Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Phẩm “Viễn Ly” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

12/08/202021:18(Xem: 9631)
24. Phẩm “Viễn Ly” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
 

Phẩm Viễn Ly_photo

PHẨM “VIỄN LY”

Cuối quyển 423 đến hết quyển 424, Hội thứ II.
(Tương đương phần cuối phẩm “Quán Hạnh”, Q.71 - Q.74, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước





 

Gợi ý:

Phẩm “Viễn Ly” của Hội thứ II, ĐBN cũng cùng một tư tưởng với phẩm thứ 26, có phẩm tựa “Vô Sanh Tam Quán”(Ba Pháp Quán Vô Sanh) của Kinh MHBNBKMĐ hay phẩm thứ 26, “Vô Sanh Tam Quán”, tập 3, quyển 53 của Đại Trí Độ Luận. Phẩm tựa có khác nhưng nội dung không khác. Quý vị có thể tham khảo lẫn nhau, nếu gặp trở ngại trong lối hành văn hay ngôn từ dịch thuật.

 

Tóm lược:

 

(Quán các pháp, nhưng chẳng chấp pháp, cũng chấp các quán

thì phải xả li).

 

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nhân giả: Thế nào gọi là Bồ Tát Ma ha tát? Thế nào gọi là Bát nhã Ba la mật? Thế nào gọi là quán sát các pháp?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp rằng:

- Tôn giả hỏi sao gọi là Bồ Tát Ma ha tát?

- Xá Lợi Tử! Kẻ siêng cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lợi vui hữu tình, nên gọi Bồ Tát. Đã giác như thật, năng khắp biết rõ tướng tất cả pháp mà không sở chấp, nên lại gọi Ma ha tát.

Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện rằng:

- Thế nào là Bồ Tát Ma ha tát năng khắp biết rõ tướng tất cả pháp mà không sở chấp?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát như thật biết rõ tất cả tướng sắc mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng thọ tưởng hành thức mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng 12 xứ 18 giới mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng nhãn xúc mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng nội không mà không sở chấp, như thật biết rõ tất cả tướng ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng pháp giới mà không sở chấp; như thật biết rõ tất cả tướng chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới… mà không sở chấp. Như thật biết rõ tất cả tướng sáu Ba la mật mà không sở chấp; như thật biết rõ 37 pháp trợ đạo mà không sở chấp. Như vậy, cho đến như thật biết rõ tất cả tướng Phật mười lực, tất cả tướng bốn vô sở úy cho đến 18 pháp Phật bất cộng mà không sở chấp. Cho đến như thật biết rõ tất cả tướng Nhất thiết trí, tướng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí mà không sở chấp.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Tại sao lại gọi là tướng tất cả pháp?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Nếu do tướng trạng các hành biểu hiện như vậy mà biết các pháp là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp, là bên trong, là bên ngoài, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu vi, là vô vi. Những tên này là tướng tất cả pháp.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi: Thế nào gọi là Bát nhã Ba la mật. Xá Lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu biết chỗ cần phải xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Xá Lợi Tử nói:

- Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?

Thiện Hiện đáp:

- Trí tuệ này có thể xa lìa các uẩn, các xứ, các giới, các phiền não kiến, và sáu đường v.v... nên gọi là Bát Nhã. Lại nữa, Xá Lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát Nhã.

Xá Lợi Tử hỏi:

- Trí này đối với pháp nào được vĩnh viễn đạt đến?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đối bố thí cho đến Bát Nhã đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát Nhã. Đây đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát Nhã. Đây đối bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát nhã. Như vậy, đối Phật mười lực cho đến mười tám Phật bất cộng đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát Nhã. Cho đến đây đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều năng vĩnh viễn đạt đến, nên gọi Bát nhã. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây nói là Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi: Như thế nào gọi là quán sát các pháp. Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã quán sát sắc cho đến thức phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh, phi không phi bất không, phi hữu tướng phi vô tướng, phi hữu nguyện phi vô nguyện, phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, phi xa lìa phi chẳng xa lìa. Quán sát 12 xứ, 18 giới phi thường phi vô thường, phi vui phi khổ, phi ngã phi vô ngã, phi tịnh phi bất tịnh v.v... cũng lại như thế. Quán sát nhãn xúc cho đến ý xúc, quán sát nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như thế. Quán sát nội không cho đến vô tánh tự tánh không... nói rộng ra cho đến quán sát tất cả pháp Phật cũng lại như thế. Xá Lợi Tử! Tất cả như thế gọi là quán sát các pháp. Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã nên tác quán các pháp như vậy.

 

(Tất cả pháp này đã được Kinh giải thích rồi, ở đây được lặp lại cho rõ nghĩa thêm. Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 26, “Vô Sanh Tam Quán”, tập 3, quyển 53, giải thích đoạn kinh trên như sau:

“Nên biết, ở cả 3 thừa đều có quả vị Bồ Đề:

- Bồ Đề Nhị Thừa.(Thanh văn)

- Bồ Đề Bích Chi Phật thừa.(Duyên giác)

- Bồ Đề Bồ Tát và Phật thừa.(Bồ Tát hay Phật)

Bồ Đề của Bồ Tát và Phật thừa còn được gọi là Bồ Đề Tát Đoả.

Vị Bồ Tát nào, dù đã có được trí huệ lớn mà chưa dứt trừ hết các tập khí phiền não, thì vẫn chưa được gọi là Bồ Đề Phật thừa, chưa được gọi là Bồ Đề Tát Đoả.

Người phát đại tâm tinh tấn Tu Bồ Đề hành(hạnh), cần cầu đạo Vô Thượng thì mới được gọi là Bồ Đề Tát Đoả.

Trong kinh dạy: Người phát đại tâm cầu đạo Vô Thượng, biết rõ hết thảy các pháp tướng mà chẳng thủ chấp, gọi là Bồ Tát. Do vì biết rõ hết thảy các pháp tướng đều là rốt ráo không, nên Bồ Tát ở nơi Chân đế cũng như ở nơi Tục đế vẫn thường tự tại, vẫn thường dùng các lực phương tiện để hiện hành các pháp, mà vẫn chẳng hề thủ chấp các tướng.

 

--o0o--

 

Lại nữa, do thật hành Bát nhã Ba la mật, nên Bồ Tát ở nơi sắc mà vẫn ly sắc, nơi thọ, tưởng, hành, thức mà vẫn ly thọ, tưởng, hành, thức, dẫn đến ở nơi hết thảy các pháp mà vẫn ly hết thảy các pháp. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật là viễn ly, là giải thoát vậy.

Phải viễn ly 5 ấm, 12 nhập, 18 giới, viễn ly các pháp Ba la mật, viễn ly nhất thiết chủng trí… dẫn đến viễn ly hết thảy các pháp, thì mới gọi là được Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát dùng lực phương tiện Bát nhã Ba la mật để quán các pháp, mà vẫn xả ly các pháp quán”.

Quán các pháp, đắc các quán, nhưng muốn không bị các pháp, các quán trói buộc, chấp chặt thì phải xả li).

 

(Sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc).

 

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức? Như vậy, cho đến Nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí?

Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Sắc, sắc tánh không; thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tánh không. Trong tánh không đây không sanh không diệt, cũng không sắc cho đến thức. Do đây nên nói sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức.

Xá Lợi Tử! Như vậy cho đến Nhất thiết trí, Nhất thiết trí tánh không; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tánh không. Trong tánh không đây không sanh không diệt, cũng không Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Do đây nên nói Nhất thiết trí chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng sanh chẳng diệt cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức? Như vậy cho đến Nhất thiết trí chẳng hai tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí?

Thiện Hiện đáp rằng: Xá Lợi Tử! Hoặc sắc hoặc chẳng hai, hoặc thọ tưởng hành thức hoặc chẳng hai. Tất cả như thế đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do đây nên nói sắc chẳng hai tức chẳng phải sắc, thọ tưởng hành thức chẳng hai cũng chẳng phải thọ tưởng hành thức.

Xá Lợi Tử! Như vậy, cho đến hoặc Nhất thiết trí hoặc chẳng hai; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc chẳng hai. Tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do đây nên nói Nhất thiết trí chẳng hai tức chẳng phải Nhất thiết trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng hai cũng chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Nhân giả! Duyên nào tác thuyết như vầy: Sắc vào vô nhị pháp số, thọ tưởng hành thức vào vô nhị pháp số? Như vậy cho đến Nhất thiết trí vào vô nhị pháp số; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vào vô nhị pháp số?

Thiện Hiện đáp rằng:

Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác sắc; sắc tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế. Do đây nên nói sắc vào pháp số không hai, thọ tưởng hành thức vào pháp số không hai.

Xá Lợi Tử! Như vậy, cho đến Nhất thiết trí chẳng khác vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt chẳng khác Nhất thiết trí; Nhất thiết trí tức là vô sanh vô diệt, vô sanh vô diệt tức là Nhất thiết trí. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng lại như thế!

 

(Kinh MHBNBLMĐ cũng có một đoạn Kinh tương đương như đoạn Kinh trên, nhưng rất rõ ràng để nói lên “Sắc chẳng sanh chẳng diệt tức chẳng phải sắc”, như sau:

“Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Vì nhân duyên gì mà nói sắc bất sanh là phi sắc… dẫn đến nói nhất thiết chủng trí bất sanh là phi nhất thiết chủng trí?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Sắc và sắc tướng đều là tánh không. Trong tánh không thì sắc chẳng sanh, nên là phi sắc. Dẫn đến thức và thức tướng đều là tánh không, và trong tánh không thì thức chẳng sanh, nên là phi thức. Đàn Ba la mật và Đàn Ba la mật tướng… dẫn đến Bát nhã Ba la mật và Bát nhã Ba la mật tướng, nội không và nội không tướng… dẫn đến vô pháp hữu pháp và vô pháp hữu pháp không tướng, 4 niệm xứ và 4 niệm xứ tướng v.v… dẫn đến nhất thiết chủng trí và nhất thiết chủng trí tướng cũng đều là như vậy cả.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói sắc bất sanh là phi sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí bất sanh là phi nhất thiết chủng trí.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: vì nhân duyên gì mà nói sắc bất nhị là phi sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí bất nhị là phi nhất thiết chủng trí?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Hết thảy các pháp đều chẳng có tập, chẳng có tán, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, nên đều chẳng phải hai(bất nhị), chẳng phải khác, đều là nhất tướng, là vô tướng. Bởi nhân duyên vậy, nên nói sắc bất nhị là phi sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí bất nhị là phi nhất thiết chủng trí.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Vì nhân duyên gì mà nói sắc.. dẫn đến nhất thiết chủng trí đều nhập vào trong “pháp số bất nhị”?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc, sắc tức là vô sanh, vô sanh tức là sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác nhất thiết chủng trí.

Nhất thiết chủng trí tức là vô sanh, vô sanh tức là nhất thiết chủng trí.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều nhập vào trong “pháp số bất nhị”).

 

(Để giải thích đoạn kinh trên của MHBNBLMĐ, Đại trí Độ Luận, nói rằng:

Hỏi: Vì sao nói sắc bất sanh là phi sắc… dẫn đến nói nhất thiết chủng trí bất sanh là phi nhất thiết chủng trí?

Đáp: Vì sắc là tánh không. Trong tánh không chẳng có sắc tướng.
Nếu được “Vô Sanh Trí” thì biết rõ sắc rốt ráo là vô sanh. Nếu biết rõ được sắc là vô sanh, thì biết rõ được thật tướng của sắc.

Bởi vậy nên nói sắc vô sanh là phi sắc. Tánh của sắc vốn là vô sanh, chẳng phải do lực trí huệ mà khiến sắc trở thành vô sanh. Nếu dùng lực trí huệ quán để chia chẻ sắc thành hư không, rồi lại thủ chấp “hư không tướng” đó, thì chẳng khác gì người đã ra khỏi “nhà xí”, mà còn tường đến cảnh bất tịnh của nhà xí vậy. Nếu quán nhà xí là như huyễn, như hoá, thì tưởng về bất tịnh kia sẽ chẳng còn nữa.

Người tu hành cũng như vậy. Nếu biết rõ sắc vốn tự vô sanh, thì chẳng còn thủ chấp sắc tướng nữa. Bởi vậy nên nói sắc vô sanh là phi sắc… dẫn đến nói nhất thiết chủng trí vô sanh là phi nhất thiết chủng trí.

Hỏi: Trước đã nói sắc “vô sanh” là “bất nhị” rồi. Vì sao ngài Xá Lợi Phất còn hỏi nữa?

Đáp: Nghĩa tuy đồng mà chỗ quán khác nhau.

Trước đây nhằm phá chấp “trong quả có nhân” nên nói các pháp là vô sanh, vô tác chủ, cho thấy rõ về nhân sanh pháp cũng là vô sanh. Nay nhằm phá cả hai chấp “hữu” và “vô” về  “nhân sanh pháp” nên mới nói đến “bất nhị môn”.

Người tu hành trước vào “vô sanh quán”, rồi sau mới vào “bất nhị môn”, hoặc trước vào “bất nhị môn” rồi sau mới vào “vô sanh quán”. Đây chỉ nhằm phá chấp về sắc pháp mà phân biệt nói có 2 pháp môn riêng rẽ, nhưng cả hai pháp môn đó cũng chỉ là một vậy.

 

--o0o--

Lại nữa, trước đây nhằm phá nhân duyên sanh sắc, nên nói sắc là vô sanh, nghĩa là nói sắc cũng như nhân duyên sanh sắc đều là vô sanh cả. Như vậy là nói các pháp đều là “tự tướng không”. Nay nói “bất nhị môn” để cho thấy rõ rằng hết thảy pháp đều chẳng có hợp, chẳng có tan, đều là nhất tướng, là vô tướng cả.

Như vậy, nghĩa tuy đồng một thể là “không”, nhưng vì muốn pháp luôn chấp về “tự tướng không” của các pháp mà phải nói về “bất nhị môn” vậy.

Người tu hành, trước phải quán sắc là bất sanh, bất diệt, rồi sau mới quán sắc là vô sanh. Bởi vậy nên nói sắc “vô sanh” là “bất nhị”. Vì sao? Vì khi sắc đã rốt ráo vô sanh, tức là bất sanh, bất diệt vậy.

Tóm lại, trước nói sanh là bất khả đắc, nay nói vô sanh cũng bất khả đắc, bởi vậy nên nói: Sắc.. dẫn đến nhất thiết chủng trí đều nhập vào trong “pháp số bất nhị”).

 

(Đoạn Kinh dưới đây tương đương với phẩm “Vô Sanh”,

phần cuối Q.74 đến Q.75, Hội thứ I, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát tu hành Bát Nhã quán sát các pháp, khi ấy Bồ Tát Ma ha tát thấy ngã vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy kiến giả vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy sắc vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy thức vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy mười hai xứ, mười tám giới vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xúc vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý xúc vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy nội không vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy vô tánh tự tánh không vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy sáu Ba la mật, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Phật mười lực vô sanh rốt ráo tịnh vậy, cho đến thấy mười tám pháp Phật bất cộng vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp Dự lưu cho đến pháp A la hán vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy Dự lưu cho đến A la hán vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp Độc giác vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy Độc giác vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy tất cả pháp Bồ Tát vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy tất cả Bồ Tát vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp chư Phật vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy chư Phật vô sanh rốt ráo tịnh vậy. Thấy pháp tất cả hữu tình vô sanh rốt ráo tịnh vậy, thấy tất cả hữu tình vô sanh rốt ráo tịnh vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng: Như tôi hiểu nghĩa Nhân giả đã nói ngã cho đến kiến giả rốt ráo chẳng sanh. Sắc cho đến thức rốt ráo chẳng sanh. Như vậy, cho đến pháp chư Phật và chư Phật rốt ráo chẳng sanh. Tất cả pháp hữu tình và tất cả hữu tình rốt ráo chẳng sanh. Nếu như thế, sáu thú thọ sanh lẽ không sai khác: Dự lưu chẳng được quả Dự lưu. Nhất lai chẳng được quả Nhất lai cho đến A la hán chẳng được quả A la hán. Độc giác chẳng được Độc giác Bồ đề. Bồ Tát chẳng được Nhất thiết tướng trí. Bồ Tát không thể nào thấy sáu đường sanh tử sanh lòng nhàm chán, muốn chứng đắc năm pháp Bồ để cứu vớt hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp rốt ráo không sanh thì tại sao Dự lưu vì quả Dự lưu siêng năng tu đạo đoạn hẳn ba kiết sử. Tại sao Nhất lai vì quả Nhất lai siêng năng tu đạo đoạn thêm tham, sân, si. Tại sao Bất hoàn vì quả Bất hoàn siêng năng tu đạo đoạn hẳn hạ phần kiết sử. Tại sao A la hán vì quả A la hán siêng năng tu đạo đoạn hẳn thượng phần kiết sử. Tại sao Độc giác vì quả Độc giác siêng năng tu đạo tự mình ngộ pháp duyên khởi. Tại sao Bồ Tát vì độ vô lượng, vô biên hữu tình tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô lượng khổ lớn khó nhẫn. Tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tại sao chư Phật vì độ vô lượng hữu tình khổ nên chuyển bánh xe chánh pháp?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:

- Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có sáu đường thọ sanh sai khác. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có người có thể vào Thánh đế hiện quán. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Dự lưu đắc quả Dự lưu, thấy có Nhất lai đắc quả Nhất lai, thấy có Bất hoàn đắc quả Bất hoàn, thấy có A la hán đắc quả A la hán, thấy có Độc giác đắc quả Độc giác, thấy có Bồ Tát đắc Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Bồ Tát nhàm chán sanh tử, đắc năm Bồ đề. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Thanh văn tu đạo đoạn kiết sử, thấy có Độc giác siêng năng tu đạo tự mình ngộ pháp duyên khởi. Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Bồ Tát vì độ hữu tình nên tu nhiều hạnh khổ, chịu các khổ lớn, nhưng các Bồ Tát không phát sanh tưởng về hạnh khổ khó làm. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì nếu phát sanh tưởng về hạnh khổ khó làm, thì rốt cuộc không thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.

Này Xá lợi Tử! Tất cả Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với các hữu tình sanh tâm đại bi, an trụ tưởng như cha mẹ, anh em, vợ con và thân mình. Vì độ thoát cho họ nên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mới có thể làm lợi ích lớn cho họ.

Này Xá lợi Tử! Tất cả Bồ Tát nên nghĩ như vầy: Như tự tánh của ngã đối với tất cả pháp dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian mong cầu đều bất khả đắc. Các pháp nội ngoại cũng như vậy, đều vô sở hữu bất khả đắc. Nếu trụ tưởng này liền không thấy có hạnh khổ khó làm. Do đây có thể tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Vì sao? Vì Bồ Tát này đối với tất cả pháp, tất cả hữu tình, tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian đều không chấp lấy.

Này Xá lợi Tử! Chẳng phải tôi ở trong pháp vô sanh kia thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình bất khả đắc.

 

(Để trả lời đoạn Kinh này, Luận Đại Trí Độ , luận tiếp:

“Quán vô sanh có hai pháp quán. Đó là:

1. Nhu thuận nhẫn quán.

2. Vô sanh nhẫn quán.

Khi bắt đầu quán vô sanh, hành giả phải tu tập về “nhu thuận nhẫn quán”. Vì sao? Vì tâm chưa rốt ráo thanh tịnh, nên phải tu tập “nhu thuận nhẫn quán” cho thuần thục. Khi tâm đã thuần thục, đã rốt ráo thanh tịnh rồi, mới vào được “vô sanh nhẫn quán”.

Hỏi: Bồ Tát chưa tận đoạn kiết sử, chưa được Phật đạo, chưa được thật trí huệ. Như vậy, làm sao có được tâm rốt ráo thanh tịnh?

Đáp: Dù chưa tận đoạn kiết sử, nhưng khi Bồ Tát đã an lập được đạo tràng, thì tâm chẳng còn gì ngăn ngại nữa, nên được rốt ráo thanh tịnh.

Bồ Tát vào được “vô sanh nhẫn”, tận trừ hết các kiết sử, phiền não là vào “Bồ Tát vị”.

 

--o0o--

 

Lại nữa, ở nơi “nhu thuận nhẫn”, mặc dù chưa được Phật đạo, Bồ Tát cũng đã được tâm rốt ráo thanh tịnh rồi. ngoài ra, do thường quán chúng sanh không và pháp không, nên Bồ Tát thấy rõ sắc vô sanh là rốt ráo thanh tịnh… dẫn đến thấy rõ Phật và Phật pháp là vô sanh, là rốt ráo thanh tịnh”).

 

Thế nào là quán hạnh khó hành? Luận Đại Trí Độ luận tiếp:

(“Lại nữa, từ sơ phát tâm, Bồ Tát thường quán “chúng sanh không”, nên biết rõ chúng sanh là vô ngã, lại cũng thường quán “pháp không” nên biết rõ các pháp đều là rốt ráo không. Do nhân duyên quán về chúng sanh không và pháp không mà Bồ Tát phát đại bi tâm, hành bố thí Ba la mật, chẳng tiếc các vật nội ngoại sở hữu của mình, lại thường hành các thiện pháp đem lại lợi ích cho chúng sanh.

Bồ Tát làm các việc khó làm như vậy, mà chẳng hề khởi “nan tâm” (tâm nghĩ mình làm việc khó làm), “khổ tâm” (tâm nghĩ mình thọ khổ), vì biết rõ hết thảy pháp đều là không, là vô tướng, là vô lai, vô khứ. Thế nhưng dù biết rõ các pháp là bất khả tư nghì (chẳng thể nghĩ bàn được), bất khả thuyết (chẳng thể nói ra được) mà Bồ Tát vẫn thuyết ra các diệu pháp, nhằm phá trừ tâm điên đảo chấp trước của chúng sanh. Như vậy gọi là Bồ Tát vì chúng sanh mà chuyển pháp luân vậy”).

 

(Có thể đem pháp sanh hay pháp vô sanh

để được sở chứng chăng?)

 

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Ý ông muốn sao? Vì muốn đem pháp sanh để được sở chứng, hay muốn đem pháp vô sanh để được sở chứng?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi chẳng muốn đem pháp sanh để được sở chứng, cũng chẳng muốn đem pháp vô sanh để được sở chứng.

Xá lợi Tử hỏi:

- Nếu như vậy thì làm gì có đắc, có hiện quán?

Thiện Hiện đáp:

- Tuy có đắc, có hiện quán nhưng thật không do hai pháp ấy có chứng đắc. Này Xá lợi Tử! Chỉ là tùy theo thế gian mà nói, lập ra có đắc có hiện quán, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc có hiện quán. Cũng vậy, chỉ là tùy theo thế gian mà nói, lập ra Dự lưu, có quả Dự lưu, Nhất lai có quả Nhất lai, Bất hoàn có quả Bất hoàn, A la hán có quả A la hán, Độc giác có quả Độc giác, Bồ Tát có Bồ Tát hạnh, chư Phật có quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự lưu v.v...

Xá lợi Tử hỏi:

- Nếu tùy theo thế gian mà nói, lập ra có đắc có hiện quán và có quả Dự lưu cho đến có quả Vô Thượng Bồ đề chứ chẳng phải là thắng nghĩa, thì sáu đường sai khác cũng tùy theo thế gian mà nói, chứ chẳng phải thắng nghĩa sao?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì chẳng phải trong thắng nghĩa có nghiệp dị thục và nhiễm tịnh.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Ý ông muốn thế nào? Vì muốn làm cho pháp chưa sanh được sanh, hay là muốn làm cho pháp đã sanh sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Tôi không muốn làm cho pháp chưa sanh, được sanh, cũng không muốn làm cho pháp đã sanh sanh.

Xá lợi Tử hỏi:

- Những gì là pháp chưa sanh mà nhân giả không muốn làm cho pháp đó sanh?

Thiện Hiện đáp:

Xá Lợi Tử! Sắc là pháp chưa sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Thọ tưởng hành thức là pháp chưa sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là pháp chưa sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy.

Xá lợi Tử hỏi:

- Những gì là pháp đã sanh mà nhân giả không muốn làm cho pháp ấy sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá Lợi Tử! Sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Thọ tưởng hành thức là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy. Cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh không vậy.

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Vì muốn khiến sanh sanh, hay muốn khiến chẳng sanh sanh?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Tôi chẳng muốn khiến sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến chẳng sanh sanh. Vì sao? Xá Lợi Tử! Sanh cùng chẳng sanh hai pháp như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Do nhân duyên đây tôi chẳng muốn khiến sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến chẳng sanh sanh.

Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Đối với pháp vô sanh đã nói, nhân giả có muốn biện thuyết tướng vô sanh không?

Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Đối với pháp vô sanh đã nói, tôi cũng không muốn biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì hoặc pháp vô sanh, hoặc tướng vô sanh, hoặc muốn biện thuyết, tất cả như vậy đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng gọi là vô tướng.

Xá lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:

- Đối với pháp không sanh phát sanh lời nói không sanh, lời nói không sanh này cũng không sanh phải không?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đối với pháp không sanh phát sanh lời nói không sanh. Nghĩa của pháp và lời này đều không sanh. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì sắc không sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng không sanh. Vì bản tánh là không. Mười hai xứ, mười tám giới không sanh. Vì bản tánh là không. Nhãn xúc không sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không sanh. Vì bản tánh là không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không sanh. Vì bản tánh là không. Địa giới không sanh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không sanh. Vì bản tánh là không. Thân hành không sanh; ngữ hành, ý hành cũng không sanh. Vì bản tánh là không. Bố thí Ba la mật không sanh, cho đến Nhất thiết tướng trí cũng không sanh. Vì sao? Vì bản tánh là không.

Này Xá Lợi Tử! Do nhân duyên này, đối với pháp không sanh phát sanh lời không sanh; nghĩa và lời này đều không sanh.

Này Xá lợi Tử! Nghĩa của pháp thuyết ra, hoặc người thuyết, hoặc người nghe đều vô sanh.

Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Trong những người thuyết pháp, Ngài là bậc nhất, trừ Phật Thế Tôn không ai có thể bì kịp. Vì sao? Vì tùy theo các lời cật vấn về các pháp môn Ngài đều đối đáp không có trở ngại.

 

(Đoạn kinh này khó giải, Đại Trí Độ Luận thuyết:

“Ngài Tu Bồ Đề biết rõ chúng sanh chẳng thể dùng nhục nhãn để thấy được “sanh” sanh hay “vô sanh” sanh cũng đều là chẳng thật có, nên ngài nói cả 2 pháp đều bất thọ (chẳng thọ).

Ngài Xá Lợi Phất lại hỏi: Vì sao nói cả 2 pháp đều bất thọ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Vì sắc… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều rốt ráo là vô sanh, là vô tướng. Chỉ vì tùy thuận thế gian mà nói có sanh pháp, có sanh tướng vậy thôi. Thế nhưng sanh pháp ấy cũng là như huyễn, như hoá, vì ở nơi đệ nhất nghĩa thì hết thảy các pháp đều chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, đều chỉ là một tướng (nhất tướng), đều chẳng có tướng (vô tướng) cả.

Đó là lý do khiến Thiện Hiện chẳng muốn khiến sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến chẳng sanh sanh).

Phần sau của phẩm này tương đối dễ hiểu, nên không cần giải thích thêm nữa. Quý vị độc giả có thể tự tìm hiểu hay quay lại phẩm “Vô sanh”, cuối Q.74 đến Q.75, Hội thứ I, ĐBN xem lại cũng được.

 

Thiện Hiện đáp:

- Các đệ tử chư Phật đối với tất cả pháp không nương vào chấp trước. Pháp đó đều có thể tùy theo lời cật vấn, mỗi mỗi đều đối đáp tự tại không lo ngại. Vì sao? Vì tất cả pháp không có chỗ nương tựa.

Xá lợi Tử hỏi:

- Vì sao các pháp hoàn toàn không có chỗ nương?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá lợi Tử! Bản tánh của sắc là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của mười hai xứ, mười tám giới là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhãn xúc là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng là không, không nương bên trong, không nương bên ngoài, không nương khoảng giữa. Cho đến bản tánh của tất cả pháp Phật cũng là không, không nương trong, không nương ngoài, không nương khoảng giữa.

Này Xá lợi Tử! Do nhân duyên này, ta nói bản tánh của các pháp là không, nên hoàn toàn không có chỗ nương.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành sáu pháp Ba la mật nên thanh tịnh sắc cho đến thức. Nên thanh tịnh nhãn xứ cho đến ý xứ. Nên thanh tịnh sắc xứ cho đến pháp xứ. Nên thanh tịnh nhãn giới cho đến ý giới. Nên thanh tịnh sắc giới cho đến pháp giới. Nên thanh tịnh nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nên thanh tịnh nhãn xúc cho đến ý xúc. Nên thanh tịnh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Nên thanh tịnh sáu pháp Ba la mật, 37 pháp trợ đạo, Như Lai mười lực, 18 pháp Phật bất cộng, cho đến nên thanh tịnh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Nên thanh tịnh đạo Bồ đề.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Thế nào là Bồ Tát khi tu hành sáu pháp Ba la mật làm thanh tịnh đạo Bồ đề?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá lợi Tử! Sáu Ba la mật đều có hai loại: Một là thế gian; hai là xuất thế gian.

Xá lợi Tử hỏi:

- Thế nào là bố thí thế gian? Thế nào là bố thí Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào làm vị đại thí chủ, có thể bố thí cho tất cả Sa môn, Bà la môn, người nghèo, người bệnh, người đơn côi, người đi đường, người đi xin, cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần xe cho xe, cần y phục cho y phục, cần thuốc thang cho thuốc thang, cần đèn sáng cho đèn sáng, cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm v.v… Xin tay chân, máu mủ, xương tủy v.v… Như vậy tất cả các vật bên trong, bên ngoài tùy theo người đó xin vật gì đều cho đầy đủ. Nhưng khi hành bố thí như vậy, lại lấy sở đắc làm phương tiện mong cầu đời này đời sau được an lạc cho đến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Người đó chấp trước ba luân mà hành bố thí. Những gì là ba? Nghĩa là tưởng mình, tưởng người, tưởng vật thí. Do chấp trước ba luân này mà hành bố thí, nên gọi là bố thí thế gian.

Này Xá lợi Tử! Bồ Tát khi hành bố thí cần phải thanh tịnh ba luân. Những gì là ba? Một là không chấp ta là người thí; hai là không chấp người kia là người nhận; ba là không chấp bố thí và quả bố thí. Bồ Tát này khi hành bố thí cần phải thanh tịnh ba luân.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào lấy đại bi làm đầu, tu phước bố thí cho khắp hữu tình. Đối với các hữu tình hoàn toàn vô sở đắc. Cùng hữu tình bình đẳng đồng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng ở trong đó không thấy chút tướng nào. Do hoàn toàn không chấp trước mà hành bố thí, nên gọi là bố thí Ba la mật xuất thế gian. Do duyên nào bố thí này gọi là xuất thế gian? Vì việc làm không đồng với thế gian. Do đây nên nói là bố thí Ba la mật xuất thế gian.

Xá lợi Tử hỏi:

- Thế nào là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thế gian? Thế nào là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật xuất thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Bồ Tát nào khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà nương tựa, chấp trước ba luân, thì gọi là tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã thế gian. Vì việc làm giống với thế gian. Bồ Tát nào khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà không nương tựa, chấp trước, mà ba luân thanh tịnh, thì gọi là Ba la mật xuất thế gian, vì việc làm không cùng với thế gian.

Này Xá lợi Tử! Như vậy, Bồ Tát khi tu hành 6 pháp Ba la mật làm thanh tịnh đạo Bồ đề.

Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đạo Bồ đề của Bồ Tát là gì?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá lợi Tử! Pháp không nội cho đến pháp không vô tánh tự tánh là đạo Bồ đề của Bồ Tát. Chơn như, pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư nghì v.v... là đạo Bồ đề của Bồ Tát. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tứ niệm xứ cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo là đạo Bồ đề của Bồ Tát. Pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là đạo Bồ đề của Bồ Tát. Tất cả môn Tam ma địa, tất cả môn Đà la ni là đạo Bồ đề của Bồ Tát. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là đạo Bồ đề của Bồ Tát.

Này Xá lợi Tử! Các pháp như vậy tích tụ công đức lớn vô lượng, vô biên, đều là đạo Bồ đề của Bồ Tát.

Lúc ấy, Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Công đức lớn tích tụ như vậy, là do thế lực của những Ba la mật nào làm được như vậy?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá lợi Tử! Công đức lớn tích tụ đã nói như vậy đều do thế lực Bát nhã Ba la mật làm ra. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật này năng làm mẹ tất cả pháp thiện. Pháp thiện của tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, chư Phật đều từ đây mà sanh, cũng nương đây mà trụ.

Này Xá lợi Tử! Chúng Bồ Tát đời quá khứ tu hành Bát Nhã rất viên mãn, nên đã chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng Bồ Tát đời vị lai tu hành Bát Nhã rất viên mãn, nên sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chúng Bồ Tát trong vô lượng thế giới chư Phật khắp mười phương đời hiện tại tu hành Bát Nhã rất viên mãn nên hiện chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Thiện Hiện bảo:

- Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ Tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật tâm không nghi lầm, cũng không mê muội, phải biết Bồ Tát này chẳng xả bỏ tác ý tương ưng đại bi, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, thường siêng cứu vớt tất cả hữu tình.

Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện rằng:

- Nếu Bồ Tát trụ như thế, hằng chẳng xả bỏ, trọn nên tác ý tương ưng đại bi ấy, thời tất cả hữu tình lẽ ra cũng thành Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng trụ nơi đây và cũng có tác ý này, thường chẳng xả bỏ, thời các Bồ Tát cùng tất cả hữu tình lẽ không sai khác?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Thật như đã nói. Năng như thật biết ý tôi muốn nói. Tuy hỏi tôi nhưng giống như làm rõ nghĩa tôi muốn nói. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì hữu tình chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; hữu tình không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật; hữu tình vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; hữu tình không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; hữu tình viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly; hữu tình tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh; hữu tình không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Sắc cho đến thức chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Sắc cho đến thức không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Sắc cho đến thức vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Sắc cho đến thức không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Sắc cho đến thức viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Sắc cho đến thức tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Sắc cho đến thức không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; 12 xứ, 18 giới không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật, 12 xứ, 18 vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; 12 xứ, 18 giới không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; 12 xứ, 18 giới viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly; 12 xứ, 18 giới tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh; 12 xứ, 18 không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng có, nên biết trụ và tác ý cũng chẳng có. Nhãn xúc cho đến ý xúc không có thật, nên biết trụ và tác ý cũng không có thật. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Nhãn xúc cho đến ý xúc không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Nhãn xúc cho đến ý xúc viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Nhãn xúc cho đến ý xúc tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Nhãn xúc cho đến ý xúc không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Địa giới cho đến thức giới chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có. Địa giới cho đến thức giới không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật. Địa giới cho đến thức giới vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh. Địa giới cho đến thức giới không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không. Địa giới cho đến thức giới viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly. Địa giới cho đến thức giới tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh. Địa giới cho đến thức giới không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Tất cả pháp Phật chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; tất cả pháp Phật không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật; tất cả pháp Phật vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; tất cả pháp Phật không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; tất cả pháp Phật viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly; tất cả pháp Phật tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh; tất cả pháp Phật không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Thanh văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô Thượng Bồ đề chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh; Thanh văn Bồ đề cho đến Vô Thượng Bồ đề không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết.

Này Xá lợi Tử! Do nhân duyên này, các Bồ Tát đối với việc trụ và tác ý như vậy thường không rời bỏ, cũng không khác với hữu tình, vì tất cả pháp không sai khác.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo thuyết giảng Bát Nhã cho các Bồ Tát. Việc này hoàn toàn do thần lực của Như Lai. Nếu có người nào muốn thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát đều nên thuyết giảng như ông. Bồ Tát nào muốn học Bát nhã Ba la mật đều phải theo lời thuyết giảng của ông mà học. Bồ Tát nào theo lời thuyết giảng của ông mà học Bát nhã Ba la mật, thời mau chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.

Khi cụ thọ Thiện Hiện thuyết giảng Bát nhã Ba la mật thậm thâm như vậy cho các Bồ Tát thì ở tam thiên đại thiên thế giới này biến động sáu cách. Bấy giờ, Thế Tôn mỉm cười.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Do nhân duyên nào Ngài mỉm cười?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thiện Hiện! Như Ta hôm nay đang ở trong Tam thiên đại thiên thế giới tuyên thuyết Bát Nhã, cho các Bồ Tát, có mười hai vạn ức trời người v.v…, đối tất cả pháp được vô sanh nhẫn. Nay ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cũng có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát Nhã, cũng có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được lợi lạc lớn.

- Như ở Tam thiên đại thiên thế giới này, Ta đang thuyết giảng Bát Nhã cho các Bồ Tát, có mười hai vạn ức trời người v.v…, đối tất cả pháp được vô sanh nhẫn. Ngày nay, ở phương Đông có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát. Vô lượng, vô số, vô biên thế giới ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên dưới cũng đều có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang thuyết giảng Bát nhã Ba la mật khiến vô lương, vô số, vô biên chúng hữu tình ở ác cõi ấy, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được lợi lạc lớn.

 

Sơ giải:

 

Song song với chánh văn của phẩm “Viễn Ly”, Hội thứ II, ĐBN, chúng tôi có trích dẫn lời bình giải của Bồ Tát Long Thọ trong Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 26, “Vô Sanh Tam Quán”, tập 3, quyển 53 tương đương, như vậy là tạm đủ. Vã lại, tất cả giáo pháp của phẩm này đã được lặp đi lặp lại nhiều lần, ai cũng có thể hiểu nên không cần giải thích thêm. Điểm đáng lưu ý là phẩm này nói:

Tất cả pháp Phật chẳng có, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng chẳng có; tất cả pháp Phật không có thật, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không có thật; tất cả pháp Phật vô tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tánh; tất cả pháp Phật không, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không; tất cả pháp Phật viễn ly, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng viễn ly; tất cả pháp Phật tịch tịnh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng tịch tịnh; tất cả pháp Phật không hiểu biết, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng không hiểu biết”.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử như thế rồi kết luận: “Do nhân duyên này, các Bồ Tát đối với việc trụ và tác ý như vậy thường không rời bỏ… (tất cả pháp Phật và Bát nhã Ba la mật)

Kinh thường bảo tất cả pháp Phật chẳng có, không thật có, vô tánh, tất cả pháp Phật là không, là viễn ly, là tịch tịnh, không hiểu biết. Tất cả pháp Phật cũng không do Phật làm ra, cũng không do ai làm ra. Nếu tất cả mọi người đều hiểu ra như vậy, trụ và tác ý như vậy thường không từ bỏ tất cả pháp Phật, mau chứng đắc Vô Thượng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.

Rồi Phật bảo: Nếu có người nào muốn thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát thì phải như Thiện Hiện thuyết giảng giống như trong phẩm “Viễn Ly” này!

Nói dễ nhưng hiểu biết “pháp Phật chẳng có, không có thật, vô tánh, tất cả pháp Phật là không, là viễn ly, là tịch tịnh, không hiểu không biết” . Phải chứng nhập được nhân không pháp không rồi  mới có thể giảng cho người./.

 

Lưu ý: Đối với một phẩm quá dài như phẩm “Viển Ly” này với nhiều giáo lý khác nhau, rất khó chiết giải tổng hợp trong phần lược giải chính được. Vì vậy, trong phần chánh văn chúng tôi thường chiết giải ngay dưới các đoạn Kinh có giáo lý khác nhau ấy, giống như công việc luận giải của Đại Trí Độ Luận vậy. Công việc này có thể gây trở ngại cho việc tụng đọc. Xin thứ lỗi!

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com