Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Phẩm “Công Đức Sâu Xa”

09/12/202021:14(Xem: 8280)
19. Phẩm “Công Đức Sâu Xa”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-493

 

XIX. PHẨM “CÔNG ĐỨC SÂU XA”

Phần giữa quyển 550, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:

 

(Tâm và pháp)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Đại Bồ Tát phát khởi tâm trước có thể chứng Vô Thượng Bồ đề, hay tâm sau phát khởi có thể chứng Vô Thượng Bồ đề? Nếu tâm trước phát khởi có thể chứng Vô Thượng Bồ đề thì khi tâm trước phát khởi, tâm sau chưa phát khởi sẽ không có nghĩa hòa hợp. Nếu tâm sau phát khởi có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ đề thì khi tâm sau phát khởi, tâm trước đã diệt nên không có nghĩa hòa hợp. Như vậy, tâm và tâm sở trước sau tiến thối, suy vi không có nghĩa hòa hợp. Như vậy, làm sao có thể tích tụ căn lành được? Nếu các căn lành không thể tích tụ thì làm sao Bồ Tát viên mãn căn lành, có thể chứng Vô Thượng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa trước cháy tim hay ngọn lửa sau cháy tim?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu, chẳng phải ngọn lửa trước cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa trước. Chẳng phải ngọn lửa sau cháy tim, cũng không lìa ngọn lửa sau.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Tim bị cháy không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim thật cháy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng như vậy. Chẳng phải tâm trước phát khởi có thể chứng Vô Thượng Bồ đề, cũng chẳng phải lìa tâm trước. Chẳng phải tâm sau phát khởi có thể chứng Vô Thượng Bồ đề, cũng không lìa tâm sau. Nhưng các đại Bồ Tát thực hành sâu Bát nhã Ba la mật , dùng phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành được tăng trưởng viên mãn, có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lý thú duyên khởi sâu xa này nghĩa là các đại Bồ Tát chẳng phải tâm trước phát khởi có thể chứng Vô Thượng Bồ đề, cũng không lìa tâm trước. Chẳng phải tâm sau phát khởi có thể chứng Vô Thượng Bồ đề, cũng không lìa tâm sau. Chẳng phải vì các tâm như vậy phát khởi mới có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ đề, chẳng phải vì lìa các tâm phát khởi như vậy mới có thể chứng Vô Thượng Bồ đề, vậy các đại Bồ Tát làm sao có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện!

- Ý ngươi hiểu sao? Nếu tâm diệt rồi sanh lại được chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Tâm ấy diệt rồi chẳng thể sanh lại.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu tâm đã sanh có pháp diệt chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy. Nếu tâm đã sanh nhất định có pháp diệt.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tâm có pháp diệt sẽ không diệt chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Không được. Tâm có pháp diệt nhất định sẽ diệt.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tâm không có pháp diệt có thể sanh được không?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng sanh. Tâm không có pháp diệt, không có nghĩa có thể sanh được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tâm không pháp sanh là diệt được chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Tâm không pháp sanh không nghĩa diệt được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tâm không pháp sanh diệt là sanh diệt được chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Tâm không pháp sanh diệt, không nghĩa sanh diệt được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu pháp đã diệt, diệt nữa được chăng? 

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Nếu pháp đã diệt, chẳng thể diệt nữa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu pháp đã sanh, sanh nữa được chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Nếu pháp đã sanh, chẳng thể sanh nữa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Thật tánh các pháp có sanh diệt chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Thật tánh các pháp không sanh không diệt.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tâm trụ là như tâm Như như chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy. Như tâm Như như, tâm trụ như thế.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu tâm trụ như Như như, tâm này là như Như như thật tế tánh thường trụ chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thường. Tâm này chẳng như Như như thật tế tánh ấy thường trụ.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Như như các pháp rất sâu thẳm chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy. Như như các pháp rất là sâu thẳm.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tức Như như là tâm chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Lìa Như như có tâm chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Tức tâm là Như như chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Lìa tâm có Như như chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Như là năng thấy như chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Ngươi thấy thật có Như như chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu đại Bồ Tát năng hành như thế là hành sâu Bát nhã Ba la mật chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy! Nếu đại Bồ Tát năng hành như thế là hành sâu Bát nhã Ba la mật .

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu đại Bồ Tát năng hành như thế là hành chỗ nào?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Nếu đại Bồ Tát năng hành như thế đều không chỗ hành. Vì sao? Vì nếu đại Bồ Tát năng hành như thế, trọn chẳng thấy có năng hành, sở hành, thời hành, chỗ hành, vì các pháp hiện hành đều chẳng chuyển vậy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã sâu xa là hành chỗ nào?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã sâu xa hành thắng nghĩa đế, vì trong ấy không có tất cả phân biệt vậy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã sâu xa đối thắng nghĩa đế là lấy tướng chăng?

Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng lấy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã sâu xa, đối thắng nghĩa đế tuy chẳng lấy tướng mà hành tướng chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng hành.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Đại Bồ Tát ấy đối thắng nghĩa đế là hoại tướng chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng hoại.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi hiểu sao? Đại Bồ Tát ấy đối thắng nghĩa đế là khiển tướng chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng khiển.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi hành Bát nhã sâu xa, đối thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại tướng cũng chẳng khiển tướng, làm sao năng dứt được tưởng lấy tướng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Đại Bồ Tát này khi hành Bát nhã sâu xa chẳng khởi nghĩ này: “Ta nay hoại tướng, ta nay khiển tướng, dứt tưởng lấy tướng, cũng chẳng tu học đạo dứt tướng tưởng”. Nếu đại Bồ Tát khi tinh siêng tu Bồ Tát hạnh, tu đạo dứt tưởng, bấy giờ tất cả Phật pháp chưa viên mãn, nên bị rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác.

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện khéo léo rất thù thắng, mặc dù đối các tướng và tưởng lấy tướng rất biết tội lỗi mà chẳng hoại đoạn, mau chứng vô tướng. Vì sao? Vì tất cả Phật pháp chưa được viên mãn vậy. (Q. 550, TBBN) 

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói.

 

(Mộng hành)

 

Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào ở trong mộng tu ba pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đối với Bát nhã sâu xa có thêm lợi ích chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Đại Bồ Tát nào lúc thức, tu ba pháp môn giải thoát này, đối với Bát nhã sâu xa có thêm lợi ích. Người đó tu trong mộng cũng có thêm lợi ích. Vì sao? Vì đức Phật dạy mộng và tỉnh không khác nhau.

Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát nào đã đạt Bát nhã Ba la mật , thì lúc thức tu hành Bát nhã sâu xa đã gọi là an trụ vào Bát nhã sâu xa, mà đại Bồ Tát này trong mộng tu hành Bát nhã sâu xa cũng gọi là an trụ vào Bát nhã sâu xa. Ba pháp môn giải thoát đối với Bát nhã sâu xa có thể làm tăng thêm lợi ích cũng như vậy. Ý nghĩa khi mộng hoặc khi tỉnh không khuyết giảm.

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các thiện nam tử, thiện nữ ở trong mộng tạo nghiệp thì có tăng ích hoặc tổn giảm không?

Thiện Hiện đáp:

- Đức Phật dạy tất cả pháp đều như thấy trong mộng. Nếu trong mộng tạo nghiệp không tăng giảm, thì khi thức tạo nghiệp cũng không tăng giảm. Nhưng các nghiệp đã tạo trong mộng không tăng giảm, phải đến lúc thức nhớ tưởng phân biệt thì nghiệp đã tạo trong mộng mới làm cho nghiệp người đó thành tăng giảm.

Như người trong mộng giết mạng người khác, rồi đến lúc tỉnh giấc mơ, mới phân biệt nhớ nghĩ, tự vui mừng nên nghiệp ấy càng tăng. Nếu vô cùng ăn năn xấu hổ thì nghiệp ấy liền giảm.

Tôn giả Xá lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Có người khi còn thức, giết chết người khác, rồi sau đến lúc ở trong mộng, hoặc tự vui mừng, hoặc rất ăn năn, làm cho khi thức nghiệp ấy có tăng giảm không?

Thiện Hiện đáp:

- Cũng có tăng giảm, nhưng sự tăng giảm đó chẳng bằng khi thức, vì trong tâm đã biết rõ ràng hơn những nghiệp đã tạo.

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Không có đối tượng (sở duyên) thì dù suy nghĩ hay nghiệp đều không sanh được, phải có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh. Vậy còn ở trong mộng tư nghiệp dựa vào đâu mà sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy! Hoặc mộng hoặc tỉnh, mà không có đối tượng (sở duyên) thì tư nghiệp không sanh, cần có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh(1). Vì sao? Xá lợi Tử! Vì quan trọng là cần ở trong pháp thấy, nghe, hiểu biết phải có tuệ giác chuyển. Do đây phát sanh nhiễm hay tịnh. Nếu không thấy, nghe, hiểu biết, thì các pháp không có tuệ giác chuyển, cũng không nhiễm tịnh. Do đây nên biết, hoặc mộng hoặc tỉnh mà có đối tượng thì tư nghiệp mới sanh. Còn không có đối tượng thì tư nghiệp không phát sanh.

 

Tôn giả Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đức Phật dạy đối tượng đều lìa tự tánh. Như vậy, làm sao nói được có đối tượng thì tư nghiệp mới sanh? Không đối tượng thì tư nghiệp không phát sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Mặc dù các tư nghiệp và đối tượng đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp tướng phân biệt, trình bày theo thế tục nói có đối tượng. Do đối tượng này phát sanh các tư nghiệp. Như nói vô minh là duyên sanh hành, hành là duyên sanh thức v.v… đều do tự tâm chấp tướng phân biệt, nói có đối tượng nhưng chẳng thật có tánh.

Tôn giả Xá lợi Tử nói với Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào ở trong mộng thực hành bố thí, bố thí rồi hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát đó là thật đem bố thí hồi hướng Vô thượng Bồ đề của Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ Tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đại Bồ đề, chỉ còn một đời chắc chắn sẽ làm Phật, Ngài rất giỏi trả lời tất cả những câu hỏi, hiện đang ở trong hội này. Chúng ta nên thỉnh hỏi Ngài, bậc Bổ Xứ Từ Tôn(2) chắc chắn sẽ trả lời.

Khi ấy, Tôn giả Xá lợi Tử như lời Thiện Hiện nói, cung kính thỉnh hỏi Bồ Tát Từ Thị. Bồ Tát Từ Thị bảo :

- Thiện Hiện! Tôn giả đã nói Bồ Tát Từ Thị có thể trả lời nghĩa này. Vậy những gì gọi là Bồ Tát Từ Thị vì danh có thể đáp? Vì sắc có thể đáp? Vì thọ, tưởng, hành, thức có thể đáp? Vì hiển lộ có thể đáp? Vì hình tướng có thể đáp? Vì Không của sắc có thể đáp? Vì Không của thọ, tưởng, hành, thức có thể đáp được chăng? Vả lại, danh Từ Thị không thể đáp. Sắc cũng không thể đáp; thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Hiển cũng không thể đáp; hình cũng không thể đáp. Không của sắc cũng không thể đáp. Không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể đáp. Vì sao?

Vì tôi hoàn toàn không thấy có pháp năng đáp, sở đáp, chỗ đáp, thời đáp và do đây đáp cũng đều không thấy. Tôi hoàn toàn không thấy có pháp có thể nhớ, pháp được ghi nhớ, nơi ghi nhớ, lúc ghi nhớ và do đây ghi nhớ cũng đều không thấy. Vì sao? Vì tất cả pháp bản tánh đều Không, vô sở hữu, không hai, không khác, gạn tìm rốt ráo bất khả đắc.

Xá lợi Tử hỏi Bồ Tát Từ Thị:

- Pháp mà Tôn giả đã nói là như sở chứng chăng?

Đại Bồ Tát Từ Thị đáp:

- Pháp tôi đã nói chẳng phải như sở chứng. Vì sao? Vì pháp đã chứng của tôi không thể nói được.

Này Xá lợi Tử! Tôi hoàn toàn không thấy có pháp đã chứng tự tánh có thể đắc, như tâm đã nghĩ, như lời đã nói.

Này Xá lợi Tử! Tự tánh của các pháp chẳng phải thân có thể chạm được, chẳng phải dùng ngôn ngữ có thể biểu thị, không phải ý để nghĩ. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp không có tự tánh.

Khi ấy, Xá lợi Tử suy nghĩ: Bồ Tát Từ Thị có tuệ giác thật uyên thâm, ngày đêm tu hành Bát nhã sâu xa mới có thể nói như vậy.

Phật dạy:

- Xá lợi Tử! Như tâm ông đã nghĩ, Bồ Tát Từ Thị có tuệ giác thật uyên thâm, ngày đêm tu hành Bát nhã sâu xa mới nói được như vậy. Xá lợi Tử! Những điều ông nghĩ là đúng.

Này Xá lợi Tử! Ý ngươi nghĩ sao? Ông do pháp ấy mà thành A la hán, và thấy được pháp ấy có thể nói được không?

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát thực hành Bát nhã sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như vậy, không thể giảng nói.

Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát đó không nghĩ: Ta nhờ pháp này mà đã được thọ ký, đang được thọ ký và sẽ được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bồ Tát không nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy, đó là hành Bát nhã Ba la mật .

Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy, không sanh nghi ngờ rằng ta đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là đắc hay không đắc. Chỉ nghĩ thế này: Ta nỗ lực tinh tấn, nhất định sẽ đạt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì đã đối với sự giác ngộ được sức thù thắng. Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy, đó là hành Bát nhã Ba la mật .

Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát thực hành Bát nhã sâu xa, nghe pháp sâu xa không kinh khiếp, không sợ hãi, không hoảng hốt, không lo sợ, không chìm, không đắm. Đối với sự chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không sợ sệt, vì khẳng định tự biết ta sẽ chứng đắc.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát nếu ở nơi đồng trống vắng, có thú dữ ở cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này muốn làm lợi ích cho các hữu tình, nên xả bỏ tất cả những sở hữu trong ngoài, thường nghĩ thế này: Nếu có quỉ ác và thú dữ v.v... muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ thí cho để chúng được no đủ. Nhờ căn lành này làm cho ta bố thí Ba la mật  nhanh chóng được viên mãn, sớm gần Vô Thượng Bồ đề. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh như vậy, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong cõi Phật ta không có những loài bàng sanh, quỉ đói.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát đó nếu ở nơi đồng trống hoang vu, có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên xả bỏ tất cả những sở hữu trong ngoài, ưa tu những điều thiện, đối với thân mạng tài sản, không có sự tiếc nuối. Thường nghĩ thế này: Nếu các hữu tình đua nhau đến cướp đoạt tài sản của ta, ta phải cung kính vui mừng thí cho họ. Hoặc nhân cơ hội đó, họ hại thân ta, ta cũng không bao giờ sanh tâm sân hận, cũng chẳng phát sanh thân, khẩu, ý ác. Do nhân duyên này làm cho ta bố thí, tịnh giới, an nhẫn Ba la mật nhanh chóng được viên mãn, mau gần Vô Thượng Bồ đề. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh như vậy, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong cõi Phật ta không có những giặc cướp oán hại. Do đó, cõi Phật ta vô cùng thanh tịnh, cũng không còn các độc ác khác.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát này nếu ở nơi đồng trống hoang vắng, sa mạc khô cằn cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì pháp của Bồ Tát là như vậy, không có sợ hãi. Thường nghĩ thế này: Ta phải cầu học pháp dứt trừ khát ái cho các hữu tình, không nên đối với điều này sanh sợ hãi. Giả sử ta vì việc này mà đói khát đến chết, đối với các hữu tình nhất định không xả bỏ sự phát khởi tâm đại bi bố thí nước pháp nhiệm mầu. Lạ thay! Bạc phước thay! Các hữu tình ở nơi thế giới không có nước, ta phải siêng năng tu chánh hạnh này để khi chứng đắc Vô Thượng Bồ đề, trong cõi Phật ta không có những đồng trống, sa mạc hoang vu, cháy bỏng vì thiếu nước như vậy. Ta phải phương tiện khuyên nhủ các hữu tình tu phước nghiệp thù thắng. Bất cứ ở đâu ta đều làm cho họ đầy đủ tám nước công đức. Ta kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, phương tiện giáo hóa tất cả hữu tình, do nhân duyên này khiến ta tinh tấn Ba la mật , nhanh chóng được viên mãn, mau gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát này ở nước đói kém cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này mặc áo giáp công đức dõng mãnh tinh tấn, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, phát nguyện thế này: “Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong cõi Phật ta không có những đói kém như vậy. Các loài hữu tình đầy đủ vui sướng, tùy ý cần dùng những gì, nghĩ đến có ngay, như chư thiên trên trời nghĩ điều gì đều có thứ ấy. Ta phải phát khởi tâm kiên trì, tinh tấn dõng mãnh, làm cho các hữu tình phát nguyện đầy đủ: Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải, vật dụng giúp cho sự sống không bị thiếu thốn”.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát này gặp lúc tật dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này thường quán sát kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có pháp có thể gọi là người bệnh, tất cả đều Không, không nên sợ hãi. Ta phải siêng năng tu chánh hạnh, để khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các loài hữu tình trong cõi Phật ta, không có những tai nạn tật dịch, tinh tấn tu hành chánh hạnh thù thắng.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát này nghĩ: Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trải qua thời gian lâu mới được, không nên sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số đời trước tuy có vô lượng nhưng trong khoảng một niệm nhớ nghĩ, phân biệt, tích tụ sự thành tựu; kiếp số đời sau nên biết cũng như vậy. Thế nên, Bồ Tát ở trong ấy không nên sanh tưởng lâu mau mà cho rằng: Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trải qua thời gian lâu dài mới chứng đắc, liền sanh sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số đời trước, đời sau, dài ngắn đều là tâm tương ưng với một sát na.

Thế nên, này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát tuy nghe trải qua lâu dài mới chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng ở trong ấy quán sát chắc chắn kỹ càng, không sanh sợ hãi.

Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát nào đối với những sự thấy nghe, hiểu biết, pháp đáng sợ hãi mà không sanh sợ hãi, nên biết Bồ Tát đó mau chóng chứng sở cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nên, này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên theo giáo pháp chơn tịnh Không của Như Lai, mặc áo giáp công đức, tinh tấn tu học, đối với tất cả pháp không nên sợ hãi. (Q.550, TBBN)

 

Thích nghĩa:

 (1). “Hoặc mộng hoặc tỉnh, mà không có đối tượng thì tư nghiệp không sanh, cần có đối tượng thì tư nghiệp mới phát sanh”.

Câu này dịch giả dùng từ “đối tượng” để dịch sở duyên, nên đọc không thông lắm. Các hội trước dịch câu này như sau:

“Không sở duyên sự, hoặc nghĩ hoặc nghiệp đều chẳng sanh. Cần có sở duyên, nghĩ nghiệp mới khởi”.

(2). Bậc bổ xứ: Bậc là sắp hạng thứ bậc cao thấp; bổ xứ: Bổ nhiệm nơi nào. Bồ Tát từ Thất địa trở lên, căn lành thuần thục, hạnh nguyện vuông tròn như đức Thế Tôn khi vào đệ thất địa thì gặp Phật Nhiên Đăng thọ ký vào thời Hiền Kiếp, sẽ thành Phật, Phật hiệu là Năng Tịch, bổ xứ cõi nước tên Kham Nhẫn, để giáo huấn chúng sanh cõi này thoát khổ sanh tử.

 

Lược giải:

 

Phẩm này nêu ra hai vấn đề: 1. Nói về tâm và pháp, tâm sanh diệt và tâm Như Như; 2. “Hoặc mộng hoặc tỉnh, không có sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh, cần có sở duyên nghĩ nghiệp mới khởi”:

 

1. Vấn đề thứ nhất:

 

1- Tâm và Pháp: Bồ Tát chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao chẳng phải dùng sơ tâm hay hậu tâm để chứng đắc, cũng chẳng lìa sơ tâm hay hậu tâm để chứng đắc. Giống như người thắp đèn, chẳng phải ngọn lửa ban đầu đốt tim, cũng chẳng lìa ngọn lửa ban đầu mà có thể làm cháy tim; chẳng phải ngọn lửa sau đốt tim, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau mà có thể làm cháy tim. Đại Bồ Tát từ sơ phát tâm tu hành Bát nhã Ba la mật dùng phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành được tăng trưởng viên mãn, có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Thế nào là sơ tâm? Thế nào là hậu tâm? Lúc mê là Thái tử Tất Đạt Đa, ngộ rồi thì thành Thích Ca Mâu Ni Phật. Mê cũng là tâm đó mà ngộ rồi cũng tâm đó. Chỗ nào là sơ tâm? Chỗ nào là hậu tâm? Tâm phát nguyện không phải do ngọn đuốc Chánh pháp đầu tiên thúc đẩy, cũng không lìa ngọn đuốc đầu tiên. Tâm phát nguyện đó cũng không phải do ngọn đuốc cuối cùng thúc đẩy, cũng không lìa ngọn đuốc cuối cùng. Có nhất tâm thì có nhất thiết pháp, nhất thiết pháp đó là Bát Nhã, không có pháp nào mà không do Bát Nhã nhiếp phục. Bồ Tát nhất tâm tu hành Bát Nhã thì chắc chắn được Vô Thượng Bồ đề.

 

2- Tâm sanh diệt: Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, quyển thứ 17, phẩm 19, “Nghĩa Sâu Xa”, Phật hỏi Tu Bồ Đề:

“Ý ngươi thế nào? Nếu tâm đã diệt, tâm này có sinh lại không?

Tu Bồ Đề nói: Không, Thế Tôn!

Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu tâm sinh rồi thì đó có phải tướng diệt không?

Tu Bồ Đề nói: Là tướng diệt.

Phật bảo Tu Bồ Đề: Pháp tướng diệt đó có thể diệt không?

Tu Bồ Đề nói: Không thể, Thế Tôn!

Phật bảo Tu Bồ Đề: Tâm đó có pháp có thể sinh, có thể diệt không?

Tu Bồ Đề nói: Không, Thế Tôn! Tâm không có pháp có thể sinh, cũng không có pháp có thể diệt.

Phật bảo Tu Bồ Đề: Tức tâm sinh pháp và tâm diệt pháp, hai tâm này có thể diệt không?

Tu Bồ Đề nói: Không, Thế Tôn!”

 

Tâm chơn như là thể (giống như nước), tâm sanh diệt là tướng (giống như sóng). Tướng thì có nhiễm có tịnh, có sanh có diệt. Nhưng dù có nhiễm có tịnh, có sinh có diệt, thể chơn tâm vẫn thường hằng bất biến. Vì vậy, Khi Thế Tôn hỏi Tu Bồ Đề: “Tức tâm sinh pháp và tâm diệt pháp, hai tâm này có thể diệt không? Tu Bồ Đề liền trả lời rằng: Không! Thế Tôn!” Vì sao?

Vì hai tâm này cùng nằm trong cùng một Như Lai tạng tâm, nên tùy sự huân tập mà sanh khởi, nhưng thể vẫn là một. Đó là chủ thuyết “bản hữu” hay “tu sanh”. Bản hữu thì bản tánh của chúng sanh vốn vô cấu, ngầm chỉ cho tâm Bồ đề thanh tịnh vô hạn lượng vốn sẵn có của tất cả chúng sinh từ trước khi cha mẹ sanh, không có cao thấp, uế tịnh khác nhau; còn nếu nói bản tánh của chúng sanh là do tu hành mà có thì gọi là tu sanh hiển đắc tức phải nương vào phạm hạnh tu hành để đoạn trừ vọng chấp.

 

3- Tâm Như Như:

Phẩm “Xảo Phương Tiện”, quyển 330, Hội thứ I, ĐBN. Phật lại hỏi:

“Thiện Hiện! Theo ý ngươi, Như như tức là tâm chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, rời Như như có tâm chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, tâm tức Như như chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật hỏi: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, rời tâm có Như như chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, Như thấy Như chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.

Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, nếu đại Bồ Tát năng hành như thế, là hành Bát nhã thậm thâm chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Nếu đại Bồ Tát năng hành như thế là hành Bát nhã thậm thâm. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, nếu Bồ Tát năng hành như thế là hành chỗ nào? Thiện Hiện đáp rằng: Nếu đại Bồ Tát năng hành như thế thì hoàn toàn không có chỗ hành. Vì sao? Vì nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thì không có tâm hành, không có sở hành. Vì trụ trong Như đều không hiện hành và chỗ hiện hành vậy.

Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, đại Bồ Tát hành Bát nhã là hành ở chỗ nào? Thiện Hiện đáp rằng: Đại Bồ Tát hành Bát nhã là hành ở trong thắng nghĩa đế, trong đây tâm hành và sở hành đều vô sở hữu, vì năng lấy bị lấy chẳng thể được vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, đại Bồ Tát hành Bát nhã là hành trong thắng nghĩa đế, tuy chẳng lấy tướng mà hành tướng chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Theo ý ngươi, đại Bồ Tát tu hành Bát nhã là hành trong thắng nghĩa đế vì hoại tướng mà hành hay hoại tướng tưởng mà hành chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy.

Phật bảo: Thiện Hiện! đại Bồ Tát nầy khi tu hành Bát nhã vì sao chẳng hoại tướng, cũng chẳng hoại tướng tưởng? Thiện Hiện đáp rằng: Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã, chẳng nghĩ: Ta sẽ hoại tướng, cũng chẳng nghĩ: Ta sẽ hoại tướng và hoại tướng tưởng, cũng chẳng liền nghĩ: Ta sẽ hoại vô tướng và hoại vô tướng tưởng. Vì đối tất cả pháp không có phân biệt”.

Nếu không phân biệt thì không chấp, nếu không chấp thì tâm như như bất động.

 

2. Vấn đề thứ hai:

 

Kế đến Kinh nói về nguyên nhân của tạo tác và hậu quả của nó, tức nói năng duyên, sở duyên và nghiệp quả. Vì có năng s đối đãi nên sanh tâm hành và kết quả là thọ nghiệp. Chủ thể nhận thức là năng duyên (tức tâm vương và tâm sở), còn khách thể (đối tượng của nhận thức, tức trần cảnh) là sở duyên. Tâm vương và tâm sở không tự phát sanh (suy nghĩ và hành động), phải nhờ có chỗ nương vịn mới có thể phát sanh tác động. Chỗ nương vịn thì gọi là sở duyên.

Phẩm “Tướng Không”quyển 516 và phẩm “Tham Hành” quyển 563, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch cùng một tư tưởng với đoạn Kinh nầy, nói: “Có sở duyên nghĩ nghiệp (tâm nghĩ tưởng, hành động tạo tác) khởi, không sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh. Vậy, trong đêm nằm mộng thấy mình tạo nghiệp, nghiệp đó cũng không tăng không giảm, chỉ lúc tỉnh phân biệt phát sanh vui mừng như người nằm mộng thấy mình giết được kẻ thù thì vui mừng, những nghĩ tưởng như vậy là tạo nghiệp nên tăng ích. Vì vậy, Tu Bồ đề mới giải thích cho Xá Lợi Phất:Hoặc mộng hoặc tỉnh không có sở duyên nghĩ nghiệp chẳng sanh, cần có sở duyên nghĩ nghiệp mới khởi. Vì sao? Xá Lợi Phất! Ở trong pháp thấy nghe giác biết, có giác huệ chuyển, do đấy khởi nhiễm, khởi tịnh. Nếu không có pháp thấy nghe giác biết, không giác huệ chuyển, cũng không nhiễm tịnh. Do đây nên biết hoặc mộng hoặc tỉnh, có sở duyên nghĩ nghiệp khởi, cho đến không có sở duyên nghĩ nghiệp chẳng khởi”(1).

Nếu vậy, một người ngồi trong phòng trống thiền định, niệm niệm tuông đến không ngừng, nào ác nào thiện, nào xấu nào tốt…thì có coi đó là nghĩ nghiệp sanh hay không? Huệ mạng Tu Bồ Đề trả lời: Mặc dù các nghĩ nghiệp và việc sở duyên tự tánh đều không, mà do tự tâm làm tướng phân biệt, nên nói nghĩ nghiệp có sở duyên sanh, nếu không nghĩ nghiệp chẳng sanh”(2). Nghĩ nghiệp không, sở duyên cũng không, do tự tâm phân biệt nên mới “có chuyện”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tự tâm mà trách tự tâm, chân tâm biến thành huyễn”. Cổ đức có câu: “Cuồng tâm chẳng nghỉ (chẳng chịu dừng), nghỉ tức Bồ đề”.

Theo thế pháp không thể kết tội những nghĩ tưởng manh nha trong nội tâm. Tội chỉ thành tựu khi phát ra hành động cụ thể.

Tôn giáo, cũng như luân ý, đạo đức… trên hai phương diện vật chất và tinh thần, đòi hỏi một sự trong sáng tuyệt đối. Những gì được coi là tội lỗi không cần phải thể hiện bằng hành động tạo tác, nó chỉ cần thoáng qua trong tâm tưởng. Giới là hàng rào ngăn chặn những tội lỗi xâm nhập từ bên ngoài. Giới có nặng có nhẹ, có khai, có giá(3)tùy từng chúng(4). Bồ Tát giới là giới luật khó khăn, tế nhị nhất không những dùng ngăn chặn những tội lỗi từ bên ngoài mà còn ngăn chặn những tội lỗi manh nha từ nội tâm. Hơn thế nữa những việc cần phải làm mà không làm như cứu người sắp chết đuối, mà đứng yên nhìn cũng bị xem là có tội. Có sở duyên hay không, không cần biết, một khi móng khởi một niệm tham, sân hay si (tâm vương) hoặc suy nghĩ hành động trái với tàm và quý (tự mình xấu hổ hay hổ thẹn với kẻ khác (tâm sở) hay thụ động (phải làm mà không làm) thì phải lập đàn sám hối hay quì hương tùy theo tội nặng hay nhẹ!

Lưu ý: Phẩm này của Tiểu Bản Bát nhã do Huyền Trang dịch không ghi đầy đủ phần hạnh nguyện của Bồ Tát như Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, quyển thứ 18, phẩm 19 “Nghĩa Sâu Xa” do Thí Hộ dịch hay Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, quyển 19, phẩm “Mộng Hành” do La Thập dịch. Nếu quý vị không có hai quyển Kinh trên thì có thể đọc lại phẩm “Hạnh Nguyện”, phần đầu quyển 331, Hội thứ I, ĐBN hay phẩm “Hạnh Nguyện”, phần giữa quyển 451, Hội thứ II, ĐBN trong Tổng luận này để bổ túc cho phần thiếu sót nói trên.

Thích nghĩa cho phần lược giải:

(1). Năng duyên và sở duyên: Chủ thể nhận thức là năng duyên, còn khách thể (đối tượng) của nhận thức là sở duyên, nói khác tâm vương và tâm sở gọi là năng duyên, trần cảnh gọi là sở duyên. Tâm vương và tâm sở không tự phát sanh, phải nhờ có chỗ nương gá mới có thể sanh tác động. Chỗ nương gá gọi là sở duyên.

(2). Mặc dù các tư duy, tạo tác và pháp sở duyên tự tánh đều không, nhưng do tự tâm thủ tướng phân biệt nên nói tư duy tạo tác có sở duyên mới sanh. Nếu không có sở duyên, thì tư duy và tạo tác không khởi. Tư duy phân biệt trở thành chấp, chỗ chấp ấy trở thành sở duyên, nên nói nhờ đó tư duy tạo tác sanh khởi, giống như dây leo nhờ dậu mới chuyền leo mãi được.

(3). Có khai, có giá: Có chỗ cho phép, có chỗ cấm chỉ.

(4). Chúng: Chỉ hàng đệ tử Phật kể cả xuất gia hoặc tại gia. Có 5 chúng là Ưu bà tắc, Ưu ba di (thụ ngũ giới); Tỳ kheo (còn gọi là sa môn hay bí sô: Thọ giới Cụ túc 250 giới), Tỳ kheo ni (thọ giới Cụ túc 348 giới); Thức xoa ma ni cũng gọi Thức xoa ma na, chỉ cho Ni chúng học pháp nhưng chưa thọ giới Cụ túc. Bảy chúng là kể thêm Sa di và Sa di ni: Thụ 10 giới trước khi thụ giới Cụ túc./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com