- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM “VÔ SỞ ĐẮC”
Cuối quyển 61 cho đến đầu quyển 70, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương tương với phần đầu quyển thứ 07, phẩm “Thập Vô”, MHBNBLMĐ)
Biên Soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Kim Phương Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước
Gợi ý:
Phẩm “Vô Sở Đắc” tổng cộng 10 quyển, thoạt trông thì thấy dài. Nhưng thật ra, toàn phẩm này xoay quanh các câu hỏi uẩn, xứ, giới, Tứ đế, 12 nhân duyên, 6 Ba la mật, 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 8 giải thoát v.v... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hay nói khác là tất cả pháp Phật có thể nắm bắt được không? Câu trả lời của cụ thọ Thiện Hiện là không, vì tất cả pháp chỉ giả danh, bản tánh không, chỉ do duyên hội, nên nói là không có tự tánh. Tất cả pháp bản tánh như vậy là như vậy, tất cả đều vô sở hữu, không thể nắm bắt được! Vì vậy, Kinh Đại Bát Nhã gọi đó là vô sở đắc. Vô sở đắc này có nghĩa là đắc hay không đắc đều không thể được, không có tác dụng, không có tác chủ. Tất cả pháp chẳng có gì là sở hữu trong chúng, tất cả đều rỗng không, tất cả đều như vậy, mọi hiện hữu đều như vậy, không có sở tác, không có tác dụng, nên nói là vô sở hữu, bất khả đắc.
Tất cả pháp đều không, chẳng có gì trong nó, năm uẩn đều không, mảy trần chẳng động, thì có gì để nắm bắt mà bảo là sở hữu hay sở đắc?
Tóm lược:
Đại Bồ Tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ Tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ Tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Tất cả ba đời đều bất khả đắc.
Đối với sắc, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với 12 xứ, 18 giới đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa mười hai xứ, mười tám giới đại Bồ Tát chẳng có gì là sở hữu, nên chẳng có gì để nắm bắt.
Đối với bốn Thánh đế, mười hai duyên khởi, sáu Ba la mật đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn Thánh đế, mười hai duyên khởi, sáu Ba la mật đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, lìa bốn tịnh lự cho đến mười biến xứ đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với ba mươi bảy pháp trợ đạo, năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, lìa ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Nhất thiết tướng trí đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, lìa pháp không quên mất cho đến Tam ma địa, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với 18 pháp không, chơn như, pháp giới pháp tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, lìa 18 pháp không cho đến cứu cánh Niết bàn, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát... đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, lìa Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát... đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với Đại thừa, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, lìa Đại thừa đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Nên cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Đối với tất cả pháp, đem tất cả phương tiện, tất cả nơi chỗ, tất cả thời gian để tìm đại Bồ Tát đều không thấy đâu hết, trọn bất khả đắc. Vậy thì làm sao khiến con đem Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát được?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát chỉ có giả danh, như nói ngã, nhân, chúng sanh v.v… rốt ráo chẳng sanh, các pháp cũng vậy đều không có tự tánh. Sắc thảy các pháp rốt ráo chẳng sanh. Nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi sắc. Bạch Thế Tôn! Con đâu có thể đem pháp rốt ráo chẳng sanh là Bát nhã Ba la mật dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát rốt ráo cũng chẳng sanh. Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát năng tu hành Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát nghe tác thuyết này, tâm kia chẳng kinh, chẳng khủng, chẳng bố, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn ăn năn, phải biết đại Bồ Tát ấy có khả năng tu hành Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được? Vì duyên cớ gì mà nói sắc v.v... vô biên, nên đại Bồ Tát cũng vô biên? Vì duyên cớ gì mà nói chính sắc v.v... đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc v.v... đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được? Vì duyên cớ nào mà nói đối với tất cả pháp dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ Tát nhưng hoàn toàn chẳng thấy và rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao có thể dùng Bát nhã Ba la mật để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát? Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ Tát chỉ có giả danh? Vì duyên cớ gì mà nói ngã v.v... rốt ráo chẳng sanh? Vì duyên cớ gì mà nói các pháp cũng vậy, hoàn toàn không có tự tánh? Vì duyên cớ nào mà nói sắc thảy các pháp, rốt ráo chẳng sanh? Vì duyên cớ gì mà nói nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc v.v...? Vì duyên cớ gì mà nói đâu có thể dùng Bát nhã Ba la mật rốt ráo chẳng sanh, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát? Vì duyên cớ gì mà nói lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có đại Bồ Tát có khả năng tu hành quả vị Giác ngộ tối cao? Vì duyên cớ gì mà nói nếu đại Bồ Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh, chẳng khủng, chẳng bố, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn ăn năn, thì nên biết đó là đại Bồ Tát có khả năng tu hành Bát nhã Ba la mật?
Cụ thọ Thiện Hiện lần lượt trả lời từng câu hỏi trên của Xá lợi Tử:
- Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa,
chẳng thể nắm bắt được?
Vì hữu tình là vô sở hữu, vì hữu tình là không, vì hữu tình là xa lìa, vì hữu tình là không có tự tánh, nên đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được? Vì sao? Vì trong cái vô sở hữu, không, xa lìa, không tự tánh của hữu tình, đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.
Chẳng phải cái vô sở hữu, cái không, cái xa lìa, cái không tự tánh của hữu tình, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, có sự sai khác. Hoặc cái vô sở hữu của hữu tình, hoặc cái không của hữu tình, hoặc cái xa lìa của hữu tình, hoặc cái không tự tánh của hữu tình, hoặc đại Bồ Tát đời trước, hoặc đại Bồ Tát đời sau, hoặc đại Bồ Tát đời giữa, tất cả pháp như vậy không hai, không hai phần, do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.
Vì sắc vô sở hữu, vì thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu; vì sắc là không, vì thọ, tưởng, hành, thức là không; vì sắc là xa lìa, vì thọ, tưởng, hành, thức là xa lìa; vì sắc không tự tánh, vì thọ, tưởng, hành, thức không tự tánh, nên đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong vô sở hữu, không, xa lìa, không tự tánh của ngũ uẩn, nên đại Bồ Tát ba đời đều chẳng thể nắm bắt được.
Chẳng phải cái vô sở hữu của sắc, thọ, tưởng, hành, thức có sự sai khác; chẳng phải cái không của ngũ uẩn có sự sai khác; chẳng phải cái xa lìa của ngũ uẩn có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của ngũ uẩn có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ Tát đời trước có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ Tát đời sau có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ Tát đời giữa, có sự sai khác. Hoặc cái vô sở hữu của ngũ uẩn hoặc cái không của ngũ uẩn hoặc cái xa lìa của ngũ uẩn hoặc cái không tự tánh của ngũ uẩn hoặc đại Bồ Tát đời trước, hoặc đời sau, hoặc đời giữa; tất cả pháp như vậy không hai, không hai phần. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát ba đời chẳng thể nắm bắt được.
Cũng như vậy, vì tất cả pháp Phật vô sở hữu, vì tất cả pháp Phật là không, vì tất cả pháp Phật là xa lìa, vì tất cả pháp Phật không tự tánh, nên đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong cái vô sở hữu, không, xa lìa, không tự tánh của tất cả pháp Phật, đại Bồ Tát ba đời chẳng thể nắm bắt được.
Chẳng phải cái vô sở hữu của tất cả pháp Phật có sự sai khác; chẳng phải cái không của tất cả pháp Phật có sự sai khác; chẳng phải cái xa lìa của tất cả pháp Phật có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của tất cả pháp Phật có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, có sự sai khác. Hoặc cái vô sở hữu của tất cả pháp Phật; hoặc cái không của tất cả pháp Phật; hoặc cái xa lìa của tất cả pháp Phật, hoặc cái không tự tánh của tất cả pháp Phật hoặc đại Bồ Tát đời trước, hoặc đời sau, hoặc đời giữa; tất cả pháp như vậy không hai, không hai phần. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát ba đời chẳng thể nắm bắt được.
- Vì duyên cớ gì mà nói là sắc v.v... vô biên,
nên biết đại Bồ Tát cũng vô biên?
Cụ thọ Thiện Hiện trả lời Xá Lợi Phất:
Sắc như hư không; thọ, tưởng, hành, thức như hư không. Vì sao? Vì hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của sắc là không, vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Trong cái không, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, cũng vì biên giới trong đó, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.
Mười hai xứ, mười tám giới cho đến quả vị Giác ngộ tối cao như hư không hay nói rộng ra tất cả pháp Phật như hư không. Vì sao? Vì hư không, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không. Tất cả pháp Phật cũng lại như vậy, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp Phật là không. Trong cái không, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không.
Do duyên cớ này, nên nói là vì sắc vô biên, nên biết đại Bồ Tát cũng vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên biết đại Bồ Tát cũng vô biên, vì tất cả pháp Phật vô biên, nên biết đại Bồ Tát cũng vô biên.
- Tất cả pháp là không, trong tánh không tất cả pháp đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được đại Bồ Tát cũng vô sở hữu,
chẳng thể nắm bắt được.
Sắc và tánh của sắc là không. Vì sao? Vì trong tánh không của sắc, sắc vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; phi sắc và tánh của phi sắc là không. Vì sao? Vì trong tánh không của phi sắc, phi sắc vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Vì sao? Vì trong tánh không của thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Phi thọ, tưởng, hành, thức và tánh của cái phi thọ, tưởng, hành, thức là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi thọ, tưởng, hành, thức; cái phi thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Do duyên cớ này, nên nói là đối sắc, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Mười hai xứ và tánh của mười hai xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của mười hai xứ, mười hai xứ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi xứ và tánh của cái phi xứ là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi xứ, cái phi xứ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Mười tám giới và tánh của mười tám giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của mười tám giới; mười tám giới vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi giới và tánh của cái phi giới là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi giới, cái phi giới vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Nói rộng ra, tất cả pháp Phật và tánh của tất cả pháp Phật là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tất cả pháp Phật, tất cả pháp Phật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp Phật và tánh của cái phi pháp Phật là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp Phật, cái phi pháp Phật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
- Đối với tất cả pháp, hoàn toàn vô sở hữu, chẳng thể
nắm bắt được, thì làm có thể dùng Bát Nhã để
dạy bảo trao truyền?
Vì tánh của sắc là không, nên sắc đối với sắc vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, sắc đối với thọ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thọ là không, nên thọ đối với thọ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thọ đối với sắc vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thọ đối với tưởng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của tưởng là không, nên tưởng đối với tưởng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; tưởng đối với sắc, thọ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thọ, tưởng đối với hành vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của hành là không, nên hành đối với hành vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; hành đối với sắc, thọ, tưởng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sắc, thọ, tưởng, hành đối với thức vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của thức là không, nên thức đối với thức vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; thức đối với sắc, thọ, tưởng, hành vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Đối với các pháp như vậy, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát, cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Vì tánh của mười hai xứ là không, nên mười hai xứ đối với mười hai xứ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười hai xứ đối với mười tám giới vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của mười tám giới là không, nên mười tám giới đối với mười tám giới vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; mười tám giới đối với mười hai xứ vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Đối với các pháp như vậy, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát, cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Vì tánh của bốn tịnh lự là không, nên bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn tịnh lự đối với bốn vô lượng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn vô lượng là không, nên bốn vô lượng đối với bốn vô lượng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn vô lượng đối với bốn tịnh lự vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn tịnh lự, bốn vô lượng đối với bốn định vô sắc vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của bốn định vô sắc là không, nên bốn định vô sắc đối với bốn định vô sắc vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; bốn định vô sắc đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Đối với các pháp như vậy, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát, cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Cũng như vậy, tánh của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định... cho đến Nhất thiết tướng trí hay nói khác là tất cả pháp Phật là không, nên tất cả pháp Phật đối với tất cả pháp Phật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Đối với tất cả pháp Phật như vậy, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát, cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Vì tánh của đại Bồ Tát là không, nên đại Bồ Tát đối với đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Bát nhã Ba la mật là không, nên Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Bát nhã Ba la mật đối với đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ Tát, Bát nhã Ba la mật đối với sự dạy bảo, trao truyền vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của sự dạy bảo, trao truyền là không, nên sự dạy bảo, trao truyền đối với sự dạy bảo trao truyền vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sự dạy bảo trao truyền đối với đại Bồ Tát, Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Đối với tất cả pháp như vậy, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát, cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Do duyên cớ này, nên nói là đối với tất cả pháp, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát nhưng hoàn toàn không thấy và rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao lại có thể dùng Bát nhã Ba la mật để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát.
(Ở đây chúng ta thấy rõ tính cách trùng tụng của Bát Nhã trong phẩm này như thế nào rồi. Vì vậy, chúng tôi trong phần gợi ý có viết trước “toàn phần chủ đề của phẩm này xoay chung quanh các pháp mầu Phật đạo”).
- Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ Tát chỉ là giả danh?
Vì danh đại Bồ Tát chỉ là cái được thâu nhiếp(1) từ bên ngoài. Như danh của tất cả pháp chỉ là cái được thâu nhiếp từ bên ngoài, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ đâu; trong tất cả pháp không có danh, trong danh không có tất cả pháp, chẳng phải hợp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tất cả pháp cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc tất cả pháp, hoặc là danh, đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên danh đại Bồ Tát cũng lại như vậy, chỉ là cái được thâu nhiếp từ bên ngoài. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát chỉ có giả danh.
Như cái danh ngũ uẩn, chỉ là cái được thâu nhiếp từ bên ngoài, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; trong ngũ uẩn không có danh, trong danh không có ngũ uẩn, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì ngũ uẩn cùng với danh, tự tánh đều không; trong cái không của tự tánh, hoặc ngũ uẩn, hoặc danh, đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; trong đại Bồ Tát không có danh; trong danh không có đại Bồ Tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ Tát cùng với danh, tự tánh đều là không; trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ Tát, hoặc danh, đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát chỉ có giả danh.
Như cái danh của mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền bát định, Tứ đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, lục Ba la mật, ngũ nhãn, lục thần thông, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, chỉ do giả bày ra, trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu; tất cả pháp đó không có danh, trong danh không có tất cả pháp đó, chúng chẳng hiệp, chẳng ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì tất cả pháp đó cùng với danh, tự tánh đều không; trong cái không của tự tánh, hoặc tất cả pháp, hoặc danh, đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái danh đại Bồ Tát cũng lại như vậy, chỉ là cái được thâu nhiếp từ bên ngoài, đối với mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ ở đâu. Trong đại Bồ Tát không có danh; trong danh không có đại Bồ Tát, chẳng phải hiệp, chẳng phải ly, chỉ giả bày ra. Vì sao? Vì đại Bồ Tát cùng với danh, tự tánh đều là không. Trong cái không của tự tánh, hoặc đại Bồ Tát, hoặc danh đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát chỉ có giả danh. (Q. 67, ĐBN)
- Vì duyên cớ gì mà nói, như nói là ngã v.v...
rốt ráo đều chẳng sanh?
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp Xá Lợi Tử rằng: Như Tôn giả đã hỏi: Vì duyên cớ nào mà nói, như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh ấy. Xá Lợi Tử! Ngã rốt ráo đều vô sở hữu, đã chẳng khá được, làm sao có sanh? Hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, kiến giả rốt ráo đều vô sở hữu, đã chẳng khá được, làm sao có sanh?
Xá Lợi Tử! Sắc rốt ráo đều vô sở hữu, đã chẳng khá được, làm sao có sanh? Thọ tưởng hành thức rốt ráo đều vô sở hữu, đã chẳng khá được, làm sao có sanh? Xá Lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới rốt ráo đều vô sở hữu, đã chẳng khá được, làm sao có sanh?
Lục đại chủng, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều vô sở hữu, đã chẳng khá được, làm sao có sanh? Tứ đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh…, lục Ba la mật, ngũ nhãn, lục thần thông, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, đều vô sở đắc, đã chẳng khá được, làm sao có sanh?
Do vì duyên cớ này, nên tôi tác thuyết là: Như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh!
- Vì duyên cớ gì mà nói các pháp cũng vậy,
đều không có tự tánh?
Cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh?
Xá Lợi Tử! Các pháp đều không tự tánh hòa hợp. Vì sao? Vì hòa hợp nên có pháp, tự tánh là không.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Pháp gì đều không có tự tánh hòa hợp?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc đều không có tự tánh hòa hợp. Thọ tưởng hành thức đều không có tự tánh hòa hợp. Mười hai xứ, mười tám giới đều không có tự tánh hòa hợp. Lục đại chủng, mười tám pháp không, sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định đều không có tự tánh hòa hợp. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ đều không có tự tánh hòa hợp. Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, ngũ nhãn, lục thần thông đều không có tự tánh hòa hợp. Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… cho đến pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả đều không có tự tánh hòa hợp (nghĩa là tất cả các pháp Phật không có tự tánh hòa hợp).
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi tác thuyết là: Các pháp cũng vậy đều không có tự tánh.
- Các pháp phi thường phi lạc cũng không tan mất,
cũng không biến hoại:
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp phi thường (chẳng thường), cũng không tan mất. Vì cớ sao? Vì nếu pháp phi thường, tánh vô tận vậy.(2)
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Pháp nào phi thường, cũng không tan mất?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc phi thường, cũng không tan mất; thọ, tưởng, hành, thức phi thường, cũng không tan mất. Mười hai xứ, mười tám giới phi thường, cũng không tan mất. Lục đại chủng, mười tám pháp không, sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc phi thường, cũng không tan mất. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ phi thường, cũng không tan mất. Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, ngũ nhãn, lục thần thông phi thường, cũng không tan mất. Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến… pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả v.v… phi thường, cũng không tan mất (nghĩa là tất cả pháp Phật phi thường cũng không tan mất).
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các pháp phi lạc (chẳng lạc), cũng không tan mất. Vì sao? Vì pháp phi lạc, tánh vô tận vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Pháp gì là pháp phi lạc, cũng không tan mất?
Xá Lợi Tử! Sắc phi lạc, cũng không tan mất. Thọ tưởng hành thức phi lạc, cũng không tan mất. Mười hai xứ, mười tám giới phi lạc, cũng không tan mất. Lục đại chủng, mười tám pháp không, sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc phi lạc, cũng không tan mất. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ phi lạc, cũng không tan mất. Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, ngũ nhãn, lục thần thông phi lạc, cũng không tan mất. Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến… pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả v.v… phi lạc, cũng không tan mất.
Không những các pháp phi lạc mà các pháp phi ngã, vắng lặng, xa lìa, các pháp không, vô tướng, vô nguyện, các pháp thiện, các pháp vô tội, các pháp vô lậu, vô vi, vô nhiễm, các pháp thanh tịnh, các pháp xuất thế gian… cũng không tan mất. (Q.69, ĐBN)
Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ này, nên tôi tác thuyết là: Các pháp cũng vậy đều không có tự tánh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp cũng phi thường phi hoại.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao tất cả pháp phi thường phi hoại?
Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy (như như hay còn gọi là chơn như của tất cả pháp). Thọ tưởng hành thức phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy. Xá Lợi Tử! Mười hai xứ, mười tám giới phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy.
Xá Lợi Tử! Lục đại chủng, mười tám pháp không, sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy. Tứ Thánh đế, nhị thập nhân duyên, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cũng phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy. Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, ngũ nhãn, lục thần thông cũng phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy. Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến… pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả v.v… cũng phi thường phi hoại. Vì sao? Vì bản tánh như vậy là như vậy.
Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ này, nên tôi tác lên thuyết là: Các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh. (Q. 69, ĐBN)
- Vì duyên cớ gì mà nói sắc thảy các pháp, rốt ráo vô sanh?
Xá Lợi Tử! Sắc bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì phi sở tác vậy. Thọ tưởng hành thức bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì phi sở tác vậy. Vì sao? Vì sắc cho đến thức, tác giả chẳng khá được vậy.
Mười hai xứ, mười tám giới bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì phi sở tác vậy. Đã không có sở tác thì làm gì có tác giả, nên nói tác giả bất khả đắc vậy.
Lục đại chủng, mười tám pháp không, sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn dịnh vô sắc bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì không có chỗ tạo tác. Nếu không có chỗ tạo tác thì ai là tác giả. Tứ Thánh đế, nhị thập nhân duyên, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì không có chỗ tạo tác. Nếu không có chỗ tạo tác thì ai là tác giả. Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, ngũ nhãn, lục thần thông bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì không có chỗ tạo tác. Nếu không có chỗ tạo tác thì ai là tác giả. Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến… pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả v.v… bản tánh rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì không có chỗ tạo tác. Nếu không có chỗ tạo tác thì không có ai là tác giả.
Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ này, nên tôi tác thuyết là Sắc thảy các pháp rốt ráo chẳng sanh. (Q. 69, ĐBN)
- Vì duyên cớ gì mà nói, nếu rốt ráo vô sanh,
thời chẳng gọi là sắc thảy pháp?
Xá Lợi Tử! Như vậy, như vậy. Nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên sắc thảy. Vì sao? Xá Lợi Tử! Sắc bản tánh không vậy. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên cớ này, nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên sắc. Xá Lợi Tử! Thọ tưởng hành thức bản tánh không vậy. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do vì duyên cớ này, nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên thọ tưởng hành thức.
Mười hai xứ, mười tám giới bản tánh không. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do vì duyên cớ này, nên nói nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên mười hai xứ, mười tám giới. Lục đại chủng, mười tám pháp không, sáu pháp Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc bản tánh không. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên cớ này, nên nói nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên là lục đại chủng cho đến bốn định vô sắc. Tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ bản tánh không. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do vì duyên cớ này, nên nói nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên là tứ Thánh đế cho đến mười biến xứ. Ba mươi bảy pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, ngũ nhãn, lục thần thông bản tánh không. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do vì duyên cớ này, nên nói nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên là 37 pháp trợ đạo cho đến lục thần thông. Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho đến… pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả v.v… bản tánh cũng không. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do vì duyên cớ này, nên nói nếu rốt ráo chẳng sanh, thời chẳng gọi tên là Phật mười lực cho đến tánh hằng trụ xả.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc v.v… vì pháp không, vô sanh, bất khả thuyết.
Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói, tôi đâu có thể dùng Bát nhã Ba la mật rốt ráo chẳng sanh, để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát rốt ráo chẳng sanh?
Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là Bát nhã Ba la mật; Bát nhã Ba la mật tức là rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với Bát nhã Ba la mật không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là đại Bồ Tát; đại Bồ Tát tức là rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với đại Bồ Tát không hai, không hai phần.
Do duyên cớ này, nên tôi nói là tôi đâu có thể dùng Bát nhã Ba la mật rốt ráo chẳng sanh để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát rốt ráo chẳng sanh.
- Vì duyên cớ gì mà nói lìa vô sanh cũng không có đại Bồ Tát nào
có thể tu hành quả vị Giác ngộ tối cao?
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật mật chẳng thấy Bát nhã Ba la mật khác với vô sanh, cũng chẳng thấy đại Bồ Tát khác với vô sanh. Vì sao? Vì hoặc Bát nhã Ba la mật hoặc đại Bồ Tát cùng với vô sanh không hai, không hai phần.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy uẩn khác với rốt ráo chẳng sanh; cũng chẳng thấy 12 xứ, 18 giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao? Vì uẩn cho đến xứ giới cùng với vô sanh không hai, không hai phần.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy tứ Thánh đế, mười hai nhân duyên, mười tám pháp không, sáu Bát nhã Ba la mật, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo khác với rốt ráo chẳng sanh. Vì sao, vì tứ Thánh đế… cho đến 37 pháp trợ đạo cùng với vô sanh không hai, không hai phần.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy pháp môn giải thoát không khác với vô sanh; cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khác với vô sanh. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với vô sanh không hai, không hai phần.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy năm loại mắt, sáu thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí… cho đến pháp không quên, tánh luôn luôn xả khác với vô sanh. Vì sao? Vì năm loại mắt cho đến tánh luôn luôn xả cùng với vô sanh không hai, không hai phần.
Do duyên cớ này, nên tôi nói lìa rốt ráo vô sanh không có Bồ Tát nào có thể tu hành quả vị Giác ngộ tối cao.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu đại Bồ Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh, chẳng khủng, chẳng bố, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn hối tiếc, thì nên biết đó là đại Bồ Tát có khả năng tu hành Bát Nhã.
Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng thấy các pháp có giác(3), có dụng(4) mà thấy tất cả pháp như sự huyễn, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nước, như hoa đóm trên hư không, như ảo thành, như trò biến hóa, đều chẳng phải thật có. Nghe nói bản tánh của các pháp đều không, trong lòng rất hoan hỷ. (Q.70, ĐBN)
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là nếu đại Bồ Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh, chẳng khủng, chẳng bố, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn hối tiếc thì nên biết đó là đại Bồ Tát có khả năng tu hành Bát nhã Ba la mật.
Thích nghĩa:
(1). Thâu nhiếp: Thâu vào.
(2). Nguyên văn câu chữ Hán là “復phục 次thứ . 舍Xá 利Lợi 子Tử . 諸chư 法pháp 非phi 常thường 亦diệc 無vô 散tán 失thất . 何hà 以dĩ 故cố . 若nhược 法pháp 非phi 常thường . 無vô 盡tận 性tánh 故cố”
(3). Giác: Tỉnh thức, tỉnh ngộ hay giác ngộ. Từ khác của Bồ đề.
(4). Dụng: Tác dụng, công dụng, mục đích, lý do… Từ “dụng” trong Phật đạo bao hàm nhiều ý nghĩa như khi nói thể và dụng: Thể chỉ cho thắng nghĩa, bản chất, tuyệt đối, tức là chỉ cho thế giới tĩnh chỉ, thế giới tuyệt đối; còn dụng thì biểu thị thế tục, tương đối, tức là thế giới hoạt động, như nói vàng là thể, nữ trang là dụng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa thể và dụng, trên căn bản, là “tức thể tức dụng”, nghĩa là đứng về phương diện tuyệt đối mà nói thì thể tức là dụng, dụng tức là thể. Đó là tánh chất “tương tức” của các pháp như trong Hoa nghiêm hay Bát Nhã. Kinh ĐBN nói: “Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng thấy các pháp có giác, có dụng mà thấy tất cả pháp như sự huyễn, như mộng…” có nghĩa là khi Bồ Tát học và hành Bát Nhã chẳng thấy các pháp có giác ngộ, chẳng thấy hoạt dụng của nó, nghĩa là chẳng thấy thể, chẳng thấy dụng mà thấy là không giống như huyễn như mộng.
Lược giải:
Giáo pháp của phẩm này là nói tất cả pháp là không, Bản tánh không, trong tánh không tất cả đều vô sở hữu, không thể nắm bắt được. Các pháp chỉ giả thi thiết, giả danh, mượn lời để nói. Các pháp không có tự tánh hòa hợp, nên nói không có tự tánh. Các pháp bản tánh như vậy là như vậy. Các pháp rốt ráo vô sanh. “Rốt ráo vô sanh tức là Bát nhã Ba la mật; Bát nhã Ba la mật tức là rốt ráo vô sanh. Vì sao? Vì rốt ráo vô sanh cùng với Bát nhã Ba la mật không hai, không hai phần”.
“Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng thấy các pháp có giác, có dụng mà thấy tất cả pháp như sự huyễn, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nước, như hoa đóm trên hư không, như ảo thành, trò biến hóa, đều chẳng phải thật có”.
Trong suốt đại phẩm Bát Nhã chỗ nào cũng tìm thấy các tư tưởng nầy, chúng dẫn xuất từ Tánh Không Bát Nhã. Ở đâu nói về các pháp thì ở đó chúng xuất hiện. Và câu “nhất thiết pháp không” trở thành câu phủ nhận bất tận của Bát Nhã đối với vạn hữu trần gian.
Nhưng thật ra các pháp vẫn là các pháp, không ai có thể phá hoại các pháp, dù có Phật hay không có Phật xuất hiện, các pháp như vậy là như vậy. Sở dĩ, Phật nói không, rỗng không hay bản tánh không v.v…là không muốn chúng sanh phân biệt, chấp trước ở tánh tướng thể dụng của các pháp mà sanh phiền não, khổ lụy. Phân biệt và chấp trước mới chính là kẻ thù của Giác ngộ. Tất cả giáo pháp Tánh không là triết để phá tướng, phá chấp về tướng hay phi tướng.
Sau đây là tóm tắt tất cả câu trả lời của cụ thọ Thiện Hiện đối với các thắc mắc của Xá Lợi tử về phẩm “Vô Sở Đắc” này:
- Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa,
chẳng thể nắm bắt được?
Mấu chốt của bài pháp này là tất cả pháp là vô sở hữu, rốt ráo không, là xa lìa, không có tự tánh, nên đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong cái vô sở hữu, không, xa lìa, không tự tánh của các pháp, đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.
Bởi vì, chẳng phải cái vô sở hữu, cái không, cái xa lìa, cái không tự tánh của các pháp có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa có sự sai khác. Hoặc cái vô sở hữu của các pháp, hoặc cái không của các pháp, hoặc cái xa lìa của các pháp, hoặc cái không tự tánh của các pháp, hoặc đại Bồ Tát đời trước, đời sau, hoặc đời giữa, tất cả pháp như vậy không hai, không hai phần. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.
- Vì duyên cớ gì mà nói là tất cả pháp vô biên,
nên biết đại Bồ Tát cũng vô biên?
Vì tánh của tất cả pháp là không. Trong cái không, khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không. Cũng như hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được, nên nói là hư không.
Do duyên cớ này, nên nói là vì tất cả pháp vô biên, nên biết đại Bồ Tát cũng vô biên.
Không nắm bắt được nên nói là vô biện, đây chỉ là hệ quả của cái gọi là vô sở hữu bất khả đắc nói trên.
- Tất cả pháp là không, trong tánh không tất cả pháp đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu,
chẳng thể nắm bắt được.
“Tất cả pháp và tánh của tất cả pháp là không. Vì sao? Vì trong tánh không của tất cả pháp, tất cả pháp vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Cái phi pháp và tánh của cái phi pháp cũng là không. Vì sao? Vì trong tánh không của cái phi pháp, cái phi pháp vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ Tát cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được”.
Trong Tánh Không cũng không có gì là sở hữu, là sở đắc. Đây cũng chỉ là hệ quả giống như các đoạn Kinh nói trên.
- Đối với tất cả pháp, hoàn toàn vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, thì làm sao có thể dùng Bát Nhã để dạy bảo
trao truyền cho các đại Bồ Tát?
Tánh của đại Bồ Tát là không, nên đại Bồ Tát đối với đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của Bát nhã Ba la mật là không, nên Bát nhã Ba la mật đối với Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; Bát nhã Ba la mật đối với đại Bồ Tát vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ Tát, Bát nhã Ba la mật đối với sự dạy bảo trao truyền vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tánh của sự dạy bảo, trao truyền là không, nên sự dạy bảo, trao truyền đối với sự dạy bảo trao truyền vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; sự dạy bảo trao truyền đối với đại Bồ Tát, Bát nhã Ba la mật vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.
Đối với tất cả pháp như vậy, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát, cũng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Do duyên cớ này, nên nói là đối với tất cả pháp, dùng tất cả phương tiện, tất cả chốn, tất cả thời để cầu đại Bồ Tát nhưng hoàn toàn không thấy và rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao lại có thể dùng Bát nhã Ba la mật để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ Tát?
Đoạn kinh này là nói kết quả của cái gọi là vô sở hữu, bất khả đắc.
- Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ Tát chỉ là giả danh?
Vì danh đại Bồ Tát là cái do người ta đặt ra, nó chỉ là cái vỏ bên ngoài, không thật có. Danh của tất cả pháp cũng như vậy, ở trong mười phương, ba đời, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không trụ đâu. Trong tất cả pháp không có danh, trong danh không có tất cả pháp, chẳng phải hợp, chẳng phải ly, chỉ giả bày. Vì sao? Vì tất cả pháp cùng với danh, tự tánh đều không; trong cái không của tự tánh, hoặc tất cả pháp, hoặc danh đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, nên danh đại Bồ Tát cũng lại như vậy, chỉ là cái được thâu nhiếp từ bên ngoài. Do duyên cớ này, nên nói là đại Bồ Tát chỉ có giả danh.
- Vì duyên cớ gì mà nói, như nói là ngã v.v... rốt ráo đều vô sanh?
Ngã là cái tự chấp do tưởng, cũng là cái không thật nên nói là không, vô sở hữu, làm sao có sanh? Hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, kiến giả rốt ráo đều vô sở hữu, bất khả đắc… đã chẳng khá được, nên nói là vô sanh.
- Vì duyên cớ gì mà nói các pháp cũng vậy, đều không có tự tánh?
Các pháp đều do duyên hợp. Có duyên hòa hợp mới thành pháp, không duyên thì không thành pháp, nên nói các pháp không có tự tánh.
- Các pháp phi thường, phi lạc cũng không tan mất,
cũng chẳng biến hoại:
Các pháp phi thường (chẳng thường) mà các pháp phi lạc (chẳng lạc), phi hoại (chẳng hoại) cũng không tan hoại. Vì sao? Vì pháp phi thường, phi lạc, tánh vô tận vậy, cũng không tan hoại. Không những thế mà các pháp phi ngã, vắng lặng, xa lìa, các pháp không, vô tướng, vô nguyện, các pháp thiện, các pháp vô tội, các pháp vô lậu, vô vi, vô nhiễm, các pháp thanh tịnh, các pháp xuất thế gian… cũng không tan hoại. Vì bản tánh như vậy là như vậy, nên tác thuyết là: Các pháp cũng vậy đều không có tự tánh. (Q.69, ĐBN)
- Vì duyên cớ gì mà nói sắc thảy pháp, vô sanh?
Sắc thảy pháp bản tánh vô sanh. Vì sao? Vì phi sở tác vậy. Nếu không có chỗ tạo tác thì ai là tác giả. Do vì duyên cớ này, nên tác thuyết là Sắc thảy các pháp đều vô sanh. (Q. 69, ĐBN)
- Vì duyên cớ gì mà nói, nếu rốt ráo vô sanh,
thời chẳng gọi là sắc thảy pháp?
Nếu rốt ráo vô sanh, thời chẳng gọi tên sắc thảy... Vì sao? Xá Lợi Tử! Sắc bản tánh không. Nếu pháp bản tánh không, thời chẳng thể thi thiết hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc trụ, hoặc dị. Do duyên cớ này, nếu rốt ráo vô sanh, thời chẳng gọi tên sắc thảy... vì pháp không, vô sanh, bất khả thuyết. Tánh không có thể hóa giải tất cả thiên chấp.
- Vì duyên cớ gì mà nói lìa vô sanh cũng không có đại Bồ Tát nào
có thể tu hành quả vị Giác ngộ tối cao?
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy Bát nhã Ba la mật khác với vô sanh, cũng chẳng thấy đại Bồ Tát khác với vô sanh. Vì sao? Vì hoặc Bát nhã Ba la mật hoặc đại Bồ Tát cùng với rốt ráo vô sanh không hai, không hai phần.
Do duyên cớ này, nên nói lìa vô sanh, không có Bồ Tát nào có thể tu hành quả vị Giác ngộ tối cao.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng thấy các pháp có giác, có dụng mà thấy tất cả pháp như sự huyễn, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như hoa đóm trên hư không, như ảo thành, như trò biến hóa, đều chẳng phải thật có. Nghe nói bản tánh của các pháp đều không, trong lòng rất hoan hỷ. (Q.70, ĐBN)
Kết luận:
Tất cả luận giải trên chỉ là ôn lại những gì mà chúng ta học về tất cả pháp. Để kết luận cho phẩm này, xin đọc trích dẫn trong quyển 129, phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN, khi nói về các pháp:
“Tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không tướng, không tạo tác, không tánh tự tánh. Những gì là tự tánh không tánh? Đó là không có tánh ngã, không có tánh hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, tự thọ quả báo, cái biết, cái thấy; hoặc không có tánh sắc, không có tánh thọ, tưởng, hành, thức; không có tánh mười hai xứ, mười tám giới, lục đại, hoặc không có tánh mười hai nhân duyên; hoặc không có tánh bố thí Ba la mật, không có tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc không có tánh mười tám pháp không, hoặc không có tánh chân như, không có tánh pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc không có tánh Thánh đế khổ, không có tánh Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc không có tánh bốn tịnh lự, không có tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc không có tánh tám giải thoát, không có tánh tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc không có tánh ba mươi bảy pháp trợ đạo; hoặc không có tánh pháp môn giải thoát không, không có tánh pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; hoặc không có tánh năm loại mắt, không có tánh sáu phép thần thông; hoặc không có tánh Như Lai mười lực, không có tánh bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc không có tánh pháp không quên mất, không có tánh luôn luôn xả; hoặc không có tánh Nhất thiết trí, không có tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc không có tánh tất cả pháp môn Đà la ni, không có tánh tất cả pháp môn Tam ma địa; hoặc không có tánh tứ hướng tứ quả Thanh Văn, hoặc không có tánh Độc giác, không có tánh quả vị Độc giác; hoặc không có tánh đại Bồ Tát; hoặc không có tánh Bồ Tát hạnh; hoặc không có tánh Tam miệu tam Phật đà, không có tánh quả vị Giác ngộ tối cao; hoặc không có tánh pháp thiện, không có tánh pháp bất thiện, pháp vô ký; hoặc không có tánh pháp quá khứ, không có tánh pháp vị lai, hiện tại; hoặc không có tánh pháp thuộc dục giới, không có tánh pháp thuộc sắc giới, không có tánh pháp thuộc vô sắc giới; hoặc không có tánh pháp học, không có tánh pháp vô học, phi học phi vô học; hoặc không có tánh pháp kiến sở đoạn, không có tánh pháp tu sở đoạn, phi sở đoạn; hoặc không có tánh pháp hữu sắc, không có tánh pháp vô sắc; hoặc không có tánh pháp hữu kiến, không có tánh pháp vô kiến; hoặc không có tánh pháp hữu đối, không có tánh pháp vô đối; hoặc không có tánh pháp hữu lậu, không có tánh pháp vô lậu; hoặc không có tánh pháp hữu vi, không có tánh pháp vô vi; hoặc không có tánh pháp hữu tội, không có tánh pháp vô tội; hoặc không có tánh pháp thế gian, không có tánh pháp xuất thế gian; hoặc không có tánh pháp tạp nhiễm, không có tánh pháp thanh tịnh. Không có vô lượng các loại tánh như vậy, không sở hữu, không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, không hiểu, không biết, như vậy gọi là tự tánh không tánh. Các pháp tự tánh không tánh như vậy đều gọi là pháp tánh vô vi.
Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Này Kiều Thi Ca! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ đều do Bát Nhã thậm thâm như thế, đã chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vị lai đều do Bát Nhã thậm thâm như thế, sẽ chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại, ở vô lượng vô số vô biên thế giới trong mười phương, đều do Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế đang chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
(…)Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng vì pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương tiện, vô sanh, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô tạo, vô tác làm phương tiện, vô nhập, vô xuất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm làm phương tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nên đã nói như vậy là do thế tục, chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát nhã Ba la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật, chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu tội, chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc Dục giới, chẳng phải thuộc Sắc giới, chẳng phải thuộc Vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn, chẳng phải tu sở đoạn, chẳng phải chẳng tu sở đoạn, chẳng phải hữu, chẳng phải vô, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí.
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng cùng pháp Dự lưu, chẳng cùng pháp Nhất lai, chẳng cùng pháp Bất hoàn, chẳng cùng pháp A la hán, chẳng bỏ pháp phàm phu”.
Đoạn Kinh này nói lên tất cả yếu chỉ của phẩm “Vô Sở Đắc”. Học vô sở đắc như vậy là đắc Vô Thượng Bồ đề. Nhưng Vô Thượng Bồ đề ở đâu mà đắc? Đắc hay không đắc chỉ do mình tự hội. Nên nói vô sở đắc cũng là vô sở đắc nốt! Bát Nhã phủi sạch hết, không để ta nắm giữ cất dấu bất cứ gì còn vướng bận trong tâm!
Nói tóm lại, các pháp không có tự tánh, do duyên hợp giả có, nên bảo là không chứ không phải không có mà bảo là không. Đó là cái chứng biết của Phật, khi Phật tuyên bố “nhất thiết pháp không”. Không hay Bản tánh không chính là cái thấy nhất thể hay thật tướng của muôn sự muôn vật. Toàn thể ĐBN nói về cái không này và cũng từ cái không này lưu xuất các danh tự vô sở hữu, bất khả đắc, vô tướng, vô tánh, bản tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không... trong 18 pháp không.
Từ nhận thức đó dẫn chúng ta đến cái liễu tri khác: Thế nào là rốt ráo “vô sanh”? Không sanh vì không có tự tánh, chỉ do duyên hợp mà có, không thể tự sanh. Không thể tự sanh thì chả có gì là sở hữu của chính nó, nên nói là không. Cái thực chứng này không phải là dễ thấy, dễ tri nhận theo trí năng thường tục. Cái gì không thể giải thích trực tiếp thì Phật lập phương tiện. Nên Phật phải giả thi thiết để chúng sanh hiểu.
Phẩm này tương đối trùng tụng nhưng nhờ trùng tụng mà chúng ta ôn lại những gì đã học trước đây./.
---o0o---