- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM “THÀNH THỤC HỮU TÌNH"
Phần cuối quyển 390 cho đến phần đầu quyển 393, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Cụ Túc” quyển thứ 28, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; an trụ mười tám pháp không, tu hành tứ Thánh đế, tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, Nhất thiết trí… cho đến tu hành quả vị Giác ngộ tối cao, chẳng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ thì làm thế nào đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo được viên mãn, có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo khi tu hành bố thí Ba la mật, chẳng đắc bố thí, chẳng đắc năng thí, chẳng đắc sở thí, chẳng đắc việc tu, cũng chẳng xa lìa các pháp như thế mà tu hành bố thí Ba la mật thì đại Bồ Tát ấy có thể viên mãn Bồ Tát đạo. Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo khi tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và tất cả pháp Phật, chẳng đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và tất cả pháp Phật, chẳng đắc năng tu, chẳng đắc sở tu, chẳng đắc việc tu, cũng chẳng xa lìa các pháp mà hành, thì đại Bồ Tát ấy có thể viên mãn Bồ Tát đạo.
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo như thế có thể viên mãn Bồ Tát đạo, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
(Chú ý đến giáo lý này: Chẳng đắc sở cầu, chẳng đắc năng tu, sở tu, chẳng đắc việc tu, chẳng xa lìa các pháp tu thì có thể viên mãn Bồ Tát đạo và có thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì tự tánh Bát Nhã là không, là vô sở hữu, là bất khả đắc. Nếu còn mong cầu nắm bắt, còn thấy năng sở tức còn chấp ngã, chấp pháp, chấp chúng sanh, chấp mạng giả… Còn chấp là còn chướng ngại thì không thể viên mãn đạo Bồ đề, cũng không thể chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao).
Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ Tát hành Bát Nhã dõng mãnh chuyên cần tu đạo Bồ đề?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, phương tiện thiện xảo chẳng hòa hợp sắc cũng chẳng xa lìa sắc, cũng chẳng hòa hợp thọ, tưởng, hành, thức, cũng không xa lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì các pháp như thế không có tự tánh, nếu không có tự tánh thì làm gì có hợp có ly. Đối với mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng chẳng có hợp có ly. Vì tất cả pháp không có tự tánh thì không hợp không ly.
- Này Xá lợi Tử! Như thế là đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dõng mãnh chuyên cần tu đạo Bồ đề.Dũng mãnh chuyên cần tu học đạo Bồ đề cũng gọi là tu học Bát nhã Ba la mật, vì Bát nhã Ba la mật thâu nhiếp tất cả thiện pháp. Chẳng tu học Bát nhã Ba la mật, thì chẳng bao giờ có thể đắc sở cầu quả vị Giác ngộ tối cao.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nếu thấy các pháp có tự tánh, có thể nắm bắt được, thì có chấp thủ, nhưng các pháp vốn không có tự tánh, làm gì có thể nắm bắt được mà sanh chấp thủ. Nghĩa là chẳng chấp thủ đây là Bát Nhã, đây là tịnh lự, đây là tinh tấn v.v…; chẳng chấp thủ đây là sắc, đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là xứ giới…; đây là quả vị Giác ngộ tối cao; đây là phàm phu, đây là Thanh văn, là Độc giác, Bồ Tát hay Như Lai.
Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, như thật rõ biết, tất cả pháp đều chẳng thể nắm bắt, đó là Bát nhã Ba la mật chẳng thể nắm bắt, tịnh lự Ba la mật chẳng thể nắm bắt, tinh tấn Ba la mật chẳng thể nắm bắt v.v…; sắc chẳng thể nắm bắt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt; xứ giới chẳng thể nắm bắt, tất cả pháp Phật chẳng thể nắm bắt được.
- Này Xá Lợi Tử! Các Ba la mật chẳng thể nắm bắt được ấy tức là Vô chướng (ngại) Ba la mật. Vô chướng Ba la mật như thế tức là Bát nhã Ba la mật. Các đại Bồ Tát nên học trong đó.
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát khi học trong đó, còn chẳng đắc sự học, huống là đắc quả vị Giác ngộ tối cao, huống là đắc Bát nhã Ba la mật, huống là đắc pháp Bồ Tát, huống là đắc pháp chư Phật. Vì sao? Vì không có một chút pháp nào có tự tánh, các pháp chỉ lấy vô tánh làm tự tánh thì làm gì có pháp phàm phu, làm gì có pháp Dự lưu, làm gì có pháp Nhất lai, pháp Bất hoàn, pháp A la hán, pháp Độc giác, pháp Bồ Tát hay pháp Như Lai?
- Này Xá Lợi Tử! Các pháp như thế đã chẳng thể nắm bắt được, thì nương vào pháp nào mà có thể đặt bày có phàm phu. Phàm phu đã chẳng thể nắm bắt được, thì làm sao có thể nói đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, là Bất hoàn, là A la hán, là Độc giác, Bồ Tát hay Như Lai!
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, hoàn toàn chẳng phải thật có, thì y cứ vào đâu mà có thể rõ biết đây là phàm phu, đây là pháp phàm phu; đây là Dự lưu, đây là pháp Dự lưu; đây là Nhất lai, đây là pháp Nhất lai… cho đến đây là Như Lai, đây là pháp Như Lai?
Phật hỏi lại Xá Lợi Phất:
- Này Xá lợi Tử! Theo ý ông thì sao? Có phải thật có sắc, thật có thọ, tưởng, hành, thức như các phàm phu ngu si chấp chăng?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Chẳng phải thật có sắc, chẳng phải thật có thọ, tưởng, hành, thức như các phàm phu chấp, chỉ do phàm phu ngu si điên đảo chấp như thế; cũng chẳng phải thật có mười hai xứ, mười tám giới như các phàm phu chấp, chỉ do phàm phu ngu si điên đảo chấp như thế; cũng chẳng phải thật có tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao như các phàm phu chấp, chỉ do phàm phu ngu si điên đảo chấp như thế.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo, tuy quán các pháp đều không có tự tánh, hoàn toàn chẳng phải thật có, nhưng nương theo thế tục, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, chỉ vì các hữu tình mà tuyên thuyết các pháp, khiến cho hiểu biết chơn chánh, xa lìa điên đảo.
Cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, vì sức phương tiện thiện xảo làm thế nào có thể quán các pháp đều không có tự tánh, hoàn toàn chẳng thật có, nhưng nương vào thế tục, phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình tuyên thuyết các pháp khiến được hiểu biết chơn chánh, xa lìa điên đảo?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp hoàn toàn không thật có, không có ngã, ngã sở, đều lấy vô tánh làm tự tánh, bản tánh vắng lặng, tự tướng vắng lặng, chỉ có phàm phu ngu si mê lầm điên đảo, chấp trước sắc uẩn, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức uẩn; chấp trước xứ giới; chấp trước tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng; chấp trước Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí;chấp trước tất cả hạnh Bồ Tát, chấp trước quả vị Giác ngộ tối cao; chấp trước phàm phu; chấp trước Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Do nhân duyên ấy, các đại Bồ Tát quán tất cả pháp hoàn toàn không thật có, không có ngã, ngã sở, đều lấy vô tánh làm tự tánh, bản tánh vắng lặng, tự tướng vắng lặng, tu hành Bát nhã Ba la mật như huyễn sư, vì hữu tình thuyết pháp, đối với người xan tham thì nói bố thí, khiến tu bố thí; hoặc người phá giới thì nói tịnh giới, khiến tu tịnh giới; hoặc người sân hận thì nói an nhẫn, khiến tu an nhẫn; hoặc người giải đãi thì nói tinh tấn, khiến tu tinh tấn; hoặc người tán loạn thì nói tịnh lự, khiến tu tịnh lự; hoặc người ngu si thì nói Bát Nhã, khiến tu Bát Nhã. (Q. 391, ĐBN)
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, an lập hữu tình, khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã rồi, lại vì họ tuyên thuyết Thánh pháp thù thắng có khả năng thoát khỏi sanh tử. Các loài hữu tình nương vào đó mà tu học, hoặc đắc quả Dự lưu, hoặc đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát là người chẳng có sở đắc, tu hành Bát nhã Ba la mật mà có thể an trụ hữu tình trong sáu pháp Ba la mật, khiến họ chứng đắc quả Dư lưu, Nhất lai, bất hoàn, A la hán, Bồ Tát, Phật và có thể thoát khỏi sanh tử?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với các hữu tình chẳng phải có sở đắc. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy thật có hữu tình nhỏ nào có thể nắm bắt được, chỉ theo thế tục giả nói hữu tình.
Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, an trụ hai đế, vì các hữu tình, tuyên thuyết Chánh pháp. Hai đế là gì? Đó là thế tục đế và thắng nghĩa đế.
Trong hai đế, hữu tình chẳng thể nắm bắt được, sự an lập hữu tình cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhưng các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình, tuyên thuyết pháp yếu. Các loài hữu tình nghe pháp ấy rồi, ở trong hiện pháp còn chẳng đắc ngã, huống là đắc sở cầu là quả chứng. (Q.392, ĐBN)
- Này Xá lợi Tử! Như thế, đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo, tuy vì hữu tình tuyên thuyết Chánh pháp, khiến tu chánh hạnh, đắc quả sở chứng, nhưng đối với họ, tâm hoàn toàn không có sở đắc.
Cụ thọ Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát, tuy đối với các pháp, chẳng đắc nhất tánh, chẳng đắc dị tánh, chẳng đắc tổng tánh, chẳng đắc biệt tánh, nhưng mang áo giáp đại công đức như thế; do mang áo giáp đại công đức như thế, nên chẳng lưu chuyển cõi Dục, chẳng lưu chuyển cõi Sắc, chẳng lưu chuyển cõi Vô sắc, chẳng lưu chuyển cõi hữu vi, chẳng lưu chuyển cõi vô vi. Tuy giáo hóa hữu tình khiến thoát ba cõi nhưng đối với hữu tình hoàn toàn không có sở đắc, cũng lại chẳng đắc sự an lập hữu tình. Vì sự an lập hữu tình chẳng thể nắm bắt được nên không bị câu thúc bởi nhiễm hay tịnh; vì không nhiễm không tịnh nên chẳng khá rõ biết các thú sai khác; vì chẳng khá rõ biết các thú sai khác nên không nghiệp, không phiền não; vì không nghiệp không phiền não nên cũng không bị quả báo; đã không bị quả báo thì làm sao biết được có ngã và hữu tình lưu chuyển các thú, hiện ở ba cõi, đủ các loại sai khác?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Nếu loài hữu tình trước có, sau không, thì Bồ Tát, Như Lai có sự lầm lẫn; nếu sự sanh tử của các thú trước có sau không, thì Bồ Tát, Như Lai cũng có lầm lẫn; trước không, sau có, cũng như vậy. Như Lai xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, pháp tướng thường trụ không bao giờ chuyển đổi. Vì tất cả pháp, pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ, chơn như, thật tế, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, giống như hư không. Trong đó, còn không có ngã, không có hữu tình, không có dòng sanh mạng, không có khả năng sanh khởi, không có sự dưỡng dục, không có sự trưởng thành v.v…, không có cái biết, không có cái thấy, huống là có sắc, có thọ, tưởng, hành, thức; có xứ giới, có các duyên khởi, có pháp duyên sanh, có các chi duyên khởi; đã không có các pháp sở thuyết như thế, thì làm gì có các thú sanh tử; các thú sanh tử đã chẳng thể nắm bắt được, thì làm gì có thành thục hữu tình, khiến họ giải thoát, chỉ nương thế tục, giả nói.
Vì các pháp như thế, tự tánh đều không; các đại Bồ Tát từ Phật quá khứ đã nghe như thật rồi, vì cứu thoát hữu tình điên đảo chấp trước, nên phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Khi phát tâm hướng đến mà cũng chẳng nghĩ: Ta đối với pháp này sẽ đắc, khiến hữu tình kia sẽ được độ.
Đại Bồ Tát ấy vì độ thoát hữu tình điên đảo chấp trước, nên mang giáp mũ công đức, thệ nguyện rộng lớn trang nghiêm, dõng mãnh chánh cần, không có đoái tiếc gì, chẳng lùi bỏ quả vị Giác ngộ, đối với Bồ đề thường chẳng khởi do dự, sẽ chứng hay chẳng chứng. Luôn luôn nghĩ rằng: Chắc chắn ta sẽ chứng sở cầu giác ngộ, làm lợi ích chân thật cho các hữu tình, đó là khiến họ giải thoát mê lầm điên đảo, qua lại các thú chịu khổ sanh tử.
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy tuy độ thoát hữu tình mê lầm điên đảo sanh tử các thú, nhưng không có sở đắc, chỉ nương vào thế tục mà nói. Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y dùng thuật biến hóa làm vô lượng trăm ngàn ức loài hữu tình, lại hóa đủ loại đồ ăn thức uống thượng diệu cho các hóa hữu tình ấy ăn đều khiến no đủ; làm việc ấy rồi, mừng vui xướng lên, ta đã đạt được phước đức to lớn.
Này Xá lợi Tử! Theo ý ông: Nhà ảo thuật ấy hoặc đệ tử của y có thật khiến cho hữu tình được no đủ chăng?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát cũng giống như thế, từ khi mới phát tâm vì muốn độ thoát các hữu tình, nên tu hành bố thí Ba la mật, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; an trụ mười tám pháp không, tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo; an trụ tứ Thánh đế; tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tu hành tam giải thoát môn, tu hành Bồ Tát thập địa; tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu hành Phật mười lực, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành ba mươi hai tướng Đại sĩ, tu hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; viên mãn đạo Bồ đề, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát tuy làm việc như thế, nhưng đối với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, cũng chẳng nghĩ: Ta dùng pháp này điều phục các loại hữu tình như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đạo Bồ đề của đại Bồ Tát mà các đại Bồ Tát tu hành đạo này, phương tiện thiện xảo, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ sơ phát tâm đã tu hành bố thí Ba la mật, đã hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Đã hành tất cả các thiện pháp nói trên và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Đó là gọi đạo Bồ đề.
(Học đạo Bồ đề và dùng lục Ba la mật để thành thục hữu tình).
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát hành đạo này thì có thể thành thục hữu tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bởi vì đại Bồ Tát khi hành bố thí Ba la mật, phương tiện thiện xảo, tự hành bố thí, cũng khuyên người hành bố thí, ân cần dạy bảo trao truyền khuyên răn họ: Các thiện nam tử! Chớ chấp trước bố thí, nếu chấp bố thí thì sẽ lại thọ thân, nếu lại thọ thân thì do đây mà lần lượt sẽ thọ vô lượng khổ lớn. Trong thắng nghĩa đế, hoàn toàn không có bố thí, cũng không có người bố thí, cũng không có người nhận, cũng không có vật bố thí, cũng không có quả của bố thí. Các pháp như thế đều bản tánh không. Trong bản tánh không, không có pháp có thể nắm bắt, tánh không của các pháp cũng chẳng thể nắm bắt được.
Như vậy, các đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, tuy đối với hữu tình, tự hành bố thí, cũng khuyên người bố thí, nhưng đối với bố thí, người thí, kẻ thọ, vật thí, kết quả bố thí đều không sở đắc. Bố thí Ba la mật như thế gọi là vô sở đắc Ba la mật. Đại Bồ Tát ấy, khi đối với các pháp này không có sở đắc, phương tiện thiện xảo, có thể giáo hóa hữu tình đắc quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả vị Độc giác, Bồ Tát hay quả vị Giác ngộ tối cao.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, là các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nương vào pháp bố thí, thành thục hữu tình, khiến được an lạc.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, tự hành bố thí, khuyên các hữu tình hành bố thí rồi, thấy các hữu tình hủy phạm tịnh giới, thương xót vô cùng, khuyên bảo nên thọ trì tịnh giới, ta sẽ cúng dường, các ngươi cần đồ ăn thức uống, y phục, giường chiếu, phòng xá, xe cộ, thuốc men cho đến các vật dụng cần thiết khác ta đều cung cấp đầy đủ. Các ngươi do thiếu thốn vật chất nên hủy phạm tịnh giới, làm các việc ác. Ta sẽ tùy theo nhu cầu mà cung cấp đủ. Các ngươi an trụ luật nghi giới rồi dần dần có thể thoát vòng khổ não, hoặc nương vào Thanh văn thừa mà được xuất ly, hoặc nương vào Độc giác thừa mà được xuất ly, hoặc nương vào Vô thượng thừa mà được xuất ly. (Q. 393, ĐBN)
Đại Bồ Tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự thọ trì tịnh giới, cũng khuyên người thọ trì tịnh giới, thẳng thắn xưng dương pháp thọ trì tịnh giới, hoan hỷ tán thán người thọ trì tịnh giới.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình an trụ tịnh giới giải thoát sanh tử, được lợi lạc thù thắng.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình sân hận nhau nên sanh lòng thương xót mà khuyên bảo họ: Vì duyên cớ gì mà các ngươi sân hận? Các ngươi nếu do thiếu thốn mà tạo nên ác nghiệp thì sẽ giúp cho, cần ăn uống, y phục, phòng xá, xe cộ, thuốc thang, đèn sáng và các thứ cần yếu khác, ta đều cấp cho, khiến không thiếu thốn. Các ngươi chẳng nên sân hận nhau mà nên tu an nhẫn. Đại Bồ Tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình tu an nhẫn rồi, lại bảo họ: Nhân duyên sân hận hoàn toàn không chắc thật, đều do hư vọng phân biệt mà sanh, vì tất cả pháp bản tánh không, nên các ngươi vì cớ gì mà đối với cái không thật có, vọng khởi sân hận, nhục mạ, tàn hại nhau. Các ngươi chớ dựa vào sự phân biệt hư vọng mà phát sanh giận dữ, tạo các ác nghiệp, sẽ đọa vào địa ngục, bàng sanh, quỷ giới… chịu các khổ kịch liệt. Các ngươi chớ chấp vào cái chẳng phải thật có, vọng khởi sân hận, mà tạo nghiệp. Do nghiệp tội này, nên mất thân. Các ngươi nên biết, thân người khó được, đời có Phật khó gặp, sanh lòng tin lại càng khó hơn, chớ vì sân hận mà để mất cơ hội tốt. Nếu mất cơ hội này thì khó cứu chữa. Vì vậy, các ngươi đối với các hữu tình chớ khởi sân hận, nên tu an nhẫn.
Đại Bồ Tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự hành an nhẫn, cũng khuyên người hành an nhẫn, thẳng thắn tán dương pháp hành an nhẫn, hoan hỷ khen ngợi người hành an nhẫn.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát an trụ bố thí, khuyên các hữu tình tu hành an nhẫn. Các loài hữu tình do đó, lần lượt nương vào ba thừa mà được giải thoát.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình thân tâm giải đãi, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: Các ngươi vì duyên cớ gì chẳng siêng năng tinh tấn tu hành các thiện pháp mà sanh giải đãi? Nếu họ đáp vì thiếu thốn vật chất, tảo tần kiếm sống, nên không có thời giờ tu tập. Bồ Tát có thể cung cấp vật chất đầy đủ để họ có thể yên tâm chuyên tu pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn v.v... Khi ấy, các hữu tình phát khởi tinh tấn, tu các thiện pháp mau được viên mãn. Do tu các thiện pháp được viên mãn nên dần dần phát sanh các pháp vô lậu; do các pháp vô lậu, hoặc đắc quả Dự lưu, hoặc đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc đắc quả vị Độc giác, hoặc hướng nhập các bậc Bồ Tát, dần dần chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Đại Bồ Tát ấy, an trụ bố thí, tự hành tinh tấn, cũng khuyên người hành tinh tấn, thẳng thắn tán dương pháp hành tinh tấn, hoan hỷ ngợi khen người hành tinh tấn.
- Này Thiện Hiện! Như thế, các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, khiến các hữu tình xa lìa giải đãi, siêng tu các thiện pháp, mau được giải thoát.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình tán loạn thất niệm, thương xót khuyên bảo họ: Các ngươi vì cớ gì mà chẳng tu tịnh lự, tán loạn thất niệm, trầm luân sanh tử? Nếu họ vì thiếu thốn nên chẳng có thể tu tập. Bồ Tát có thể cung cấp các vật dụng cần thiết, và khuyên bảo: Các ngươi từ nay chẳng nên khởi lại tầm tứ hư vọng phan duyên trong ngoài làm nhiễu loạn tự tâm. Khi ấy, các hữu tình được vật dụng, không còn thiếu thốn, có thể chế phục đoạn trừ hư vọng, nhập các thiền; nương vào các thiền có thể phát khởi từ, bi, hỷ, xả; lại dần dần có thể nhập bốn định vô sắc; do định này thành đạt nên có thể tu ba mươi bảy pháp trợ đạo, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện v.v... các thứ thiện pháp khác, và tùy theo căn cơ có thể đắc quả tam thừa, đó là hoặc chứng đắc Niết bàn Thanh văn, hoặc chứng đắc Niết bàn Độc giác, hoặc chứng quả vị Giác ngộ tối cao.
Đại Bồ Tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự tu thiền định, cũng khuyên người tu thiền định, thẳng thắn tán dương pháp thiền định, hoan hỷ khen ngợi người tu thiền định.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình xa lìa tán loạn, tu các định, làm lợi ích lớn.
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình ngu si điên đảo, thương xót khuyên các hữu tình tu Bát nhã Ba la mật. Nếu họ thật sự thiếu thốn vật chất, chẳng có thể tu tập trí tuệ thù thắng, Bồ Tát có thể cung ứng vật chất đầy đủ để họ có thể tu: Trước hết tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, nên quán sát kỹ thật tướng các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật, nghĩa là khi ấy, nên quán sát kỹ là có pháp nhỏ nào có thể nắm bắt được chăng? Đó là hoặc ngã, hoặc hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng… cái biết cái thấy có thể nắm bắt được chăng? Hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức có thể nắm bắt được chăng? Hoặc 12 xứ, 18 giới có thể nắm bắt được chăng? Hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí có thể nắm bắt được chăng? Hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác có thể nắm bắt được chăng? Hoặc tất cả hạnh Bồ Tát, hoặc quả vị Giác ngộ tối cao có thể nắm bắt được chăng?
Các hữu tình ấy đã được vật dụng rồi không còn thiếu thốn nữa, nương vào sự khuyên bảo của Bồ Tát, trước hết tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, lại quán sát kỹ thật tướng các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật. Khi quán sát kỹ thật tánh của các pháp đều chẳng thể nắm bắt được; vì chẳng thể nắm bắt được nên không chấp trước; vì không chấp trước nên chẳng thấy có pháp nhỏ nào có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh. Khi họ đối với các pháp không có sở đắc, thì đối với tất cả xứ chẳng khởi phân biệt, nghĩa là chẳng phân biệt đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là A tu la, đây là người, đây là trời, đây là trì giới, đây là phạm giới, đây là phàm phu, là Thánh giả, đây là Thanh văn, đây là Độc giác, đây là Bồ Tát, đây là Như Lai, đây là pháp hữu vi, là pháp vô vi. Vì không phân biệt như thế, nên tùy theo căn cơ, họ dần dần chứng đắc Niết bàn ba thừa.
Đại Bồ Tát ấy, an trụ bố thí Ba la mật, tự tu Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người tu Bát nhã Ba la mật, thẳng thắn tán dương pháp tu Bát nhã Ba la mật, hoan hỷ khen ngợi người tu Bát nhã Ba la mật.
- Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình tu hành Bát nhã Ba la mật, khiến đạt được lợi ích an lạc thù thắng.
Lược giải:
Xưa kia bậc được tôn sùng là “vạn thế sư biểu” (thầy của muôn đời) là Khổng Tử, người chủ trương Tu, Tề, Trị, Bình, nghĩa là dạy người lập thân, lập chí để trở thành một người thầy giỏi, một người cha tốt, một công dân mẫu mực hay một đấng quân vương chân chính như cha mẹ dân, thì trước hết phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Chủ trương này giữ được giá trị lâu dài trong suốt dòng lịch sử lập quốc của Trung Hoa lẫn các quốc gia lân cận cho đến thời cận đại. Khổng Tử sanh vào năm 551 trước Tây lịch và sanh sau Phật, xứng đáng được xem là bậc thượng tôn trong thiên hạ. Nhưng Khổng Tử chỉ chủ trương xây dựng trong một khuôn khổ hạn hẹp thuộc vấn đề lập thân lập chí cá nhân.
Còn Phật là bậc siêu quần trong xã hội loài người được ca tụng là 1- Như lai, 2- Ứng cúng, 3- Chính biến tri, 4- Minh hạnh túc, 5- Thiện thệ, 6- Thế gian giải, 7- Vô thượng sĩ, 8- Điều ngự trượng phu, 9- Thiên nhân sư, 10- Phật Thế Tôn (Bạc già phạm). Giáo lý của Thế Tôn dĩ nhiên không ai có thể sanh bằng, với chủ trương hết sức rộng lớn trong việc tạo dựng một vũ trụ hạnh phúc và an lạc, mà trong đó Từ Bi Hỷ Xả được xem như một tôn chỉ lớn. Nên cương lãnh của Đạo Phật còn đi xa hơn nữa khi chủ trương phá ngã, diệt tội, thành thục hữu tình, thanh tịnh quốc độ. Nghĩa là Phật không những muốn đào tạo một con người hoàn hảo, mà lại còn muốn xây dựng chúng sanh và tất cả cõi nước trở thành nơi thanh bình và an lạc nhất.
- Như thế nào là phá ngã? Bố thí là một trong những phương tiên hữu hiệu nhất để phá ngã, vì phá bỏ tự kỷ, khước từ quyền tư hữu cá nhân. Người tu Phật chỉ có tam y nhất bát. Áo rách cốt che thân, cơm hẫm sống qua ngày, đầu đội trời (đầu không đội nón), chân đạp đất (đi chân không), lấy thiểu dục tri túc làm tôn chỉ sống, niệm niệm “cho mà chẳng lấy”.
- Như thế nào là diệt tội? Tự mình lấy giới làm hàng rào ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào cũng như từ trong ra. Lấy thiền định giúp tâm an tịnh để sanh trí tuệ, cũng dạy người tinh tấn tu hành như vậy. Phòng hộ thân căn giữ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh. Đó là phòng bệnh, phòng nên không phải chữa, nên nói là diệt, diệt ở đây chẳng phải diệt, nhậm vận mà tự diệt. Đó là thành thục chúng sanh
- Thế nào là thanh tịnh Phật độ? Thượng cầu giác ngộ, hạ hóa chúng sanh là tu Bồ Tát đạo. Nghĩa là trên cầu giác ngộ để có trí tuệ soi sáng, lăn bánh xe pháp đem lại phúc lạc cho toàn thể chúng sanh. Đem lại lợi ích phúc lạc cho toàn thể chúng sanh đó là kết quả của việc thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Phật độ vậy.
Cứ theo các pháp Phật như thế, tinh tấn tu hành cũng dạy người khác tu hành. Một người như thế, trăm người như thế, vạn người như thế… ngày ngày công phu, sống trong tỉnh thức lâu ngày đường mê đảo ngược thì được tự tại, thiên hạ thái bình chẳng khác dưới thời Nghiêu Thuấn thuở xưa.
Nên Kinh bảo “Kết quả của việc tu tập và hành trì sáu pháp Ba la mật và tất cả các thiện pháp còn gọi là đạo Bồ đề, là dẫn đến Thánh giáo tự giác, nghĩa là tròn đầy quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rồi có thể thực thi các phương tiện thiện xảo thành thục hữu tình và nghiêm tịnh cõi Phật”./.
---o0o---