Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ XIII

11/03/202107:42(Xem: 7843)
Hội Thứ XIII

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-546

 

HỘI THỨ XIII

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

(bố cục)

13. Hội thứ XIII: Phần “An Nhẫn Ba La Mật”, 1 quyển. Nội dung Ngài Mãn Từ Tử (Phú Lâu Na) và Xá lợi Phất nói rõ về pháp An nhẫn Vô Thượng Bồ đề, tức là nếu đem tâm tàm quý (1) mà tu pháp quán Không thì sẽ chấm dứt tâm tranh đấu, được an ổn.

 

---o0o---

 

 

PHẦN “AN NHẪN BA LA MẬT”

 

Dẫn nhập:

 

Phần “An Nhẫn Ba La Mật” chỉ có 1 quyển. Giáo lý phần này rất đơn giản. Ở đây Kinh cũng phân biệt an nhẫn của Nhị thừa và an nhẫn của Bồ Tát thừa như hai phần trước là bố thí Ba la mật và trì giới Ba la mật và cũng khuyên hữu tình nên an nhẫn theo Đại thừa, an nhẫn vì người, vì tất cả chúng sanh mới được xem là rốt ráo.

An nhẫn là pháp khó tu khó chứng trong sáu Ba la mật. Nó là pháp tu tích cực của người chịu đựng, kiên trì mà chúng tôi cho là người can đảm, có khí phách nhất. Thành đạt pháp tu này chính là mở ngỏ cho Giác ngộ.

 

Nên nhẫn độ mới gọi là điều phục đáng khen!

 

 

Tóm lược: 

 

Quyển thứ 589

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Bạc già phạm cùng với 1250 vị đại Bí sô trú ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ đa, tại thành Thất la phiệt. Bấy giờ, Thế Tôn bảo cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Bây giờ, ngươi nên vì các đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật.

Mãn Từ Tử vâng lời Phật dạy, nương thần lực Phật liền bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dù bị các lời mắng chửi, hủy báng của hữu tình khác đều phải nhẫn chịu, không nên khởi tâm giận dữ, oán hận, phải khởi tâm từ bi để báo đền ân đức kia. Bồ Tát như vậy là đối với an nhẫn Ba la mật có lòng tin ưa sâu xa. Tùy theo sự phát khởi tâm an nhẫn, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát này có thể an trụ an nhẫn Ba la mật.

 

(Sở tu an nhẫn của Bồ Tát và sở tu an nhẫn của

Nhị thừa khác nhau như thế nào?)

 

Lúc đó, Xá lợi Tử liền hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Sở tu an nhẫn của các Bồ Tát và sở tu an nhẫn của Thanh văn, có gì khác nhau?

Mãn Từ Tử đáp:

- Chúng các Thanh văn sở tu an nhẫn gọi là phần ít, sở duyên hành tướng chẳng cực viên mãn. Chúng các Bồ Tát sở tu an nhẫn gọi là phần đủ, sở duyên hành tướng rất cực viên mãn. Nghĩa là an nhẫn của các Bồ Tát vô lượng, vì muốn vô lượng hữu tình được lợi ích an lạc, nên mặc áo giáp an nhẫn, lập thề nguyện: Ta phải độ thoát vô lượng hữu tình, đều làm cho họ xa lìa khổ, chứng an lạc Niết bàn. Nên gọi là an nhẫn của Bồ Tát vô lượng.

An nhẫn của Thanh văn, chỉ vì muốn xả bỏ phiền não tự thân, không vì hữu tình. Cho nên gọi là an nhẫn phần ít. Không giống như an nhẫn của đại Bồ Tát nhiều vô lượng. Vì các Bồ Tát không xa lìa an nhẫn Ba la mật. Cho nên gọi là an nhẫn toàn phần. Đối với Bồ Tát nào khởi tâm không thanh tịnh, tâm không kham nhẫn chịu tổn hoại, nên biết vị ấy bị vô lượng tội chẳng phải như đối với Thanh văn, Độc giác thừa v.v... Cho nên an nhẫn Bồ Tát là tối thắng.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát, nếu như bị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quở trách thì tâm không hờn giận. Cũng vậy, nếu bị kẻ đồ tể, người gánh thây chết, hoặc các hữu tình hèn hạ khác mắng chửi, hủy báng, cũng không khởi tâm giận dữ, hiềm hận, báo thù, dù chỉ trong giây lát. Bồ Tát như vậy nhiếp trì an nhẫn Ba la mật, mau được viên mãn, không bao lâu chứng đắc Nhất thiết trí trí. Bồ Tát như vậy tu học an nhẫn Ba la mật, dần dần được rốt ráo, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu đại Bồ Tát an trú, nhiếp trì an nhẫn Ba la mật như thế, mới kham chịu sự mắng chửi, hủy nhục của người khác. Tâm vị ấy không lay động như núi Diệu Cao, tăng trưởng công đức thiện căn khó hoại, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an lạc cho khắp thế gian.

Xá lợi Tử liền hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Nếu khi đại Bồ Tát tu an nhẫn, có hai người đến chỗ Bồ Tát. Một người vì thiện tâm nên đem bột chiên đàn xoa thân(cho Bồ Tát). Một người vì ác tâm nên đem lửa đốt thân(Bồ Tát). Bồ Tát đối với những người kia nên khởi tâm gì?

Mãn Từ Tử đáp:

- Đại Bồ Tát này vì muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên đối với người thứ nhất không khởi tâm ưa thích, đối với người thứ hai không khởi tâm tức giận. Phải khởi tâm bình đẳng đối với cả hai, đều muốn lợi ích an lạc hoàn toàn. Như vậy, đại Bồ Tát hành an nhẫn Ba la mật nên trụ an nhẫn Ba la mật.

Nếu đại Bồ Tát hành an nhẫn Ba la mật, trụ an nhẫn Ba la mật là đại Bồ Tát hành hành xứ Bồ Tát, không điên đảo, an trụ tịnh độ Bồ Tát không điên đảo. Đại Bồ Tát như vậy đối với hữu tình không nên phát khởi tâm giận dữ, không nên phát khởi tâm hiềm hận, không nên phát khởi tâm báo thù. Chúng đại Bồ Tát như thế đối với hữu tình được viên mãn an nhẫn, viên mãn xưng tán, viên mãn nhu hòa, viên mãn ý vui. Đối với tất cả chỗ đều khởi lòng từ, không phẫn nộ, không hiềm hận. Như vậy, nếu các hữu tình khác đến chỗ của các đại Bồ Tát mà đem lòng oán hại, muốn đánh, muốn trói, hủy nhục, trách mắng, nên an nhẫn, tâm không được báo thù.

Như vậy, nếu các hữu tình khác muốn đến chỗ chúng đại Bồ Tát tranh đấu, làm việc không lợi ích, thì Bồ Tát phải khởi tâm hòa hảo với họ, dùng lời lẽ nhẹ nhàng xin lỗi, khiến họ dứt bỏ tâm độc hại. Bấy giờ, Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Hữu tình này đến chỗ ta gây sự tranh đấu, không lợi ích. Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nên vì họ mà tuyên dương pháp Không sâu xa, để họ chấm dứt tất cả sự tranh đấu.

Nghĩa là vì họ tuyên dương tánh Không của sắc uẩn đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của thọ, tưởng, hành, thức uẩn đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu.

Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của 12 xứ, 18 giới đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu.

Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của nhãn xúc đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu.

Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của địa giới đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu.

Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của 4 duyên đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu.

Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của 12 duyên khởi, 3 cõi đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự cạnh tranh, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt tranh đấu. Như vậy, Bồ Tát suy nghĩ: Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, thuyết pháp như thế cho các hữu tình, khiến cho họ dứt hẳn tất cả tranh đấu, tâm họ bình đẳng như hư không, không tìm lỗi lầm của nhau. Do đây chiêu cảm được thân tướng trang nghiêm của Đại Sĩ, tất cả hữu tình thấy đều hoan hỷ, làm lợi ích cho nhau, cho đến lúc chứng đắc Niết bàn thanh tịnh, xa lìa các hý luận, hoàn toàn an lạc.

 

(An nhẫn của Nhị thừa và an nhẫn của Bồ Tát,

loại nào rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh thù thắng hơn?)

 

Xá lợi Tử lại hỏi Mãn Từ Tử:

- Hai loại an nhẫn, Bồ Tát và Thanh văn nên biết loại nào rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng?

Mãn Từ Tử liền hỏi lại cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nay tôi đem việc hiện tại hỏi lại Tôn giả, tùy ý Tôn giả trả lời.

Xá lợi Tử đáp:

- Tùy theo các câu hỏi, tôi sẽ đáp.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lưỡi cày sắc ở thế gian và vàng ở châu Thiệm bộ, hai loại ánh sáng đó, nên biết loại nào rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng?

Xá lợi Tử đáp:

- Ánh sáng của lưỡi cày sắt ở thế gian làm sao sánh nổi vàng ròng ở châu Thiệm bộ này. Nghĩa là ánh sáng vàng ròng ở châu Thiệm bộ rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng.

Mãn Từ Tử hỏi:

- An nhẫn của Thanh văn giống như ánh sáng của lưỡi cày sắt ở thế gian. An nhẫn của Bồ Tát giống như ánh sáng vàng ròng ở châu Thiệm bộ. Nên biết tướng của hai loại an nhẫn hơn kém có khác nhau. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì an nhẫn của hàng Thanh văn thừa, chỉ quán sắc uẩn cho đến thức uẩn, đưa đến phát khởi vô ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, tạo tác, thọ nhận, sự biết, sự thấy... An nhẫn của hàng Bồ Tát thừa, cũng quán sắc uẩn cho đến thức uẩn hoàn toàn không tự tánh, nhưng đưa đến phát khởi sự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tịch tĩnh xưa nay… Cho nên an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng hơn an nhẫn của các Thanh văn.

An nhẫn của hàng Thanh văn thừa, chỉ quán 12 xứ cho đến 18 giới, đưa đến phát khởi vô ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, tạo tác, thọ nhận, sự biết, sự thấy... An nhẫn của hàng Bồ Tát thừa, cũng quán 12 xứ cho đến 18 giơi hoàn toàn không tự tánh, nhưng đưa đến phát khởi sự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tịch tĩnh xưa nay... Cho nên an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng hơn an nhẫn của các Thanh văn.

An nhẫn của hàng Thanh văn thừa, chỉ quán nhãn xúc cho đến ý xúc, đưa đến phát khởi vô ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, tạo tác, thọ nhận, sự biết, sự thấy... An nhẫn của hàng Bồ Tát thừa, cũng quán nhãn xúc cho đến ý xúc hoàn toàn không tự tánh, nhưng đưa đến phát khởi sự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tịch tĩnh xưa nay... Cho nên an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng hơn an nhẫn của các Thanh văn.

An nhẫn của hàng Thanh văn thừa, chỉ quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đưa đến phát khởi sự vô ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, tạo tác, thọ nhận, sự biết, sự thấy... An nhẫn của hàng Bồ Tát thừa, cũng quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, hoàn toàn không tự tánh, nhưng đưa đến phát khởi sự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tịch tĩnh xưa nay... Cho nên an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng hơn của Thanh văn.

An nhẫn của hàng Thanh văn thừa, chỉ quán lục địa giới, 12 nhân duyên, đưa đến phát khởi sự vô ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, tạo tác, thọ nhận, sự biết, sự thấy... An nhẫn của hàng Bồ Tát thừa, cũng quán lục địa giới, 12 nhân duyên giới hoàn toàn không tự tánh, nhưng đưa đến phát khởi sự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tịch tĩnh xưa nay... Cho nên an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng hơn an nhẫn của các Thanh văn.

Lại, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc kẻ oán tặc đến mổ xẻ thân thể, Bồ Tát này nên khởi nghĩ: Số cát sông Hằng có thể đếm được nhưng số lượng thân khó có thể đếm hết. Hoặc thân bị mổ, hoặc kẻ hay mổ, đều thuộc về sắc số khó biết. Thân thể bị mổ xẻ chỉ là phần nhỏ làm sao duyên đây mà sanh giận dữ?

Đại Bồ Tát này quán nghĩa như thế, dù gặp phải oán tặc mổ xẻ lóng đốt vẫn năng nhẫn chịu được, đều không tâm oán hận giận dữ. Chúng Bồ Tát này tùy đã phát khởi tâm an nhẫn, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, nhiếp thọ an nhẫn Ba la mật. Chúng đại Bồ Tát như thế nên biết là an nhẫn Ba la mật được tất cả thời thường chẳng bỏ lìa.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu có người đến đánh đập, mắng chửi, đại Bồ Tát này suy nghĩ: Số lượng cát ở sông Hằng còn có thể đếm biết được, nhưng tội lỗi nơi thân ta khó có thể đếm hết. Nghĩa là từ vô thỉ đến nay khởi các phiền não ác nghiệp, lý sự ác hại, chư Phật, Hiền Thánh cùng nhau quở trách. Nay người này có đến đánh đập, mắng chửi thì có thấm gì so với tội lỗi trên, sao lại duyên nơi đây mà sanh sân hận?

Đại Bồ Tát này quán nghĩa như vậy, dù có người đến đánh đập, mắng chửi nhưng vẫn nhẫn nhục, lãnh thọ, hoàn toàn không có tâm sân hận, báo thù. Các đại Bồ Tát này tùy theo sự phát khởi tâm an nhẫn, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, nhiếp trì an nhẫn Ba la mật. Chúng đại Bồ Tát như thế nên biết là an nhẫn Ba la mật được tất cả thời thường chẳng bỏ lìa.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, có oán tặc đến cướp đoạt tài sản, đại Bồ Tát này nên suy nghĩ: Tài sản như vậy bản tánh đều Không, không có hệ thuộc, sao lại duyên nơi đây mà sanh sân hận? Đại Bồ Tát này quán nghĩa như vậy, tuy gặp oán tặc cướp đoạt tài sản nhưng tâm hoàn toàn không sân hận, oán thù. Các đại Bồ Tát này tùy theo sự phát khởi tâm an nhẫn, hồi hướng cầu Nhất thiết trí, hộ trì an nhẫn Ba la mật. Chúng đại Bồ Tát như thế nên biết là an nhẫn Ba la mật được tất cả thời thường chẳng bỏ lìa.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên tu tâm mình giống như đất, nước, gió, lửa, hư không v.v...

Xá lợi Tử hỏi:

- Tại sao chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, phải tu tâm mình giống như đất, nước, lửa, gió, hư không v.v…?

Mãn Từ Tử đáp:

- Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên tu tâm mình giống như đại địa, đại thủy, đại hỏa, đại phong, hư không, không có sự phân biệt.

Xá lợi Tử hỏi:

- Tại sao chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải tu tâm mình giống như đại địa, không có sự phân biệt?

Mãn Từ Tử đáp:

- Ví như lục đại giới (đất, nước, gió, lửa, hư không) tuy đem sắc, hương, vị, xúc đáng ưa thích để trong đó, nhưng đất hoàn toàn không vui mừng, yêu thích. Hoặc đem sắc, hương, vị, xúc không ưa thích ném vào trong đó, cũng không tức giận, buồn rầu. Chúng đại Bồ Tát như vậy, tuy gặp các cảnh ưa thích nhưng không vui mừng, yêu thích; dù gặp các cảnh buồn bực cũng không tức giận, buồn rầu. Vì niềm tin thanh tịnh an nhẫn luôn luôn hiện tiền, giống như đại địa bình đẳng mà lưu chuyển. Nên nói, chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải tu tâm mình giống như đại địa, không có sự phân biệt.

 

(Thân tâm bình đẳng như hư không)

 

Xá lợi Tử liền hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Hư không vô vi, không có chúng Bồ Tát nào mà chẳng nhiếp thuộc vô vi?

Mãn Từ Tử đáp:

- Chẳng phải chúng Bồ Tát nhiếp thuộc bởi vô vi, nhưng do các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo tu hành Bát nhã Ba la mật, quán thân tâm bình đẳng với hư không, khiến đối với cảnh giới không có phân biệt, kham tu an nhẫn Ba la mật. Nghĩa là các đại Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo quán thân tâm vô tánh, vô ngại, bình đẳng với hư không, kham chịu mọi thứ xúc chạm dao gậy v.v...

 

(Tu bố thí, tịnh giới Ba la mật cũng phải có tâm bình đẳng. Bây giờ, tu an nhẫn Ba la mật cũng phải có tâm bình đẳng. Như vậy, mới thấy bình đẳng là giáo pháp tối quan trọng trong việc tu hành trong việc xử người tiếp vật vậy).

 

Đại Bồ Tát như thế phương tiện khéo léo nương dựa Bát nhã Ba la mật, quán sát thân tâm bình đẳng với hư không, nhiếp thọ an nhẫn Ba la mật. Hằng thời giả sử lửa dữ địa ngục, dao gậy địa ngục và những khí cụ tra tấn bức bách nơi thân, cũng có thể nhẫn chịu được, nơi tâm bình đẳng không động không biến. Đại Bồ Tát như thế tu hành Bát nhã Ba la mật, nhiếp thọ Bát Nhã, quán sát thân bình đẳng với hư không, kham chịu các khổ không động không biến. Đại Bồ Tát như thế kham chịu các khổ không động không biến tức là an nhẫn Ba la mật.

Như vậy, đại Bồ Tát tu hành Ba la mật, khi gặp những nổi khổ nặng nề, nên nghĩ như vầy: Ta từ sanh tử vô thủy đến nay, tuy chịu nhiều nỗi khổ đau đớn nơi thân tâm, nhưng do nỗi khổ này biết đâu đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, huống chi do khổ này chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Nay thân tâm ta chịu nhiều khổ sở là vì lợi ích cho các hữu tình, nên nhất định chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì vậy, bây giờ ta nên hoan hỷ lãnh thọ. Đại Bồ Tát như vậy, quán nghĩa này, tuy chịu nhiều khổ sở nhưng tăng trưởng sức nhẫn nhục, lãnh thọ một cách hoan hỷ.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Ví như có người ăn món ăn có trăm vị, thân tâm sảng khoái, sanh lòng hoan hỷ hơn. Bồ Tát cũng vậy, thấy người đến xin, hoặc xin của cải, hoặc xin từng phần nơi thân, nhân đó mà bố thí, chịu đựng các nỗi khổ, nhẫn nhục lãnh thọ một cách hoan hỷ, thân tâm vui thích, niềm khoái lạc ấy hơn trước gấp trăm ngàn lần.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Như A la hán thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuy lậu đã tận nhưng vẫn sanh tâm hoan hỷ, cung kính tin tưởng thù thắng hơn. Đại Bồ Tát cũng vậy, thấy người đến xin, hoặc xin của cải, hoặc xin từng phần nơi thân, vẫn sanh tâm hoan hỷ, cung kính tin tưởng thù thắng hơn. Nhẫn nhục, lãnh thọ những điều oan gia, oán hại, mắng chửi, hủy nhục, đủ các thứ khổ nặng nề của kẻ kia. Tùy theo lúc đó mà phát khởi tâm an nhẫn, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát như vậy, tùy theo lúc đó mà phát khởi tâm an nhẫn, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, thường không xa lìa sự tu an nhẫn Ba la mật, luôn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, không để gián đoạn.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, đối với các hữu tình nên tu an nhẫn, bị đánh không đánh trả, mạ nhục không nhục mạ lại, hủy báng không hủy báng lại, sân giận không sân giận lại, quở trách không quở trách lại, phẫn hận không phẫn hận lại, khủng bố không khủng bố lại, hại không hại lại. Đối với các việc ác nhẫn nhục lãnh chịu. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các đại Bồ Tát này thường không xa lìa tâm Nhất thiết trí trí, đối với các hữu tình muốn làm lợi ích. Nếu các đại Bồ Tát thường không xa lìa tâm Nhất thiết trí trí, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, giả sử dù thân bị mâu giáo đâm ngàn mũi, nhưng trong tâm không khởi một niệm báo thù; đối với người kia, thường sanh an nhẫn tịnh tĩnh.

Chúng đại Bồ Tát tu hành an nhẫn Ba la mật như thế, đối với các hữu tình muốn làm lợi ích lớn, nhất định sẽ được sắc thân vàng ròng, tướng hảo trang nghiêm, người thấy hoan hỷ. Vì vậy, Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát đều nên tinh tấn tu sức an nhẫn, nhịn nhục, lãnh thọ tất cả các nỗi khổ oan gia báo hại.

Nếu đại Bồ Tát tu hành sức an nhẫn, nhịn nhục, lãnh thọ các nỗi khổ thì có thể nhiếp trì an nhẫn Ba la mật. Đại Bồ Tát này lìa được sanh tử, thân cận Nhất thiết trí trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

 

(Không tu theo hành xứ của mình

 mà lại tu theo hành xứ của người khác)

 

Nếu đại Bồ Tát ưa thích Thanh văn hoặc Độc giác, thì nên biết đại Bồ Tát này thối thất an nhẫn Ba la mật của Bồ Tát. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát Ma ha tát thà đem tự thân chịu đủ đại khổ sanh tử vô biên, chớ chẳng nên ưa đắm các thiện tự lợi Thanh văn Độc giác. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì nếu đại Bồ Tát đắm trước Thanh văn hoặc Độc giác, nên biết đại Bồ Tát này thối thất hành xứ của mình, mà hành hành xứ của người khác.

Xá lợi Tử liền hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Sao gọi là đại Bồ Tát hành hành xứ của người khác?

Mãn Từ Tử đáp:

- Nếu đại Bồ Tát trụ ở bậc Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác. Nếu đại Bồ Tát khởi suy nghĩ về Thanh văn, hoặc suy nghĩ về Độc giác, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác. Nếu đại Bồ Tát đắm trước giáo pháp tương ưng với Thanh văn, hoặc ưa thích ngôn luận tương ưng với Độc giác, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát thích quán sắc uẩn thường hoặc vô thường; thích quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường hoặc vô thường, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác.

Nếu đại Bồ Tát thích quán sắc uẩn vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh; thích quán thọ, tưởng, hành, thức uẩn hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát thích quán 12 xứ, 18 giới thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh... đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác.

 

(Thế nào tu hành theo hành xứ của mình?)

 

Xá lợi Tử lại hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Sao gọi là đại Bồ Tát hành hành xứ của mình?

Mãn Từ Tử đáp:

- Nếu đại Bồ Tát nào tu hành sáu pháp Ba la mật, tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của mình.

Nếu đại Bồ Tát nào tu hành sáu pháp Ba la mật, thì tất cả ác ma không làm hại được. Ví như loài cáo không làm hại được các loài rùa, ba ba; không bị làm hại nên việc đi lại được tự tại. Chúng đại Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật cũng vậy, không bị tất cả ác ma làm hại; không bị làm hại nên việc tu hành được tự tại.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Giả sử ác ma hóa tất cả hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới đều là ác ma. Cứ mỗi một ác ma đều có nhiều ma quân quyến thuộc, thứ tự trước sau kéo đến chỗ đại Bồ Tát. Nhưng đại Bồ Tát này tu hành sáu pháp Ba la mật nên các ác ma kia không thể làm hại được. Vì không hại được nên Bồ Tát tu hành tự tại. Ví như loài cáo không thể làm hại được các loài rùa, ba ba. Vì không hại được nên rùa, ba ba đi lại tự tại.

Vì vậy, Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát phải nên học như vầy: Tâm ta không nên xa lìa sáu pháp Ba la mật. Nếu tâm không xa lìa sáu pháp Ba la mật, tất cả ác ma không làm hại được; không bị hại nên Bồ Tát tu hành tự tại.

 

(Các việc làm của Bồ Tát do ác ma dẫn dắt?)

 

Xá lợi Tử liền hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Làm thế nào đại Bồ Tát biết như thật các việc làm của mình do ác ma dẫn dắt?

Mãn Từ Tử đáp:

- Nếu đại Bồ Tát không thích nghe giáo pháp tương ưng với Ba la mật, nên biết đây là các việc do ác ma dẫn dắt.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát không thích thọ trì giáo pháp tương ưng với Ba la mật, nên biết đây là các việc do ác ma dẫn dắt.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát không thích đọc tụng giáo pháp tương ưng với Ba la mật, nên biết đây là các việc do ác ma dẫn dắt.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát không thích suy nghĩ giáo pháp tương ưng với Ba la mật, nên biết đây là các việc do ác ma dẫn dắt.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát không thích tu hành pháp hành tương ưng Ba la mật, nên biết đây là các việc do ác ma dẫn dắt.

Các đại Bồ Tát hiểu rõ những việc này rồi, bèn suy nghĩ: Nhất định là ác ma dùng phương tiện cản trở sự cầu Nhất thiết trí trí nơi tâm ta. Bây giờ, ta không nên tùy thuộc vào sự mong muốn kia, phải tinh cần tu học Bát nhã Ba la mật.

Đại Bồ Tát này đối với ác ma kia, không nên sân hận, cũng không nên khởi tâm không nhẫn nhục. Thực hành được như vậy tức là an nhẫn Ba la mật. Đại Bồ Tát này suy nghĩ: Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nên độ thoát hữu tình dứt hẳn pháp tham, sân, si. Vì vậy, bây giờ đối với ác ma kia không nên sân hận. Nếu đại Bồ Tát nghĩ được như vậy, thì đại Bồ Tát hơn các ác ma, tự tại tu hành sáu pháp sang bờ kia.

 

(Thế nào là lãng phí thời gian?)

 

Nếu lúc đại Bồ Tát tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí mà chẳng hiện tiền, thì khi đó đại Bồ Tát suy nghĩ: Bây giờ, Ta không nên hành phi xứ, vì nó khiến cho ta chẳng nhớ tới Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ Tát nên tự trách tâm mình: Nay chính ta đã lãng phí thời giờ.

Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Mức độ nào thì gọi là lãng phí thời giờ?

Mãn Từ Tử đáp:

- Nếu đại Bồ Tát đối 6 sáu pháp Ba la mật đây, tuy có hiện hành nhưng lại không nhớ nghĩ đến Nhất thiết trí trí, chẳng hồi hướng Nhất thiết trí trí, đại Bồ Tát này lãng phí thời nhật, tổn hại kết quả tu chứng.

Nếu đại Bồ Tát đối với sáu pháp Ba la mật đây, tùy một lần hiện hành, hoặc hai lần, hoặc ba lần, cho đến năng nhớ nghĩ Nhất thiết trí trí và hồi hướng Nhất thiết trí trí, thì đại Bồ Tát này tuy có chỗ phạm nhưng có thể xem là đắc quả thời nhật tu chứng(2).

 

(An nhẫn của Bồ Tát so với an nhẫn của Nhị thừa

 có khác nhau không?)

 

Xá lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:

- An nhẫn Bồ Tát cùng với an nhẫn A la hán có khác nhau không?

Mãn Từ Tử đáp:

- Bây giờ, tôi hỏi lại Tôn giả: Núi Diệu Cao cùng với hạt cải, lớn nhỏ, cao thấp, nặng nhẹ khác nhau như thế nào?

Xá lợi Tử đáp:

- Khác nhau vô lượng.

Mãn Từ Tử nói:

- An nhẫn Bồ Tát cùng với an nhẫn A la hán cũng lại như vậy, không nên hỏi làm chi.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Ý Tôn giả thế nào? Nước trong biển lớn, nước đầu một sợi lông, bên nào nhiều hơn?

Xá lợi Tử đáp:

- Nước trong biển lớn nhiều hơn nước đầu một sợi lông cả trăm phần, ngàn phần, cho đến muôn ức phần cũng chưa sánh bằng một phần nhỏ số lượng kia.

Mãn Từ Tử nói:

- An nhẫn Bồ Tát cùng với an nhẫn A la hán cũng lại như vậy, trăm phần, ngàn phần, cho đến muôn ức phần cũng chưa sánh bằng một phần nhỏ số lượng kia. Vì vậy, không nên hỏi như vậy.

Phật khen ngợi Mãn Từ Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ngươi nói. Ngươi nương oai lực của Phật khéo nói an nhẫn Ba la mật. Nếu lấy số lượng an nhẫn của đại Bồ Tát, so sánh với số lượng an nhẫn lớn nhỏ của Thanh văn, Độc giác thì như muốn lấy số lượng an nhẫn của Như Lai, so sánh với số lượng an nhẫn lớn nhỏ của Thanh văn, Độc giác v.v... Vì sao? Vì sự thành tựu nhẫn nhục của các Bồ Tát, lượng kia rất vô biên, không nên đem so sánh với lượng nhẫn của Thanh văn, Độc giác v.v…

Bấy giờ, Phật bảo A nan đà:

- Ngươi nên thọ trì những lời Mãn Từ Tử thuyết về sự tu an nhẫn của đại Bồ Tát, chớ để quên mất.

A nan đà bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thọ trì đúng như lời Mãn Từ Tử đã thuyết về sự tu an nhẫn Ba la mật của đại Bồ Tát, chắc chắn chẳng quên mất.

Khi đức Bạc già phạm thuyết Kinh này rồi, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ Xá lợi Tử, cụ thọ A nan đà và các chúng Bồ Tát, Thanh văn khác, cùng với tất cả trời, rồng, Dược xoa, A tố lạc v.v... nghe Phật thuyết đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

 

Thích nghĩa:

(1). Tàm quý: (慚愧) Cũng gọi Hữu tàm hữu quý. Đối lại: Vô tàm vô quý. Tàm (Phạm: Hrì), Quý (Phạm: Apatràpya). Từ gọi chung tàm và quý (hổ và thẹn), tên tâm sở, nghĩa là tác dụng của tâm biết hổ thẹn khi phạm tội lỗi, là 1 trong các Đại thiện địa pháp của Thuyết nhất thiết hữu bộ, 1 trong các Thiện pháp của tông Pháp tướng. Luận Câu xá quyển 4 nêu ra 2 cách giải thích về Tàm và Quý như sau: Cách thứ nhất: Tàm là lòng tôn kính các công đức và người có đức, Quý là lòng sợ tội lỗi. Cách thứ hai: Tàm là khi mình phạm tội mặc dù không có ai biết nhưng tự cảm thấy hổ thẹn, còn Quý là khi mình tạo tội mọi người đều biết nên tự mình biết xấu hổ. Theo thuyết trên thì Tàm và Quý đều là tâm hổ thẹn, nhưng vì đối với chính mình và đối với người khác mà chia làm hai. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 19 (bản Bắc) thì cho rằng Tàm là tự mình không tạo tội, Quý là không bảo người khác tạo tội; Tàm là tự trong lòng mình cảm thấy hổ thẹn, Quý là cảm thấy hổ thẹn khi bày tỏ tội lỗi của mình với người khác; Tàm là lòng hổ thẹn đối với người, Quý là lòng hổ thẹn đối với trời. Thuyết này tương đương với cách giải thích thứ 2 trong luận Câu xá. Luận Thành duy thức quyển 6 thì thu dụng cả 2 cách giải thích của luận Câu xá, cho rằng Tàm là trước tôn trọng chính mình, sau tôn kính các bậc hiền thánh và tôn trọng Pháp; Quý là chống lại sự bạo ác do áp lực của thế gian (tức do sự chê cười của người đời, hoặc sự chế tài của luật pháp). Tức chủ trương hổ thẹn là tướng chung của Tàm và Quý, còn tôn sùng điều thiện, chống lại cái ác thì theo thứ tự là tướng riêng của Tàm và Quý. Trái lại với Tàm và Quý, không tôn kính các công đức và những bậc hiền thánh, hoặc không tự thấy hổ thẹn trước tội ác do chính mình gây ra, thì gọi là Vô tàm (Phạm: Àhrìkya). Còn đối với người khác đã biết rõ tội ác của mình mà mình không cảm thấy xấu hổ thì gọi là Vô quý (Phạm: Anapatràpya). Tàm và Quý có công năng làm cho tất cả hành vi trở nên trong sáng, nên được gọi là Nhị chủng bạch pháp - Phỏng theo Phật Quang từ điển.

(2). Chúng tôi phỏng dịch lại đoạn kinh này.

 

Lược giải:

 

Nếu Bồ Tát muốn chứng Vô thượng Giác ngộ thì phải an trụ an nhẫn Ba la mật, nghĩa là dù bị lăng nhục, chửi mắng, đánh đập cũng không giận dữ, oán hận mà trái lại phải khởi tâm từ bi để báo ơn ân đức. Tại sao bị chửi mắng, lăng nhực mà coi là ân đức? Vì có thử thách chịu đựng, thì công hạnh mới được vuông tròn. Có lửa mới thử được vàng. Bồ Tát này có lòng tin sâu xa nơi an nhẫn Ba la mật như vậy để cầu Nhất thiết trí trí. Vì vậy, Bồ Tát mới có khả năng an trụ an nhẫn Ba la mật, trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, mới có cơ hội phục vụ chúng sanh.

An nhẫn của Nhị thừa, chỉ vì muốn xả bỏ phiền não tự thân, không vì chúng sanh, nên an nhẫn đó có hạn cuộc. Còn an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, viên mãn. Vì Bồ Tát muốn vô lượng hữu tình được an lạc, nên thệ nguyện độ thoát hữu tình xa lìa khổ ải, chứng an lạc Niết bàn. Cho nên nói an nhẫn của Bồ Tát là vô lượng, tối thắng.

Các đại Bồ Tát dù bị những bậc cao trọng như chư Phật quở trách hoặc bị các hữu tình hạ tiện, bọn đồ tể, bọn gánh thây chết… mắng chửi, hủy báng cũng không khởi tâm giận dữ, hiềm hận, báo thù, dù chỉ trong thoáng chốc. Trái lại, Bồ Tát khởi tâm bình đẳng đối với mọi người, nhiếp trì an nhẫn Ba la mật miên mật, lại luôn luôn hướng đến Nhất thiết trí trí thì mau chứng đắc Vô Thượng Bồ đề.

Nếu các hữu tình khác muốn đến chỗ Bồ Tát tranh đấu, thì Bồ Tát phải khởi tâm hòa hoãn với họ, dùng lời lẽ nhẹ nhàng xin lỗi, khiến họ dứt lìa bỏ tâm độc hại. Bấy giờ, Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Hữu tình này đến chỗ ta gây sự tranh đấu, không muốn lợi ích. Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nên vì họ mà tuyên dương pháp Không, để họ chấm dứt tất cả sự tranh đấu. Nghĩa là vì họ tuyên dương tánh Không của ngũ uẩn đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự tranh giành hơn thua, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt đấu tranh. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của 12 xứ, 18 giới đều hoàn toàn như huyễn hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự tranh chấp hơn thua, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt đấu tranh.

Hoặc vì họ tuyên dương tánh Không của lục đại chủng (đất, nước, gió, lửa, hư không và thức), 4 duyên (nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên), 12 duyên khởi (vô minh, hành, thức danh sắc, lục nhập, xúc, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử), ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc) đều hoàn toàn như huyễn như hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự tranh đấu hơn thua được mất. Cũng vì họ tuyên dương tánh Không của các pháp đều hoàn toàn như huyễn như hóa. Trong Không đó, tuyệt đối không có sự tranh chấp hơn thua, để người kia nghe rồi tâm liền chấm dứt đấu tranh.

Như vậy, Bồ Tát suy nghĩ: Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, thuyết pháp như thế cho các hữu tình, khiến cho họ dứt hẳn tất cả đấu tranh, tâm họ bình đẳng như hư không, không tìm lỗi lầm của nhau. Do đây chiêu cảm được thân tướng trang nghiêm của Đại sĩ, tất cả hữu tình thấy đều hoan hỷ, làm lợi ích cho nhau, cho đến lúc chứng đắc Niết bàn thanh tịnh, xa lìa các hý luận, hoàn toàn an lạc.

Cũng giống như đoạn kinh nầy, tập 1, quyển 15, “Giải thích: Sằn đề Ba la mật”, Đại Trí Độ Luận, Bồ Tát Long Thọ viết rằng:

“Lại nữa, Bồ Tát suy nghĩ rằng: “Hàng phàm phu vì cái độc vô minh nên đối hết thảy các pháp chuyển thành tướng khác, phi thường tưởng thành thường, khổ tưởng thành vui, vô ngã tưởng thành có ngã; không mà cho là có thật, phi hữu là hữu, hữu là phi hữu”. Như vậy trong chủng chủng pháp chuyển thành ra tướng khác. Được trí tuệ Thánh hiền phá cái độc vô minh, biết rõ thật tướng các pháp, được có trí tuệ biết vô thường, khổ, không, vô ngã, vứt bỏ không chấp trước. Nhẫn được pháp ấy gọi là Pháp nhẫn.

Hỏi: Nếu quán hết thảy các pháp từ trước đến nay thường không, đời nay cũng không, thế là ác tà kiến, sao lại nói là Pháp nhẫn?

Đáp: Nếu quán các pháp rốt ráo không, tâm thủ trước không ấy, thời đó là ác tà kiến. Nếu quán không mà không thủ trước, không sanh tà kiến, thời đó là Pháp nhẫn.

Như vậy các cửa nhập vào trí huệ, quán thật tướng các pháp, tâm không thối chuyển, không hối hận, không tùy theo các giác quán, cũng không lo buồn, được tự lợi lợi tha; ấy gọi là Pháp nhẫn.

Pháp nhẫn ấy có ba thứ hành tướng thanh tịnh là: Không thấy pháp nhẫn nhục, không thấy thân mình, không thấy người nhục mạ; không hý luận các pháp, khi ấy gọi là pháp nhẫn thanh tịnh. Vì lẽ đó, nói Bồ Tát khi trụ trong Bát nhã Ba la mật, có thể được nhẫn nhục Ba la mật, vì không lay động, không thối chuyển”.

 

1. An nhẫn của Nhị thừa và an nhẫn của Bồ Tát,

loại nào rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh thù thắng hơn?

 

Tướng của hai loại an nhẫn hơn kém có khác nhau. Vì sao? Vì an nhẫn của hàng Thanh văn thừa, chỉ quán 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới cho đến 12 duyên khởi v.v…đưa đến phát khởi vô ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, tạo tác, thọ nhận, sự biết, sự thấy... An nhẫn của hàng Bồ Tát thừa, cũng quán 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới cho đến 12 duyên khởi v.v… hoàn toàn không tự tánh, nhưng đưa đến phát khởi sự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tịch tĩnh xưa nay… Cho nên an nhẫn của Bồ Tát rộng lớn, vi diệu, thanh tịnh, thù thắng hơn an nhẫn của các Thanh văn.

Vì Tiểu thừa quán ngã không, nhưng pháp có; Bồ Tát quán ngã không, pháp cũng không. Vì vậy, Bồ Tát có thể chứng vô sanh pháp nhẫn, nên mới có thể hy sinh tài sản, thân mạng cho tất cả chúng sanh. Bồ Tát này quán nghĩa như vậy, dù gặp phải oán tặc mổ xẻ thân phần ra từng mảnh vẫn nhẫn chịu, hoàn toàn không có tâm sân hận, oán thù. Các Bồ Tát này hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, nhiếp trì an nhẫn Ba la mật phát Bồ đề tâm, đại bi tâm mới có cơ hội cứu mình độ người.

 

2. Nếu Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề,

nên tu tâm giống như đất, nước, gió, lửa, hư không.

 

Xá lợi Tử hỏi: “Tại sao chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô thượng Bồ đề, phải tu tâm mình giống như đất, nước, lửa, gió, hư không v.v…?”

Mãn Từ Tử đáp: “Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề nên tu tâm mình giống như đại địa, đại thủy, đại hỏa, đại phong, hư không, không có sự phân biệt”.

Ví như đất, nước, v.v... tuy đem phân, nước tiểu đổ lên đó, trâu bò giẫm đạp, đái ỉa... nhưng đất, nước, v.v... hoàn toàn không giận không buồn. Thánh nhân đi qua đó cũng không mừng, không vui. Chúng đại Bồ Tát cũng vậy, tuy gặp nghịch cảnh, trái duyên cũng không buồn không trách, không giận, không oán; tuy gặp thuận duyên cũng không hớn hở, huênh hoang. Vì niềm vui an nhẫn thanh tịnh luôn luôn hiện tiền trong tâm, giống như đại địa, đại thủy, đại hỏa, đại phong, cũng như hư không bao la bình đẳng im lặng vậy. Nên nói, chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, phải tu tâm mình giống như đất, nước, gió, lửa... không có sự phân biệt.

 

3. Thân tâm bình đẳng như hư không.

 

“Đại Bồ Tát như thế phương tiện khéo léo nương tựa Bát nhã Ba la mật, quán thân tâm bình đẳng với hư không, nhiếp thọ an nhẫn Ba la mật. Hằng thời giả sử lửa dữ địa ngục, dao gậy và những khí cụ tra tấn bức bách nơi thân, cũng có thể nhẫn chịu được, nơi tâm bình đẳng không động không biến. Đại Bồ Tát như thế tu hành Bát nhã Ba la mật, nhiếp thọ Bát Nhã, quán thân bình đẳng như hư không, nhẫn chịu các khổ không động không biến. Đại Bồ Tát như thế nhẫn chịu các khổ mà tâm không động không biến tức là an nhẫn Ba la mật”.

Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, đối với các hữu tình nên tu an nhẫn như thế. Đối với các việc ác, nhẫn nhục chịu đựng. Đối với những oan khiên, không báo thù. Tâm từ ái rộng lớn bao la như hư không. Như vậy, mới được coi là an nhẫn Ba la mật.

 

4. Thế nào là không tu hành xứ của mình mà

tu hành xứ của người khác?

 

Nếu đại Bồ Tát nào tu hành sáu pháp Ba la mật, tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của mình.

Nếu đại Bồ Tát trụ ở bậc Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác. Nếu đại Bồ Tát khởi nghĩ về Thanh văn hoặc Độc giác, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác. Nếu đại Bồ Tát đắm trước giáo pháp tương ưng với Thanh văn hoặc ưa thích ngôn luận tương ưng với Độc giác, thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác.

Nếu đại Bồ Tát thích quán ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh… thì đại Bồ Tát này hành hành xứ của người khác.

Trong các pháp tu như bố thí, trì giới cũng có nói đến các việc quán hay tu các phi xứ như vậy, nên đây không cần nhắc lại nữa.

 

Để có cái nhìn rộng rãi về pháp môn An nhẫn Ba la mật, chúng tôi trích dẫn, phẩm thứ nhất, “Sằn Đề Ba La Mật”, tập 1, quyển 14, Đại Trí Độ Luận, để cùng học với nhau.

 

 

“Sằn Đề Ba La Mật”

(Đại Trí Độ Luận)

 

Hỏi: Thế nào gọi là Sẵn Đề Ba La Mật?

Đáp: Sẵn Đề là Nhẫn Nhục. Có hai đức Nhẫn. Đó là: 1- Sanh Nhẫn. và  2- Pháp Nhẫn.

Bồ Tát hành Sanh Nhẫn được vô lượng phước đức, hành Pháp Nhẫn được vô lượng trí huệ. Tu cả hai đức ấy là thành tựu Đại Nhẫn. Ví như người có đủ cả đôi chân và đôi mắt mới có thể đi xa ngàn dặm.

Bồ Tát khi gặp người đến mắng nhiếc, đánh đập, đâm chém, liền nghĩ đến các tội phước nhân duyên đời trước và đời nay. Biết như vậy rồi liền quán “Vô ngã” và “Vô Ngã Sở”, dùng ba pháp ấn là Không, Vô Tướng và Vô Tác, quán như vậy, Bồ Tát rõ biết mình có thọ báo, nên chẳng sanh ác tâm, chẳng khởi ác khẩu. Đức Nhẫn với chúng sanh như vậy gọi là Sanh Nhẫn.

Lại nữa, Bồ Tát nhờ quán Thật Tướng các pháp mà được Nhẫn gọi là Pháp Nhẫn.

Trí Nhẫn làm cho tâm thiện càng thêm kiên cố. Trí Nhẫn ấy có thô, có tế. Thô gọi là Nhẫn Nhục, tế gọi là Thiền Định. Khi chưa có được Thiền Định thì phải dùng tâm ngăn ác, nên gọi là Nhẫn Nhục. Khi tâm thiện đã được kiên cố thì chẳng còn bị các việc ác quấy phá nữa, nên được Thiền Định.

Lại nữa, do không sân mà được Nhẫn, nên Nhẫn thuộc về tâm sở tương ưng pháp, giúp hành giả được tâm thanh tịnh, khiến chẳng còn tạo ra các ác nghiệp nữa.

Lại có thuyết nói đức Nhẫn chỉ có ở cõi Dục, còn ở cõi Sắc, vì chẳng có các ác hạnh nên không nói đến Nhẫn. Vì sao ? Vì hữu lậu là phàm phu, vô lậu là bậc Thánh. Đã là bậc Thánh thì không còn có sự việc gì mà không nhẫn được cả.

Bởi vậy nên phải nhẫn nhục, ngăn trừ các pháp ác, thì các pháp thiện mới được tăng trưởng.

Hỏi: Thế nào gọi là Sanh Nhẫn?

Đáp: Sanh Nhẫn là đức Nhẫn đối với chúng sanh, ví như cam chịu những sự đau đớn khổ nhục do chúng sanh gây ra.      

Bồ Tát, dù được cung kính, dù bị mắng nhiếc... đều giữ tâm không lay động, chẳng có vui mà cũng chẳng khởi oán hận, xem hết thảy chúng sanh đều bình đẳng ngang nhau.

Hỏi: Được cung kính mà không vui, sao cũng gọi là Nhẫn?

Đáp: Kiết sử có 2 loại. Đó là : Ái Kiết và Tắng Kiết.

- Ái Kiết là sự trói buộc do lòng thương yêu kính mến gây ra.

- Tắng Kiết là sự trói buộc do lòng oán ghét thù hận gây ra.

Được cung kính, cúng dường, tuy không sanh tâm sân nhuế, nhưng lại sanh tâm ái trước.

Ái Kiết tuy nhu hòa, mềm mại, tuy không hung hăng thô bạo như Tăng Kiết mà cũng là giặc, làm chướng ngại cho sự Giải Thoát.

Bởi vậy nên phải biết tu Nhẫn, không sanh tâm đắm trước mới trừ được giặc Ái Kiết này.

Hỏi: Phải làm cách nào để có thể nhẫn được?

Đáp: Phải quán Vô Thường và quán sự sanh khởi của các kiết sử từ thô đến tế, phải dùng trí huệ để tận đoạn các kiết sử. Có làm như vậy mới được diệu tâm thanh tịnh.

Như lời Phật dạy “Lột da phải đến thịt, lóc thịt phải đến xương tủy.

Người được lợi dưỡng, được cung kính chỉ mới lột đựợc lớp da bên ngoài; người tu Thiền Định như lóc được lớp thịt, người dùng trí huệ quán chiếu như phá được xương, thấy được tủy. Tủy, nói ở đây là dụ cho tâm diệu thiện”.

(...) Bởi vậy nên người tu phải trừ ái trước sự cung kính cúng dường, phải hành hạnh nhẫn nhục, không dấy tâm ái trước sự cung kính cúng dường của người.

Nên biết, có 3 nhân duyên khiến được hưởng sự cung kính và sự cúng dường. Đó là :

- Do nhân duyên phước đức đời trước mà nay được như vậy.

- Do công đức tu hành đời nay mà được như vậy.

- Có hạng người ở trong tâm chẳng có chân đức, mà bên ngoài giả hiện oai nghi, nói dối, lừa đảo, khiến người vô trí bị mê hoặc mà cung kính cúng dường.

Bồ Tát, trong tự tâm, thường suy nghĩ: “Vì đời trước ta siêng tu phước đức, nên đời nay ta được cung kính cúng dường; ta chớ sanh tâm kiêu mạn, chỉ ví như gieo mạ đúng thời tiết ắt sẽ được mùa gặt tốt. Ta phải nhẫn tâm, chẳng nên ái trước sự cung kính cúng dường”. Nếu nhờ công đức đời nay mà được sự cung kính, được sự cúng dường, thì Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: “Ta nhờ được trí huệ, rõ biết Thật Tướng các pháp, nhờ công đức đoạn kiết sử mà được sự cung kính cúng dường” nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát chẳng dám tự cao. Thật có ái lạc công đức mà không có ái ngã vậy.

Hỏi: Người chưa được đạo, thường chỉ lo nghĩ đến ăn ngon mặc đẹp ham vui dục lạc thế gian. Vì sao người tu lại phải tự nhẫn?

Đáp: Người tu thường dùng trí huệ quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, thường nhàm chán thân, quán thân này rồi cũng sẽ tan rã. Dù có ăn ngon, mặc đẹp rồi cũng sẽ chết, chẳng nên đắm vị, đắm xúc. Do quán Vô Thường, nên dù được cung kính cúng dường cũng chẳng sanh tâm chấp đắm, phải luôn luôn tự nhẫn.

Lại nữa, gặp trường hợp người nữ đến trêu ghẹo, Bồ Tát cũng phải tự nhẫn, giữ tâm bất động, không để cho niệm tà mống khởi.

 

--o0o--

 

Bồ Tát tu hạnh nhẫn nhục, thường gặp nhiều khổ não trong tiến trình hành Đạo Bồ Tát.

Như lời Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều chịu vô lượng khổ đau trong cảnh Sanh Già Bệnh Chết”, nên Bồ Tát tự nghĩ: “Ta chẳng nên trôi lăn mãi theo dòng Sanh Tử. Ta phải lội ngược dòng Sanh Tử, phải cầu trở về nguồn Giải Thoát; phải cầu vào đạo Niết Bàn”.

Bởi vậy, khi chưa đoạn sạch kiết sử, Bồ Tát phải tự chế tâm, tu hạnh Nhẫn Nhục; dù bị người đến não hại cũng chẳng sanh sân, dù được người cung kính cúng dường, cũng chẳng sanh hân hoan, tự đắc, dù gặp ách nạn cũng chẳng sanh sợ hãi. Bồ Tát, vì chúng sanh mà thường huân tập tâm Từ Bi, nên khi gặp chúng sanh đến não hại phải tự nghĩ rằng: “Ta phải thân cận, thương xót hết thảy chúng sanh. Nếu chúng sanh chẳng làm phiền ta, thì ta chẳng tu được hạnh Nhẫn Nhục. Người oán hại ta cũng là thầy của ta vậy”.

Lại nữa, như lời Phật dạy: “Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vẫn qua lại trong các nẻo đường Sanh Tử”, nên Bồ Tát tự nghĩ: “Có thể ta đã hại người, làm khổ người, nên nay họ ôm hận đến đòi ta trả mạng. Nếu ta khởi sân với họ, lấy oán trả oán, thì oán thù chồng chất mãi, chẳng bao giờ dứt được. Hơn nữa nếu ta sân với người, tức là ta đã sân với Phật vậy. Chim thú cũng có thể trở thành Phật, ta chớ nên khinh Phật sẽ thành”.

Trong các phiền não, thì sân tạo tội nặng nhất. Như có người dùng kệ hỏi Phật rằng:

 

Diệt gì khiến tâm an ổn?

Diệt gì khiến tâm chẳng hối?

Sân là cội gốc các độc

Sân diệt hết thảy thiện căn

 

Phật dùng kệ đáp:

 

Diệt sân khiến tâm an ổn.

Diệt sân khiến tâm chẳng hối.

Sân là cội gốc các độc.

Sân diệt hết thảy thiện căn.

Diệt sân được Phật tán thán.

Diệt sân chẳng còn các khổ.

 

Bồ Tát tự nghĩ: “Ta nay tu hạnh Từ Bi Nhẫn Nhục, nhằm đem lại sự an vui cho chúng sanh. Ta phải nên biết, SÂN là cội gốc các độc, phá sạch thiện căn. Nếu ta sân, thì làm sao chúng sanh được an vui, làm sao đem lại lợi lạc cho chúng sanh, nên ta phải nhẫn nhục. Nếu ta sân, thì cùng với phàm phu chẳng có gì khác cả, ta sẽ chẳng có nhiều công đức”.

Bồ Tát lại nghĩ rằng: “Người đến mắng nhiếc đã góp phần luyện tâm ta, ví như người thợ luyện vàng vậy. Khi lửa tắt rồi, thì vàng ròng hiện ra. Nếu vì nhân duyên đời trước ta đã gây nên tội, thì nay ta cũng chẳng nên sân, trái lại ta phải tu nhẫn”.

Bồ Tát lại tự niệm: “Chúng sanh như con của ta. Nếu chúng sanh đến mắng nhiếc ta, ta chẳng nên sân, mà trái lại ta phải tìm mọi phương tiện để giáo hóa họ”.

Bồ Tát rõ biết chúng sanh, do phiền não che tâm, mà gây nên bao tội lỗi, khiến phải trôi lăn trong các nẻo đường Sanh Tử, nên vì họ tu nhẫn nhục, chẳng bao giờ khởi sân hận, dù đối với những kẻ có ác tâm muốn làm hại mình.

Sân nhuế là cội gốc của bao nhiêu tội ác. Như trong kinh có chép trường hợp của một vị Tiên Nhân tu tịnh hạnh; thế nhưng chỉ gặp một chuyện không vừa ý mà khởi tâm sân, đang tâm hại cả nước.

Người sân nhuế ví như loài hổ beo, lang sói, rắn độc, chẳng ai muốn đến gần, chẳng ai muốn thấy.

Người sân nhuế chẳng biết tự chế, khiến tâm ác càng lâu càng thêm tăng trưởng, đến nỗi những việc tày trời như giết cha, giết mẹ mà cũng làm được.

Vào thời Phật còn tại thế, có nhiều vị Tỳ Kheo sân nhuế, nên Phật dạy rằng: “Này các Tỳ Kheo! Các người chớ nên khởi đấu tranh, vì sân nhuế tương tục như vậy sẽ đem lại nhiều khổ báo. Các ngươi đã nguyện cầu Niết Bàn, đã nguyện bỏ việc thế gian, nguyện vào trong thiện pháp.

Sao các ngươi còn sân nhuế, còn đấu tranh? Lửa sân thiêu đốt cả thân tâm, phá sạch rừng công đức. Các ngươi phải xa lìa tâm sân nhuế, phải tu hạnh Nhẫn Nhục. Người tu Từ Bi Nhẫn Nhục nhất định sẽ vào được Phật Đạo”.

Hỏi: Pháp Nhẫn Nhục rất tốt. Nhưng nếu tu Nhẫn Nhục khiến người khinh khi, cho là do sợ hãi mà phải nhẫn, thì như vậy có ích gì?

Đáp: Nếu ta sợ người khinh ta, cho ta “do sợ hãi mà nhẫn”, để rồi bỏ không tu nhẫn nữa, thì tội ấy lại còn nặng gấp bội. Vì sao? Vì không nhẫn sẽ bị các bậc Thánh Hiền khinh dễ.

Người nhẫn nhục, được tâm nhu nhuyến, nên dù không hành bố thí cũng sẽ được sanh lên cõi Trời, cõi Phật.

Bồ Tát tự nghĩ: “Nếu người đời nay khinh khi ta, nhục mạ ta, ta vẫn phải tu nhẫn”. Vì sao? Vì người tu nhẫn không bị đọa Địa Ngục Thiết Vi. Người vô trí thường khinh khi người tu nhẫn, mà sợ người không nhẫn, vì người không nhẫn thường dùng sức mạnh đe dọa kẻ khác. Chính những người dùng sức mạnh để thỏa mãn tự ngã của mình, mới thật đáng chê cười.

Bồ Tát lại nghĩ rằng: “Từ khi sơ phát tâm, ta đã nguyện: Vì hết thảy chúng sanh, trị các bệnh cho họ. Nay chúng sanh khởi sân, ta phải lấy thuốc Nhẫn Nhục để trị bệnh cho họ”.

Bồ Tát biết rõ căn bệnh sân nhuế, gây phiền não nơi chúng sanh, nên khi gặp chúng sanh nổi sân, thì Bồ Tát tìm phương tiện giải sân cho họ, không làm cho họ sân thêm.

Bổ Tát thương chúng sanh như con, nên khi chúng sanh khởi sân, Bồ Tát không trách móc, mà chỉ nhẫn nhục tìm cách giải sân cho họ.

Bồ Tát lại tự nghĩ: “Nếu chúng sanh sân hận, mà ta không nhẫn, thì ta cũng sẽ phiền não, sẽ khổ đau như họ. Do sân nhuế mà khi mạng chung, sẽ phải tái sanh làm thân rồng, sư tử, hổ lang… Nếu làm Ngạ Quỷ, thì trong miệng có lửa bốc ra. Ta nguyện làm lợi ích cho chúng sanh, nên nếu ta không nhẫn thì ta cũng ác như họ vậy”.

Bồ Tát lại tự nghĩ: “Ta cũng là chúng sanh. Sao ta lại sân nhuế, gieo rắc khổ đau cho chúng sanh?”

Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: “Do 5 ấm duyên hợp mà giả danh có chúng sanh, có đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng. Người vô trí chẳng biết như vậy, nên khởi chấp ngã, khởi sân nhuế. Nếu ta khỏi sân, thì ta như hàng phàm phu, vô trí, cũng mê muội, điên đảo như họ, cũng tạo tội, thế rồi cũng thọ khổ báo, nên ta phải tự Nhẫn Nhục”.

Bồ Tát lại tự nghĩ: “Chư Phật trong 3 đời và trong khắp 10 phương, khi hành Đạo Bồ Tát, cũng tu Nhẫn Nhục. Ta nay cũng phải như Phật, phải tu Nhẫn Nhục. Nếu ta dấy lửa sân nhuế, là ta rơi ngay vào cảnh giới của ma”.

Như vậy, có vô lượng duyên khởi khiến Bồ Tát nhẫn với chúng sanh. Hạnh Nhẫn Nhục với hết thảy chúng sanh gọi là Sanh Nhẫn.

 

--o0o--

 

Hỏi: Thế nào gọi là Pháp Nhẫn?

Đáp: Nhẫn đối với các pháp, chịu đựng hết mọi nghịch cảnh, mọi thử thách, mọi niềm khổ đau v.v… do các pháp gây ra gọi là Pháp Nhẫn.

Pháp Nhẫn nhiếp về 6 tình, chẳng có hiển lộ ra bên ngoài, chẳng có thọ sáu trần, chẳng có sanh, chẳng có diệt. Vì sao ? Vì các tướng nội ở trong nội tâm, cũng như các tướng ngoại ở ngoại cảm cũng đều như như. Cả hai tướng ấy đều là bất khả đắc, đều là thanh tịnh, đều là vô tướng cả.

Nên biết hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, thật ra trong tâm chẳng có pháp.

Do hết thảy các pháp đều là tướng thanh tịnh, nên là “chẳng phải hai tướng” (bất nhị tướng), là “một tướng” (Nhất tướng), là “chẳng có tướng” (vô tướng) vậy.

Vì tướng các pháp “chẳng phải hai”, “chẳng phải khác”, nên khi quán các pháp, Bồ Tát vẫn giữ được tâm thanh tịnh, bất động.

Trong kinh Duy Ma Cật, có thuyết rằng: “Sanh Diệt chẳng phải hai, Bất Sanh Bất Diệt chẳng phải hai; vạn pháp đều chẳng phải hai, chẳng phải khác. Như vậy gọi là Pháp Môn Bất Nhị”.

Khi ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ngài Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật làm thinh, chẳng nói một lời. Các Bồ Tát tán thán: Lành thay ! Như vậy mới thật là Pháp Môn Bất Nhị.

Pháp Nhẫn có 2 thứ. Đó là: 1- Tâm Pháp Nhẫn và 2- Phi Tâm Pháp Nhẫn.

Khi nói “có trong, có ngoài, có nóng, có lạnh, có gió, có mưa, có đói, có khát, có sanh, có già, có chết...”, thì gọi là Phi Tâm Pháp. Còn như “Sân nhuế, ưu sầu, dâm dục, kiêu mạn...”, thì gọi là Tâm Pháp.

Bồ Tát ở nơi cả hai pháp, đều nhẫn, đều giữ tâm không lay chuyển. Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Hỏi: Đối với chúng sanh mà khởi sân nhuế, làm hại họ là có tội; thương xót, giúp đỡ chúng sanh thì được phước. Còn như nóng lạnh, mưa gió... chẳng phải là chúng sanh, dù ta có sân nhuế, có kiêu mạn... thì các pháp ấy vẫn chẳng có thêm bớt, chẳng có vui buồn... Như vậy thì nhẫn có lợi ích gì đâu?

Đáp: Tuy chẳng có thêm bớt, chẳng có vui buồn... nhưng nóng lạnh, mưa gió... cũng làm cho người não loạn, ưu khổ... có phương hại đến việc hành Đạo Bồ Tát, nên phải nhẫn.

Lại nữa, chẳng phải chỉ có các hành động sát hại, não loạn chúng sanh mới có tội, mà tâm phan duyên khởi các việc ác cũng đã có tội rồi vậy, nếu do vô ý mà sát chúng sanh, thì chẳng phải là tội. Còn trái lại, chỉ dấy niệm từ đối với chúng sanh, dù chẳng cho họ gì cả cũng được phước rồi vậy.

Gió, mưa, nóng, lạnh... tuy chẳng có tăng, chẳng có giảm, song thường làm cho người sanh phiền não, khởi ác tâm, dẫn đến phạm tội. Bởi vậy, phải nhẫn nhục để tránh gây ra các tội lỗi.

Bồ Tát tự nghĩ rằng: “Đời trước ta đã gây tội, nên đời nay mới sanh ở cõi khổ. Khổ là do tự ta gây ra, nên ta phải nhẫn”.

Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: “Do nghiệp cảm nhân duyên sai khác, mà chúng sanh thọ sanh vào các cõi tịnh hoặc bất tịnh khác nhau.

Nếu đời nay ta sanh vào cõi bất tịnh, đói khát, quá nóng, quá lạnh, hoặc quá nhiều sự đau khổ bức bách ta, thì ta phải thệ nguyện khi ta thành Phật, trong cõi nước của ta chẳng có các khổ đau như ở cõi này.

Dù ta ở trong cõi bất tịnh, khổ đau, ta vẫn tu Nhẫn Nhục, làm lợi lạc cho chúng sanh”.

Bồ Tát lại tự nghĩ: “Có 8 nạn mà các bậc Thánh Hiền cũng còn chẳng có thể tránh được, huống nữa là ta, nên ta phải tu Nhẫn Nhục. Dù làm thân người, không bền chắc, chịu các khổ Sanh Già Bệnh Chết, mà còn hơn làm thân Trời thanh tịnh, không Già, Bệnh, Chết nhưng lại chìm đắm trong sự khoái lạc triền miên. Nay ta tuy khổ mà đã được cả thân người, đã xuất gia, đã ly dục, nên ta phải tinh tấn tu Nhẫn Nhục, làm lợi ích cho chúng sanh”.

Bồ Tát lại tự nghĩ: “Đã thọ thân 4 đại, 5 ấm, ắt phải có các khổ. Dù người giàu, người nghèo, người xuất gia, người tại gia, chẳng ai tránh khỏi các khổ nạn. Người giàu sang vẫn thường sợ hãi bị mất của, ví như con dê béo sợ hãi, biết mình trước sau rồi cũng sẽ bị người ăn thịt. Nay ta đã xuất gia tu học, tuy có chịu các khổ, nhưng đời sau sẽ thọ phước báo, sẽ được Đạo. Còn người tại gia, tuy đời nay có hưởng các thú vui vật chất, nhưng đời sau sẽ thọ khổ. Phàm phu chỉ cầu vui ở đời này, mà chẳng biết lo tu hành khiến phải trầm luân mãi trong bể khổ Sanh Tử.

Người xuất gia rõ biết Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, nên tinh tấn tu hành, không rong ruổi theo các thú vui thế gian. Bởi vậy, dù thọ thân người là khổ, ta phải thường hành Nhẫn Nhục”.

Bồ Tát lại nghĩ: “Hết thảy thế gian đều khổ; ta ở trong đó làm sao ta lại cầu vui. Vậy nên ta phải tu nhẫn”.

Bồ Tát lại tự nghĩ: Ta từ vô lượng kiếp thường thọ các khổ, mà chẳng làm lợi ích gì cho chúng sanh cả. Nay vì chúng sanh, ta cầu Phật Đạo, tuy thọ các khổ, mà được đại lợi ích. Vậy nên đối với các khổ, dù trong, dù ngoài, ta phải đều nhẫn thọ”.

Bồ Tát lại tự nghĩ: “Ta, vì đại tâm, thệ nguyện vào chốn địa ngục, dù khổ nhiều cũng còn chịu được, huống nữa là chút ít khổ ở thân mà chẳng nhẫn được hay sao?”

Đối với các pháp nội và ngoại đều nhẫn thọ gọi là Pháp Nhẫn.

Hỏi: Thế nào gọi là Nội Tâm Pháp Nhẫn?

Đáp: Bổ Tát tự nghĩ: “tuy ta chưa được Đạo, chưa đoạn sạch kiết sử, nhưng nếu ta không nhẫn, thì ta đâu có khác gì phàm phu? Còn, khi ta đã được Đạo rồi, đoạn sạch kiết sử rồi, thì chẳng có pháp gì mà không nhẫn được. Vậy nên ta phải tu Nhẫn Nhục để đoạn sạch kiết sử, mới mong vào được Đạo.

Lại nữa, đói khát, nóng lạnh là ngoại ma, kiết sử, phiền não là nội ma. Ta phải phá được cả hai loại ma ấy mới thành Phật Đạo.

Như khi Phật đang tu khổ hạnh, các Ma Vương đến nói: “Mạng sống của ngài mong manh lắm rồi, ngài hãy mau mau trở về nước, tu hạnh bố thí sẽ hưởng được phước lạc trong nhiều đời. Ở trên Trời sung sướng lắm, ngài chớ nên phí công tìm Đạo, khổ thân tu khổ hạnh, ngài chẳng thể tìm được Đạo đâu! Nếu ngài không nghe lời khuyên của chúng tôi, mà cứ si mê không đứng dậy thì chúng tôi sẽ đem đại quân đến đánh phá”.

Phật (lúc bấy giờ còn là Bồ Tát) đáp lại rằng: “Ta đang đánh phá bọn quân nội ma của các ngươi đây. Nội ma TA còn chưa sợ huống nữa là ngoại ma. Rồi thuyết kệ :

 

Dục là đạo quân thứ nhất;

Ưu sầu là đạo thứ hai,

Đói khát là đạo thứ ba,

Ái nhiễm là đạo thứ tư,

Ham ngủ là đạo thứ năm,

Sợ hãi là đạo thứ sáu,

Đa nghi là đạo thứ bảy,

Thâm độc là đạo thứ tám,

Đắm lợi dưỡng, ham danh vọng,

Đó chính là đạo thứ chín,

Tự cao, khinh mạn người khác,

Là đạo thứ mười kế sau.

Quân các ngươi rất hùng hậu.

Hết thảy các hàng Trời Người,

Chẳng có ai đủ sức phá,

Nhưng vẫn thua người xuất gia.

Ta dùng Trí Huệ, Thiền Định,

Phá tan quân của các ngươi.

Khi TA viên thành Phật Đạo,

Sẽ độ hết thảy chúng sanh.

 

Bồ Tát dù chưa phá được các ma quân nhưng vẫn luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng, mặc áo giáp nhẫn nhục, dùng mũi tên trí huệ, và cung thiền định bắn phá giặc phiền não.

Như vậy gọi là “Nội Tâm Pháp Nhẫn”.

Hỏi: Vì sao Bồ Tát nhẫn nhục, phá phiền não mà vẫn không tận đoạn kiết sử?

Đáp: Vì Bồ Tát muốn lưu hoặc để độ sanh. Nếu tận đoạn kiết sử, vào A La Hán Đạo thì sẽ như người bị bại chân, chẳng thể đi xa ngàn dặm được, chẳng thể thành tựu “tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn” được. Bồ Tát tu nhẫn, tuy không đoạn sạch kiết sử mà vẫn không tùy theo kiết sử.

Hỏi: Vì sao Bồ Tát không đoạn sạch kiết sử mà vẫn không tùy theo kiết sử?

Đáp: Bồ Tát có Chính Tư Duy, nên tuy còn phiền não mà vẫn chẳng tùy phiền não.

Lại nữa, khi tư duy, Bồ Tát quán KHÔNG, quán VÔ THƯỜNG, nên tuy có thọ 5 dục mà vẫn chẳng có sanh kiết sử.

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây: Một vị đại thần được lệnh vua, đem buộc con dê lớn cho ăn uống đầy đủ trong 3 ngày, trước khi đem làm thịt. Con dê được bổ dưỡng trở nên được béo mập hơn trước nhiều.

Khi giết dê, nhà vua thấy dê béo mập mà chẳng có mỡ, bèn hỏi vị đại thần: “Vì sao con dê này béo mập mà lại chẳng có mỡ?”.

Vị đại thần đáp: “Vì nó sợ chết nên tan hết mỡ trong thân”.

Bồ Tát cũng như vậy. Vì rõ biết Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã là đáng sợ nên chẳng dấy sanh kiết sử. Bồ Tát tuy có vô lượng công đức phước báo, mà tâm vẫn nhu nhuyến, nên các kiết sử mỏng dần, khiến sự tu Nhẫn Nhục được dễ dàng vậy. Ví như sư tử chúa trong rừng thường dung tha các thú nhỏ, để cho sống an ổn, còn cọp beo thì chẳng có rộng lượng như vậy. Vì sao? Vì sư tử chúa có trí tuệ, phân biệt được đúng, sai, còn cọp beo không có trí tuệ nên chẳng được như sư tử chúa vậy.

Bồ Tát quán sân nhuế cùng các hạnh bất thiện khác, đồng thời cũng quán nhẫn nhục cùng các thiện công đức khác, nên thường tu nhẫn, không tùy theo các kiết sử.

Bồ Tát có trí huệ, có thể đoạn sạch kiết sử, rõ biết kiết sử là giặc ở nội tâm, nhưng vì sống vớỉ chúng sanh, nên Bồ Tát vẫn lưu kiết sử để phương tiện độ chúng sanh mà chẳng tùy theo kiết sử. Bồ Tát trói giặc kiết sử lại, không cho buông lung để tu tập các công đức. Ví như bắt được giặc, không sát hại mà chỉ giam kín ở một nơi, khuyến dụ giặc giúp mình tạo sự nghiệp lớn vậy.

Lại nữa, Bồ Tát rõ biết Thật Tướng các pháp nên không dùng các kiết sử để làm các việc ác, mà chỉ dùng vào các thiện công đức.

Lại nữa, Bồ Tát thâm nhập Diệu Pháp, nên ở nơi phiền não chẳng sanh sân, ở nơi công đức chẳng sanh chấp đắm.

Do có trí huệ nên Bồ Tát thường hành động theo trí huệ. Như bài kệ thuyết:

 

Bồ Tát đoạn trừ bất thiện pháp,

Nơi thiện pháp chẳng sanh chấp đắm,

Có công đức phước báo vô lượng,

Thành tựu viên mãn các sự nghiệp.

Bồ Tát đầy đủ lực trí huệ,

Khiến kiết sử không làm não hại,

Rõ biết Thật Tướng hết thảy pháp,

Sanh Tử, Niết Bàn chẳng phải hai.

 

Bởi nhân duyên vậy, mà tuy chưa được Đạo, Bồ Tát ở nơi hết thảy pháp vẫn có thể nhẫn được. Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Lại nữa, Bồ Tát quán hết thảy các pháp đều là Nhất Tướng, nghĩa là chỉ có một tướng, rõ biết các thức, từ Nhãn thức đến Ý thức chỉ là một, cũng rõ biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Khổ Đế Tập Pháp, Khổ Tập Tỳ Trí, Tập Đế Diệt Pháp, Tập Diệt Tỳ Trí, Diệt Đế Đạo Pháp, Diệt Đạo Tỳ Trí v.v…đều là Tự Tướng KHÔNG. Bởi vậy nên rõ biết hết thảy pháp đều là Nhất Tướng.

Lại nữa, Bồ Tát rõ biết tướng Tương Ưng Duyên của hết thảy các pháp, ví như nhãn thức tương ưng duyên với Sắc pháp. Tất cả 6 thức đều như vậy, đều là giả danh. Như vậy các pháp môn, dù vô lượng cũng chỉ là một. Đây là nghĩa Pháp Môn Bất Nhị, là Pháp Nhẫn.

Lại nữa, Bồ Tát quán các pháp, do tương quan đối đãi mà phân ra 2, như: Trong và ngoài, trên và dưới, có và không, thường và vô thường, ngã và vô ngã, hữu lậu và vô lậu, hữu vi và vô vi, hữu đối và vô đối, tâm pháp và phi tâm pháp v.v… Như vậy có vô lượng Nhị Môn. Bồ Tát phá Nhị Môn mà cũng chẳng chấp Nhất Môn mới là Pháp Nhẫn.

Trong Kinh có chép mẩu chuyện sau đây:

Có một vị Tỳ Kheo tư duy, quán sát về 14 nạn vấn của Ngoại Đạo mà chẳng sao thấu rõ được, bèn đến bạch Phật: “Bạch Thế Tôn ! Kính xin Thế Tốn giải rõ cho con nghe về 14 nạn vấn của Ngoại Đạo. Nếu Thế Tôn chẳng giải được con xin được phép đi cầu đạo khác”.

Phật dạy: “Khi ngươi đến xuất gia với ta, cầu Đạo với ta, ngươi có đặt điều kiện phải giải thích rõ 14 nạn vấn của Ngoại Đạo rồi mới xuất gia chăng?”

Vị Tỳ Kheo đáp: “Bạch Thế Tôn! Con chẳng có đặt điều kiện gì cả” Phật dạy: “Vì muốn độ thoát khỏi Sanh Già Bệnh Chết, hay vì muốn hiểu rõ về 14 nạn vấn là các pháp hý luận mà ngươi hỏi ta?”.

Rồi Phật dạy tiếp: “Ý ngươi nghĩ sao? Như có một người bị tên độc bắn trúng, được bà con thân thích đem đi chữa trị, mà người ấy chẳng chịu nghe, chẳng cho nhổ mũi tên ra, lại muốn xem mũi tên ấy từ đâu bắn đến đây, do ai bắn, làm bằng sắt hay làm bằng gỗ, nếu làm bằng gỗ thì gỗ lấy từ loại cây gì, lấy ở khu rừng nào v.v. lại muốn biết rõ loại thuốc độc tẩm đầu mũi tên là loại thuốc gì, lấy ở đâu v.v. Người ấy muốn rõ biết tất cả rồi mới chịu cho đưa đi chữa trị. Hành động như vậy có hợp lý chăng?”

Vị Tỳ Kheo đáp: “Bạch Thế Tôn! Không như vậy được, Người ấy sẽ phải chết trước khi rõ biết các sự việc như vậy”.

Phật dạy: “Ngươi cũng là như vậy. Mũi tên tà kiến đã bắn vào thân ngươi rồi. Ngươi hãy mau mau nhổ mũi tên ấy ra, đừng bỏ phí thời gian để tìm hiểu những điều hý luận vô ích. Đến khi chết đến rồi, ngươi cũng vẫn chưa tìm được Giải Thoát, Giác Ngộ”.

Vị Tỳ Kheo quá hổ thẹn, tư duy, thâm nhập lời Phật dạy, liền đắc quả vị A La Hán.

 

--o0o--

 

Lại nữa, Bồ Tát rõ biết Thật Tướng của các pháp, biết như vậy để không còn chấp pháp nữa. Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Lại nữa, trong Phật pháp có rất nhiều pháp môn thanh tịnh, vi diệu. Nếu nhất tâm tín thọ, không nghi, mới là Pháp Nhẫn.

Như lời Phật dạy “các pháp tuy KHÔNG, nhưng chẳng đoạn, chẳng diệt. Các duyên sanh pháp, tương tục vô thường, ở nơi mỗi niệm đều có sanh tội, phước. Các căn, các huệ chuyển biến không ngừng, niệm niệm không phân biệt, chẳng có trước sau. Trong vô lượng đời các nghiệp cảm nhân duyên là như vậy đó”.

Bồ Tát rõ biết 5 ấm, 12 nhập, 18 giới đều là Tự Tánh KHÔNG, mà chúng sanh mê muội chẳng biết, nên phải lưu chuyển mãi trong các nẻo đường sanh Tử. Như vậy đủ các pháp thậm thâm vi diệu. Bồ Tát tuy chưa được Đạo mà thường thâm tín thọ, không nghi. Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Lại nữa, A La Hán, Bích Chi Phật chỉ cầu Niết Bàn thanh tịnh, còn Bồ Tát tuy chưa được Phật Đạo mà chỉ cầu Nhất Thiết Trí, lại vì thương xót chúng sanh, muốn biết rõ Thật Tướng các pháp. Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Hỏi: Thế nào gọi là “quán Thật Tướng các pháp?”

Đáp: Quán biết các pháp chẳng thể hoại được, như vậy gọi là “quán Thật Tướng các pháp”.

Hỏi: Vì sao nói “Thật Tướng các pháp là tướng chẳng thể phá hoại được?”

Đáp: Thật Tướng các pháp là tướng chẳng thể phá hoại được, như trong Phật pháp thường nói “hết thảy ngôn ngữ đều đoạn, hết thảy tâm hành đều diệt, thanh tịnh như tướng Niết Bàn”.

Thật Tướng các pháp chẳng phải là thường. Vì sao? Vì nếu là thường thì chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng cần phải tu hành, chẳng có Giải Thoát.

Lại nữa, Thật Tướng các pháp cũng chẳng phải là đoạn diệt. Vì sao? Vì nếu là đoạn diệt thì cũng chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng có tăng, chẳng có giảm. Vì các quả báo nhân duyên không mất nên các pháp không đoạn diệt

Hỏi: Vì sao nói “trong Phật pháp hết thảy pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng thật có?”

Đáp: Trong Phật pháp “Thường Pháp” và “Vô Thường Pháp” đều chẳng thật có.

Do duyên sanh pháp là bất sanh, bất diệt, bất tận, ví như hư không, mà phương tiện nói tướng của các pháp là thường.

Lại do 5 ấm, 12 nhập, 18 giới v.v. đều có các tướng sanh, trú, diệt, mà phương tiện nói tướng của các pháp là vô thường.

Hỏi: Vì sao nói Thường và Vô Thường đều chẳng thật có?”

Đáp: Các bậc Thánh dùng 2 lối diễn tả ý nghĩa. Đó là: Phương tiện ngữ và Chân thật ngữ.

Ví như, vì chúng sanh chấp “thường” nên Phật phương tiện nói “vô thường” để đối trị. Nói “vô thường” để chúng sanh nhàm chán, không còn chấp đắm dục lạc thế gian.

Phật muốn chúng sanh ly dục nên thuyết kệ rằng:

 

Nếu quán pháp Vô Sanh,

Tức ly được pháp Sanh.

Nếu quán pháp Vô Vi,

Tức ly pháp hữu vi.

 

Hỏi: Thế nào gọi là “Pháp sanh?”

Đáp: Pháp do duyên hòa hợp mà có nên gọi tà Pháp Sanh. Do duyên hòa hợp mà có nên là vô thường, là không tự tại. Do duyên hòa hợp mới có các tướng Sanh, Già, Bệnh, Chết… Đã có tướng, thì tướng sẽ phải bị hoại.  Như vậy Pháp Sanh là pháp hữu vi.

Nên biết, do Đối Trị Tất Đàn mà nói có “thường”, “vô thường”, nhưng cả hai đều chẳng phải là Thật Tướng. Nói “Thường” hay nói “Vô Thường” cũng đều lầm lỗi như nhau.

Lại nữa, nói “Chẳng phải thường”, hay nói “chẳng phải vô thường” cũng không thể được. Vì sao ? Vì nói “chẳng phải thường” là nhằm phá “Vô thường”, nói “Chẳng phải vô thường” nhằm phá “thường” vậy. Cũng ví như nói “chẳng phải có” nhằm phá “không”, nói “chẳng phải không” nhằm phá “có”. CÓ và KHÔNG đều chẳng thật. Cũng như vậy, “thường” và “vô thường” đều là những tuớng hữu vi, chẳng phải là Thật Tướng.

Hỏi: Trong Phật pháp có nói về “Vô tướng”, chẳng phải CÓ, chẳng phải KHÔNG. Ngoại Đạo cũng có nói đến “chẳng phải CÓ, chẳng phải KHÔNG”. Như vậy có gì sai khác?

Đáp: Phật pháp nói “Thật Tướng các pháp là chẳng phải CÓ chẳng phải KHÔNG”, nhưng chẳng có trú, chẳng có chấp.

Còn Ngoại Đạo tuy cũng nói về “chẳng phải CÓ, chẳng phải KHÔNG”, nhưng có trú chấp, rơi vào hý luận.

Lại nữa, Phật pháp tùy duyên mà nói “chẳng phải CÓ, chẳng phải KHÔNG” mà chẳng có chấp đắm nên chẳng có thể phá hoại được.

Tất cả 14 nạn vấn của Ngoại Đạo đều chẳng thật có dẫn đến 62 tà kiến chấp của Ngoại Đạo cũng đều chẳng thật có.

Phải tin nơi Phật pháp thanh tịnh thì tâm mới được thanh tịnh, mới chẳng còn bị các tướng bên ngoài làm lay chuyển. Như vậy mới gọi là Pháp Nhẫn.

Lại nữa, CÓ và KHÔNG là hai bên đối đãi. Chấp “có Sanh” là chấp “hữu tướng”, chấp “có hoại” là chấp “vô tướng”. Chúng sanh phần nhiều chấp cả hai bên, mà cả hai bên đều chẳng thật có. Vì sao? Vì chấp trước CÓ nay KHÔNG thì đọa về đoạn kiến. Hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp, mà giả danh CÓ. Do duyên hòa hợp mà có tướng sanh, mà tướng sanh cũng là giả danh, là bất khả đắc vậy.

Hỏi: Vì sao nói “Các pháp do duyên hòa hợp sanh, chỉ là giả danh có, và đều là bất khả đắc cả?”

Đáp: Các pháp do duyên hòa hợp mà giả danh có, nhưng thật ra chẳng do ai làm ra cả. Vì nếu pháp là thật có thì chẳng cần dùng đến tâm thức để hay biết, mà đã dùng tâm thức để hay biết thì có cũng chẳng phải là CÓ vậy. Vì như tướng cứng do thân căn xúc chạm mà biết. Nếu chẳng có thân căn thì cũng chẳng có tướng cứng vậy.

Hỏi: Dù thân căn có biết, dù thân căn không biết thì đất đá vẫn thường có tướng cứng. Như vậy vì sao nói “Nếu chẳng có thân căn thì cũng chẳng có tướng cứng?”

Đáp: Vì do trước đã từng nghe nói đến tướng cứng, nên nay mới biết tướng cứng. Nếu như trước đó chẳng bao giờ nghe nói đến tướng cứng, thì nay cũng chẳng có tuớng cứng.

Lại nữa, nếu nói “tướng của đất, của đá là thường cứng”, thì vì sao pha trộn với một số chất khác, đất đá có thể trở thành mềm ?

Lại nữa, như tướng của nước là lỏng, nhưng vì sao khi gặp khí lạnh, nước lại đông thành nước đá? Vì sao khi được đun sôi, nước lại bốc thành hơi nước? Như vậy vật chất chẳng có tướng nhất định.

Các nhà Bác Học có thể biến đổi chất này thành chất khác, Có làm thành KHÔNG, KHÔNG làm thành CÓ.

Các bậc Hiền Thánh, khi nhập thiền định, có thể khiến nước biến thành đất đá, đất đá biến thành nước v.v...

Như vậy các pháp đều có thể biến chuyển. Ví như do tham sân, si mà khởi chấp có, rồi sanh ra các kiến phược, khởi đấu tranh. Bởi vậy nên mới có Sanh Pháp.

Lại nữa, do mê muội mà chúng sanh đắm chấp pháp, chẳng phải là pháp đã khiến chúng sanh đắm chấp vậy. Nên biết, Pháp có hai thứ. Đó là: Pháp Sắc và Pháp Vô Sắc.

Pháp Sắc khi chia chẻ đến cực vi trần, sẽ tán diệt, chẳng còn gì nữa. Như vậy là vô thường, là KHÔNG, nên nói là chẳng thật có. Thời gian của một lần khảy móng tay có đến 60 sát na, trong đó tâm tham, sân, si sanh diệt tương tục. Thế nhưng, khi dùng trí huệ quán thì tín tâm thanh tịnh cũng sanh diệt tương tục như vậy. Quán tâm sanh diệt như quán dòng nước chảy tương tục, như quán ngọn đèn cháy do dầu tương tục thấm vào tim đèn, lại quán các pháp thiện, pháp ác bình đẳng. Quán được như vậy thì chẳng đọa về hai chấp “CÓ, KHÔNG”.

Bồ Tát có tín lực vững mạnh mới biết như vậy, nên gọi là Tín Nhẫn.

Lại nữa, Bồ Tát do thiền định mà tâm được sáng suốt, nên chẳng thấy có pháp nào có tướng nhất định cả.

Bồ Tát ở nơi các pháp đều chẳng thọ, chẳng nghi, thường nhẫn, nên gọi là Pháp Nhẫn.

Phàm phu do vô minh che tâm mà đối với các pháp hữu vi là các pháp vô thường, khổ, vô ngã, chấp là thường, là lạc là ngã, đối với các pháp Tự Tướng KHÔNG mà chấp là thật có. Do chuyển tướng các pháp nên có chấp “CÓ – KHÔNG” vậy.

Bồ Tát dùng trí huệ phá được vô minh, rõ biết Thật Tướng các pháp, rõ biết được Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã nên chẳng còn chấp pháp.

Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Lại nữa, Bồ Tát rõ biết các pháp từ vô thỉ đến nay chuyển biến tương tục, không ngừng, nên chẳng còn chấp pháp. Như vậy gọi là Pháp Nhẫn.

Hỏi: Nếu nói “Các pháp từ vô thỉ đến nay vẫn thường KHÔNG, thì nay cũng là KHÔNG. Như vậy là ác tà kiến rồi. Vì sao lại cho là Pháp Nhẫn?

Đáp: Nếu quán các pháp rốt ráo là KHÔNG, mà tâm chấp tướng KHÔNG ấy mới là ác tà kiến.

Nếu quán các pháp rốt ráo KHÔNG, mà tâm chẳng chấp tướng KHÔNG ấy là chẳng có sanh ác tà kiến. Như vậy mới gọi là Pháp Nhẫn.

 

--o0o--

 

Bồ Tát tu Nhẫn Nhục chẳng thấy có pháp Nhẫn Nhục, chẳng thấy mình đang hành Nhẫn Nhục, cũng chẳng thấy có người đang đến mắng nhiếc mình, đến làm hại mình. Có đủ cả 3 pháp thanh tịnh như vậy, mới gọi là Thanh Tịnh Pháp Nhẫn.

Như vậy là Bồ Tát trú trong Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật, đầy đủ Sẵn Đề Ba la Mật.

Hỏi: Thế nào gọi là “Giữ tâm bất động?”

Đáp: Bồ Tát trú trong Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật, đầy đủ Sẵn Đề Ba la Mật nên tâm chẳng còn chấp đắm pháp, chẳng khởi sân nhuế, chẳng nói lời ác, chẳng làm điều ác, tâm thường thanh tịnh, bất động.

 

Bài thuyết của Đại Trí Độ Luận bổ túc cho chánh văn như thế là quá đầy đủ, nên không còn gì để nói thêm nữa. Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý đến pháp quán KHÔNG ở cuối phẩm này. Nếu quán thành công thì tâm thường được thanh tịnh bất động hay nói khác là được tịnh hạnh.

 

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần mười ba,

(Hội thứ XIII).

 

Tại sao Phật chọn Mạn Từ Tử (hay Phú Lâu Na, Purna hay Punna) làm người thuyết giảng an nhẫn Ba la mật trong pháp hội thứ XIII này? Vì Mãn Từ Tử là một trong mười đại đệ tử có giới hạnh an nhẫn Ba la mật không ai bằng. Câu chuyện sau đây chứng tỏ điều đó:

Lúc Phật còn tại thế, Mãn Từ Tử xin Phật truyền đạo tại xứ Chronaparanta, một xứ nằm ở miền Tây Ấn, nổi tiếng thô bạo.

Phật hỏi Phú lâu na:

- Ông đã phát nguyện đem đạo pháp của ta đến truyền bá cho dân xứ ấy, nhưng nếu họ không nghe, mà còn dùng lời hung ác mắng chửi ông, ông nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ còn hiền thiện, vì họ không dùng cây đánh đập con hay lấy đá ném con.

Phật hỏi tiếp:

- Nếu họ lấy cây đánh hay dùng đá ném ông, ông nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ cũng vẫn còn hiền thiện, họ không chém giết, đánh đập con đến chết.

Phật lại hỏi:

- Nếu họ chém giết hay đánh đập ông đến chết, ông nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Họ là ân nhân của con, vì nhờ họ con thoát khỏi thân đau khổ, bỏ được cái bọc thúi tha, từ biệt thế gian khốn nạn này.

Đức Phật khen:

- Hay lắm! Ông nhẫn nhục được như vậy thì mới có thể qua xứ đó truyền đạo được.

Mãn Từ Tử qua xứ Chronaparanta truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy qui đầu Phật đạo rất đông. Sau ông nhập Vô dư y Niết bàn tại xứ này, về sau Phật thọ ký cho ông tương lai sẽ thành Phật, hiệu là Pháp minh Như lai(Kinh Phú Lâu Na).

An nhẫn như ông Mãn Từ Tử mới thật đúng nghĩa an nhẫn Ba la mật. Người ta trừng (mắt) mình thì mình trừng lại, người ta cắn mình thì mình cắn lại (Oeil pour oeil, dent pour dent) tức “ăn miếng trả miếng” thì ai cũng như ai. Thánh Kitô dạy rằng “Ai vả má con bên này, thì chìa má bên kia”. Đó mới gọi là an nhẫn.

Phật đạo còn đi xa hơn thế nữa khi nói “phải khởi tâm từ bi để báo ơn ân đức”, vì có bị đánh đập, lăng nhục mà an nhẫn tức chịu đựng mọi thử thách thì công hạnh mới vuông tròn. Không có lửa thì không thể thử được vàng. Vì vậy, người an nhẫn không những là người có lòng từ bi, mà còn là người có khí phách cao độ, đáng gọi là Thánh nhân.

Chúng ta ngày ngày có thể ngâm 4 câu kệ sau đây để tự răn:

 

“Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia từng thử tận

Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tiêu vạn họa nhất tề tiêu

Mặc, mặc, mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc

Hưu, hưu, hưu cái thế công danh bất tự do”.

 

Dịch:

 

Nhẫn, nhẫn, nhẫn thì những điều oan gia trái chủ từ đây dứt tận

Nhịn, nhịn. nhịn thì ngàn tai muôn họa thảy đều tiêu

Nín, nín, nín thì cảnh giới thần tiên do đây mà được

Thôi, thôi, thôi công danh to lớn chỉ làm mất tự do thôi.

 

Biết như vậy thì Nhẫn độ chính là điều phục!

 

Sau đây là hai thí dụ khác biệt về nhẫn nhục của Thánh đế so với nhẫn nhục của Tục đế:

1- Nhưng nhẫn có nhiều loại. Hàn Tín luồn trôn tên thất phu bán thịt giữa chợ bị mọi người cười chê, trở thành một người hùng, cùng với Trương LươngTiêu Hà, hợp thành “Hán sơ tam kiệt”, có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ, lập nên nhà Hán trị vì hơn 400 năm.

2- Nước Việt khi xưa có một vì vua tên là Câu Tiển biết đánh không lại quân Ngô, nên hàng phục Phù Sai, chịu làm thân nô lệ để cứu nước. Mỗi lần Phù Sai đi chơi, bắt Câu Tiển dắt ngựa. Người nước Ngô trông thấy, cười bảo nhau: Vua nước Việt đó! Câu Tiển cắn răng gầm mặt, không nói không rằng. Câu tiển phải nằm gai nếm mật nhiều năm chờ ngày phục hận. Có lần vua Phù Sai lâm bệnh, Câu Tiển nếm phân Phù Sai để tỏ lòng trung thành. Phù Sai tin là Câu Tiển trung thành không tạo phản, nên tha. Câu Tiển trở về nước Việt chiêu binh mãi võ, luyện tập binh sĩ, sau đó đánh bại được Phù Sai.

Gương kiên nhẫn của Hàn Tín hay Câu Tiển đáng ca ngợi, mặc dù được xem là nhẫn nhục hơn người, nhưng nhẫn nhục đó có hậu ý, nên không được xem là an nhẫn Ba la mật. An nhẫn Ba la mật là lòng từ bi, không sân hận, kiên trì ẩn nhẫn chịu đựng mọi thử thách bất cứ trong tình huống nào, không oán trách câm hận, giống như Phú Lâu Na. Đó mới chính là an nhẫn Ba la mật.

Trên đây chúng ta đã trì tụng xong ba pháp: Bố thí, Trì giới, An nhẫn Ba la mật. Đó là ba pháp tu hết sức khó khăn. Chỉ cần thực thi một trong ba Ba la mật này cũng được lên cõi trời, hưởng phúc lạc sung sướng, nói chi đến việc tu đủ ba pháp tu bố thí, trì giới, an nhẫn. Đó chính là tu phước. Tập 1, cuốn 11, chương 18: “Tán Thán Đàn Ba La Mật”, Đại Độ Trí Luận. Nói: “… người đại tuệ, bậc hữu tâm hay giác ngộ, biết thân như huyễn, tiền của không thể bảo toàn; vạn vật vô thường, chỉ có phước đức là có thể nương cậy, đưa người ra khỏi khổ, là bến thông đạo lớn”.

Tóm lại, sân hận là tội lớn nhất trong các tội, tu nhẫn nhục để đoạn cái nhân này. Nên nói tu nhẫn nhục để độ sân hận.

 

Kế tiếp, chúng ta học đến pháp tu tinh tấn Ba la mật. Tinh tấn là sức mạnh tinh thần cần thiết để vượt qua mọi thử thách thế gian. Người tinh tấn mới có thể thành công trong Đạo và Đời. Kẽ giải đãi tự độ còn khó hiến chi độ sanh. Nên tinh tấn được xếp loại là tu huệ.

 

 

Đến đây chấm dứt Hội thứ XIII, ĐBN.

 

---o0o---

 

 



Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com