- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
III. PHẨM "HIỂN TƯỚNG"
Phần đầu quyển 567, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương phẩm 2: Hiển Tướng, Kinh TTVBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
(Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?)
Quyển thứ 567
Phật bảo Tối Thắng:
- Thiên vương nên biết! Rộng lớn cùng khắp khó đo lường, đó là tướng đất. Bát Nhã sâu xa cũng như thế. Vì sao? Vì rộng lớn, cùng khắp như thế nên khó suy lường.
Thiên vương nên biết! Tất cả cỏ cây đều nương đất mà sanh trưởng, Bát Nhã sâu xa cũng như thế, có thể sanh trưởng tất cả pháp lành.
Thiên vương nên biết! Ví như đại địa tăng chẳng mừng, giảm cũng chẳng buồn, vì lìa ngã, ngã sở, không hai tướng vậy. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, khi khen chẳng tăng, khi chê chẳng giảm, vì lìa ngã, ngã sở, không hai tướng vậy.
Lại như đại địa, thế gian đi lại, đặt chân cất bước đều nương đó. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, hoặc cầu cõi thiện, hoặc hướng Niết bàn, đều nương đó.
Lại như đại địa sinh ra các thứ báu, Bát Nhã sâu xa cũng như thế, sanh ra các thứ công đức thế gian.
Lại như đại địa, vi trần, kiến, ruồi, muỗi và các việc khổ chẳng làm dao động. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, lìa ngã, ngã sở, hoàn toàn không phân biệt, chẳng thể lay động.
Lại như đại địa, hoặc nghe tiếng Sư tử, rồng, voi v.v... hoàn toàn không kinh sợ. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, chẳng hề e sợ tất cả thiên ma và ngoại đạo v.v... Vì sao? Vì chẳng thấy có người, chẳng thấy có pháp, tự tánh là Không vậy.
Thiên vương nên biết! Ví như nước lớn từ trên cao đổ xuống, là chỗ nương về của loài thủy tộc. Bát Nhã cũng như thế, từ chơn pháp giới lưu chuyển vào thế gian, làm chỗ nương tựa của tất cả pháp lành.
Lại như nước nhiều thì thắm nhuần cây cỏ, sanh ra hoa trái. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, thắm nhuần các Đẳng trì, sanh pháp trợ đạo, thành Nhất thiết trí, đắc quả Phật pháp, lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.
Lại như nước nhiều bứt rể cỏ cây, làm cho nghiêng đổ, trôi theo dòng nước. Bát Nhã cũng như thế, có thể diệt tận gốc tất cả tập khí phiền não, tà kiến vĩnh viễn chẳng còn sanh.
Lại như nước, tánh vốn trong sạch, không nhơ, không đục. Bát Nhã cũng như thế, thể tánh không phiền não nên gọi là trong sạch, có thể lìa các phiền não nên gọi là không nhơ; chỉ có một tướng, chẳng tướng khác nên gọi là không đục. Như người mùa Hạ nóng bức gặp được nước mát mẻ; hữu tình bị phiền não thiêu đốt, được nghe Bát Nhã như thế, chắc chắn được thanh lương, lìa các nhiệt não. Như người bị khát được uống nước, liền hết khát. Cầu pháp xuất thế được Bát Nhã sâu xa là đạt được ước nguyện.
Lại như nước ao suối sâu thẳm khó vào, cũng như thế, cảnh giới Bát nhã Ba la mật của chư Phật sâu xa khó vào.
Lại như chỗ hầm hố, nước đều ngang nhau, Bát Nhã cũng như thế, đối với các bậc Độc giác, Thanh văn và phàm phu đều bình đẳng.
Lại như nước sạch, gột rửa nhơ nhớp, làm cho được sạch sẽ. Như vậy, Bồ Tát thông đạt Bát Nhã, lìa các phiền não liền được thanh tịnh. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa, tự tánh thanh tịnh, lìa các hoặc vậy.
Thiên vương nên biết! Ví như lửa lớn, tuy đốt tất cả cây cối, dược thảo nhưng chẳng nghĩ mình đốt tất cả các vật. Bát Nhã cũng như thế, dù có thể diệt hết tất cả tập khí phiền não nhưng không nghĩ mình diệt hết.
Lại như lửa nhiều có thể nấu chín tất cả vật loại. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, thành thục tất cả Phật pháp.
Lại như lửa mạnh có thể làm khô ráo các vật ẩm ướt. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, đều có thể làm khô cạn các dòng chảy mãnh liệt của lậu hoặc, làm cho vĩnh viễn không phát khởi.
Lại như đống lửa ở đỉnh núi tuyết, dù có thể chiếu soi xa một do tuần, cho đến có thể chiếu mười do tuần mà không nghĩ mình chiếu xa. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, tuy soi sáng Thanh văn, Độc giác nhưng chẳng nghĩ mình soi sáng cho họ.
Lại như cầm thú, ban đêm thấy lửa sáng sợ hãi tránh xa; phàm phu, Thanh văn, Độc giác phước mỏng, nếu nghe Bát Nhã sợ hãi xa lìa. Nghe được tên của Bát Nhã sâu xa còn khó, huống là có thể tu học.
Như đêm đi xa, lạc mất đường chính, nếu thấy lửa sáng, lòng rất vui mừng, biết có xóm làng nên mau qua tới đó, đến nơi an ổn, hoàn toàn không còn sợ hãi.
Chốn sinh tử mênh mông, người có phước đức, nếu nghe Bát nhã Ba la mật lòng rất vui mừng, thọ trì, đọc tụng thì lìa hẳn phiền não, tâm được an vui.
Như lửa ở thế gian, sang hèn đều như nhau. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, Thánh giả và phàm phu đều bình đẳng như nhau.
Như Bà la môn và Sát đế lợi đều cúng dường lửa, chư Phật Bồ Tát đều cúng dường Bát Nhã sâu xa.
Lại như đốm lửa có thể thiêu đốt Tam thiên đại thiên thế giới. Bát nhã Ba la mật cũng như thế, nếu nghe một câu thì có thể đốt cháy vô lượng phiền não.
Thiên vương nên biết! Ví như gió có thể làm cho vạn vật tăng trưởng, Bát Nhã sâu xa cũng như thế, có thể làm cho tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian tăng trưởng.
Lại như gió dữ, nếu mạnh thì có thể phá diệt tất cả vật loại. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, nếu tu vững mạnh, có thể phá diệt tất cả sanh tử phiền não.
Lại như gió nhiều có thể làm cho khí nóng trở nên mát mẻ. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, có thể làm cho hữu tình bị phiền não thiêu đốt, chứng được Niết bàn thanh lương thường lạc.
Lại như gió to di chuyển chẳng dừng, Bát Nhã cũng như thế, đối với tất cả pháp đều không có chỗ trụ.
Thiên vương nên biết! Bát Nhã sâu xa lìa bẩn không dính, tịch tịnh, có vô lượng, vô biên trí tuệ, bình đẳng, thông đạt thật tánh các pháp, như tánh hư không rộng lớn không có chỗ trụ, lìa tướng cảnh giới, vượt tầm tứ v.v... tâm và tâm sở không phân biệt, không sanh, không diệt, vì tánh xả ly vậy.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, lợi lạc hữu tình, thế gian hiếm có, giống như mặt trời mặt trăng, tất cả chúng sanh đều thọ dụng.
Lại ví như mặt trăng có thể trừ nóng bức; Bát nhã Ba la mật cũng vậy, có thể trừ tất cả nhiệt độc phiền não.
Lại như trăng sáng, thế gian ưa nhìn, Bát Nhã sâu xa cũng như thế, được tất cả Thánh Hiền muốn thấy.
Lại như trăng sáng mỗi ngày một tăng trưởng, các chúng Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc sở cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dần dần tăng trưởng.
Lại như trăng hạ tuần, mỗi ngày một mờ dần, các chúng Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, phiền não, thùy miên dần dần giảm hết.
Lại như trăng tròn đầy, các Bà la môn, Sát đế lợi v.v... đều khen ngợi; nếu thiện nam, thiện nữ hành sâu Bát nhã Ba la mật thì thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều khen ngợi.
Lại như trăng vận hành khắp bốn châu, Bát Nhã sâu xa cũng như thế, biến khắp tất cả dù sắc, dù tâm không nơi nào không cùng khắp.
Lại như trăng đẹp, thường tự trong sáng, Bát Nhã cũng như thế, tánh vốn thanh tịnh, thường tự trang nghiêm. Vì sao? Bản tánh ly nhiễm, không sanh, không diệt biến khắp tất cả pháp, vì tánh xả ly(1) vậy.
Ví như mặt trời, tuy phá tan các sự tối tăm nhưng chẳng nghĩ ta làm. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, tuy phá tất cả thùy miên từ vô thỉ nhưng chẳng nghĩ ta phá.
Lại như sức nóng của mặt trời, tuy làm cho hoa sen nở nhưng chẳng nghĩ ta làm cho hoa nở. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, dù khai tâm Bồ Tát nhưng chẳng nghĩ ta khai tâm họ.
Lại như mặt trời đẹp, tuy chiếu khắp mười phương mà chẳng nghĩ ta chiếu. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, dù chiếu khắp vô biên nhưng không có tướng chiếu.
Như thấy tướng sáng đỏ rực, hiện ở phương Đông thì chẳng lâu vầng mặt trời sẽ xuất hiện. Nếu nghe Bát Nhã sâu xa thì nên biết là người đó cách Phật chẳng xa.
Như các tín nữ ở châu Thiệm bộ, thấy mặt trời mọc rất hoan hỷ. Nếu khi thế gian có danh tự Bát nhã Ba la mật xuất hiện, tất cả Thánh Hiền đều rất hoan hỷ.
Lại như mặt trời xuất hiện, ánh sáng của trăng và sao biến mất. Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa thì công đức của Nhị thừa ngoại đạo đều tiêu tan.
Lại như mặt trời mọc mới thấy chỗ cao thấp của hầm hố, nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã, thế gian mới biết đạo chánh tà. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa tự tướng bình đẳng, không sanh không diệt, vì tánh xả ly vậy.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã phần nhiều tu hạnh Không, không chấp trước, tu tập đạo sáng suốt, diệt trừ ám chướng tối tăm, xa lìa bạn xấu, gần gũi chư Phật, tâm tâm nối nhau, niệm Phật không dứt, thông suốt bình đẳng, thuận theo pháp giới; mặc dù thần thông du hý khắp cõi nước trong 10 phương mà thân an trụ ở bản xứ đều chẳng lay động, quán các Phật pháp giống như hiện thấy, tuy ở thế gian mà chẳng nhiễm pháp thế gian, như chỗ bùn lầy sinh ra hoa sen.
Như thế, Bồ Tát tuy ở sanh tử, nhờ năng lực phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa nên chẳng nhiễm đắm. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa không sanh, không diệt, tự tướng bình đẳng, chẳng thấy, chẳng chấp trước, vì tánh xả ly vậy.
Lại như hoa sen giọt nước chẳng đọng; cũng thế Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chẳng còn một mảy ác niệm.
Lại như hoa sen, sanh chỗ nào hương khí đều thơm tho. Cũng như thế, Bồ Tát hành Bát Nhã hoặc tại nhơn gian hoặc ở trên trời, xóm làng, thành ấp… đều đầy đủ hương giới.
Lại như hoa sen bẩm tánh trong sạch, Bà la môn v.v... đều quý mến. Cũng như thế, Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, trời, rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược v.v... Bồ Tát, chư Phật đều kính mến.
Lại như hoa sen khi sắp nở thường làm vui lòng mọi người; cũng như thế, Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật mỉm cười trước khi nói, mọi người hoan hỷ.
Lại như hoa sen, trong giấc mộng được thấy cũng là tướng lành. Chư thiên v.v... cho đến trong giấc mộng nghe thấy Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng là điềm tốt lành, huống là thật thấy, thật nghe.
Lại như hoa sen, khi mới bắt đầu sanh ra, nhơn phi nhơn v.v... đều yêu mến giữ gìn. Cũng như thế, Bồ Tát mới học Bát nhã Ba la mật, chư Phật, Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Thiên v.v... đều hộ vệ.
(Ba pháp thanh tịnh của Như Lai: Thân, ngữ, ý đều thanh tịnh)
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, phát khởi tâm như thế này: Ta phải đúng như lý, thông đạt tất cả Ba la mật, giáo hóa hữu tình, viên mãn Phật pháp, ngồi tòa Kim cang dưới cội Bồ đề, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp đủ mười hai hành tướng vi diệu. Sa môn, Bà la môn v.v... Thiên ma, Đế Thích, Phạm Thiên ở thế gian chẳng thể chuyển được. Ta hóa độ tất cả hữu tình ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, bình đẳng cứu vớt ra khỏi biển sanh tử, đưa vào Bát nhã Ba la mật, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ; người muốn thấy Phật, làm cho được thấy Phật, rống tiếng Sư tử, thần thông du hý, khen ngợi công đức của Phật, làm cho mọi người khát ngưỡng, tâm hoàn toàn thanh tịnh, chẳng lay động, ý không dua nịnh, xa lìa tà niệm.
Đó gọi là chẳng nghĩ pháp Nhị thừa, dứt các thùy miên, không còn phiền não. Thân không làm việc dối trá, xa lìa tà vạy. Miệng không nói dối. Thọ ơn thường nhớ nghĩ, ơn nhẹ đền nặng. Tâm chẳng ôm ấp giận hờn. Miệng thường nói lời dịu dàng. Tu tập tâm thanh tịnh như thế thì chẳng thấy năng hành và pháp sở hành không hai, không khác, vì lìa tự tánh.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tin hiểu ba pháp thanh tịnh của Như Lai, nghĩa là các Bồ Tát tư duy:
- Trong Khế Kinh dạy, thân thanh tịnh của Như Lai gọi là pháp thân. Thân hoàn toàn vắng lặng, thân không gì bằng, thân vô lượng, thân bất cộng, thân kim cang. Đối với những thân này, chắc chắn tâm không nghi ngờ. Đó gọi là tin hiểu thân Như Lai thanh tịnh.
- Lại nữa, suy nghĩ trong Khế Kinh dạy: ngữ thanh tịnh của Như Lai như thọ ký cho phàm phu thành Phật, cũng thọ ký cho Bồ Tát thành Phật, tin lời như thế, lý lẽ chẳng trái nhau. Vì sao? Vì Như Lai lìa hẳn tất cả lỗi lầm, dứt các thùy miên, không còn phiền não, vắng lặng thanh tịnh. Nếu Thiên ma, Phạm Thiên và các Sa môn, Bà la môn v.v... có thể tìm được lỗi nơi ngữ nghiệp của Như Lai thì không có lẽ đó. Đó gọi là tin hiểu lời nói thanh tịnh của Như Lai.
- Lại nữa, suy nghĩ trong Khế Kinh dạy: Ý của Như Lai thanh tịnh. Tâm suy nghĩ của chư Phật Thế Tôn, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, trời, người và hữu tình khác không thể biết. Vì sao? Vì tâm Như Lai sâu xa, khó vào, không phải cảnh của giác quán, lìa cảnh suy lường, không có ngằn mé, giống như hư không. Tin biết như thế, tâm chẳng nghi ngờ, đó gọi là tin hiểu ý của Như Lai thanh tịnh.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa suy nghĩ: Như Phật đã dạy, các đại Bồ Tát vì các hữu tình gánh vác gánh nặng kiên cố không lui bại mà chẳng sợ, chẳng mệt, thứ lớp tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật, thành tựu pháp Phật không chướng, không ngại. Pháp bất cộng vô biên không gì bằng, lời nói quyết định, tánh nó dõng mãnh, thành tựu sự nghiệp to lớn của Như Lai. Các đại Bồ Tát này đối với sự nghiệp kia không nghi không ngờ, hết lòng tin nhận.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, nghĩ: Như Phật đã dạy, các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa cuối cùng an tọa tòa Bồ đề vi diệu, có thể đắc trí thông thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm, lậu tận, vô ngại, thanh tịnh; ngay trong một niệm dùng trí bình đẳng thông suốt ba đời, quán sát đúng như thật tất cả thế gian: Hữu tình như thế đầy ạnh ác về thân, hạnh ác về ngữ, hạnh ác về ý, hủy báng Thánh hiền; do tà kiến, tạo tà nghiệp, thân hoại mạng chung sẽ đọa nẻo ác. Đầy đủ diệu hạnh của thân, diệu hạnh của lời nói, diệu hạnh của ý, khen ngợi Thánh hiền; do chánh kiến, tạo chánh nghiệp, thân hoại mạng chung sẽ sanh nẻo lành.
Quán sát đúng như thật cõi hữu tình rồi nghĩ: Khi xưa ta phát nguyện hành Bồ Tát đạo, tự giác, giác tha, nguyện này phải viên mãn. Các Bồ Tát này ở trong việc đó không nghi, không ngờ, đúng như thật tin nhận.
Thiên vương nên biết! Chỗ các đại Bồ Tát thành Phật gọi là giác xứ, vì có thể tự giác nên gọi là Chánh giác; có thể giác ngộ cho hữu tình nên gọi là Chánh biến giác.(2)
Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này hành Bát Nhã sâu xa tin biết Như Lai xuất hiện ở đời làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.
(Chư Phật, chư Bồ Tát thuyết pháp như thế nào?)
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nghe thuyết Nhất thừa hết lòng tin nhận. Vì sao? Vì những điều chư Phật nói ra chơn thật chẳng hư vọng. Các thừa khác đều từ Phật thừa mà ra. Như châu Thiệm bộ tuy có các thành ấp, xóm làng… nhưng đều thuộc về châu này. Cũng như thế, các thừa khác tuy có các danh tướng sai khác cũng thuộc về Phật thừa.
Các Bồ Tát này lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn phương tiện thiện xảo nên các pháp môn thuyết ra đều như thật, chẳng hư vọng. Vì sao? Vì chư Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Tuy nói ba thừa mà thật chỉ có một thừa.
Các Bồ Tát này lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn phàm thuyết pháp âm thanh sâu xa chơn thật, chẳng dối. Vì sao? Vì trời Đế Thích, Phạm Thiên v.v... có ít công đức lại còn có thể phát ra âm thanh sâu xa, huống là Như Lai vô lượng ức kiếp chứa nhóm công đức mà âm thanh chẳng sâu xa?
Các Bồ Tát này lại nghĩ: Như Lai thuyết pháp chẳng trái với căn cơ của chúng sanh, bậc thượng, trung, hạ đều được thành tựu. Mỗi chúng sanh đều cho là Phật nói cho riêng mình, nhưng Phật xưa nay không thuyết, không dạy. Các Bồ Tát đối với việc ấy không nghi ngờ, hết lòng tin hiểu.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đạt được tâm vi tế, nghĩ: Thế gian bốc cháy, là đống lửa lớn; đó là lửa tham dục, khói sân hận, bồ hóng ngu si. Làm sao khiến tất cả chúng sinh đều được ra khỏi. Nếu có thể thông suốt các pháp đều bình đẳng, không có tâm nhiễm đắm thì gọi là ra khỏi. Biết đúng như thật, như huyễn, như mộng v.v... khéo soi nhân duyên, mà không phân biệt.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, nghĩ: Các pháp không có nguồn gốc mà có nghiệp quả. Chư Phật, Bồ Tát dạy điều gì, ta nên hiểu ý; hiểu ý rồi suy lường nghĩa; suy lường nghĩa rồi liền thấy chơn thật; thấy chơn thật rồi cứu độ hữu tình.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, phương tiện thiện xảo thuyết pháp cho chúng sanh, nghĩa là thuyết các pháp không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự sanh trưởng, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, người làm, người thọ, người biết, người thấy. Các pháp như thế là Không, vô sở hữu, chẳng tự tại, vì hư vọng phân biệt, nhân duyên hòa hiệp nên không sanh mà giống như sanh.
Thiên vương nên biết! Nếu nói các pháp không có ngã, hữu tình… cho đến cái thấy, là đúng như lý mà nói. Nếu nói các pháp không, vô sở hữu, cho đến giống như sanh, là đúng như lý mà nói.
Thiên vương nên biết! Vì là người nói pháp là tùy thuận pháp tướng, đó gọi là đúng như lý. Nếu những điều nói ra chẳng trái với pháp tướng, cùng với pháp tương ưng có thể nhập bình đẳng, hiển bày nghĩa lý, gọi là khéo nói.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, đắc biện tài vô ngại, nghĩa là hoặc biện tài không vướng mắc, biện tài không cùng tận, biện tài tương tục, biện tài không đứt đoạn, biện tài không khiếp nhược, biện tài không kinh sợ, biện tài riêng biệt, biện tài trời người kính trọng, biện tài không ngằn mé.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đắc biện tài thanh tịnh, nghĩa là biện tài chẳng quát tháo, biện tài chẳng rối loạn, biện tài chẳng sợ hãi, biện tài chẳng kiêu mạn, biện tài nghĩa đầy đủ, biện tài vị đầy đủ, biện tài trôi chảy, biện tài đúng thời phần.
Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, lìa sự sợ hãi uy đức của đại chúng nên biện tài chẳng quát tháo, trí tuệ vững vàng sáng rõ, chẳng sợ nên biện tài chẳng rối loạn. Bồ Tát ở giữa chúng như Sư tử chúa, chẳng sợ hãi, nên biện tài chẳng sợ hãi, lìa phiền não nên biện tài không kiêu mạn, chẳng nói vô nghĩa, nói khế hợp với pháp tướng nên biện tài nghĩa đầy đủ. Hiểu rõ thơ, luận, biết rõ văn tự nên biện tài vị đầy đủ. Nhiều kiếp chứa nhóm, tập luyện ngôn ngữ nên biện tài chẳng vung vít. Thuyết pháp như thế hoàn toàn thuận ba thời, nghĩa là nóng, mưa, lạnh, thuyết không rối loạn; cũng thuận ba phần, nghĩa là đầu, giữa, cuối, nói chẳng xen tạp. Do đó nên nói biện tài đúng thời phần.
Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, các biện luận đã đắc được làm cho mọi người hoan hỷ, nghĩa là tùy theo sự giáo hóa, phần nhiều là dùng ái ngữ, trước khi nói mỉm cười tươi vui. Lời nói có nghĩa, luôn đúng với sự thật. Nói ra những lời gì chẳng khinh dễ người. Lời nói quả quyết, nói các việc vui. Dùng lời nhỏ nhẹ, dịu dàng làm cho mọi người vui mừng. Dung nhan khoan thai, sắc thái ôn hòa, khiến người gần gũi; theo nghĩa mà nói, người nghe tỏ ngộ; vì lợi ích nên đúng pháp tướng mà nói, bình đẳng mà nói, tâm không thiên lệch, phe nhóm, xa lìa lời nói hư vọng, lời nói quyết định, tùy theo căn tánh mọi người nói các việc vui. Do nhân duyên này làm cho mọi người vui mừng.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, thành tựu oai đức lớn. Vì sao? Vì kẻ không pháp khí thì chẳng được nghe.
Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này tâm bình đẳng, tại sao chẳng vì kẻ không pháp khí mà nói?
Phật bảo Thiên vương:
- Thiên vương! Bát Nhã tánh bình đẳng, chẳng thấy có pháp khí, chẳng thấy không pháp khí, chẳng thấy năng thuyết, chẳng thấy sở thuyết. Hữu tình hư vọng thấy có pháp khí không pháp khí, thấy có thuyết không thuyết. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa không sanh, không diệt, không có tướng phân biệt. Giống như hư không đầy khắp tất cả, hữu tình cũng như thế, không sanh, không diệt. Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai cũng như thế. Pháp không danh tự, giả lập danh tự, gọi là hữu tình, là Bát Nhã; có năng thuyết, có sở thuyết, có người nghe và có pháp được nghe. Trong thắng nghĩa đế, đều đồng một tướng, gọi là vô tướng, hoàn toàn không sai khác. Các Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật uy đức trọng vọng, nên dù thường muốn nói mà kẻ không pháp khí chẳng nghe (Q.567, ĐBN)
Thiên vương nên biết! Bát Nhã sâu xa chẳng vì hữu tình không pháp khí mà nói, chẳng vì kẻ ngoại đạo ác kiến mà nói, chẳng vì kẻ lười biếng kiêu mạn chẳng tin mà nói; chẳng vì người cầu pháp mua bán đổi chác mà nói, chẳng vì kẻ tham ưa danh lợi, chẳng vì kẻ ganh ghét tham lam, chẳng vì kẻ mù, điếc, câm mà nói. Vì sao? Vì các Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, tâm không keo kiệt tham tiếc, chẳng giấu thâm pháp, từ bi thương xót loài hữu tình, cũng chẳng rời bỏ các loài hữu tình. Nhưng loài hữu tình đời trước trồng căn lành, được thấy Như Lai và nghe chánh pháp. Như Lai đối với pháp vốn không có tâm giảng thuyết, cũng chẳng tác ý vì người này, vì người kia. Những kẻ nghiệp chướng sâu nặng tuy gần Như Lai mà chẳng thấy chẳng nghe. Bồ Tát cũng thế.
Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những hữu tình nào có thể nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp?
Phật bảo Thiên vương:
- Nếu đầy đủ chánh tín, căn tánh thuần thục thì có thể làm pháp khí, đối với Phật quá khứ từng trồng căn lành, tâm không dua nịnh quanh co, uy nghi tề chỉnh, chẳng cầu danh lợi, gần gũi bạn lành, căn tánh lanh lợi thông minh, nói văn biết nghĩa, vì pháp tinh tấn, chẳng trái Thánh ý, thì những hữu tình ấy có thể nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp.
Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát thường làm pháp sư khéo thuyết pháp.
Thế nào là khéo thuyết? Nghĩa là vì lợi ích các hữu tình nên mặc dù nói Phật pháp mà Phật pháp rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói tất cả Ba la mật mà nói Ba la mật rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Bồ đề mà nói Bồ đề rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói dứt phiền não mà nói phiền não rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Niết bàn mà nói Niết bàn rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Thanh văn tứ hướng, tứ quả mà nói Thanh văn tứ hướng, tứ quả rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Độc giác hoặc hướng hoặc quả, mà hoặc hướng hoặc quả rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói dứt ngã kiến mà nói ngã kiến rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói có nghiệp quả mà nói nghiệp quả rốt ráo bất khả đắc.
Vì sao? Vì danh tự đạt được đều chẳng phải thật pháp, pháp chẳng phải danh tự, chẳng phải cảnh giới của ngôn ngữ, pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải so lường của tâm. Danh tự chẳng phải pháp, pháp chẳng phải danh tự, chỉ vì thế tục hư vọng giả danh mà nói ra. Không pháp danh tự nói là danh tự, danh tự là không, không có gì cả. Không có gì cả ấy chẳng phải Đệ nhất nghĩa, chẳng phải Đệ nhất nghĩa ấy tức Pháp phàm phu hư vọng. (Q.567, ĐBN)
Thiên vương nên biết! Đó gọi là Bồ Tát khéo thuyết pháp. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật dùng năng lực phương tiện đắc vô ngại biện. Tùy theo căn tánh của mọi người nên nói Bát Nhã sâu xa như thế, làm cho các hữu tình đúng như thật ngộ nhập.
Thích nghĩa:
(1). Xả ly: Xả có nghĩa là bỏ; ly có nghĩa là xa lìa: Không nhiễm không tịnh..., nên gọi là xa lìa trần cấu.
(2). Kinh TTVBN, Phật bảo Thắng Thiên Vương: “Đại vương, chỗ Bồ Tát thành Phật gọi là Giác Xứ, tự giác gọi là Chính Giác, thành tựu chúng sinh gọi là Chính Biến Giác”.
Sơ giải:
1. Bát Nhã lấy đất, nước, gió, lửa, hư không làm tự tánh.
Hầu hết các pháp hội trước đều có đặt câu hỏi: “Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?” Như phẩm “Chơn Như”, quyển 560, Hội thứ V, ĐBN. Phật bảo các Thiên chúng: “Ta đã tuyên nói các pháp sâu thẳm lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, không chỗ nương tựa, vô tánh làm tướng”. Đó là cách nói hết sức thậm thâm. Ai học Bát Nhã đều phải lấy lời khuyên đó làm tôn chỉ tu hành. Nhưng trong phẩm “Hiển Tướng” của Pháp hội này, cũng cùng câu hỏi như trên, Thế Tôn trả lời cụ thể và giản dị: Bát Nhã lấy “đất, nước, gió, lửa, hư không” làm tướng. Vì sao? Vì tất cả đặc tánh của đất, nước, gió, lửa, hư không cũng chính là đặc tánh của Bát nhã Ba la mật.
Như đất vô biên, Bát Nhã cũng vô biên. Đất sanh cây cỏ nuôi sống muôn loài, Bát Nhã sanh muôn pháp, cứu độ vô vàn chúng sanh. Đất trơ lì bất động, trâu bò giẫm đạp, đái ĩa không buồn không giận, Thánh nhân đi qua cũng không mừng không vui. Bát Nhã cũng vậy, lìa ngã, ngã sở... khen cũng không mừng, chê cũng không buồn, không giận v.v...
Như nước tánh vốn trong sạch, không nhơ, bình đẳng một mực. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, thể tánh không phiền não nên gọi là trong sạch, lìa các phiền não nên gọi là không nhơ v.v... , chúng sanh, Bồ Tát, Phật... đều bình đẳng.
Như gió có thể làm cho vạn vật tăng trưởng, Bát Nhã cũng như thế, có thể làm cho tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian tăng trưởng.
Lại như gió lớn thì có thể phá diệt tất cả vật loại. Bát Nhã cũng như thế, nếu tu vững mạnh, có thể phá diệt tất cả sanh tử phiền não.
Lại như gió nhiều liên tục có thể làm cho khí nóng trở nên mát mẻ. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, có thể làm cho hữu tình bị phiền não thiêu đốt, chứng được Niết bàn thanh lương thường lạc.
Như lửa có thể làm đuốc soi sáng cho người đi trong đêm tối. Bát Nhã là đuốc tuệ, hướng dẫn người lạc lối được vào chánh đạo, được Niết bàn an vui v.v...
Vì vậy, Phật bảo: “Thiên vương nên biết! Bát Nhã sâu xa lìa bẩn không dính, tịch tịnh, có vô lượng, vô biên trí tuệ, bình đẳng, thông đạt thật tánh các pháp, như tánh hư không rộng lớn không có chỗ trụ, lìa tướng cảnh giới, vượt tầm tứ v.v... tâm và tâm sở không phân biệt, không sanh, không diệt, vì tánh xả ly vậy”.
Như vậy, chúng ta có thể phát biểu Bát Nhã là trung tính hay là vô tri như một số luận gia chủ trương chăng?
2. Ba phép thanh tịnh của Như Lai:
1- Thân Như Lai hoàn toàn vắng lặng không gì bằng. Nên Khế Kinh dạy “thân thanh tịnh của Như Lai gọi là pháp thân”.
2- Như Lai lìa hẳn tất cả lỗi lầm, dứt các thùy miên, không còn phiền não, vắng lặng thanh tịnh, vì thế nên không ai có thể tìm lỗi nơi ngữ nghiệp của Như Lai. Khế Kinh dạy “ngữ của Như Lai thanh tịnh” nên Thế Tôn có thể thọ ký cho các Bồ Tát.
3- Tâm Như Lai sâu xa, khó vào, không phải cảnh của cảm quan hay ý thức thế tục, lìa cảnh suy lường, không có ngằn mé, giống như hư không. Nên Khế Kinh dạy “ý của Như Lai thanh tịnh”.
Nếu theo ba thân của Như Lai học và hành chắc chắn được diệu hạnh của thân, ngữ, ý, lúc thân hoại mạng chung sẽ sanh nẻo lành, làm lợi ích chúng sanh vô cùng tận.
3. Chư Phật Thế Tôn Bồ Tát thuyết pháp như thế nào?
Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, phương tiện thiện xảo thuyết pháp cho chúng sanh, tất cả pháp không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng... cho đến người thọ, người biết, người thấy. Các pháp như thế là Không, vô sở hữu, chẳng tự tại, là hư vọng phân biệt, các pháp chỉ do nhân duyên hòa hiệp nên không sanh mà giống như sanh. Thuyết pháp như vậy là tùy thuận pháp tướng, cùng với pháp tương ưng có thể nhập bình đẳng, hiển bày nghĩa lý. Đó là thuyết pháp đúng lý, nên gọi là khéo nói.
Nhờ vậy, nên khi hành sâu Bát nhã Ba la mật các Bồ Tát mới đắc các biện tài vô ngại, ở giữa chúng như Sư tử chúa, chẳng sợ hãi, nên được biện tài chẳng sợ; lìa phiền não nên được biện tài không kiêu mạn; chẳng nói vô nghĩa, nói khế hợp với pháp tướng nên được biện tài nghĩa lý đầy đủ. Hiểu rõ thơ, luận, biết rõ văn tự nên được biện tài ý vị đầy đủ. Nhiều kiếp chứa nhóm, tập luyện ngôn ngữ nên biện tài chẳng vung vít. Thuyết pháp như thế hoàn toàn thuận ba thời, nghĩa là nóng, lạnh, mưa nắng thuyết không rối loạn; cũng thuận ba phần nghĩa là đầu, giữa, cuối, nói chẳng xen tạp. Do đó nên nói được biện tài đúng thời phần.
Thế nào gọi là khéo thuyết pháp? Nghĩa là vì lợi ích các hữu tình nên mặc dù thuyết tất cả pháp mà nói tất cả pháp rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết dứt phiền não mà nói phiền não rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết Niết bàn mà nói Niết bàn rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết dứt ngã kiến mà nói ngã kiến rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết có nghiệp quả mà nói nghiệp quả rốt ráo bất khả đắc.
Vì chỉ theo thế tục nói nọ nói kia, nào là phiền não lậu hoặc, nào là Niết bàn hay nói phước nghiệp… Trong thắng nghĩa không có phiền não, Niết bàn, không phước nghiệp... Cảnh giới Bồ Tát, cảnh giới Phật đều sạch trong sạch ngoài, vắng lặng tịch diệt. Phật dùng ngôn ngữ phương tiện giả nói thế nọ thế kia, trong thắng nghĩa tất cả pháp đều bình đẳng như như hết.
Phật bảo Thắng Thiên Vương: “Vì sao? Vì danh tự đạt được đều chẳng phải thật pháp, pháp chẳng phải danh tự, chẳng phải cảnh giới của ngôn ngữ, pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải so lường của tâm. Danh tự chẳng phải pháp, pháp chẳng phải danh tự, chỉ vì thế tục hư vọng giả danh mà nói ra. Không pháp danh tự nói là danh tự, danh tự là không, không có gì cả. Không có gì cả ấy chẳng phải Đệ nhất nghĩa, chẳng phải Đệ nhất nghĩa ấy tức Pháp phàm phu hư vọng.
Thiên vương nên biết! Đó gọi là Bồ Tát khéo thuyết pháp. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật dùng năng lực phương tiện đắc vô ngại biện. Tùy theo căn tánh của mọi người nên nói Bát Nhã sâu xa như thế, làm cho các hữu tình đúng như thật ngộ nhập”.
Kết luận:
Câu nói cần ghi nhớ nhất trong phẩm này là: Những điều chư Phật nói ra đều chân thật chẳng hư vọng: “Thế gian như đống lửa lớn đầy tham dục, sân hận, ngu si. Làm sao ra khỏi? Nếu có thể thông suốt các pháp đều bình đẳng, không có tâm nhiễm đắm thì gọi là ra khỏi. Biết đúng như thật, như huyễn, như mộng v.v... khéo soi nhân duyên, mà không phân biệt. Lại biết các pháp tuy không có nguồn gốc mà có nghiệp quả”.
Tụng tới đây chúng ta cảm thấy “trơ trơ như Bụt” mà một số luận gia, thiền sư diễn tả Bát Nhã “là vô tri, nhưng vô sở bất tri”. Nhưng nghịch đời thay trong cái tịch mà chiếu trong cái chiếu mà tịch. Ngôn ngữ thế tục gần như bất lực trước đặc tánh bí nhiệm này của Bát nhã Ba la mật. Vậy, cứ theo chánh văn mà hành thì có chỗ thọ dụng, có thể giải thoát khỏi sự trói buộc của ba cõi, sáu đường mà được an vui./.
---o0o---