Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Phẩm “Thiên Đế” (Biên Soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Kim Phương Quảng Tịnh, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

06/06/202017:36(Xem: 9545)
22. Phẩm “Thiên Đế” (Biên Soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Kim Phương Quảng Tịnh, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

buddha_lotus2

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

PHẨM “THIÊN ĐẾ”

Quyển 77 đến phần đầu quyển 81, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với quyển thứ 08,phẩm “Thiên Vương”, MHBNBLMĐ)

Biên Soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Phật tử Kim Phương Quảng Tịnh

Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước





 


 

Gợi ý:

Phẩm “Thiên Đế”, cụ thọ Thiện Hiện trả lời Thiên Đế Thích Thích Đề Hoàn Nhân(1)ba vấn đề: 1. Thế nào gọi là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật; 2. Thế nào là chỗ nên trụ của Bồ Tát Bát nhã Ba la mật; 3. Thế nào là chỗ chẳng nên trụ của Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.

 

Tóm lược:

 

1. Thế nào là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?(2)

 

Lúc bấy giờ các cõi Lục dục thiên có Thiên đế, Thiên vương và vô lượng vô biên thiên chúng ở các cõi trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc biến hóa và trời Tha hóa tự tại và các cõi trời Sắc giới như trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm, trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến và trời Sắc cứu cánh cùng đến nhóm họp.

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Thiên Đế Thích:

“Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, suy nghĩ sắc vô thường, suy nghĩ sắc khổ, suy nghĩ sắc vô ngã, bất tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, xa lìa. Suy nghĩ sắc như bệnh hoạn, suy nghĩ sắc như ung thư, suy nghĩ sắc như tên đâm, suy nghĩ sắc như mụt nhọt, suy nghĩ sắc nóng nảy, suy nghĩ sắc bức ngặt, suy nghĩ sắc bại hoại, suy nghĩ sắc suy hư, suy nghĩ sắc biến động, suy nghĩ sắc chóng diệt, sắc đáng sợ, sắc đáng nhàm, sắc có tai (tai ương), có hoạnh, sắc có dịch, sắc như hủi (cùi hủi), sắc tánh chẳng yên ổn, sắc chẳng thể tin cậy, sắc vô sanh vô diệt, sắc vô nhiễm vô tịnh, sắc vô tác vô vi. Không những đối với sắc mà đối với thọ, tưởng, hành, thức, mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật cũng lại như thế. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy thì được coi là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật”.

“Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, khởi quán như vầy: “Duy có các pháp thay nhau vin nương, thấm nhuần tăng trưởng, đầy khắp sung nhẩy, không có ngã và ngã sở. Chỉ có các pháp và các pháp làm nhơn duyên cho nhau mà có thuận ích, tăng trưởng, phân biệt, so tính, trong đây không có ngã và ngã sở”.

Lại khởi lên quán này: “Đại Bồ Tát tâm hồi hướng chẳng hòa hiệp cùng tâm Bồ đề, tâm Bồ đề chẳng hòa hiệp cùng hồi hướng. Tâm hồi hướng với tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc, tâm Bồ đề với tâm hồi hướng vô sở hữu bất khả đắc”. Đại Bồ Tát, tuy quán các pháp, mà đối với các pháp đều vô sở kiến. Kiều Thi Ca! Đấy là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng: Bạch Đại Đức! Vì sao đại Bồ Tát tâm hồi hướng chẳng hòa hiệp cùng tâm Bồ đề? Vì sao tâm Bồ đề chẳng hòa hiệp cùng tâm hồi hướng? Vì sao tâm hồi hướng ở trong tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc? Vì sao tâm Bồ đề ở trong tâm hồi hướng vô sở hữu bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát tâm hồi hướng thời phi tâm, tâm Bồ đề cũng phi tâm. Nếu phi tâm thời bất khả tư nghì. Chẳng lẽ phi tâm hồi hướng phi tâm? Cũng chẳng lẽ phi tâm hồi hướng bất khả tư nghì? Chẳng lẽ bất khả tư nghì hồi hướng bất khả tư nghì? Cũng chẳng lẽ bất khả tư nghì hồi hướng phi tâm? Vì sao? Vì phi tâm là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là phi tâm. Hai thứ như vậy đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có hồi hướng vậy. Kiều Thi Ca! Nếu khởi quán như vậy, đấy là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật”.

 

2. Thế nào là chỗ nên trụ của đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?

 

Cũng cùng đoạn Kinh trích dẫn trên, Tu Bồ Đề nói tiếp:

“Kiều Thi Ca! Sắc, sắc tánh không. Thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tánh không. Hoặc sắc tánh không, hoặc thọ tưởng hành thức tánh không, hoặc đại Bồ Tát tánh không; không những ngũ uẩn tánh không mà mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật như Tứ đế, mười hai nhân duyên... cho đến Nhất thiết chủng trí, đều tánh không, tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật nên trụ như thế”.

 

3. Thế nào là chỗ chẳng nên trụ của đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?

 

Thiên Đế Thích lại hỏi: Bồ Tát chẳng nên trụ chỗ nào?

“Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy. Kiều Thi Ca! Đại Bồ khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc xứ, chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy. Cả đến chẳng nên trụ mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy.

“Lại nữa, Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ Thanh văn thừa hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên trụ Thanh văn thừa hoặc lạc hoặc khổ; chẳng nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc lạc hoặc khổ. Chẳng nên trụ Thanh văn thừa, chẳng nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc ngã hoặc vô ngã; hoặc tịnh hoặc bất tịnh. hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng; hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; hoặc không hoặc bất không; hoặc hữu tướng hoặc vô tướng; hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ ta phải viên mãn ngũ nhãn, lục thần thông, cũng chẳng trụ ta phải thành xong ba mươi hai tướng trang nghiêm, chẳng nên trụ ta phải thành xong tám mươi tùy hảo, chẳng nên trụ ta phải đầy đủ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, giác tất cả pháp tướng, rồi dứt hẳn tất cả phiền não và các tập khí nối nhau; chẳng nên trụ ta phải chứng cho kỳ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp, độ thoát vô lượng vô số hữu tình khiến được Niết bàn rốt ráo an vui. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy.

Kiều Thi Ca! Đấy là đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ, vì lấy sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy Xá Lợi Tử khỏi nghĩ: Nếu Bồ Tát chẳng nên trụ các pháp như trên thời làm sao trụ Bát nhã Ba la mật được?

“Cụ thọ Thiện Hiện đọc được ý nghĩ của Xá Lợi Tử, nên hỏi rằng: “Theo ý ông, tâm các Như Lai trụ chỗ nào?

Xá Lợi Tử đáp: Tâm chư Phật đều không có chỗ trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tâm Như Lai chẳng trụ sắc, chẳng trụ thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì sắc uẩn thảy chẳng khá được vậy. Thiện Hiện! Tâm Như Lai chẳng trụ 12 xứ, 18 giới, cũng chẳng trụ tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều không thể nắm bắt được. Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử rằng: Đúng như vậy, đại Bồ Tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đồng như Như Lai đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đối với sắc chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ; đối với thọ tưởng hành thức cũng chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì sắc uẩn thảy không có hai tướng vậy. Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp Phật cũng lại như thế.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật tuy chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ, đem vô sở đắc làm phương tiện, nên học như thế”.

 

Thích nghĩa:

(1). Thiên Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân (phiên âm từ Phạn ngữ là Sákrodevnm Indrah, gọi đủ là Thích Ca Đề Hoàn Nhân Đà La) hay Kiều Thi Ca (là họ). Kiều Thi Ca và 32 người bạn cùng tu phước đức trí tuệ, sau khi mệnh chung đều được sinh lên tầng trời thứ 2 trên đỉnh núi Tu di, làm chủ cõi trời này, còn 32 người bạn kia là phụ tá. Vì vậy, cõi trời này có cả thảy 33 vị trời nên gọi là Tam thập tam thiên hay Đao lợi thiên.

(2).“Bồ Tát Bát nhã Ba la mật đa”, là lối dịch của HT Thích Trí Nghiêm (Kinh ĐBN)- lối dịch này ngắn gọn, nhưng hơi khó hiểu. Còn HT Thích Trí Tịnh dịch là “Bát nhã Ba la mật đa của đại Bồ Tát” (Kinh MHBNBLMĐ)- lối dịch này tuy dài dòng nhưng dễ hiểu. Đại khái có thể nói khi Bồ Tát thâm nhập Bát Nhã thì gọi là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật đa.

(3). Tất cả Phật pháp hay tất cả thiện pháp đã liệt kê và giải thích tường tận ở phần th I Tổng luận nầy rồi, quyển 77 và các quyển kế tiếp lập lại như sau: Mười tám pháp Không; chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới; sáu Ba la mật; bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, chín thứ đệ định, mười biến xứ; 37 pháp trợ đạo; tam giải thoát môn; bốn Thánh đế trí; năm nhãn, sáu thần thông; Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; tất cả Đà la ni, Tam ma địa, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… Tất cả pháp này được lặp đi lặp lại hàng trăm ngàn lần hoặc rút gọn hoặc giải rộng từng pháp một trong hầu hết các phẩm, các quyển, tập trong toàn bộ ĐBN. Để tránh trùng tụng chúng tôi rút gọn là tất cả pháp Phật hay các pháp mầu Phật đạo. Lưu ý này đã lặp đi lặp lại nhiều lần!

 

Lược giải:

 

1. Sao gọi là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?

 

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Thiên Đế Thích: “Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, suy nghĩ sắc vô thường, suy nghĩ sắc khổ, suy nghĩ sắc vô ngã, bất tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, xa lìa. Suy nghĩ sắc như bệnh hoạn, suy nghĩ sắc như ung thư, suy nghĩ sắc như tên đâm, suy nghĩ sắc như mụt nhọt, suy nghĩ sắc nóng nảy, suy nghĩ sắc bức ngặt, suy nghĩ sắc bại hoại, suy nghĩ sắc suy hư, suy nghĩ sắc biến động, suy nghĩ sắc chóng diệt, sắc đáng sợ, sắc đáng nhàm, sắc có tai (tai ương), có hoạnh, sắc có dịch, sắc như hủi (cùi hủi), sắc tánh chẳng yên ổn, sắc chẳng thể tin cậy, sắc vô sanh vô diệt, sắc vô nhiễm vô tịnh, sắc vô tác vô vi. Không những đối với sắc mà đối với thọ, tưởng, hành, thức, 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật cũng lại như thế. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy thì được coi là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật”.

 “Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, khởi quán như vầy: “Duy có các pháp thay nhau vin nương, thấm nhuần tăng trưởng, đầy khắp sung nhẩy, không có ngã và ngã sở. Chỉ có các pháp và các pháp làm nhơn duyên cho nhau mà có thuận ích, tăng trưởng, phân biệt, so tính, trong đây không có ngã và ngã sở”.

 

(Để giải thích đoạn kinh này phẩm thứ 27, “Thiên Vương”, tập 3. quyển 54, Đại Trí Độ Luận, thuyết:

 

“Hỏi: Vì sao phải nói 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã, vì sao phải nói đến 8 nỗi khổ (bát khổ)?

Đáp: Nên phân biệt có 3 hạng người. Đó là:

- Hạng thượng căn.

- Hạng trung căn.

- Hạng hạ căn.

Hạng thượng căn vừa nghe nói đến “sanh khổ”, “lão khổ”, “bệnh khổ”, “tử khổ” là liền vào được “Khổ Thánh Đế”.

Hạng trung căn nghe nói đến các khổ của sanh già bệnh chết cũng vẫn chưa sanh được tâm nhàm chán thế gian. Bởi vậy phải nói 5 ấm như bệnh, như ung nhọt, như vết thương do mũi tên ghim vào thân... mới khiến họ sanh nhàm chán.

Hạng hạ căn phải nói đến 8 thứ khổ lớn, dẫn đến phải nói đến hàng trăm thứ khổ khác nữa mới khiến họ sanh nhàm chán thế gian vậy.

Các bậc Thánh chỉ quán 4 đế là đã nhiếp đủ cả 16 thánh hạnh rồi. Bởi vậy nên nói thuyết Bát nhã Ba la mật là thuyết về các thánh hạnh, để cho các bậc thượng căn được thâm nhập.

Nay chư Thiên hỏi về bước đầu hành pháp Ba la mật, nên phải nói 12 nhập, 18 giới... dẫn đến nói hết thảy các pháp đều do 5 ấm duyên khởi tác thành.

Nếu hành giả quán 5 ấm là tịch diệt, là viễn ly, thì biết rõ được hết thảy các pháp đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh.

Hàng Thanh Văn do chưa được đầy đủ lực trí huệ, nên khi quán 5 ấm chưa vào được các pháp viễn ly, tịch diệt, mà chỉ quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Bồ Tát do lợi căn, lại đã đầy đủ lực trí huệ, nên khi quán 5 ấm liền biết rõ 5 ấm là tịch diệt, là viễn ly, là bất khả đắc. Bởi vậy nên Bồ Tát thường dùng “vô sở đắc không huệ” mà quán các pháp tướng.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn chỉ hỏi về “Bát nhã Ba la mật tướng”, chẳng hỏi về “5 ấm tướng”, nhưng ngài Tu Bồ Đề lại đáp rằng: Bát nhã Ba la mật tướng chẳng ly 5 ấm tướng, đó chính là Niết Bàn tướng. Vì sao? Vì thật tướng của 5 ấm chính là Niết Bàn tướng vậy.

Đối với những người căn trí còn yếu kém, thì trước hết phải quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã, rồi sau đó mới quán 5 ấm là viễn ly, là tịch diệt, là bất khả đắc. Quán các nhân duyên tác pháp khác cũng đều là như vậy cả. Sau đó mới tu 4 niệm xứ... dẫn đến 8 thánh đạo v.v...

Bồ Tát do lợi căn, thượng trí, nên khi quán các pháp tướng, khi tu các pháp môn đều dụng vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã (Nhất thiết chủng trí và Vô Thượng Bồ đề) tâm. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo như vậy là hành Bát nhã Ba la mật tướng, dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề.

Hỏi: Đang nói về hành Bát nhã Ba la mật tướng, vì sao ở đoạn giữa lại nói về các nhân duyên pháp nhuận ích, tăng trưởng?

Đáp: Ngài Tu Bồ Đề trước nói hết thảy các pháp đều vô thường, khổ, không, vô ngã. Sau mới nói hết thảy pháp đều viễn ly, tịch diệt, bất khả đắc.

Ngài cũng nói hết thảy pháp đều rốt ráo không, nhưng do nhân duyên hoà hợp mà có.

Ngài cũng nói về tu 4 niệm xứ... dẫn đến 8 thánh đạo, 18 bất cộng pháp, nói về hành Bồ Tát đạo, để cho hết thảy chúng sanh thấy rõ rằng: Tuy các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô ngã, vô sanh, nhưng có các duyên hoà hợp tác thành mà có 4 đại, có 6 thức... dẫn đến có hết thảy các pháp. Khi đã có 4 đại, có 6 thức rồi, thì 10 pháp này có lực “năng sanh”,
“năng khởi” biến hoá ra sơn hà vũ trụ.

Chúng sanh do tâm điên đảo, dùng thức phân biệt mà chấp có các sự vật. Có lẻ lầm tưởng rằng tất cả các sự vật đều do một vị chủ tể nào đó lập ra, mà chẳng biết rằng các sự các vật, từ núi cao rừng rậm... đến ruộng vường cây cỏ v.v... dẫn đến sắc thân của chúng sanh cũng do 4 đại, 4 đại tạo sắc và 6 thức tạo thành, mà có đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng v.v... Ví như nhà huyễn thuật hoá tác ra nào người, nào vật... trên sân khấu, khiến người xem lầm tưởng là thật có. Thật ra các cảnh vật trên sân khấu đều là huyễn cảnh, huyễn vật, đều chẳng thật có.

Hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, hoặc cộng sanh, hoặc do tương ưng nhân duyên sanh, hoặc do quả báo nhân duyên sanh.

Nếu thường tu, thường quán thì thiện quả báo sẽ được tăng trưởng. Ví như gieo hạt giống đúng thời tiết, có đầy đủ phân bón, nước tưới, lại chăm sóc chu đáo thì cây sẽ được xanh tốt, sẽ đơm hoa kết trái. Cũng như vậy, người tu hành dùng lực trí huệ quán hết thảy các pháp đều như huyễn, như hoá, đều chẳng có chủ tác... nên dõng mãnh phát tâm cầu đạo Vô Thượng. Tuy nay mới phát tâm, nhưng chắc chắn về sau sẽ được đạo Vô Thượng Bồ Đề vậy).

 

KINH:

“Thiện Hiện bảo tiếp:

Đại Bồ Tát tâm hồi hướng chẳng hòa hiệp cùng tâm Bồ đề, tâm Bồ đề chẳng hòa hiệp cùng hồi hướng. Tâm hồi hướng với tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc, tâm Bồ đề với tâm hồi hướng vô sở hữu bất khả đắc. Đại Bồ Tát, tuy quán các pháp, mà đối với các pháp đều vô sở kiến. Kiều Thi Ca! Đấy là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật”.

 

Để giải thích “Vì sao đại Bồ Tát tâm hồi hướng chẳng hòa hiệp cùng tâm Bồ đề?”,  phẩm thứ 27, “Thiên Vương”, Đại Trí Độ Luận, thuyết:

Hỏi: Nếu nói tâm hồi hướng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì tâm ấy là như thế nào?

Đáp: khi đã vào trong Bát nhã Ba la mật rồi, thì biết rõ hết thảy các pháp đều là phi thường tướng (chẳng phải tướng thường), phi vô thường tướng (chẳng phải tướng vô thường), phi hữu tướng (chẳng phải tướng có), phi vô tướng (chẳng phải tướng không).

Như vậy chẳng nên nạn vấn về tướng của tâm hồi hướng làm gì nữa.

Hỏi: Tâm đã chứng diệt thì làm sao phát được tâm Vô Thượng Bồ Đề? Lại nữa, nếu hết thảy các pháp đều chẳng sanh-chẳng diệt, cũng chẳng phải chẳng sanh-chẳng phải chẳng diệt, thì làm sao có thể phát được tâm Vô Thượng Bồ Đề, và như vậy phải hồi hướng tâm về đâu?

Đáp: Phật dạy: Bồ Đề tướng chẳng phải ở vị lai, chẳng phải ở hiện tại. Trong phẩm Như Tướng, Phật dạy: Quá khứ chẳng rời vị lai, vị lai chẳng rời hiện tại. Vì sao? Vì là nhất như, là chẳng phải hai, chẳng phải khác vậy.

Bởi vậy nên nói: Tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng có trong tâm hồi hướng, tâm hồi hướng cũng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề. Cả hai tâm ấy đều là bất khả đắc cả. Chẳng nên nạn vấn phải hồi hướng tâm về đâu làm gì nữa”.

 

--o0o--

  

“Bởi vậy nên khi nghe ngài Thích Đề Hoàn Nhơn nêu lên câu hỏi “vì sao nói tâm Vô Thượng Bồ Đề chẳng có trong tâm hồi hướng, và tâm hồi hướng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề?” thì ngài Tu Bồ Đề chẳng dùng Thế đế để trả lời, mà ngài phải dùng Đệ nhất nghĩa đế.

Ngài Tu Bồ Đề nói: cả 2 tâm đều là không, là phi tâm tướng (là chẳng có tâm tướng). Vì sao? Vì các pháp tướng rốt ráo là không. Trong tánh không chẳng có tướng tâm, nên là phi tâm tướng. Hết thảy các pháp đều là không, là vô tướng.

Như vậy nếu nói đến hồi hướng, thì phải đề cập đến hai pháp đối đãi. Như xe chạy từ hướng Nam, nghỉ ở hướng Tây, rồi quay trở về hướng Nam, thì mới gọi là hồi hướng được. Nếu xe chẳng thật có, phương cũng chẳng thật có, thì cũng chẳng thật có hồi hướng vậy.

Cũng như vậy, vì tâm là bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề cũng là bất khả đắc, thì tâm hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề cũng là bất khả đắc.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề đã nói rằng: Tâm là thường trú, là bất sanh, bất diệt, là phi tâm tướng, là bất khả tư nghì tướng. Đã là bất khả tư nghì tướng thì chẳng thể tư duy, trù lượng, chẳng thể chấp thủ tướng tâm được vậy.

Phật biết rõ ngài Tu Bồ Đề đã thâm nhập Bát nhã Ba la mật, đã biết rõ Bát nhã Ba la mật chỉ là danh tự, biết rõ hết thảy pháp đều do duyên hoà hợp mà có cũng chỉ là danh tự, biết rõ hết thảy các pháp tướng cùng Bát nhã Ba la mật tướng là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Bởi nhân duyên vậy, nên giữa đại chúng Phật đã tán thán ngài Tu Bồ Đề rằng: Lành thay, lành thay! ông là Thanh Văn mà thuyết được thâm nghĩa của Bát nhã Ba la mật cho hàng Bồ Tát nghe, làm an ổn tâm của các Bồ Tát. Ông chớ nên nghĩ rằng mình chưa sạch các tập khí, phiền não mà sanh tâm giải đãi. Nếu ở nơi các pháp mà được vô chướng ngại, thì sẽ biết rõ rằng sơ tâm (tâm ban đầu) và hậu tâm (tâm sau cùng) chẳng có gì riêng khác cả, hãy tinh tấn tu tập, ắt sẽ viên thành Phật đạo.

Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ: Vào được thật tướng pháp mới thoát khỏi các khổ “sanh, già, bênh, chết”, liễu đạt được thật tướng pháp mới thành tựu được vô lượng công đức. Bởi vậy, nên ta phải lạc thuyết Bát nhã Ba la mật. Lại nữa, do Phật hiển dụng đại bi tâm, chuyển pháp luân độ thoát vô lượng chúng sanh, mà ta được thiện duyên nương theo pháp Phật vào đạo. Nay đức Thế Tôn cũng do nơi Bát nhã Ba la mật mà được Vô Thượng Bồ Đề. Bởi vậy nên ta phải nhất tâm tôn kính ba ngôi Tam Bảo, phải thường lạc thuyết Bát nhã Ba la mật.

Tự niệm như vậy rồi, ngài Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! trong quá khứ, chư Phật cùng chư đại đệ tử đã nói 6 pháp Ba la mật cho hàng Bồ Tát nghe, khiến họ vào được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Hôm nay con cũng vì hàng Bồ Tát, nói 6 pháp Ba la mật, khai thị lợi ích, nhằm giúp họ vào được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Con nương theo Phật tâm, nhờ Phật lực gia bị mới có thể lạc thuyết được Bát nhã Ba la mật tại chúng hội này”

Đấy là cái thấy của bậc đã chứng nhập Bát Nhã, nên những lời bình giải mới được rõ ràng trí tuệ như vậy.

 

2. Thế nào là chỗ nên trụ của đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?

 

Sắc cũng do duyên hợp, không tự sanh, không có tự tánh nên nói là không hay bản tánh không; thọ tưởng hành thức cũng bản tánh không; không những 12 xứ, 18 giới cũng bản tánh không mà tất cả pháp Phật cũng như vậy. Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật nên như thế mà trụ, nghĩa là trụ trong Tánh không. Trụ như vậy là không chỗ bám vúi nên nói trụ chỗ vô sở trụ.

 

3. Thế nào là chỗ chẳng nên trụ của đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?

 

Kinh nhiều lần bảo Bồ Tát không nên trụ sắc; Bồ Tát không nên trụ thọ tưởng hành thức; Bồ Tát cũng không trụ 12 xứ, 18 giới mà cũng chẳng trụ tất cả pháp Phật. Có chỗ trụ tức có chỗ đình trú, có chỗ đình trú tức có nương tựa, có quái ngại nên tâm không còn tự chủ trong tư tưởng cũng như trong hành động nữa. Vì vậy, nên Bồ Tát không trụ bất cứ chỗ nào dù chỗ đó mang lại nhiều công đức nhất. Nếu trụ như vậy là có sở đắc.

Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật cũng chẳng trụ Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã; hoặc tịnh hoặc bất tịnh; hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng; hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa; hoặc không hoặc bất không; hoặc hữu tướng hoặc vô tướng; hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Vì sao? Vì trụ hai bên, có hai tướng, lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy.

Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ ta phải viên mãn ngũ nhãn, lục thần thông, ba mươi hai tướng trang nghiêm, tám mươi tùy hảo; chẳng nên trụ ta phải đầy đủ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; chẳng nên trụ ta phải giác tất cả pháp tướng, rồi dứt hẳn tất cả phiền não và các tập khí nối nhau, chứng cho kỳ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, để thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp, độ thoát vô lượng vô số hữu tình khiến được Niết bàn rốt ráo an vui. Vì sao? Vì lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy.

Tu hành mà có sở cầu, sở đắc, sở trụ nên chẳng trụ. Muốn trụ thì phải vô thủ vô chấp. Có chấp có dính cái ngã & ngã sở vào đó nên bị vướng mắc, quái ngại, vì vậy không thể trụ. Vả lại, để đoạn tận ái pháp nên nói là chẳng trụ dù là trụ trong pháp Phật. Địa Trí Độ Luân bảo rằng: “Chẳng trụ cũng chẳng phải chẳng trụ mới gọi là “vô sở trụ”.

 

Để hiểu tinh thần “vô sở trụ của Bát nhã Ba la mật và của Đại thừa”, chúng tôi trích dẫn lời bình giải của Đại Trí Độ Luận cũng nằm trong phẩm “Thiên Vương” nói trên, để Quý vị nắm vững giáo lý quan trọng này:

Khi hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát dùng “18 không”, quán rõ 5 ấm đều là không. Phàm phu điên đảo chấp có “5 ấm tướng”, có “Bồ Tát tướng”.

Khi hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát biết rõ chúng sanh là không, nên chẳng thấy có Bồ Tát tướng, lại biết rõ các pháp đều không, nên chẳng có 5 ấm tướng.

Bởi vậy nên nói “5 ấm không” và “Bồ Tát không” là chẳng phải hai, chẳng phải khác. Dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.

Ví như chiên đàn Ba la mật là một loại cây gỗ rất quý, rất thơm, mà người ta thường đốt lấy hương cúng Phật; lại có dược tánh cao, thường làm thuốc trị bệnh. Thế nhưng, sau khi một cây chiên đàn Ba la mật và một cây gỗ tạp bị lửa thiêu rụi, hủy diệt rồi, thì hai pháp ấy chẳng còn khác nhau nữa. Lúc bấy giờ, hai pháp diệt đó là chẳng phải hai, chẳng phải khác vậy.

Người vô trí chấp các pháp tướng ở thời kỳ chưa bị huỷ diệt và ở thời kỳ bị huỷ diệt rồi có khác nhau. Thế nhưng, khi đã bị huỷ diệt rồi, thì các pháp chẳng còn khác nhau nữa.

Bởi nhân duyên vậy, nên kinh dạy “chẳng nên trú” đây là nói “chẳng nên trú nơi 5 ấm tướng” vậy.

Hỏi: Nói về nghĩa “trú” là đủ rồi, sao còn nói nghĩa “bất trú” làm gì nữa?

Đáp: Ở nơi 5 ấm mà chẳng sanh tâm chấp đắm, thì đó nghĩa là “bất trú” vậy. Trước đây, chỉ nói về bất trú nơi 5 ấm mà chưa nói đến bất trú nơi hết thảy pháp.

Nay nói rộng thêm rằng, ở nơi hết thảy pháp, dù là hữu vi, là vô vi, là thường, là vô thường... dẫn đến là viễn ly, là tịch diệt cũng đều chẳng nên trú. Vì sao? Vì trú là có sở đắc rồi vậy.

Hỏi: Ở nơi vô vi tướng của quả Tu Đà Hoàn chẳng nên trú, ở nơi phước điền chẳng nên trú... nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: Vì Niết Bàn là vô vi tướng, là vô pháp, nên quả Tu Đà Hoàn cũng là vô vi tướng, là vô pháp, chẳng nên trú.

Nói quả Tu Đà Hoàn là vô vi tướng, là vô pháp, chẳng nên trú nhằm phá các chấp về pháp tướng. Vì sao? Vì khi hành giả quán hết thảy các pháp là không, là vô thường rồi, thì thường sanh tâm nhàm chán, chẳng còn muốn hành các thiện pháp, chẳng còn muốn cứu độ chúng sanh nữa, mà chỉ muốn thủ chấp Niết Bàn, nên phải nói như vậy để phá các chấp về pháp tướng.

Lại nữa, dù nói quả Tu Đà Hoàn là hữu vi tướng, thì tướng hữu vi đó cũng là hư vọng, chẳng thật có, nên cũng chẳng nên trú. Dẫn đến quả Phật cũng là vô vi tướng, chẳng nên trú.

Bồ Tát muốn vào Phật đạo, trước hết phải hành bố thí Ba la mật để cầu phước điền. Vì sao? Vì có nhân duyên phước điền mới được đầy đủ đạo nghiệp. Ví như trồng lúa ở nơi ruộng tốt mới thu hoạch được mùa lúa tốt vậy.

Bồ Tát lúc ban đầu phải tu tập như vậy, nhưng phải biết rõ chẳng nên trú nơi phước điền Tu Đà Hoàn. Vì sao? Vì trú như vậy là có sở đắc. Dẫn đến ở nơi phước điền Phật, Bồ Tát cũng chẳng nên trú.

Hỏi: Phước điền nhị thừa chẳng nên trú còn hiểu được, còn ở nơi phước điền Phật, vì sao cũng chẳng nên trú?

Đáp: Ở nơi hết thảy Pháp, Bồ Tát phải dụng tâm bình đẳng. Dù phước điền Phật là lớn, phước điền chúng sanh là nhỏ, Bồ Tát vẫn xem bình đẳng như nhau.

Lại nữa, hết thảy xứ đều là không, nên chẳng nên trú. Bồ Tát dụng tâm bình đẳng mà hành bố thí, nên chẳng có phân biệt phước điền. Vì mống tâm phân biệt phước điền là liền phá huỷ tâm đại bi, và cũng phá luôn cả pháp bố thí thanh tịnh. Ví như rời Sơ Địa mới vào được Nhị Địa, xả các lợi nhỏ mới cầu được lợi lớn vậy.

Bởi vậy nên, nếu vẫn còn chấp tâm, còn thủ tướng thì chẳng có thể đến được đạo quả Vô Thượng.

Hỏi: Bồ Tát phá tâm tu 6 Ba la mật, vào Bồ Tát vị, vào bất thối chuyển địa, hiển dụng các thần thông, cúng dường chư Phật... như vậy vì sao nói “ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều chẳng trú?”

Đáp: đây chẳng phải nhằm phá “thanh tịnh trú”, mà chỉ nhằm phá chấp ngã và chấp tà kiến, nghĩa là phá chấp tâm, thủ tướng. Ví như phải làm sạch cỏ dại, thì ruộng lúa mới được tốt tươi.

Cũng như vậy, do muốn đoạn sạch các sự ái pháp mà nói “chẳng nên trú”. Lại nữa, y theo lời Phật dạy, thì Bát nhã Ba la mật là rốt ráo không, nên chẳng nên trú vậy.

 

--o0o--

 

Bồ Tát vì thương xót chúng sanh mà hành các thiện pháp, dùng các lực phương tiện để hoá độ chúng sanh, nhưng chẳng có chấp tâm, thủ tướng. Vì có chấp tâm, có thủ tướng là có sở đắc rồi vậy.

Từ sơ phát tâm, Bồ Tát đã nói: Ta sẽ tu tập các thiện pháp, được 5 nhãn, được hết thảy các tam muội, các đà la ni, được đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, ta sẽ ở trong 8 hạng người tín hành và pháp hành, từ Tu Đà Hoàn... dẫn đến A La Hán, ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn, ta sẽ là Bích Chi Phật, ta sẽ trú Bồ Tát địa, vượt hết thảy hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, ta sẽ được đạo chủng trí, được nhất thiết chủng trí, dẫn đến được quả Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát nói như vậy, hành như vậy mà tâm thường chẳng trú, Vì sao? Vì trú là có sở đắc rồi vậy”.

***

“Ngài Tu Bồ Đề nói: Do nhân duyên bất trú mà chư Phật được đạo. Khi đã được đạo rồi, thì biết rõ các pháp đều là vô sở trú cả.

Ngài Xá Lợi Phất nghe như vậy, tự niệm rằng: Nếu các pháp đều là vô sở trú, thì phải trú nơi đâu để được đạo?

Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của ngài Xá Lợi Phất, liền nói với ngài Xá Lợi Phất rằng: Chư Bồ Tát đều là pháp tử của Phật. Đã là pháp tử thì phải giống pháp sư. Phật thường hành “vô sở trú pháp”, chẳng trú nơi sắc... dẫn đến chẳng trú nơi thức, chẳng trú nơi nhãn... dẫn đến chẳng trú nơi ý, chẳng trú nơi sắc... dẫn đến chẳng trú nơi pháp, chẳng trú nơi Đàn Ba la mật... dẫn đến chẳng trú nơi Bát nhã Ba la mật, chẳng trú nơi 4 niệm xứ... dẫn đến chẳng trú nơi 18 bất cộng pháp, chẳng trú nơi hết thảy các tam muội, nơi hết thảy các đà la ni... dẫn đến chẳng trú nơi nhất thiết chủng trí. Bồ Tát thật hành Bát nhã Ba la mật, phải dụng tâm vô sở đắc như chư Phật vậy. Ở nơi hết thảy các Pháp, chẳng trú cũng chẳng phải chẳng trú mới gọi là “vô sở trú”. Được như vậy thì tâm mới thật rốt ráo thanh tịnh. Bồ Tát thật hành Bát nhã Ba la mật, phải nương theo Phật tâm mà tu tập như vậy”.

Giáo lý phẩm này khó, nên được chúng tôi trích dẫn Đại Trí Độ Luận không những để giải thích phẩm này mà còn dùng để giải thích cho toàn thể 5 pháp hội kế tiếp. Vì sáu pháp hội đầu đều có cùng một nội dung như nhau./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com