳng thể đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát này mặc giáp đội mũ chẳng thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng thuộc Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và tất cả Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không sở thuộc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa thì chẳng trụ địa vị Thanh văn, Độc giác v.v...

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ông quán nghĩa nào mà nói như thế?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa không chấp trước. Tu Bát nhã Ba la mật thì đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sự tu, cũng không có người tu, thời tu, chốn tu và do đây tu cũng bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là pháp không quyết định. Nếu tu hư không, tu tất cả pháp, tu không biên giới, tu không nhiếp thọ thì chính là tu Bát nhã Ba la mật.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên nương vào Bát Nhã sâu xa như thế, quán sát đại Bồ Tát Bất thối chuyển; nghĩa là các Bồ Tát nếu chẳng tham đắm Bát Nhã sâu xa, chẳng chấp lời của người khác và sự chỉ dạy truyền trao của người khác để làm điều chơn yếu, cũng chẳng tin người khác tạo tác, nghe nói Bát Nhã sâu xa như thế, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng chìm, chẳng đắm, không nghi, không ngờ, cũng chẳng mê mờ, hoang mang, hoan hỷ ưa nghe, hết lòng tin nhận; các Bồ Tát này nhất định chẳng thối lui. Các Bồ Tát như thế đời trước đã từng nghe nghĩa lý Bát Nhã sâu xa, nên nay được nghe, tâm không kinh sợ v.v...

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát nghe Bát Nhã sâu xa tâm chẳng kinh, chẳng sợ v.v... thì các Bồ Tát này sẽ dùng tâm nào quán sát Bát Nhã sâu xa? 

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát này nên dùng tâm tùy thuận Nhất thiết trí quán sát Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tâm tùy thuận Nhất thiết trí quán sát Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát tùy thuận như hư không quán sát Bát nhã Ba la mật thì đó là tâm tùy thuận Nhất thiết trí quán sát Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Nhất thiết trí vô lượng, vô biên. Nếu vô lượng, vô biên tức là chẳng phải sắc, cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; không đắc, không hiện quán, không trí, không thức, không sanh, không diệt, không tu, không tác, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, không phương hướng, không nơi chốn, cũng không sở trụ, chỉ có thể nói là vô lượng, vô biên.

Thiện Hiện nên biết! Hư không vô lượng, vô biên nên Nhất thiết trí cũng vô lượng, vô biên. Nhất thiết trí vô lượng, vô biên nên không ai có thể chứng. Chẳng phải sắc có thể chứng, cho đến chẳng phải thức có thể chứng. Chẳng phải bố thí Ba la mật có thể chứng, cho đến chẳng phải Bát nhã Ba la mật có thể chứng. Vì sao? Vì sắc cho đến thức chính là Nhất thiết trí không hai, không khác. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chính là Nhất thiết trí không hai, không khác.

Bấy giờ Thiên tử Phạm Thế cõi Dục cùng đi đến chỗ Phật, đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết.

Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như lời các ngươi nói! Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, ngồi yên tịnh tư duy, chẳng muốn nói pháp, Ta nghĩ: Pháp của Ta sâu xa, chẳng phải các thế gian có thể tin nhận nhanh chóng. Pháp Ta chứng chính là Bát nhã Ba la mật. Pháp này sâu xa, chẳng phải năng chứng, chẳng phải sở chứng, không nơi chứng, không thời chứng và do đây chứng, cũng chẳng thể đắc. Thiên tử nên biết! Hư không sâu xa nên pháp này sâu xa. Ngã sâu xa nên pháp này sâu xa. Tánh tất cả pháp không đến, không đi nên pháp này sâu xa.

Khi ấy, các Thiên tử bạch Phật:

- Thật lạ thay! Bạch Thế Tôn! Pháp Phật thuyết, tất cả thế gian rất khó tin hiểu. Pháp Phật thuyết không thủ, không xả. Hữu tình thế gian lại hành thủ xả.

Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như lời các ngươi nói!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Pháp Phật thuyết sâu xa vi diệu, đối với tất cả pháp đều có thể tùy thuận, không có sự chướng ngại, đồng như hư không. Pháp Phật thuyết hoàn toàn không sanh, vì tất cả pháp sanh không thể đắc vậy. Pháp mà Phật biết, hoàn toàn không nơi chốn vì tất cả nơi chốn đều chẳng thể đắc vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng như vậy! Đúng như lời các ngươi nói!

 

(Như Lai tùy sanh)

 

Các Thiên tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện là chơn Phật tử, tùy Như Lai sanh, vì những gì Ngài nói đều tương ưng với Không vậy.

Thiện Hiện bảo các Thiên tử:

- Các ông nói: Ta tùy Như Lai sanh. Thế nào là Thiện Hiện tùy Như Lai sanh? Nghĩa là tùy Như Lai như sanh vậy. Vì tất cả pháp sanh chẳng thể đắc vậy. Nên Như Lai như không đến, không đi, bản tánh chẳng sanh. Thiện Hiện như cũng không đến không đi, bản tánh chẳng sanh, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như chính là tất cả pháp như. Tất cả pháp như chính là Như Lai như. Như đó không phi Như, cũng chẳng không có tánh chẳng như. Thiện Hiện như cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như không biến đổi, không phân biệt, khắp tất cả chỗ. Thiện Hiện như cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như lấy thường trụ làm tướng nên không có sở trụ. Thiện Hiện như cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như không có sự chướng ngại, tất cả pháp như cũng không có sự chướng ngại. Thiện Hiện như cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như cùng tất cả pháp như đồng một như, không hai, không khác, không tạo, không tác. Như Lai như luôn luôn là tướng như, không lúc nào là chẳng phải tướng như. Thế nên như không hai, không khác. Thiện Hiện như cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như đối với tất cả chỗ không nhớ nghĩ, không phân biệt. Tất cả pháp như đối với tất cả chỗ cũng không nhớ nghĩ, không phân biệt. Thiện Hiện như cũng lại như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như không khác, chẳng thể đắc. Tất cả pháp như cũng không sai khác, chẳng thể đắc. Thiện Hiện như cũng lại như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai như chẳng lìa các pháp như. Các pháp như chẳng lìa Như Lai như. Như Lai như luôn luôn là tướng như, không lúc nào là chẳng phải tướng như. Thiện Hiện như cũng như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Tuy nói là tùy sanh nhưng không có chỗ tùy sanh, vì Thiện Hiện như chẳng khác Phật. Như Lai như chẳng phải đến, đi. Tất cả pháp như cũng chẳng phải đến, đi. Thiện Hiện như cũng lại như thế, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Như Lai tức thị Như Lai như. Như Lai như tức thị quá khứ như, quá khứ như tức thị Như Lai như. Như Lai như tức thị vị lai như, vị lai như tức thị Như Lai như. Như Lai như tức thị hiện tại như, hiện tại như tức thị Như Lai như. Như Lai như tức thị ba đời như, ba đời như tức thị Như Lai như. Như Lai như cùng ba đời như không hai, không khác. Tất cả pháp như, Thiện Hiện như cũng không hai, không khác, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Bồ Tát như tức thị chư Phật như. Các chúng Bồ Tát do như này nên khi đắc Bồ đề gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khi Như Lai chứng đắc như này, ba ngàn thế giới biến động sáu cách. Ta đối với các pháp như như thế càng tin hiểu, nên nói: Thiện Hiện tùy Như Lai sanh.

Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện ta chẳng do sắc cho đến thức, nên từ Như Lai sanh. Cũng chẳng do quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề nên từ Như Lai sanh. Cũng chẳng do Nhất thiết trí nên từ Như Lai sanh. Chỉ do chơn như nên từ Như Lai sanh.

Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện ta không từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sanh. Không từ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề sanh, nên Thiện Hiện ta tùy Như Lai sanh.

Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Như Lai như thế rất sâu xa vi diệu.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như lời người nói! Như Lai sâu xa vi diệu như thế, nên ngay khi thuyết tướng Như Lai như thế, ba ngàn Bí sô sạch hẳn các lậu, tâm được giải thoát, thành A la hán, năm trăm Bí sô ni xa trần lìa cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, năm ngàn chư Thiên đắc Vô sanh pháp nhẫn, sáu ngàn Bồ Tát sạch hẳn các lậu, tâm được giải thoát.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Sáu ngàn Bồ Tát trong chúng này từng ở chỗ năm trăm đức Phật quá khứ gần gũi cúng dường. Tuy tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự nhưng không giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, phát sanh nghĩ tưởng sai khác, tu hạnh sai khác, nên đời này chỉ nghe pháp lớn mà tâm sạch các lậu, được giải thoát.

Xá lợi Tử! Các chúng Bồ Tát tuy có đạo Bồ Tát: Không, vô tướng, vô nguyện nhưng không giữ gìn phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, liền chứng Niết bàn, rơi ở địa vị Thanh văn, Độc giác.

Xá lợi Tử! Ví như có con chim, thân to lớn từ một trăm cho đến năm trăm do tuần, lông cánh của nó chưa đủ, hoặc đã suy yếu. Con chim này từ trên cõi trời Ba mươi ba nhào thẳng xuống châu Thiệm bộ. Giữa đường nó nghĩ: Ta nay muốn quay về cõi trời Ba mươi ba. Ý ngươi thế nào? Con chim này có thể về lại cõi trời Ba mươi ba được không?

Xá lợi Tử bạch:

- Kính bạch Thế Tôn! Không.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Con chim này giữa đường ước muốn: Đến châu Thiệm bộ sẽ khiến cho thân ta không bị tổn hại, không bị đau đớn, ý ngươi nghĩ sao? Ước muốn này có được thỏa nguyện không?

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn, không! Con chim này khi tới châu Thiệm bộ, thân nó nhất định bị tổn hại, đau đớn, hoặc chết hoặc gần chết. Vì sao? Vì thân của nó lớn, lông cánh chưa đủ, hoặc đã suy yếu, lại từ trên cao rơi xuống vậy.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Có thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa cũng như thế, tuy phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đã trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh

tấn, tịnh lự, cũng tu giải thoát môn: Không, vô tướng, vô nguyện nhưng không nhiếp thọ phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, liền chứng Niết bàn, nên rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác.

Xá lợi Tử! Các Bồ Tát này tuy nghĩ nhớ giới uẩn cho đến giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật ba đời nhưng tâm thủ tướng, không biết như thật về công đức chơn thật của năm uẩn như thế, chỉ nghe danh tự suông, thủ tướng, chấp trước, hồi hướng Bồ đề, bèn rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các Bồ Tát này xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật nên như thế.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy: Nếu các Bồ Tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thì tuy đầy đủ vô lượng tư lương phước đức, nhưng đối với Bồ đề hoặc đắc, hoặc chẳng đắc. Thế nên Bồ Tát muốn đắc Bồ đề thì nhất định chẳng nên xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, Phật bảo Xá lợi Tử:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói! (Hết Q.561, ĐBN)

 

Quyển thứ 562

 

(Vô Thượng Bồ đề khó tin khó chứng chẳng?)

 

Khi ấy, Thiên tử Phạm Thế cõi Dục cung kính chấp tay đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã như thế rất là sâu xa, rất khó tin hiểu. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng rất sâu xa, rất khó tin hiểu!

Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật dạy thì Vô Thượng Bồ đề chẳng phải khó tin, khó đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn Không, nên trong Không không có pháp tin chứng pháp khác. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp đều Không. Vì dứt diệt niệm đối với các pháp như thế nên nói pháp như thế, thì pháp này cũng Không. Do nhân duyên này, đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật, năng chứng, sở chứng, năng tri, sở tri, tất cả đều Không, vắng lặng. Thế nên quả vị Vô Thượng Bồ đề chẳng phải khó tin hiểu, chẳng phải khó chứng đắc, do tất cả pháp hoàn toàn Không. Tin hiểu như thế thì liền chứng đắc.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đối với quả vị Vô Thượng Bồ đề kẻ tin chứng bất khả đắc, vì quả vị Vô Thượng Bồ đề chẳng phải thật có; vì không chứa nhóm nên nói khó tin, khó đắc.

Khi ấy, Xá lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Vì tất cả pháp rốt ráo không, nên Vô thượng Bồ đề cực khó tin, khó đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không có tự tánh, đều như hư không. Ví như hư không không nghĩ: Ta tin, sẽ đắc Vô thượng Bồ đề, các pháp cũng vậy, thế nên quả vị Vô Thượng Bồ đề cực khó tin, khó đắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Phật Bồ đề không khó tin khó đắc, tại sao các Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề lại bị thối lui? Nên phải nói Phật Bồ đề rất khó tin, khó đắc.

Thiện Hiện thưa:

- Ý Tôn giả thế nào? Sắc đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Thọ, tưởng, hành, thức đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa sắc, có pháp nào đối với Bồ đề thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức, có pháp nào đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Sắc như, đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Thọ, tưởng, hành, thức như đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa sắc như, có pháp nào đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức như có pháp nào đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Như đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

- Lìa như đối với Bồ đề có thối lui không?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Thiện Hiện, không.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp chắc thật, tồn tại, hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc, thì nói những pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề để có thể thối lui?

Xá lợi Tử thưa:

- Như lời thiện sĩ nói: Thật không có pháp, cũng không có hữu tình có thể nói có sự thối lui Bồ đề. Nếu vậy thì vì lẽ gì Phật thuyết ba hạng trụ Bồ Tát thừa, chỉ nên nói một? Lại không nên lập có ba thừa sai khác, chỉ nên có một Bồ Tát thừa?

Khi ấy, Mãn Từ Tử thưa với cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nên hỏi Thiện Hiện: Có phải là chỉ có một Bồ Tát thừa chăng? Rồi sau đó mới có thể nạn vấn: Lẽ ra không nên kiến lập ba thừa sai khác, chỉ nên có một Bồ Tát thừa.

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Có phải chỉ có một Bồ Tát thừa chăng?

Thiện Hiện hỏi:

- Lẽ nào trong như có ba hạng Bồ Tát và ba thừa?

Xá lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện, chẳng phải vậy!

- Lẽ nào trong như có một Bồ Tát thừa, một Phật thừa chăng?

Xá lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện, chẳng phải vậy!

- Lẽ nào trong như tướng có một pháp khá thấy gọi là một Bồ Tát và một thừa chăng?

Xá lợi Tử thưa:

- Thiện Hiện, chẳng phải vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo với Xá lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp chắc thật an trụ như vậy, trọn vô sở hữu đều bất khả đắc, Bồ Tát Tam thừa cũng lại như thế, thì vì lẽ gì gạn hỏi có một, có ba? Nếu các Bồ Tát nghe thuyết tướng như không sai khác chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm, các Bồ Tát này mau chứng Bồ đề, nhất định không thối lui.

Khi ấy, Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ngươi có thể vì các Bồ Tát thuyết điều cốt yếu của chánh pháp. Sự giảng thuyết của ngươi nương vào oai thần của Phật, tất cả Như Lai đều tùy hỷ về sự giảng thuyết của ngươi. Nếu các Bồ Tát đối với tướng không sai biệt của các pháp như, hết lòng tin hiểu, thì nghe thuyết các pháp như như thế chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm. Các Bồ Tát này mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, nhất định không thối lui.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp này thì nhất định chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Đúng như vậy! Các Bồ Tát này nhất định chẳng rơi vào địa vị Thanh văn v.v...

 

(Bồ Tát an trụ)

 

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát muốn chứng Bồ đề, nên trụ như thế nào? Nên học như thế nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát muốn chứng Bồ đề thì đối với các hữu tình nên trụ bình đẳng, nghĩa là đối với loài kia nên phát sanh tâm bình đẳng, tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả, tâm không sai khác, tâm khiêm tốn, tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm không sân hận, tâm không muốn não hại kẻ khác, tâm như cha mẹ... cũng dùng tâm này nói với họ.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ Tát muốn chứng Bồ đề thì nên trụ như thế, nên học như thế.

 

Sơ giải:

 

1. Ai là bạn lành chơn tịnh của tất cả hữu tình?

 

 Cả năm Hội đều định nghĩa bạn lành chơn tịnh của hữu tình là những vị có thể diễn thuyết, dạy bảo trao truyền lục Ba la mật cũng như tất cả pháp mầu Phật đạo cho các Bồ Tát, lấy vô sở đắc làm phương tiện hồi hướng đến Vô Thượng Bồ đề, nhưng không chấp trước Bồ đề cũng không chấp quả Nhị thừa thì đó là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.

Như vậy có thể nói chư Phật, chư Bồ Tát, tất cả Thánh chúng hay bất cứ ai có thể nói pháp giúp đở chúng sanh trên con đường tu học mà cả kinh sách Phật cũng được xem là bạn lành chơn tịnh của hữu tình.

Hơn nữa, bạn lành chơn tịnh phải là những vị có tâm cứu giúp thế gian nên làm nhà cửa cho thế gian, làm chỗ quay về nương tựa cho thế gian, làm hòn đảo cho thế gian, chỉ dạy con đường rốt ráo cho thế gian, làm vị thầy dẫn đường cho thế gian, làm đuốt tuệ cho thế gian... Vì thế gian nên siêng năng tinh tấn, hướng đến đạo Bồ đề.

 

2. Ai là người có thể học Bát Nhã?

 

Câu trả lời dễ dàng như Kinh nói là “Nếu các Bồ Tát từ lâu tu đại hạnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở chỗ chư Phật phát thệ nguyện rộng lớn, đã trồng căn lành, đều được thành thục, được vô lượng bạn lành giúp đỡ hộ niệm, thì có thể tin hiểu pháp sâu xa này”. Có thể tin hiểu Bát Nhã thì mới có thể học Bát Nhã. Nhưng làm sao tin hiểu được Bát Nhã để có thể học, có thể hành? Để trả lời câu hỏi này, Phật bảo:

“Lấy điều phục, viễn ly làm tánh. Nhờ tánh này nên có thể biết, có thể rõ Bát Nhã”.

 Đây là một trong những điều kiện hết sức khó khăn trong việc tu tập Bát Nhã. Tất cả sự chuyển y của con người trong vấn đề học Phật bắt đầu từ ý chí và nghị lực. Nếu không có ý chí và nghị lực làm sao điều phục thân tâm. Vậy phải điều phục thân tâm nhu nhuyễn chịu đựng mọi thử thách gian nan mới có thể tu giới định huệ. Có giới định huệ mới hy vọng thâm nhập được Bát Nhã. Đó là đặc tánh cần yếu để tu Bát Nhã. Đặc tánh thứ hai là phải sống viễn ly. Sống viễn ly không có nghĩa là trốn tránh thế gian mà là viễn trần xa cấu. Lìa bỏ dục vọng than ái.

Nhờ hai đặc tánh này mới có thể biết, có thể rõ, có thể thâm nhập được pháp không, pháp như… của Bát nhã Ba la mật để tiến đến giác ngộ và chứng Nhất thiết trí. Đó là kỳ vọng của hành giả Bát Nhã.

Nhưng nói là kỳ vọng cũng là một thứ ước muốn sai lầm. Bát Nhã là không, vô sở hữu, bất khả đắc, không sở nhiếp thọ. Nên Kinh bảo: “Bát Nhã sâu xa không chấp trước. Tu Bát nhã Ba la mật thì đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sự tu, cũng không có người tu, thời tu, chốn tu và do đây tu cũng bất khả đắc.

Bát Nhã sâu xa là pháp không quyết định. Nếu tu hư không, tu tất cả pháp, tu không biên giới, tu không nhiếp thọ thì chính là tu Bát nhã Ba la mật”.

Nếu biết như vậy, hiểu như vậy thì có thể học có thể tu Bát nhã Ba la mật.

 

3. Như Lai tùy sanh.

 

Trong các phẩm “Chơn Như” của bốn pháp hội chúng tôi đều trích dẫn “Như Lai tùy sanh” do Thiền sư D. T. Suzuki thuyết giảng. Hội thứ V này chúng tôi cũng trích dẫn lại nhưng rút gọn để độc giả một lần nữa hiểu giáo pháp này. Vì hiểu giáo lý này là hiểu chơn như, hiểu tự tướng của những người nào chứng nhập “pháp như”. Nếu hiểu được như vậy thì có thể xem là giác ngộ.

“Kinh Bát Nhã có một đoạn dành cho Tu Bồ Đề (Subhùti) luận về Như lai Tùy sinh (Tathàgata-anujata). Tùy sinh (Anujàta) có nghĩa, sinh sau hay “sinh ra tùy theo”. Chính Tu Bồ Đề (Subhuti), người nói triết học Bát Nhã, sinh ra sau Như lai, tức em ruột của Như lai, hay nói đúng hơn, Tu Bồ Đề được sinh ra tùy theo tự tướng của Như lai. Đó là một trong các đoạn quan trọng nhất của Bát Nhã, nhất là khi xét tới liên hệ với giáo thuyết Chân như. Như Lai (Tathagata) thông thường được coi như là một biệt hiệu của Phật, nghĩa đen hoặc “người đến như thế” hoặc “người đi như thế”. Điểm quan trọng ở đây là ý nghĩa của chữ Như (tatha) hơn là Lai (agata, đến hay gata, đi); hình như tác giả của Kinh Bát Nhã nhấn mạnh trên chữ tatha

coi đó là chìa khóa để hiểu giáo pháp Tathata (Chân như) hay Yathabhutam (Như thực). Khi ông nói tới Chân như của Như Lai (tathagata- tathata), ông muốn nói lý tánh, căn nguyên, hay lý tắc cho sự xuất hiện có thể có của Như Lai trong thế gian. Vì vậy, Tu Bồ Đề mà được sinh ra sau (anujata) Chân như của Như Lai, thì có nghĩa là Tu Bồ Đề và Như Lai cùng đến từ bào thai vũ trụ mà Kinh Lăng già (Lankavatara) và các Kinh Phật khác gọi là Như Lai tạng (tathagatagarbha). Với giải thích sơ khởi này, đoạn dưới đây nói về Tùy sinh (Anujata) và Như Lai (Tathagata) sẽ trở nên dễ hiểu hơn.

“Khi nói Tu Bồ Đề sinh ra sau Như Lai, nói thế có nghĩa như vầy: Như của Như Lai là Như của Tu Bồ Đề, Như Như không hai không khác, vì Chân Như là một trong hết thảy các loại hữu tình và ở đây không hai tưởng, không phân biệt, không phân đôi; trong hết thảy Chân Như không có đến và cũng không có đi vì bản lai vô sinh; chúng không chỗ trụ nơi chúng thường trụ như là những pháp sai biệt; chúng là vô tác, vì có nghĩa rằng chúng không phải là sở tri như là đang hoạt dụng trong một phương thế quyết định nào đó để biểu lộ những tự tướng sai biệt của chúng; thế nhưng chúng cũng không phải là thường tịch và vô sở tác; chúng luôn luôn như Như trong tất cả mọi xứ sở, trong tất cả mọi thời gian, trong tất cả mọi cảnh giới, trong tất cả mọi tụ tập nhân duyên; trong chúng không từng có quá khứ, không từng có hiện tại, không từng có vị lai mặc dù chúng hữu tình được coi như đang hiện hữu, tồn tại và biến mất; chúng không lệ thuộc sự phân biệt, không sắc tướng sai biệt, là bất khả đắc; và sau hết dù với những phẩm tính đó chúng vẫn xuất hiện như là những thực tại, có thể được định danh, được định nghĩa và được phân biệt, mặc dù như thế chúng không còn là Chân như nữa. Vì những lý do đó, Chân như của Tu Bồ Đề là Chân như của Như Lai, và Chân như của Như Lai là Chân như của hết thảy các pháp, cả hai không hai không khác. Chân như nhất như hiển hiện ở đây, nhưng ngay khi nói về Chân như như thế, Chân như không còn là Chân như nữa. Chân như chỉ là giả danh, nhưng nếu không có giả danh đó không có Như Lai, không có Tu Bồ Đề, không có Phật, không có A la hán, không có các loại hữu tình. Duy chỉ Như Lai mới thấu triệt như thế, không một chúng sinh nào có thể nắm nổi lý này. Tu Bồ Đề, vì Ngài thấu hiểu, nên có thể diễn nói những huyền diệu sâu xa của Bát nhã Ba la mật đa, và vì lý do đó, Ngài là Tùy sinh của Như Lai”. (3)

Như như là tướng của tất cả vạn pháp, “tướng như” này chẳng lúc nào chẳng như trong mọi cảnh giới trong mọi xứ mọi thời, chỉ có Như Lai mới thấu triệt như này, nên các vị mới được gọi là chư Như Lai. Vì thấy biết như vậy nên Như Lai mới được xem là bình đẳng và vì bình đẳng nên mới nói là thanh tịnh.

Người thấy được như này tức là chứng chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế... hay nói khác là nhập pháp giới mà được giác ngộ.

Nếu những ai tu Bát nhã Ba la mật nhập được “như” này đều có thể được xem là Phật hay ít nhất cũng được gọi là “Tùy Như Lai sanh” như Thiện Hiện vậy.

 

4. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề:

Khó tin, khó hiểu, khó chứng chăng?

 

Phần sau phẩm “Như Lai”, rất khó hiểu. Nên chúng tôi dùng đoạn kinh của phẩm “Chơn Như” Hội thứ IV, TBBN thế vào. Phật bảo:

“Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, vì người tin hiểu và người chứng đắc bất khả đắc, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng thật có, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc. Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có chứa nhóm, nên nói khó tin, khó hiểu và khó chứng đắc”.

Danh tướng là giả, chỉ là giả danh chẳng thật có, do người ta đặt ra hay do người khác gán cho mình. Chứng hay không là do tu hành đến một lúc nào đó “tâm thông” thì tự thầm ngộ. Vã lại, tất cả pháp đều không, không thật, không thành, vô sở hữu bất khả đắc, vậy lấy cái gì để đắc. Như đức Thích ca Mâu ni phải mất ba a tăng kỳ kiếp mới chứng được Vô Thượng Bồ đề, chứng hay không là do Phật tự biết, thầm ngộ nên Phật bảo là khó hiểu khó chứng. Nói có chứng có đắc là nói theo tục đế, chứ chăng theo đệ nhất nghĩa.

Thiện Hiện cũng hiểu biết như thế nên bảo Xá Lợi Tử:

“Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp đều không sở đắc, đối với pháp như cũng không sở đắc, đối với các Bồ Tát cũng không sở đắc, đối với chư Như Lai cũng không sở đắc, nên biết đó là Bồ Tát chơn thật.

Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào nghe nói chơn như không có tướng sai khác mà không kinh, không sợ, không chìm đắm, v.v... thì Đại Bồ Tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong khoảng thời gian ấy nhất định không thối chuyển”.

Phật kết luận:

- “Hay thay! Hay thay! Hôm nay chính ông là người có thể vì các Bồ Tát giảng nói pháp chính yếu hay nhất. Những điều ông nói đều là sức oai thần của Như Lai.

Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ Tát đối với “pháp như bất khả đắc tướng”, sanh lòng tin hiểu sâu xa, biết tướng không sai khác của tất cả pháp; nghe nói các pháp như bất khả đắc tướng như vậy, không kinh, không sợ, không chìm đắm... đại Bồ Tát đó nhanh chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Vậy, Bồ Tát nào nếu muốn nhanh chóng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, nên trụ bình đẳng, lấy tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, làm lợi ích, an vui, nhu hòa, cung kính, như cha, như mẹ, như anh em... đối với hữu tình. Phải trụ như vậy, phải học như vậy. Phải trụ phải học như vậy là trụ trong chơn như thật tướng của tất cả pháp.

“Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là quả vị Vô Thượng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như Như của các pháp gọi là quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết: Vì các pháp như không có thêm bớt nên quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật cũng không thêm bớt. Nếu đại Bồ Tát thường an trụ tác ý tương ưng với Như Như như vậy, thì liền gần quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói, tuy không thêm bớt nhưng không thối chuyển tác ý Như như. Ba la mật tuy không thêm bớt nhưng không thối lui sự mong cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đại Bồ Tát nào an trụ tác ý Như Như như như vậy mà tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, liền gần quả vị Vô Thượng Bồ đề”.

Vậy, trụ “trong như” hành lục Ba la mật thì có thể tiến gần Vô Thượng Bồ đề.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com