- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM "BIỆN ĐẠI THỪA"
Phần sau quyển 51 cho đến phần đầu quyển 56, Hội thứ I, ĐBN.
Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng
Gợi ý:
Nếu so sánh Kinh ĐBN với Kinh MHBNBLMĐ, thì phẩm “Biện Đại thừa” của Kinh ĐBN bằng 4 phẩm của Kinh MHBNBLMĐ cộng lại:
1. Phần sau Q.51 đến cuối Q.52, phẩm “Biện Đại Thừa” của Kinh ĐBN tương đương với phẩm “Vấn Thừa”của Kinh MHBNBLMĐ.
2. Phần cuối Q.52 đến cuối Q.53, phẩm “Biện Đại Thừa” của Kinh ĐBN tương đương với phẩm “Quảng Thừa” của Kinh MHBNBLMĐ.
3. Phần cuối Q.53 đến phần đầu Q.55, phẩm “Biện Đại Thừa” của Kinh ĐBN tương đương với phẩm “Phát Thú” của Kinh MHBNBLMĐ.
4. Phần sau Q.55 đến đầu Q.56, phẩm “Biện Đại Thừa”của Kinh ĐBN tương đương với phẩm “Xuất Đáo” của Kinh MHBNBLMĐ.
Kinh ĐBN chỉ có một phẩm tên là “Biện Đại Thừa” nhưng lại bằng bốn phẩm “Vấn Thừa”, “Quảng Thừa”, “Phát Thú” và “Xuất Đáo” của Kinh MHBNBLMĐ nhập lại.
Thông thường chúng tôi theo sự phân chia này để chiết giải. Nhưng ở đây chúng tôi không làm như vậy, mà chúng tôi dựa vào câu hỏi và câu trả lời trong phần đầu của phẩm “Biện Đại Thừa” giữa cụ thọ Thiện Hiện và Phật để chiết giải cho phù hợp với kinh văn.
Cũng nên nói trước rằng phẩm “Biện Đại Thừa” đa số nói nhiều về các pháp mầu Phật đạo mà chúng ta đã từng trì tụng trong phần thứ I Tổng luận rồi. Nếu độc giả đã nghiên cứu kỹ phần thứ I Tổng luận rồi, thì đọc tụng thọ trì phẩm này chẳng có gì khó khăn!
Tóm lược:
Toàn phẩm “Biện Đại Thừa” nằm trong câu hỏi sau đây của Cụ thọ Thiện Hiện (phần sau quyển 51, ĐBN):
“Bạch Thế Tôn! Làm sao biết được tướng Đại thừa của đại Bồ Tát? Làm sao biết được sự phát tâm hướng đến Đại thừa của đại Bồ Tát? Đại thừa đó từ đâu mà ra, đến trụ ở nơi nào, Đại thừa ấy làm thế nào mà trụ, Ai nương Đại thừa ấy mà xuất hiện?”
Xin chú ý: Câu hỏi này được Phật chia làm ba đoạn khác nhau để trả lời:
1. Đoạn một:
Để trả lời cho câu hỏi: “Làm sao biết tướng Đại thừa của đại Bồ Tát?” Ta có thể chia đoạn này làm hai phân đoạn:
1- Phân đoạn một:
Phần sau Q.51 đến cuối Q.52, Hội thứ I, ĐBN,
(tương đương với phẩm “Vấn Thừa” quyển thứ 05,
Kinh MHBNBLMĐ).
Phật trả lời Cụ thọ: “Sáu pháp Ba la mật, mười tám pháp không và các tam muội là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát”.
1/. Sáu pháp Ba la mật(1):
- Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự bố thí tất cả sở hữu trong ngoài(tiền của và thân mạng), cũng khuyên người khác bố thí sở hữu trong ngoài. Duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là Bố thí Ba la mật của đại Bồ Tát.
- Nếu đại Bồ Tát phát tâm tự an trú mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác an trú muời thiện nghiệp đạo, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là tịnh giới Ba la mật của đại Bồ Tát.
- Nếu đại Bồ Tát phát tâm tự viên mãn an nhẫn, cũng khuyên người khác viên mãn an nhẫn, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là an nhẫn Ba la mật của đại Bồ Tát.
- Nếu đại Bồ Tát phát tâm đối với sáu phép Ba la mật, tự siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, cũng khuyên người khác đối với sáu phép Ba la mật, siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là tinh tấn Ba la mật của đại Bồ Tát.
- Nếu đại Bồ Tát phát tâm tự mình có thể khéo léo nhập vào các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, hoàn toàn chẳng theo thế lực ấy mà thọ sanh, cũng có thể khuyên người khác nhập vào các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là tịnh lự Ba la mật của đại Bồ Tát.
- Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có khả năng tự quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, cũng khuyên người khác quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao thì đó là Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát.
Nên biết, đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
2/. Mười tám pháp không(2)là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát. Đó là:
- Nội không: Nội nghĩa là nội pháp, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Trong đó, nhãn gắn liền với cái không của nhãn. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý gắn liền với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là nội không.
- Ngoại không: Ngoại nghĩa là ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong đó, sắc gắn liền với cái không của sắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thanh, hương, vị, xúc, pháp gắn liền với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là ngoại không.
- Nội ngoại không: Nội ngoại nghĩa là nội, ngoại pháp, tức là nội lục xứ, ngoại lục xứ. Trong đó, nội lục xứ gắn liền với cái không của ngoại lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Ngoại lục xứ gắn liền với cái không của nội lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là nội, ngoại không.
- Không không: Không nghĩa là tất cả pháp đều không. Cái không này gắn liền với cái không của không. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là không không.
- Đại không: Đại nghĩa là mười phương, tức là Đông, Nam, Tây, Bắc, Tứ vi, Thượng, Hạ. Trong đó, phương Đông gắn liền với cái không của phương Đông. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Phương Nam, Tây, Bắc, Tứ vi, Thượng, Hạ gắn liền với cái không của phương Nam, Tây, Bắc, Tứ vi, Thượng, Hạ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là đại không.
- Thắng nghĩa không: Thắng nghĩa nghĩa là Niết bàn. Thắng nghĩa này gắn liền với cái không của thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là thắng nghĩa không.
- Hữu vi không: Hữu vi nghĩa là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Trong đó, Dục giới gắn liền với cái không của Dục giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Sắc, Vô Sắc giới gắn liền với cái không của Sắc, Vô Sắc giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là hữu vi không.
- Vô vi không: Vô vi nghĩa là không sanh, không trụ, không dị, không diệt. Vô vi này gắn liền với cái không của vô vi. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là vô vi không.
- Tất cánh không: Tất cảnh nghĩa là cái rốt cùng của các pháp, chẳng thể nắm bắt được. Cái rốt cùng này gắn liền với cái không rốt cùng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là tất cánh không.
- Vô tế không: Vô tế nghĩa là không có ranh giới giữa cái khởi đầu, ở giữa và sau cùng, có thể nắm bắt được, và không có cái ranh giới giữa đi và đến, có thể nắm bắt được. Vô tế này gắn liền với cái không của vô tế. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là vô tế không.
- Tán không: Tán nghĩa là có buông, có bỏ, có xả, có thể nắm bắt được. Tán này gắn liền với cái không của tán. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là tán không.
- Vô biến dị không: Vô biến dị nghĩa là không buông, không bỏ, không xả, có thể nắm bắt được. Cái vô biến dị này gắn liền với cái không của vô biến dị. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là vô biến dị không.
- Bản tánh không: Bản tánh nghĩa là bản tánh của tất cả pháp, hoặc tánh của pháp hữu vi, hoặc tánh của pháp vô vi, đều chẳng phải Thanh văn làm ra, chẳng phải Độc giác làm ra, chẳng phải Bồ Tát làm ra, chẳng phải Như Lai làm ra, cũng chẳng phải ai khác làm ra. Bản tánh này gắn liền với cái không của bản tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là bản tánh không.
- Tự tướng không: Tự tướng nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, như biến ngại là tự tuớng của sắc, lãnh nạp là tự tướng của thọ, thủ tượng là tự tướng của tưởng, tạo tác là tự tướng của hành, liễu biệt là tự tướng của thức; hoặc là tự tướng của pháp hữu vi, hoặc là tự tướng của pháp vô vi, cũng như vậy. Tự tướng này gắn liền với cái không của tự tướng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là tự tướng không.
- Cộng tướng không: Cộng tướng nghĩa là tướng chung của tất cả pháp. Như khổ là cộng tướng của pháp hữu lậu, vô thường là cộng tướng của pháp hữu vi; không, vô ngã là cộng tướng của tất cả pháp, có vô lượng cộng tướng như vậy. Cộng tướng này gắn liền với cái không của cộng tướng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là cộng tướng không.
- Nhất thiết pháp không: Nhất thiết pháp nghĩa là pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hoặc là pháp hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi. Nhất thiết pháp này gắn liền với cái không của nhất thiết pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là nhất thiết pháp không.
- Bất khả đắc không: Bất khả đắc nghĩa là trong tất cả pháp này, chẳng thể nắm bắt được, hoặc quá khứ chẳng thể nắm bắt được, vị lai chẳng thể nắm bắt được, hiện tại chẳng thể nắm bắt được; hoặc trong quá khứ không có vị lai hiện tại, có thể nắm bắt được; hoặc trong vị lai không có quá khứ, hiện tại, có thể nắm bắt được; hoặc trong hiện tại không có quá khứ, vị lai, có thể nắm bắt được. Bất khả đắc này gắn liền với cái không của bất khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là bất khả đắc không.
- Vô tánh không: Vô tánh nghĩa là không có một mảy may tánh có thể nắm bắt được. Vô tánh này gắn liền với cái không của vô tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là vô tánh không.
- Tự tánh không: Tự tánh nghĩa là tự tánh năng hòa hợp của các pháp. Tự tánh này gắn liền với cái không của tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là tự tánh không.
- Vô tánh tự tánh không: Vô tánh tự tánh nghĩa là các pháp không có tánh năng hòa hợp nhưng có tự tánh sở hòa hợp. Vô tánh tự tánh này gắn liền với cái không của vô tánh tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Đó là vô tánh tự tánh không.
Hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh; vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh; tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh; tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh.
Thế nào là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh?
- Hữu tánh nghĩa là năm uẩn. Hữu tánh này gắn liền với cái không của hữu tánh. Vì tánh sanh của năm uẩn chẳng thể nắm bắt được. Đó là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh.
Thế nào là vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh?
- Vô tánh nghĩa là vô vi. Vô tánh này gắn liền với cái không của vô tánh. Đó là vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh.
Thế nào là tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh?
- Nghĩa là tự tánh của tất cả pháp đều là không. Không này chẳng phải do trí làm ra, chẳng phải do kiến làm ra, cũng chẳng phải do cái gì khác làm ra. Đó là tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh.
Thế nào là tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh?
- Nghĩa là hoặc Phật xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, tất cả pháp, pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, tánh bất hư vọng, tánh bất biến dị, thật tế, đều gắn liền với tha tánh nên là không. Đó là tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh.
Nên biết, đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
3/. Các tam muội(3) cũng gọi là tướng Đại thừa của Bồ Tát.
Đó là Tam ma địa Kiện hành, Tam ma địa Bảo ấn, Tam ma địa Sư tử du hý, Tam ma địa Diệu nguyệt, Tam ma địa Nguyệt tràng tướng, Tam ma địa Nhất thiết pháp dũng, Tam ma địa Quán đỉnh, Tam ma địa Pháp giới quyết định, Tam ma địa Quyết định tràng tướng, Tam ma địa Kim cang dụ, Tam ma địa Nhập pháp ấn, Tam ma địa Vương, Tam ma địa Thiện an trú, Tam ma địa Thiện lập định vương, Tam ma địa Phóng quang, Tam ma địa Vô vong thất, Tam ma địa Phóng quang vô vong thất, Tam ma địa Tinh tấn lực, Tam ma địa Trang nghiêm lực, Tam ma địa Đẳng dũng, Tam ma địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, Tam ma địa Nhập nhất thiết danh tự quyết định, Tam ma địa Quán phương, Tam ma địa Tổng trì ấn, Tam ma địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, Tam ma địa Vương ấn, Tam ma địa Biến phú hư không, Tam ma địa Kim cang luân, Tam ma địa Tam luân thanh tịnh, Tam ma địa Vô lượng quan, Tam ma địa Vô trước vô chướng, Tam ma địa Đoạn chư pháp luân, Tam ma địa Khứ xả trân bửu, Tam ma địa Biến chiếu, Tam ma địa Bất thuấn, Tam ma địa Vô tướng trụ, Tam ma địa Bất tư duy, Tam ma địa Hàng phục tứ ma, Tam ma địa Vô cấu đăng, Tam ma địa Vô biên quang, Tam ma địa Phát quang, Tam ma địa Phổ chiếu, Tam ma địa Tịnh kiên định, Tam ma địa Sư tử phấn tấn, Tam ma địa Sư tử tần thân, Tam ma địa Sư tử khiếm khư, Tam ma địa Vô cấu quang, Tam ma địa Diệu lạc, Tam ma địa Điển đăng, Tam ma địa Vô tận, Tam ma địa Tối thắng tràng tướng, Tam ma địa Đế tướng, Tam ma địa Thuận minh chánh lưu, Tam ma địa Cụ oai quang, Tam ma địa Ly tận, Tam ma địa Bất khả động chuyển, Tam ma địa Tịch tịnh, Tam ma địa Vô hà khích, Tam ma địa Nhật đăng, Tam ma địa Tịnh nguyệt, Tam ma địa Tịnh nhãn, Tam ma địa Tịnh quang, Tam ma địa Nguyệt đăng, Tam ma địa Phát minh, Tam ma địa Ưng tác bất ưng tác, Tam ma địa Trí tướng, Tam ma địa Kim cang man, Tam ma địa Trụ tâm, Tam ma địa Phổ minh, Tam ma địa Diệu an lập, Tam ma địa Bửu tích, Tam ma địa Diệu pháp ấn, Tam ma địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh, Tam ma địa Khí xả trần ái, Tam ma địa Pháp dũng viên mãn, Tam ma địa Nhập pháp đỉnh, Tam ma địa Bửu tánh, Tam ma địa Xả huyên tránh, Tam ma địa Phiêu tán, Tam ma địa Phân biệt pháp cú, Tam ma địa Quyết định, Tam ma địa Vô cấu hạnh, Tam ma địa Tự bình đẳng tướng, Tam ma địa Ly văn tự tướng, Tam ma địa Đoạn sở duyên, Tam ma địa Vô biến dị, Tam ma địa Vô phẩm loại, Tam ma địa Nhập danh tướng, Tam ma địa Vô sở tác, Tam ma địa Nhập quyết định danh, Tam ma địa Vô tướng hạnh, Tam ma địa Ly ế ám, Tam ma địa Cụ hành, Tam ma địa Bất biến động, Tam ma địa Độ cảnh giới, Tam ma địa Tập nhất thiết công đức, Tam ma địa Vô tâm trụ, Tam ma địa Quyết định trụ, Tam ma địa Tịnh diệu hoa, Tam ma địa Cụ giác chi, Tam ma địa Vô biên biện, Tam ma địa Vô biên đăng, Tam ma địa Vô đẳng đẳng, Tam ma địa Siêu nhất thiết pháp, Tam ma địa Quyết phán chư pháp, Tam ma địa Tản nghi, Tam ma địa Vô sở trụ, Tam ma địa Nhất tướng trang nghiêm, Tam ma địa Dẫn phát hành tướng, Tam ma địa Nhất hành tướng, Tam ma địa Ly chư hành tướng, Tam ma địa Diệu hạnh, Tam ma địa Đạt chư hữu để viễn ly, Tam ma địa Nhập nhất thiết thi thiết ngữ ngôn, Tam ma địa Kiên cố bảo, Tam ma địa Ư nhất thiết pháp vô sở thủ trước, Tam ma địa Điển diệm trang nghiêm, Tam ma địa Trừ khiển, Tam ma địa Vô thắng, Tam ma địa Pháp cự, Tam ma địa Tuệ đăng, Tam ma địa Thú hướng bất thối chuyển thần thông, Tam ma địa Giải thoát âm thanh văn tự, Tam ma địa Cự sí nhiên, Tam ma địa Nghiêm tịnh tướng, Tam ma địa Vô tướng, Tam ma địa Vô trược nhẫn tướng, Tam ma địa Cụ nhất thiết diệu tướng, Tam ma địa Cụ tổng trì, Tam ma địa Bất hỷ nhất thiết khổ lạc, Tam ma địa Vô tận hành tướng, Tam ma địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tà tánh, Tam ma địa Đoạn tắng ái, Tam ma địa Ly vi thuận, Tam ma địa Vô cấu minh, Tam ma địa Cực kiên cố, Tam ma địa Mãn nguyệt tịnh quang, Tam ma địa Đại trang nghiêm, Tam ma địa Vô nhiệt điển quang, Tam ma địa Năng chiếu nhất thiết thế gian, Tam ma địa Năng cứu nhất thiết thế gian, Định bình đẳng tánh, Tam ma địa Vô trần hữu trần bình đẳng lý thú, Tam ma địa Vô tránh hữu tránh bình đẳng lý thú, Tam ma địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc, Tam ma địa Quyết định an trụ chơn như, Tam ma địa Khí trung dũng xuất, Tam ma địa Thiêu chư phiền não, Tam ma địa Đại trí tuệ cự, Tam ma địa Xuất sanh thập lực, Tam ma địa Khai xiển, Tam ma địa Hoại thân ác hạnh, Tam ma địa Hoại ngữ ác hạnh, Tam ma địa Hoại ý ác hạnh, Tam ma địa Thiện quán sát, Tam ma địa Như hư không, Tam ma địa Vô nhiễm trước như hư không. Có vô lượng trăm ngàn Tam ma địa như vậy, là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.(4)
Thích nghĩa cho phân đoạn 1- này:
(1). và (2). Các mục này đã thích nghĩa ở phần thứ I Tổng luận nói về “Các Pháp Mầu Phật Đạo” rồi. Tuy nhiên trong phần lược giải dưới đây chúng tôi giải thích sơ các pháp tu này một lần nữa đề độc giả nắm vũng vân đề.
(3). Tam Muội (Phạm, Pàli: Samàdhi, cũng gọi Tam ma địa, Tam ma đề. Hán dịch: Đẳng trì, Định, Chính định, Định ý, Điều trực định, Chính tâm hành xứ). Chỉ cho trạng thái thiền định, an trú tâm ở một chỗ, một cảnh. Trong Kinh Phật, từ Samàdhi được dịch là Đẳng trì thời, đẳng là giữ cho tâm được bình đẳng an lành, không để cho lao xao, lay động; trì là chuyên tâm ở một cảnh, không tán loạn, gọi là Tâm nhất cảnh tính. Việc tu hành cốt yếu là chuyên tâm chú ý ở một chỗ, không để tán loạn mà phải giữ cho tâm an tĩnh, trạng thái này gọi là Tam muội. Khi đạt đến trạng thái Tam muội thì liền phát khởi trí tuệ mà khai ngộ chân lý, vì thế khi dùng Tam muội này tu hành mà đạt được cảnh giới Phật thì gọi là Tam muội phát đắc hoặc phát định. (Phỏng theo Từ điển Phật Quang).
(4). Có cả trăm ngàn tam muội như vậy, không thể liệt kê hết, chúng tôi chỉ lược tóm một số các Tam ma địa tượng trưng như trên. Kinh chỉ tán tụng về công dụng mầu nhiệm của các Tam muội này hơn là trình bày kỹ thuật tu tập và phương pháp hành trì, nên chúng tôi chỉ nói phớt qua. Học tất cả Phật pháp và luôn luôn sống trong chánh định thì đạt được các Tam muội này chăng? Khi chú ý tập trung cao độ thì có thể đạt được tất cả các định và các Tam muội cũng như các thần thông. Đọc phẩm “Bồ Tát Thường Đề”, quyển 398, Hội thứ I, ĐBN sẽ có dịp thấy vị Bồ Tát này tại sao phát các định, các Tam muội và các thần thông.
Lược giải:
(Cho phân đoạn một)
Nói tóm lược, tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là: Sáu pháp Ba la mật, 18 pháp không và các Tam muội. Nếu Bồ Tát không tu hành đầy đủ các pháp trên thì không được gọi là Bồ Tát, nói chi đến việc hoàn thành đại nguyện.
1. Sáu pháp Ba la mật là phương tiên, là kỹ thuật tu hành (của tam vô lậu học) và cũng là giáo lý phát xuất từ Tứ vô lượng tâm: Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Không có Bồ Tát, không có Phật, không có Đại thừa, không có Phật đạo nếu không có sáu Ba la mật và vì vậy sáu pháp này được coi là đáo bỉ ngạn, nghĩa là sẽ độ chúng sanh nào đã tu viên mãn sáu pháp Ba la mật từ bờ triền phược bên này sẽ sang bờ giải thoát bên kia! Hầu như bất cứ Hội nào trong 600 quyển Đại Bát Nhã, đều xiển dương sáu Ba la mật này. Nhưng đặc biệt hơn nữa là sáu Hội cuối cùng trước khi bế mạc giảng thuyết về Đại Bát Nhã (từ Hội thứ XI cho đến Hội thứ XVI) đã diễn nói về lục Ba la mật này. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của 6 pháp tu này trong việc tầm cầu Giác ngộ.
2. Kế đến trong phẩm này Phật thuyết 18 pháp Không là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.
Các pháp Không này đã được giải thích tỉ mỉ ở các phẩm trước, nhất là trong “Phần thứ I Tổng luận” rồi. Tuy nhiên, vì tánh cách quan trọng của nó trong việc giải thích “nhất thiết pháp không”, chủ trương vô tiền khoáng hậu của Phật. Nên ở đây chúng tôi dẫn chứng lời chiết giải 18 pháp không do Bồ Tát Long Thọ quản diễn trong Đại Trí Độ Luận, để quý vị đọc tụng thọ trì. Nếu không hiểu 18 pháp không thì không thể học Bát nhã Ba la mật được. Đó là câu nói nghiêm chỉnh.
Không học, không thông đạt 18 pháp không, thì không có Giác ngộ, không đạt Nhất thiết trí trí, không chứng được Vô Thượng Bồ đề.
Để giải thích 18 pháp không nêu trên, Luận Đại Trí Độ do Bồ Tát Long Thọ biên soạn, nói:
LUẬN: 18 KHÔNG là 18 pháp quán về lý KHÔNG của hết thảy các pháp.18 KHÔNG gồm có: 1. Nội không. 2. Ngoại không. 3. Nội ngoại không. 4. Không Không. 5. Đại Không. 6. Đệ Nhất Nghĩa Không. 7. Hữu vi Không. 8. Vô vi Không. 9. Tất Cánh Không. 10. Vô Thỉ Không. 11. Tán thán Không. 12. Tánh Không. 13. Tự Tướng Không. 14. Chư Pháp Không. 15. Bất Khả Đắc Không. 16. Vô Pháp Không. 17. Hữu Pháp Không. 18. Vô Pháp Hữu Pháp Không.
Hỏi: Có vô lượng pháp quán về lý KHÔNG. Vì sao chỉ nói đến 18 pháp quán KHÔNG này thôi?
Đáp: Nếu nói nhiều quá thì rườm rà phức tạp. Nếu nói ít quá thì chẳng có thể diễn đạt được thậm thâm diệu lý. Bởi nhân duyên vậy, nên Phật chỉ nói đến 18 KHÔNG, đủ để phá các tà kiến chấp. Lại nữa, nếu nói nhiều quá thì sẽ có nhiều người chấp tướng KHÔNG, khiến phải bị rơi vào chấp đoạn diệt. Phật nói 18 pháp quán KHÔNG nêu trên đây, nhằm phá 18 trường hợp chấp pháp của chúng sanh.
Hỏi: Vì sao nói “Bồ Tát muốn an trú 18 KHÔNG thì phải tu tập Bát nhã Ba la mật”?
Đáp: Bát nhã Ba la mật là đại trí huệ. Có được trí huệ Bát Nhã là vào được nơi Thật Tướng các pháp, diệt hết thảy các pháp quán. Còn 18 KHÔNG là phương tiện dẫn đến đại trí huệ Bát nhã Ba la mật, là 18 pháp quán để như thật biết Thật Tướng các pháp đều là KHÔNG. Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật được đầy đủ 18 KHÔNG, nên Bát nhã Ba la mật và 18 KHÔNG chẳng phải hai, chẳng phải khác. Vì sao? Vì 18 KHÔNG là chẳng có tướng, tức là vô tướng, Bát nhã Ba la mật cũng là vô tướng. Vì 18 KHÔNG chẳng chấp các tướng, tức là xả ly tướng, Bát nhã Ba la mật cũng xả ly tướng. Bồ Tát tu tập Bát nhã Ba la mật, dùng trí huệ Bát nhã Ba la mật để quán 18 KHÔNG. Khi đã có được đại trí huệ Bát nhã Ba la mật rồi mới an trú đầy đủ trong 18 KHÔNG.
Hỏi: Thế nào gọi là pháp môn phương tiện?
Đáp: Đây là những cách thức mà hành giả phải dùng đến trong khi tu học, để đạt đến mục đích, để vào được Đạo.Ví như muốn có được Như ý bảo châu, thì phải phương tiện lặn sâu xuống tận đáy biển. Cũng như vậy, muốn được Bát nhã Ba la mật thì phải phương tiện đọc tụng kinh điển, chánh tư duy, như pháp tu hành... Trong số các phương tiện dẫn vào Bát nhã Ba la mật có 18 pháp quán KHÔNG.
--o0o--
(1).- Nội không:
Đây là pháp quán về nội pháp KHÔNG, tức là quán 6 nội nhập đều là KHÔNG. Vì sao? Vì 6 căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) đều do duyên hòa họp sanh, nên đều là hư dối, chẳng thật có, đều là KHÔNG.
(2).- Ngoại không:
Đây là pháp quán về ngoại pháp KHÔNG, tức là quán 6 ngoại nhập đều là KHÔNG. Vì sao? Vì 6 trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng đều do duyên hòa hợp sanh, nên cũng đều là hư dối, chẳng thật có, đều là KHÔNG cả.
(3).- Nội ngoại không:
Đây là pháp tổng quán về nội pháp và ngoại pháp đều là KHÔNG, tức là tổng quán hết thảy 12 nhập đều là KHÔNG. Do nội nhập và ngoại nhập đều là KHÔNG, nên chẳng có ngã và ngã sở, tức là vô ngã và vô ngã sờ vậy.
--o0o--
Như trước đây đã nói. Thể gian thường có 4 tưởng điên đảo. Đó là:
- Bất tịnh mà tưởng là tịnh.
- Khổ mà tưởng là vui.
- Vô thường mà tưởng là thường.
- Vô ngã mà tưởng là ngã.
Do chấp 4 tưởng điên đảo ấy mà phàm phu phải trôi lăn trong các nẻo đường sanh tử, chịu bao nhiêu nỗi khổ đau. Người tu hành muốn phá được 4 tưởng điên đảo ấy, phải tu 4 Niệm Xứ, khởi đầu bằng các pháp quán nội thân bất tịnh, ngoại thân bất tịnh, nội ngoại thân bất tịnh. Quán trong thân có 36 thứ bất tịnh, quán thân có 9 lỗ thường xuyên thải các thứ bất tịnh ra ngoài. Người tu hành biết rõ thân là bất tịnh. Thế nhưng người phàm phu vô trí lại tuởng thân này là tịnh, mải miết chạy theo các dục lạc bên ngoài để thỏa mãn sự đòi hỏi của sắc thân. Người tu hành lại quán ngoại thân cũng bất tịnh, thấy rõ nội ngoại thân đều là bất tịnh. Quán như vậy rồi tự suy nghĩ rằng: “Có thọ thân là có thọ khổ. Ta chớ nên chấp đắm sắc thân nầy”.
Hỏi: Tâm khởi từ trong ra, sao cũng có nói về quán ngoại tâm?
Đáp: Duyên ngoại thân là quán ngoại tâm, duyên nội thân là quán nội tâm.
Ngoại tâm duyên ngoại pháp, nội tâm duyên nội phápế 5 thức ngoài gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân duyên ngoại pháp nên được gọi là ngoại tâm. Còn ý thức duyên các nội pháp, khỏi phân biệt tốt xấu, vui buồn v.v... nên được gọi là nội tâm.
Lúc ban đầu ý thức chưa phân biệt cảnh ngoài. Khi ý thức đã phân biệt, đã khởi chấp các tướng rồi, thì lúc bấy giờ nội tâm đồng thời phân biệt cả nội cảnh lẫn ngoại cảnh.
Người tu hành khi đã được tâm ý thanh tịnh rồi, thì biết rõ thân là bất tịnh, thọ là khổ, tâm là vô thường, pháp là vô ngã, như vậy là quán 4 Niệm Xứ.
Tư duy như vậy rồi, người tu hành biết rõ tâm thức là vô chủ, chỉ do duyên chấp cảnh mà có thọ khổ, có thọ vui... Lại biết rõ do 5 ấm hòa hợp duyên khởi mà có thân này. Phàm phu điên đảo chấp có ngã thân, có ngã tâm. Phàm phu do chấp ngã nên thấy gì lợi ích cho mình thì sanh tham, thấy gì trái ý mình thì sanh sân..., sân lâu ngày trở thành si. Như vậy là 3 độc tham, sân và si, căn bản của tất cả phiền não đều do chấp ngã mà sanh ra cả. Nếu tu phước đức, tu các pháp trợ đạo thì dần dần sẽ xả được chấp ngã, sẽ được giải thoát.
Vậy nên khi vừa mống khởi chấp tướng, thì phải biết ngay rằng đó là kiết sử do chấp ngã sanh ra. Phải mau tu bố thí để xả tâm chấp ngã. Vì sao? Vì người tu hành biết rõ ngã cũng do duyên sanh, là chẳng có kiên cố. Ví như lột dần các bẹ chuối, cuối cùng chẳng thấy thân cây chuối nữa. Xả ngã dần dần thì cuối cùng sẽ được vô ngã.
Do 5 ấm duyên khởi mà có sắc thân. Khi đã quán được vô ngã rồi là quán được nội không, quán được ngoại không, quán được nội ngoại đều không vậy.
Hỏi: Pháp khởi từ ngoài vào. Như vậy vì sao cũng nói là nội tâm tương ưng?
Đáp: Vì nội tâm tương ưng với tưởng và hành, khởi sanh các tưởng tướng và hành tướng. Khi ngoại tâm, tức 5 thức ngoài duyên ngoại pháp, thì nội tâm, tức ý thức khỏi phân biệt dẫn sanh các tưởng tướng và hành tướng. Bởi vậy nên nói ngoại pháp cũng là tâm tương ưng. Nếu tâm chẳng có tương ưng, thì gọi là duyên vô vi, là bình đẳng quán. Vào được bình đẳng quán sẽ biết rõ nội pháp cũng như ngoại pháp đều là KHÔNG cả.
Lại nữa, 6 nội pháp gọi là 6 tình thức, 6 ngoại pháp gọi là 6 trần. Khi tu 4 Niệm Xứ, người tu hành quán vô vi, biết rõ sắc chẳng phải là sắc (phi sắc), lại biết rõ dù sắc có các tướng sai khác, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc xa, hoặc gần, hoặc thô, hoặc tế... nhưng cũng đều là vô ngã. Vì sao? Vì cầu ngã thì ngã là bất khả đắc. Chỉ do 5 ấm hòa hợp duyên khởi mà giả danh có ngã. Ngã đã chẳng có thì các kiết sử phiền não cũng chẳng có sanh. Do ngã là KHÔNG, nên tất cả các nội và ngoại pháp cũng đều là KHÔNG cả.
Người tu hành quán nội sắc là vô thường, khổ, không và vô ngã, rồi quán ngoại sắc, quán nội ngoại sắc cũng là như vậy cả. Khi đã quán được sắc thân này là KHÔNG rồi, thì quán thọ, quán tâm và quán pháp cũng đều như vậy cả.
Tóm lại, tu 4 Niệm Xứ tương ưng với nội quán, được KHÔNG tam muội gọi là quán nội không. Tu 4 Niệm Xứ tương ưng với ngoại quán, được KHÔNG Tam muội gọi là quán ngoại không. Tu 4 Niệm Xứ tương ưng với cả nội quán lẫn ngoại quán, được KHÔNG tam muội thì gọi là tu quán nội ngoại không.
Hỏi: Do lực quán KHÔNG Tam muội mà thấy được các pháp KHÔNG, hay là các pháp vẫn tự KHÔNG?
Đáp: Kinh nói: “Dùng 3 tam muội Không, Vô Tướng và Vô Tác để quán thân, quán thọ, quán tâm và quán pháp thì chăng còn thấy có ngã và ngã sở nữa. Bởi vậy nên biết các pháp vốn là KHÔNG”.
Hỏi: Tu 4 Niệm Xứ, quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã cũng đã thấy rõ thân là KHÔNG rồi. Như vậy cần gì phải quán thân bất tịnh nữa?
Đáp: Có nhiều người, sau khi quán vô thường, khổ, không, vô ngã vẫn chưa tiêu trừ được chấp ngã. Đối với hạng người này, phải dạy họ quán thân bất tịnh mới khiến họ nhàm chán sắc thân. Quán thọ, quán tâm và quán pháp cũng đều là như vậy.
Phải nên biết, do có chấp ngã mới có chấp ngã sở, dẫn đến mới có chấp nội tâm và ngoại cảnh. Ví như người chấp những gì trong phạm vi nhà mình là của ta, còn những gì ở bên ngoài là của người, chẳng phải là của ta vậy.
Trái lại, người tu hành quán hết thảy các pháp, dù trong dù ngoài cũng đều chẳng có định tướng, đều là bình đẳng tướng. Bởi vậy nên chẳng chấp có nội pháp, cũng chẳng chấp có ngoại pháp, quán hết thảy nội ngoại pháp đều là KHÔNG, chỉ do tâm chấp mà có phân biệt vậy thôi.
Hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp mà có, chỉ do tâm chấp mà phân biệt có tướng trong, tướng ngoài. Hết thảy nội pháp cũng như ngoại pháp đều là hư dối, là chẳng thật có, là KHÔNG vậy.
Hỏi: Khi nói nội thân ta có đầu, mình, tay, chân... là nói về nội pháp. Khi nói ngoài thân ta có nhà cửa, ruộng vườn... là nói về ngoại pháp. Như vậy là có phân biệt nội pháp với ngoại pháp rồi. Sao lại nói nội pháp cũng như ngoại pháp đều là KHÔNG cả?
Đáp: Ở noi thân ta thì mỗi phần đều riêng khác. Ví như đầu chẳng phải là bụng, tay chẳng phải là chân... Nếu xét riêng rẽ từng phần thì chẳng có phần nào gọi là thân của ta, gọi là cái TA cả. Bởi vậy nên ngã và ngã sở đều là KHÔNG, là bất khả đắc cả.
Nói pháp đã là KHÔNG, thì ngoại pháp cũng như vậy.
Hỏi: Đã do duyên hợp sanh thì tuy khác mà vẫn là một, tuy một mà vẫn là khác. Ví như cái nhà do nhiều phần hòa hợp mà có. Có cái nhà sao lại gọi là KHÔNG?
Đáp: Nhiều chẳng phải là một, và một chẳng phải là nhiều. Rui, kèo, cột... chẳng phải là cái nhà, và cái nhà cũng chẳng phải là rui, kèo, cột... Bởi vậy nên nói nội, ngoại pháp đều là KHÔNG.
Hỏi: Trong hết thảy đều kinh Phật cũng có nói đến 6 căn, 6 trần... Sao nay lại nói là KHÔNG?
Đáp: Nội pháp cũng như ngoại pháp đều do duyên hòa hợp mà giả danh là có vậy thôi. Ví như nói thân là nội pháp, nhà là ngoại pháp, thì đó cũng chỉ là giả danh, chẳng thật có.
Trong kinh có nói về Chúng sanh Không, và về Pháp Không. Vì người độn căn thì Phật chỉ nói về Chúng sanh Không. Vì người lợi trí thì Phật mới nói về Pháp Không.
Hàng Thanh Văn tu hành phá các kiết sử phiền não, nhằm thoát lỵ ra khỏi sanh tử, nên tu Ngã Không. Bồ Tát đoạn kiết sử phiền não, biết rõ Pháp Không nên thông đạt vô ngại hết thảy các pháp, biến thế gian đầy dẫy phiền não thành Niết bàn an lạc, được Vô Thượng Bồ Đề, độ thoát chúng sanh ra khỏi ngục tù 3 cõi, 6 loài.
(4).- Không Không:
Biết hết thảy các pháp đều là KHÔNG, người tu hành lại còn phải tu xả luôn cả cái chấp về tướng KHÔNG ấy. Vì sao? Vì KHÔNG cũng là KHÔNG. Như vậy gọi là tu quán Không Không.
Hỏi: Vì sao Đại Thừa lại phá hoại các pháp?
Đáp: Chẳng có thể nói như vậy được. Đại Thừa dạy chúng sanh biết rõ về thật tướng các pháp. Hết thảy các pháp ở nơi thật tướng đều là KHÔNG.
Hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, như sóng sanh là do sức gió tác động vào mặt nước, chẳng phải thật có, chăng có kiên cố. Do nhân duyên nghiệp lực mà thành có sắc, nên pháp sắc là vô thường, là sanh diệt, là chẳng thật có. Thế nhưng sanh là KHÔNG, nên pháp cũng là KHÔNG. Sanh là KHÔNG, nên diệt cũng là KHÔNG. Sanh và diệt đều là bất khả đắc. Vậy nên bất sanh bất diệt mới là chân thật pháp.
Phàm phu điên đảo chấp có sanh, có diệt. Người tu hành trái lại, phải biết rõ các pháp vốn chẳng có sanh, chẳng có diệt, vốn là KHÔNG. Biết như vậy rồi lại còn phải xả luôn cái chấp KHÔNG ấy mới vào được Không Không.
Lại nữa, người tu hành vào KHÔNG tam muội, quán 5 ấm là KHÔNG, được 8 Thánh đạo, đoạn các phiền não, chứng Niết bàn an lạc, rồi lại xả luôn cả 8 Thánh đạo, được Không Không tam muội.
Hỏi: Không và Không Không khác nhau như thể nào?
Đáp: Nói không nhằm phá chấp 5 ấm. Nói Không Không nhằm phá chấp về tướng KHÔNG.
Hỏi: Nếu KHÔNG chính là pháp Không, thì như vậy là đã phá hết thảy các pháp rồi. Còn nếu nói KHÔNG chẳng phải là pháp Không thì còn có gì để phá nữa đâu?
Đáp: Nếu nói KHÔNG chính là pháp Không, nhằm phá hết thảy các pháp tướng, thì sau khi phá các pháp tướng rồi vẫn còn lưu lại cái pháp KHÔNG đó. Như vậy là còn chấp tướng KHÔNG. Bởi vậy nên phải xả bỏ luôn cả pháp KHÔNG đó mới gọi là Không Không.
Ngoài ra quán Không Không cũng chính là duyên KHÔNG, tức là vô duyên vậy. Ví như thuốc dùng để chữa bệnh, khi bệnh đã lành thì thuốc cũng phải bỏ. Vì sao? Vì nếu chẳng bỏ thuốc thì lại sanh bệnh khác vậy.
Người tu quán KHÔNG để phá trừ phiền não. Nhưng nếu vẫn thủ chấp lấy cái KHÔNG ấy thì sẽ thành bệnh. Phải xả bỏ luôn chấp KHÔNG mới được Không Không.
(5).- Đại Không
Đây là pháp tu quán của Đại Thừa, chẳng phải là pháp tu quán của hàng Thanh Văn.
Trong kinh Tạp A Hàm chỉ nói: “Do có sanh mà duyên khởi có già, có chết. Nhưng nếu chấp có sanh, có già, có chết thì cũng là tà kiến. Vì sao? Vì sanh, già, chết đều là giả danh có, chẳng phải thật có”. Do vậy mà hàng Thanh Văn chỉ tu về Chúng Sanh Không và Pháp Không.
Trong kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn nói đến “10 phương tướng KHÔNG”. Đây chính là pháp tu quán về Đại Không.
Hỏi: Vì sao gọi “10 phương tướng KHÔNG” là Đại Không?
Đáp: Phương Đông vô biên vô tận nên là Đại (rộng lớn). Cũng như vậy, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới, 4 phương chéo vô biên, vô tận nên là Đại.
Lại nữa, các sự việc tỏa rộng cùng khắp, khai phá cùng khắp như làm lợi ích khắp 10 phương thế giới, biến hiện thân khắp 10 phương thế giới, làm cho chúng sanh khắp 10 phương thế giới thoát khỏi mê muội v.v... đều là Đại cả.
Như vậy quán không gian vô tận khắp 10 phương, quán các sự việc tỏa rộng khắp 10 phương đều là KHÔNG là quán về Đại Không vậy.
Hỏi: Phật pháp thường thuyết vô phương, tức là chẳng có phương tướng. Ví như khi nói về 3 vô vi (hư không, trạch diệt và phi trạch diệt) là nói về trí duyên tận và phi trí duyên tận, đều chẳng có cho duyên nhiếp cả. Như vậy là vô vi pháp chẳng có duyên sanh. Sao lại nói có phương?
Đáp: Vì hàng Thanh Văn nên nói có phương, lại vì y theo thế tục mà nói như vậy. Đối với Đại Thừa thì phương tướng là bất khả đắc.
Ví như do 5 ấm hòa hợp mà giả danh có chúng sanh. Cũng vậy, do 4 đại hòa họp mà giả danh có phương. Chúng sanh chấp phía mặt ười mọc là phương Đông, phía mặt trời lặn là phương Tây v.v... Đây là y theo thế tục mà quy ước đặt ra có các phương khác nhau. Thật ra, phương cũng như phương tướng đều là bất khả đắc.
Hỏi: Vì sao phải phá phương tướng?
Đáp: Nếu y theo thế tục, thì nói có phương. Nếu y theo Đệ Nhất Nghĩa thì phá phương tướng. Vì sao? Vì ở noi thế tục, mà nói có phương thì chẳng có rơi về chấp đoạn. Ở noi Đệ Nhất Nghĩa đế mà phá các phương tướng thì chẳng rơi về chấp thường.
(6).- Đệ Nhất Nghĩa Không
Đây là lý KHÔNG vào bậc nhất, tột cùng của Phật và chư Đại Bồ Tát, khác với lý KHÔNG còn hạn hẹp của hàng Thanh Văn. Vào Đệ Nhất Nghĩa Không chẳng thấy Không, cũng chẳng thấy chẳng Không.
Hỏi: Theo Đệ Nhất Nghĩa Không, thì hết thảy các pháp đều là vô duyên. Như vậy vì sao chẳng gọi Đệ Nhất Nghĩa Không là Đại Không?
Đáp: Trước đã nói về Đại Không rồi, nay nói về Đệ Nhất Nghĩa Không. Tuy khác tên gọi, nhưng thật nghĩa cũng tương đồng.
Thế gian dùng phương, nên chấp ý niệm về Đại (rộng lớn). Còn xuất thế gian, y theo Đệ Nhất Nghĩa, nên nói là Đệ Nhất Nghĩa Không.
Do phá tà kiến, phá ý niệm về Đại (rộng lớn), nên phải quán Đại Không. Ví như người dùng tâm từ duyên khắp phương Đông, duyên từ quốc độ một, cho đến cùng tận các quốc độ. Nếu duyên chưa cùng tận thì kiến chấp có biên (hữu biên kiến). Nếu duyên mãi chẳng hết (vô cùng tận), thì kiến chấp chẳng có biên (vô biên kiến). Nay nếu lấy phương KHÔNG để phá chấp tướng phương Đông, thì sẽ diệt được cả 2 kiến chấp về hữu biên và vô biên, khiến duyên từ sẽ được trải rộng cùng khắp. Trái lại, nếu chẳng lấy phương KHÔNG để phá chấp tướng phương Đông, thì tâm sẽ tùy phương Đông, mà thôi dứt duyên từ. Người tu hành cũng như vậy. Do tâm chẳng thối chuyển mà chẳng mất duyên từ. Như vậy là phá được tà kiến, mà cũng được đầy đủ Đại Không.
Đệ Nhất Nghĩa Không là Thật Tướng của hết thảy các pháp, chẳng thể phá, chẳng thể hoại. Vì sao? Vì hết thảy các pháp ở nơi Thật Tướng, đều là KHÔNG, chẳng có thể thọ, chẳng có thể chấp vậy. Nếu có thọ, có chấp là hư dối, là chẳng phải thật.
Lại nữa, Đệ Nhất Nghĩa Không là nghĩa Niết bàn Giải Thoát.
Trong A Tỳ Đàm nói: “Trí duyên tận tức là Niết bàn. Ở trong Niết bàn cũng chẳng có tướng Niết bàn. Niết bàn KHÔNG tức là Đệ Nhất Nghĩa Không”.
Hỏi: Nếu nói Niết bàn là vô tướng, là KHÔNG, thì vì sao các bậc Thánh Hiền lại nương theo 3 thừa đạo để vào Niết bàn? Vì sao nói tất cả các pháp môn đều dẫn đến Niết bàn, như tất cả các dòng sông đều chảy dồn về biển?
Đáp: Niết bàn là vô thượng pháp, nhưng chia làm 2 thứ, là:
- Hữu Dư Niết bàn.
- Vô Dư Niết bàn.
Người tu hành, khi đã đoạn trừ được các phiền não, được tâm bình đẳng, là vào được Hữu Dư Niết bàn.
Vào Hữu Dư Niết bàn chỉ còn thọ thân 5 ấm trong hiện đời mà thôi. Khi mạng chung, sẽ chẳng còn thọ thân 5 ấm nữa, sẽ vào Vô Dư Niết bàn.
Trái lại, chúng sanh nghe nói đến Niết bàn liền thủ chấp Niết bàn, rồi khởi hý luận về Hữu và Vô. Do vậy mà rơi ngay về các tà kiến chấp: Chấp Hữu là chấp thế gian; chấp Vô là chấp Niết bàn.
Trên đây nói Niết bàn là Không, chỉ nhằm phá chấp của phàm phu về tướng Niết bàn, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa Niết bàn của các bậc Thánh Hiền. Vì sao? Vì các bậc Thánh Hiền, ở nơi các pháp chẳng còn chấp tướng. Khi đã đoạn được các phiền não là tức thì được vào Niết bàn, được giải thoát. Ví như người đang bị trói, ngay khi được cởi dây trói là tức thì được giải thoát. Chúng sanh cũng như vậy, do bị 5 ấm trói buộc mà phải bị giam cầm trong ngục tù 3 cõi. Khi đã thoát khỏi sự ràng buộc của 5 ấm, thì liền được giải thoát.
Hết thảy các pháp chẳng lìa Đệ Nhất Nghĩa. Đệ Nhất Nghĩa cũng chẳng lìa các pháp. Thật Tướng các pháp là KHÔNG, là vô tướng, cũng chính là Đệ Nhất Nghĩa Không vậy.
(7).- Hữu vi Không:
Pháp hữu vi là pháp có tạo tác, có nhân duyên tạo tác, có chủ ý tạo tác.
Hữu vi Không là pháp quán các hữu vi do duyên hòa hợp sanh, đều là hư dối, chẳng thật có, đều là KHÔNG.
(8).- Vô vi Không:
Pháp vô vi là pháp chẳng có tạo tác chẳng có nhân duyên tạo tác, chẳng có chủ ý tạo tác.
Vô vi Không là pháp quán các pháp vô vi chẳng có nhân duyên (vô nhân duyên) sanh, nên cũng là hư dối, chẳng thật có. Do đối đãi với pháp hữu vi mà nói có pháp vô vi vậy thôi.
--o0o--
Như trên đây đã nói tất cả các pháp hữu vi, như 5 ấm, 12 nhập, 18 giới v.v... đều do duyên hòa họp sanh, nên đều là KHÔNG.
Do vậy, ngã và ngã sở cũng là KHÔNG, là bất khả đắc.
Hỏi: Nói ngã và ngã sở là KHÔNG, là bất khả đắc thì còn hợp lý. Nhưng vì sao lại nói ‘‘hữu vi pháp tướng” là KHÔNG?
Đáp: Danh tướng của các pháp do nơi tâm chúng sanh tạo lập. Nếu chẳng có pháp chúng sanh, thì chẳng có chỗ sở y.
Lại nữa, các pháp hữu vi đều là vô thường, là sanh diệt, nên đều là bất khả đắc, là KHÔNG vậy.
Hỏi: Pháp hữu vi có thường tướng. Vì sao nói pháp hữu vi là KHÔNG, là bất khả đắc?
Đáp: Phàm phu điên đảo chấp ngã là thường, chúng sanh là thường, tâm thức là thường, pháp là thường. Do vậy mà phải lẩn quẩn mãi trong sanh tử, luân hồi, bỏ thân này lại thọ thân khác, chẳng ngừng dứt.
Thật ra ngã chẳng thật có. Chúng sanh do 4 đại tạo thành cũng chỉ là giả danh, chẳng thật có, là sanh diệt vô thường. Thức tâm liền sanh, liền diệt, cũng là vô thường. Dẫn đến pháp cũng luôn thay đổi, sanh diệt, nên cũng là vô thường. Tất cả đều là KHÔNG, đều là bất khả đắc cả.
Người tu hành quán các pháp hữu vi, do duyên hòa hợp sanh, đều là hư dối, chẳng thật có. Chỉ do tưởng phân biệt mà chấp là CÓ, chấp là KHÔNG vậy thôi. Thật ra, các pháp hữu vi đều là vô sở hữu, chẳng có ở trong, chẳng có ở ngoài, chẳng có ở chặng giữa. Quán như vậy, nên vào được Pháp Không.
Các bậc Thánh Hiền chẳng chấp CÓ, vì biết rõ các pháp đều là KHÔNG, mà thành Đạo quả. Lại cũng chẳng chấp KHÔNG, nên được giải thoát.
Hỏi: Vì sao nói pháp hữu vi lẫn pháp vô vi đều là KHÔNG?
Đáp: Thật Tướng của pháp hữu vi là vô vi, mà tướng của vô vi là KHÔNG, nên hết thảy pháp hữu vi lẫn vô vi đều là KHÔNG cả.
Phàm phu điên đảo chấp có tướng hữu vi là sanh diệt, tướng vô vi là bất sanh diệt, mà chẳng biết rằng, ở nơi Thật Tướng, thì hữu vi và vô vi đều là KHÔNG cả.
Người tu 4 Thánh Đế rõ biết được tướng của vô vi là KHÔNG. Ví như trú nơi Khổ, rồi tiến tu đoạn Tập, chứng Diệt, là được vô vi. Từ đó mới tu Đạo, được giải thoát, vào Niết bàn.
(9).- Tất Cánh Không (cũng gọi là rốt ráo không)
Đây là pháp quán về hết thảy pháp đều rốt ráo là KHÔNG.
Do tương quan đối đãi giữa THẬT và GIẢ, giữa CÓ và KHÔNG, mà khởi sanh các chấp về pháp hữu vi và pháp vô vi. Nếu phá được sự đổi đãi, thì sẽ biết rõ hữu vi và vô vi đều rốt ráo KHÔNG cả.
Hỏi: Nếu các nhân duyên sanh pháp chưa pháp rốt ráo KHÔNG, thì làm sao nói các pháp là rốt ráo KHÔNG được? Ví như trường hợp cái nhà bị hư hoại, chẳng còn là nhà nữa, nhưng nếu rui, kèo, cột v.v... vẫn còn sót lại, thì làm sao nói là rốt ráo KHÔNG được?
Đáp: Các nhân duyên sanh pháp cũng rốt ráo không, vì chẳng có định tướng. Ví như người con gọi các bậc sanh thành ra mình là cha, là mẹ. Nhưng xét cho cùng, thì các nhân duyên này, các cách xưng hô này cũng chẳng có chỗ y cứ, chỉ là do tâm tạo ra, nên cũng là KHÔNG. Lại nữa, ví như muôn vật trên quả đất này đều nương vào đất, nước, gió, lửa, hư không mà sanh tồn, nhưng thật ra quả đất cũng chẳng có chỗ y cứ.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói các pháp là Rốt Ráo Không, là Tất Cánh Không vậy.
Hỏi: Ví như dùng thần thông có thể biến hỏa ra các vật. Hóa vật là giả, nhưng người có thần thông biến hóa ra các vật đó là thật. Như vậy làm sao có thể nói tác giả của sự biến hóa ấy là giả được?
Đáp: Phàm phu thấy các hóa vật hiện ra trước mắt tưởng là thật, nên chấp có vị hóa chủ, tức là có vị tác giả của sự biến hóa. Còn các bậc Thánh Hiền rõ vị hóa chủ cũng chẳng phải thật có. Vì sao? Vì rõ biết tất cả do tâm tạo, do các duyên nghiệp hòa họp sanh ra cả.
Kinh nói có 3 thứ biến hóa, đó là:
- Phiền não biến hóa.
- Nghiệp biến hóa.
- Pháp biến hóa.
Tất cả các sự vật đều ở trong phạm trù của 3 trường hợp biến hóa nêu trên đây, nên đều là hư huyễn, như hóa, đều chẳng thật có, đều là KHÔNG vậy. Cho nên, trong thí dụ trên đây, ta thấy rõ hóa vật lẫn vị hóa chủ đều là KHÔNG cả.
Hỏi: Các vật không bền, không kiên cố mới có thể tán nhỏ, tợ thành không. Còn các vật bền chắc, kiên cố, thì làm sao có thể như vậy được?
Đáp: Kiên cố cũng như không kiên cố đều là những tướng bất định. Vì sao? Vì lệ thuộc vào quan điểm riêng của mỗi người, của mỗi loài. Ví như loài người cho kim cang là kiên cố; nhưng hàng chư Thiên có cách phá được kim cang, nên chẳng cho kim cang là kiên cố. Cũng như người cho biển là sâu thẳm; nhưng A-tu-la vương, đứng ngay giữa biển, cho biển là cạn. Cũng ví người có đòi sống ngắn ngủi thấy quả đất là kiên cố. Nhưng trái lại, các loài sống lâu, có thời thấy quả đất tán hoại, nên chẳng cho quả đất là kiên cố.
Trong kinh Thất Nhật Dụ (Dụ về 7 mặt trời), Phật bảo các Tỷ-kheo rằng: “Này các Tỷ-kheo! Hết thảy các pháp hữu vi đều là vô thường là hủy hoại. Khi đến gần kiếp tận, mặt trời thiêu đốt khiến hết thảy cây cối, kể cả các loại cây cỏ thuốc, đều chết khô. Khi thấy mặt trời thứ 2 mọc, thì nước ở hết thảy các sông, lạch đều khô cạn. Khi mặt trời thứ 3 mọc thì các sông lớn cũng đều khô cạn. Khi mặt trời thứ 4 mọc, thì nước ở nơi các nguồn, các suối cũng đều khô cạn. Khi mặt trời thứ 5 mọc, thì các biển lớn, nhỏ cũng đều khô cạn. Khi mặt trời thứ 6 mọc, thì các núi Tu Di bốc cháy. Khi mặt trời thứ 7 mọc, thì các núi Tu Di chỉ còn khói, và lửa dấy khắp cả cõi trời Phạm Thiên. Lúc bấy giờ, những người mới sanh ở cõi trời Quang Âm, thấy lửa bùng cháy manh mẽ, nên rất sợ hãi. Những biến cố lớn như vậy, rất khó tin. Chỉ khi nào được thấy tận mắt, mới có thể tin được vậy”.
Phật lại dạy tiếp: “Lúc bấy giờ, có một người tu hạnh ly dục, được đầy đủ 4 phạm hạnh, tên là Tu Niết Ba La. Ông Tu Niết Ba La có vô số đệ tử cũng được ly dục. Do tu Từ Tâm tam muội, mà ông Tu Niết Ba La được sanh lên cõi trời Quang Âm, nên được chứng kiến tận mắt cảnh tán hoại này, và biết rõ chẳng có gì là kiên cố cả.
Này các Tỷ-kheo! Ông Tu Niết Ba La là tiền thân của ta đó. Lúc bấy giờ, chính ta đã thấy tận mắt cảnh tán hoại nêu trên đây”.
Hỏi: Nói vô thường là nói trước không, nay có, có rồi lại trở thành không. Như vậy, nếu đã nói Rốt ráo Không, thì vì sao nói vô thường nữa?
Đáp: Vô thường là bước đầu dẫn vào cửa KHÔNG. Do rõ được các pháp là vô thường, mà người tu hành tu 4 hạnh quán, gồm: Vô thường, khổ, không và vô ngã. Vì sao? Quán như vậy sẽ biết rõ các pháp đều là như huyễn, đều là không; lại cũng biết rõ các pháp chẳng do ai làm ra (vô tác giả), nên là vô ngã, là rôt ráo không vậy.
Rốt Ráo Không là Chân Không. Tuy nhiên, phải tùy đối tượng chúng sanh mà nói pháp:
- Đối với hạng người nhiều ái kiến, chấp vô thường, thì phải vì họ nói vô thường là tán hoại. Nếu chấp vô thường, thì sẽ sanh ưu khổ.
- Đối với hạng người chấp danh tướng, thì phải vì họ nói vô tác.
- Đối với hạng người có nhiều tà kiến, phân biệt các pháp, thì phải vì họ nói về Chúng Sanh Không, về Pháp Không, về Tất Cánh Không (Rốt Ráo Không).
Các bậc Thánh Hiền dùng Rốt Ráo Không để diệt trừ 3 độc, phá các chấp điên đảo, khiến chúng sanh xa lìa được các khổ, sanh, già, bệnh, chết, được Niết bàn an lạc.
Bởi nhân duyên vậy, nên Phật dạy: “Pháp thiện cũng xả, huống nữa là pháp bất thiện”.
Khi đã ly được pháp hữu vi rồi, thì cũng chẳng chấp pháp vô vi nữa, vì biết rõ pháp vô vi cũng là Rốt Ráo Không.
(10).- Vô Thỉ Không
Đây là pháp quán thòi gian chẳng có đầu mối; quán đầu mối thời gian từ vô thỉ là KHÔNG.
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay, chuyển thân này sang thân khác. Thân đời này do nghiệp lực đời trước dẫn sanh, rồi nghiệp duyên tạo ở đời này lại trở thành nghiệp lực dẫn sanh ở đời sau. Cứ như vậy lần lượt kế truyền mãi mãi. Thế nhưng, chẳng có pháp ban đầu cũng chẳng có pháp rốt sau. Vì sao? Vì trước sanh sau chết, rồi trước chết sau sanh, chẳng có nhân, chẳng có duyên, chẳng có gì sanh, chẳng có gì diệt cả. Như vậy là Vô Thỉ Không.
Trong kinh Phật dạy các Tỷ-kheo rằng: “Này các Tỷ-kheo! Chúng sanh chẳng có đầu mối. Do vô minh che tâm, do ái chấp sâu dày mà phải chịu qua lại mải miết trong các nẻo đường sanh tử, nên đầu mối là bất khả đắc. Chúng sanh là vô thỉ, các pháp cũng vô thỉ, mà vô thỉ là bất khả đắc, nên nói là Vô Thỉ Không”.
Hỏi: Nếu vô thỉ là thật pháp, thì vì sao lại phá vô thỉ?
Đáp: Nếu nói chúng sanh có đầu mối (Hữu thỉ) thì rơi về biên kiến, nên nói chúng sanh cùng các pháp là vô thỉ. Thế nhưng, nếu chấp vô thỉ, thì cũng lại rơi về hữu thỉ, hữu biên. Vì sao?
Vì như vậy là còn chấp có một pháp gọi là vô thỉ, có cái tướng Vô Thỉ vậy. Nếu dùng Vô Thỉ Không để phá chấp về Vô Thỉ thì mới chẳng còn rơi về Hữu Thỉ, mới nhập được vào Trung Đạo vậy.
Hỏi: Vì sao lại phải phá Vô Thỉ?
Đáp: Nếu đã được Nhất Thiết Trí rồi, thì chẳng có rơi về chấp Vô Thỉ. Vì sao? Vì đã rõ biết Vô Thỉ là bất khả đắc.
Trái lại, nếu còn chấp tướng Vô Thỉ, thì chưa phải là Nhất Thiết Trí. Do vậy mà phải phá chấp Vô Thỉ, để khỏi rơi về hai chấp Hữu và Vô. Phải phá chấp Vô Thỉ mới vào được Vô Thỉ Không.
Hỏi: Vì sao Phật nói “Chúng sanh, từ vô thỉ đến nay qua lại trong các nẻo đường sanh tử"?
Đáp: Phật muốn nhắc nhở chúng sanh biết rằng, từ vô thỉ đến nay, mải miết qua lại trong các nẻo đường sanh tử, khiến họ sanh nhàm chán sanh tử, mà tinh tấn tu hành nhằm thoát ly ra khỏi 3 cõi.
Phật lại dạy: “Trải qua vô lượng kiếp sanh tử, xương của mỗi chúng sanh có thể chất thành núi cao, nước mắt của mỗi chúng sanh có thể nhiều bằng nước ở biển cả. Như vậy, từ vô lượng kiếp đến nay, chúng sanh đã phải thọ vô lượng khổ đau. Thế nhưng, tìm đầu mối, thì đầu mối là bất kha đắc, chẳng sao tìm được vậy.
Phật thuyết về Vô Thường nhằm độ các chúng sanh chấp Thường. Phật lại thuyết Vô Thỉ nhằm độ chúng sanh chấp Hữu Thỉ. Nhưng cũng chẳng nên chấp Vô Thỉ, vì vô thỉ cũng chẳng thật có, nên Phật lại thuyết về Vô Thỉ Không.
Hỏi: Nếu Vô Thỉ chẳng thật có thì làm sao có thể dùng Vô Thỉ để độ các chúng sanh chấp Hữu Thỉ?
Đáp: Phật dùng đủ các pháp môn phương tiện, tùy duyên hóa độ chúng sanh, khiến họ xả trừ tâm chấp.
Ví như Phật thuyết về Vô Thường để phá chấp Thường của chúng sanh; thuyết về khổ Đế để dạy chúng sanh xa lìa các dục lạc thế gian. Nếu thấy chúng sanh chấp Vô Thường, chấp Khổ... thì Phật dạy cho họ biết rõ là Vô Thường, Khổ... cũng đều là KHÔNG. Nói về Vô Thỉ cũng như vậy. Phật thuyết Vô Thỉ nhằm phá chấp Hữu Thỉ của chúng sanh. Nhưng nếu chứng sanh lại chấp Vô Thỉ, thì Phật lại thuyết về Vô Thỉ Không.
Phật dùng Túc Mạng Trí thấy chúng sanh tương tục sanh diệt vô cùng tận, Phật lại dùng Huệ Nhãn thấy chúng sanh cũng như các pháp, từ vô thỉ đến nay chẳng có đầu mối đều là rốt ráo không, nên thuyết về Vô Thỉ Không.
Hỏi: Chấp Hữu Thỉ là tà kiến, phải nên phá. Còn nói Vô Thỉ, thì chẳng phải là tà kiến, sao cũng phá nữa?
Đáp: Nói Hữu Thỉ là lầm lạc là tà kiến. Vì sao? Vì nếu là Hữu Thỉ thì chẳng có nhân duyên tội phước. Nếu chấp có thân ban đầu, thì thân ban đầu ấy chẳng thể sanh ở chổ thiện, cũng chẳng thể sanh ở chỗ ác được.
Lại nữa, nếu y theo nhân duyên tội phước mà có sanh thân, thì chẳng thể gọi là thân ban đầu được. Vì sao? Vì thân trước có tạo tội phước, thì các nghiệp duyên tội phước đó mới dẫn thọ thân sau. Cho nên Phật thuyết Vô Thỉ để phá chấp về Hữu Thỉ của chúng sanh.
Sau khi xả bỏ chấp về Hữu Thỉ, nếu chúng sanh lại chấp Vô Thỉ, thì phải nên vì họ dạy pháp quán Vô Thỉ không. Vì sao? Vì còn chấp Hữu Thỉ hay Vô Thỉ cũng đều là tà kiến cả.
Hỏi: Vì sao dùng Vô Thỉ để phá Hữu Thỉ mà chẳng dùng Hữu Thỉ để phá Vô Thỉ? Lại nữa, vì sao chỉ dùng Vô Thỉ Không để phá Vô Thỉ mà chẳng dùng Hữu Thỉ Không để phá Hữu Thỉ?
Đáp: Chấp Hữu Thỉ, chấp Vô Thỉ đều là tà kiến cả, nhưng có trọng, có khinh khác nhau.
Nhân duyên chấp Hữu Thỉ dẫn sanh các tướng phiền não. Trái lại, nếu niệm các pháp duyên khởi từ Vô Thỉ thì khởi sanh từ bi và chánh kiến. Vì sao? Vì niệm chúng sanh từ vô thỉ đến nay, thọ vô lượng khổ đau nên phát sinh bi tâm, thương xót chúng sanh. Vì rõ biết quả báo tội phước tương tục nối tiếp từ Vô Thỉ đến nay, nên phát sanh chánh kiến.
Lại nữa, Vô Thỉ rốt ráo phá được Hữu Thỉ. Hữu Thỉ tuy cũng có thể phá được Vô Thỉ, nhưng chẳng được rốt ráo. Vì sao? Vô Thỉ ví như thiện pháp, Hữu Thỉ ví như bất thiện pháp. Thiện pháp phá được bất thiện pháp, còn bất thiện pháp khó có thể phá được thiện pháp một cách triệt để được. Tuy hai bên có tương phá lẫn nhau. Nhưng thiện thì rốt ráo phá được ác, còn ác thì chẳng thể như vậy được. Ví như người vào được thánh trí đạo rồi, thì chẳng còn làm các việc ác nữa. Lại ví như người trước đã phạm tội bội phản, đã đoạn thiện căn, mà sau đó có phát tâm tu hành, thì dù phải đọa địa ngục cũng chỉ thọ tội trong một kiếp, rồi cũng sẽ thoát khỏi chốn địa ngục, sẽ được sanh lên các cõi người, cõi Trời.
Như vậy là dùng Vô Thỉ để phá chấp về Hữu Thỉ, mà chẳng thể dùng Hữu Thỉ để phá chấp Vô Thỉ được.
Thế nhưng, sau khi dùng Vô Thỉ để phá Hữu Thỉ mà lại chấp tướng Vô Thỉ, thì cũng là tà kiến, nên phải quán Vô Thỉ không để phá chấp về Vô Thỉ. Dùng Vô Thỉ Không phá triệt để cả hai chấp về Hữu Thỉ và Vô Thỉ nên chẳng cần đến pháp quán Hữu Thỉ Không làm gì nữa. Khi đã rốt ráo phá được cả hai chấp Hữu và Vô là vào được Trung Đạo, thông hiểu được Thánh Đạo.
(11).- Tán Không
Đây là pháp quán các pháp, khi duyên ly tán, đều trở thành KHÔNG. Hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp mà giả danh có. Khi các duyên ly tán, thì danh và pháp đều chẳng còn nữa.
Như vậy là Tán Không.
Pháp, khi hòa hợp cũng như khi ly tán, chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, nên pháp và danh đều là KHÔNG, là bất khả đắc cả.
Ví như cái xe do các bộ phận rời ráp lại mà thành, khi tách rời các bộ phận ra, thì xe cũng như tên xe đều chẳng có nữa. Cũng như vậy, người do 5 ấm hòa hợp mà giả danh có pháp gọi là người. Khi 5 ấm ly tán, thì chẳng còn người nữa.
Hỏi: Nói như trên đây, thì chỉ phá được giả danh, chẳng có thể phá được sắc.
Đáp: Sắc và danh đều bị phá. Vì sao? Vì sắc pháp do các vi trần hòa hợp mà giả danh có. Nhưng vi trần là bất khả đắc, nên sắc pháp cũng là bất khả đắc.
Hỏi: Khi một vật tan rã, hình tướng của vật có thể chẳng còn nữa, nhưng sắc pháp vẫn còn. Như vậy vì sao nói sắc pháp là chẳng thật có?
Đáp: Sắc pháp do 4 Đại hòa họp mà thành. Nếu chẳng có 4 Đại hòa hợp, thì chẳng có được sắc pháp. Dùng trí huệ phân biệt mà tách 4 Đại riêng rẽ, thì sắc pháp là bất khả đắc vậy.
Hỏi: Nói sắc tán hoại, thì còn hợp lý. Còn thọ, tưởng, hành và thức cũng tán hoại hay sao?
Đáp: 4 ấm thọ, tưởng, hành và thức có sanh có trú có diệt, nên cũng là vô thường là tán hoại, là KHÔNG vậy. Vì sao? Hãy xem một người từ khi sanh đến khi già thay đổi rất nhiều, nên cả 5 ấm thân của người ấy cũng sanh diệt tương tục, cũng tán hoại tương tục. Lại nữa, thức tâm tùy duyên sanh cũng tùy duyên diệt. Ví như tướng lửa được hiển lộ nhờ các vật cháy; nếu lìa các vật cháy ra thì lửa là bất khả đắc. Cũng như vậy, do 6 căn duyên 6 trần mà sanh ra có 6 thức; nếu lìa các chỗ duyên ra, thì thức tâm là bất khả đắc.
Trong kinh Phật dạy: “Sắc là tán hoại, là vô sở hữu. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là tán hoại, là vô sở hữu”. Như vậy là Tán Không.
Phàm phu, vì chưa ly dục nên ở nơi các pháp sanh tâm ái trước. Người tu hành đã được ly dục rồi thấy các pháp đều tán hoại. Khi có đủ duyên hòa hợp mới giả danh có pháp này, pháp nọ. Khi các duyên ly tán, thì chẳng còn có danh, chẳng còn có sắc nữa.
Trong kinh Phật dạy ngài Ma Ha Ca Chiên Diên: “Quán 4 Đế đều ly tán, là vào được Tán Không”.
(12).- Tánh Không:
Đây là pháp quán về tự tánh của hết thảy các pháp đều là KHÔNG.
Vì các pháp tương tục duyên khởi, nên mới có hiện ra các tướng. Ví như nước có tướng lỏng; đun sôi trở thành hơi nước; đông lạnh trờ thành nước đá. Xem như vậy thì các pháp chẳng có định tướng. Do chẳng có định tướng nên tánh của các pháp vốn là KHÔNG.
Như vậy là Tánh Không.
Hỏi: Trong kinh đã có nói nhiều về vô ngã và vô ngã sở. Như vậy là đã diễn bày đầy đủ về Chúng Sanh Không và Pháp Không rồi. Sao nay còn nói đến Tánh Không làm gì nữa?
Đáp: Tánh Không ở nơi đây chẳng phải chỉ nói riêng về Chúng Sanh Không và Pháp Không.
Về Tánh Không, Luận Thanh Văn phân biệt nói lên các nghĩa như sau:
- 12 nhập là vô ngã và vô ngã sở.
- 12 nhập là tự tướng Không, là vô ngã, vô ngã sở.
Các kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn phân biệt nói lên các nghĩa như sau:
- 12 nhập, ngã và ngã sở đều Không.
- Tự tánh của 12 nhập là Không.
Tánh của ngã và của ngã sở rốt ráo là KHÔNG, nhưng vì người đời phân biệt có ngã và ngã sở, nên Phật phương tiện nói vô ngã và vô ngã sở.
Như vậy là hết thảy các pháp đều là KHÔNG. Vô Ngã và Vô Ngã Sở còn chẳng có chấp, huống nữa là chấp Chúng Sanh Không và Pháp Không. Lại nữa, TÁNH tự có, chẳng phải đợi nhân duyên mới có. Vì sao? Vì nếu đợi nhân duyên sanh, thì đó là tác pháp, chẳng có thể là tánh được vậy. Hết thảy các pháp hữu vi đều do nhân duyên sanh, nên đều là tác pháp. Nhưng nếu đã do nhân duyên hòa hợp mới có, thì là vô pháp. Như vậy là tánh của hết thảy các pháp là bất khả đắc, nên pháp cũng là vô pháp vậy. Bởi vậy, nên gọi là Tánh Không.
Hỏi: Tất Cánh Không là vô sở hữu, là đã bao hàm nghĩa về Tánh Không rồi. Sao nay còn nói về Tánh Không làm gì nữa?
Đáp: Tất Cánh Không là vô sở hữu, có nghĩa là chẳng còn có chỗ để trừ bỏ. Còn Tánh Không là bản lai thường KHÔNG như vậy. Ví như tánh nước là lạnh; nhờ có lửa đun sôi mà trở thành nóng; khi hết tác dụng của lửa rồi, lại trở lại lạnh như trước.
Tất Cánh Không là thường như hư không, ở cả ba đời thường bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh... Còn Tánh Không là bất khả đắc. Tất Cánh Không là nói về chỗ sở hành của Phật. Còn Tánh Không là nói về chỗ sở hành của Bồ Tát.
Tất cánh Không là nói về ba đời thanh tịnh, bình đẳng, vô sai biệt.
Còn Tánh Không là nói về nhân duyên hòa hợp, chẳng có thật tánh. Lại nữa, pháp tánh phân biệt có: Tổng tánh và Biệt tánh.
- Tổng Tánh:
Nói về Tổng Tánh các pháp là nói về vô thường, về khổ, về không, về vô ngã, về bất sanh, về bất diệt v.v...
--o0o--
Như nói về Vô Thường, Phật dạy: “Các pháp thế gian đều là vô thường, đều là KHÔNG”. Như vậy là nói về Tính Không.
Nhưng Tính Không là bất khả đắc, nên tính vô thường cũng là bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu Vô Thường là thật thì các nghiệp báo nhân duyên phải mất. Sinh diệt quá khứ chẳng trú, sáu tình chẳng thọ, thì chẳng có chứa nhóm các nghiệp báo nhân duyên. Nếu chẳng có chứa nhóm các nghiệp báo nhân duyên, thì chúng sinh sẽ mặc tình đắm chìm trong tội lỗi, chẳng cần nghĩ đến các việc trì tụng kinh pháp, tọa thiện, làm các việc thiện nữa.
Bởi vậy nên, Tính Vô Thường là bất khả đắc. Tính Vô Thường đã là bất khả đắc, thì Tính thường cũng là bất khả đắc.
--o0o--
Tính Khổ cũng là KHÔNG, là bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu Khổ là thật, thì chẳng ai dám sinh tâm nhiễm trước. Nếu là toàn khổ, thì ở thế gian chẳng có gì là vui để mà ưa thích nữa.
Phật chẳng thọ khổ, chẳng thọ lạc, chẳng thọ bất khổ bất lạc. Vì sao? Vì thọ khổ sẽ sinh sân, thọ lạc sẽ sinh ái, thọ bất khổ bất lạc sẽ sinh si.
Thật ra ở nơi Nhất Tướng, Vô Tướng thì khổ và lạc chẳng phải hai, chẳng phải khác.
--o0o--
Như trên đây đã nói, tính Không, là bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu Không là thật, thì chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng có đời này, chẳng có đời sau.
Lại nữa, các pháp do đối đãi mà có. Vì sao? Vì chấp có Hữu nên mới có Vô. Nếu Hữu là thật thì Vô cũng phải là thật v.v... Như vậy là rơi về tà kiến.
Bởi vậy nên tính KHÔNG là bất khả đắc. Tính KHÔNG đã là bất khả đắc thì tính CÓ cũng là bất khả đắc.
--o0o--
Tính Vô Ngã cũng là KHÔNG, là bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu Vô Ngã là thật thì chẳng có sự trói buộc (vô phược), chẳng có sự cởi mở (vô giải), chẳng có đời này, chẳng có đời sau, chẳng có thọ tội, chẳng có thọ phước, dẫn đến chẳng có các nhân duyên quả báo.
Bởi vậy nên tính Vô Ngã là bất khả đắc. Tính Vô Ngã đã là bất khả đắc thì tính Ngã cũng là bất khả đắc.
--o0o--
Tính Bất Sinh, Tính Bất Diệt cũng là KHÔNG là bất khả đắc. Vì sao? Vì nếu bất sinh, bất diệt là thật, thì đọa về thường kiến. Nếu hết thảy pháp là thường thì chẳng có tội, chẳng có phước. Nếu nói Sinh là thường hay nói Bất sinh là thường thì cũng đều là tà kiến cả.
Bởi vậy nên tính Bất Sinh Diệt là bất khả đắc. Tính Bất Sinh Diệt đã là bất khả đắc thì tính Sinh Diệt cũng là bất khả đắc.
--o0o--
Nói rộng, thì tất cả các tổng tính khác như Bất Cấu, Bất Tịnh, Bất Tăng, Bất Giảm, Vô Khứ, Vô Lai, Vô Xuất, Vô Nhập v.v… cũng đều là KHÔNG, là bất khả đắc cả. Tất cả đều là tính Bình Đẳng.
Trên đây là tóm lược nói về Tổng Tính của các pháp.
- Biệt Tính:
Nói về Biệt Tính là nói về tính đặc thù riêng biệt của mỗi pháp. Như nói lửa có tính nóng, có tính thiêu đốt các vật v.v… Thế nhưng do các duyên hòa hợp mà giả danh có lửa, mà hiện ra có tính nóng, có tính thiêu đốt các vật, như đã nói trên đây. Lửa chẳng có thật tính. Vì sao? Vì người dùng thần thông có thể vào lửa mà chẳng bị thiêu cháy. Tính nóng của lửa cũng như tính thiêu đốt của lửa phải hội đầy đủ các nhân duyên mới dấy sinh, nên tổng tính cũng như biệt tính của lửa đều là KHÔNG.
--o0o--
Tính Kiên Cố, tính Tương Tục của các pháp cũng như vậy.
Trong kinh Phật dạy: “Núi Tu Di tuy kiên cố, tồn tại lâu dài, nhưng cũng là tính Không. Dùng trí tuệ quán chiếu, thì rõ biết hết thảy các sự vật đều là Tính KHÔNG cả. Nói rộng, hết thảy các pháp hữu vi và vô vi đều là bất khả đắc, dẫn đến các nhân duyên sinh pháp cũng đều là bất khả đắc cả. Tất cả đều là Tính Không.
(13).- Tự Tướng Không:
Đây là pháp quán về Tự Tướng tức là về Tổng Tướng và Biệt Tướng của các pháp đều là KHÔNG.
Hỏi: Tổng Tướng và Biệt Tướng sai khác nhau như thế nào?
Đáp: Nói về tướng chung của các pháp như nói về các tướng Vô Thường, tướng Khổ, tướng Không, Tướng Vô Ngã… là nói về Tổng Tướng.
Nói riêng về tướng của từng pháp riêng rẽ như nói lửa có tướng nóng,... là nói về Biệt Tướng.
Hỏi: Trước đã nói về tính Không, nay nói về Tự Tướng Không. Như vậy có gì sai khác nhau không?
Đáp: Có thuyết nói Tính và Tự Tướng cũng đồng mà cũng khác. Vì sao? Vì trong tướng có tính, và trong tính có tướng vậy. Như nói lửa có tính nóng. Tính nóng được thể hiện nơi tướng nóng, làm tăng nhiệt độ của môi trường bao quanh.
Lại có thuyết nói tính là thể tính, tướng là tướng trạng. Ví như nói đến người xuất gia trì giới cấm, là nói về tính, còn nói vị ấy cạo đầu, đắp y, đi khất thực… là nói về tướng. Cũng như nói lửa là nóng là nói về tính, còn nói lửa bốc khói, lửa nung nóng các vật… là nói về tướng của lửa. Nhờ các tướng trạng ấy mà có thể nhận biết được sự hiện hữu của lửa vậy.
--o0o--
Tính tiềm ẩn bên trong. Tướng bộc lộ, thể hiện ra bên ngoài. Tính và tướng tuy đồng mà có sai khác.
Ví như biết rõ các pháp hữu vi tùy duyên sinh và theo duyên diệt, là biết rõ Tính Vô Thường. Lại ví như biết rõ các pháp hữu vi đều trước không, nay có, có rồi trở lại thành không, là biết rõ về tướng Vô Thường.
Phàm phu chấp có các pháp hữu vi. Khi thấy các pháp ấy bị tán hoại, như thấy những vật mình ưa thích hư nát, thấy cảnh người thân mình bị tai nạn, chết chóc v.v...sẽ sinh phiền não khổ đau. Như vậy là Khổ Đế.
Các bậc Thánh chẳng bị các pháp hữu vi trói buộc nên chẳng còn sinh phiền não, lại cũng đã ly được ngã và ngã sở, nên chẳng còn bị ràng buộc bởi các duyên sinh. Vì sao? Vì đã biết rõ các pháp, trước sau đều rốt ráo là bất khả đắc. Như vậy là quán về Tự Tướng Không.
Lại nữa, các bậc Thánh ở nơi các pháp chẳng còn sinh tâm chấp, nên quán các pháp đều là không, là Vô Tướng, là Vô Tác, vào được Ba Giải Thoát Môn, đoạn được ngôn ngữ, tận diệt được các tâm hành.
Như vậy là quán về Tự Tướng Không.
Lại nữa, các bậc Thánh cũng biết rõ các pháp do duyên hợp sinh, nên đều là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, cũng biết rõ các pháp đều chẳng có ai làm ra (Vô chủ tác). Do vậy mà đoạn trừ được tâm chấp ngã, được vô ngại giải thoát. Lúc bấy giờ sáu căn y nơi sáu thức, mà khởi tính hay biết (giác tri), hiện tướng trí tuệ. Ví như xả là tướng bố thí, chẳng sinh phiền não là tướng trì giới, tâm bất động là tướng nhẫn nhục, thân tâm siêng năng làm các việc thiện là tướng tinh tấn, nhiếp tâm tại một chỗ là tướng thiền định, tâm không chấp đắm là tướng trí tuệ, hay thành tựu các pháp là tướng phương tiện, chấp đắm sinh diệt là tướng thế gian, vô sinh là tướng Niết Bàn v.v… Quán mỗi pháp đều có biệt tướng, nhưng biết rõ các biệt tướng ấy đều là KHÔNG. Như vậy là quán về Tự Tướng Không.
Hỏi: Vì sao chẳng nói Tướng Không mà lại nói Tự Tướng Không?
Đáp: Nếu nói Tướng Không thì chưa diễn đạt được rõ nghĩa về pháp thể là KHÔNG. Nay nói Tự Tướng Không là nói pháp thể là KHÔNG vậy.
Lại nữa, do các duyên hòa hợp mà sanh ra có các pháp, các pháp đã theo duyên sanh, thì đều là bình đẳng, đều là Tự Tướng Không vậy.
Hỏi: Nói các pháp đều là KHÔNG là đủ rồi như vậy cần gì phải nói Tự Tướng Không nữa?
Đáp: Các pháp chỉ là một tướng (nhất tướng) là chẳng có tướng (vô tướng) mà chúng sanh điên đảo chấp có tướng chung (tổng tướng) và tướng riêng (biệt tướng). Nên phải vì họ nói về Tự Tướng Không để phá các chấp điên đảo ấy.
(14).- Chư Pháp Không:
Đây là pháp quán về hết thảy các pháp đều là KHÔNG
Nói về Chư Pháp Không là nói về hết thảy các pháp gồm 5 ấm, 12 nhập, 18 giới… đều là KHÔNG.
Người thế gian thấy mỗi pháp đều có tướng riêng biệt nên chấp các pháp đều có tướng khác nhau. Từ nơi tâm chấp pháp trong đó mà phân biệt vô lượng tướng khác nhau, như: Thức tướng, duyên tướng, tăng thượng tướng, nhân tướng, quả tướng, tổng tướng, biệt tướng v.v..
Hỏi: Vì sao nói hết thảy các pháp đều có tướng (Hữu tướng)?
Đáp: Vì mỗi pháp hiển lộ một hoặc nhiều tướng riêng khác, các pháp có xấu có tốt, có trong có ngoài, có xa có gần… mỗi mỗi riêng khác.
Hỏi: Do đâu mà có pháp tướng?
Đáp: Tất cả các pháp tướng đều do tâm tạo, đều tự nơi tâm chấp mà sanh ra cả.
Hỏi: Vô pháp cũng có tướng chăng?
Đáp: Vô pháp chẳng có thể được gọi là pháp. Vì sao? Vì do đỗi đãi với hữu pháp mà nói có vô pháp. Nếu vô pháp là thật có thì vô pháp ấy cũng trở thành hữu pháp rồi vậy. Bởi vậy nên nói hết thảy các pháp đều có tướng (Hữu tướng).
Ví như dùng trí để phân biệt các tướng như:
-Dùng Khổ Pháp Trí, Khổ Tỷ Trí để biết được Khổ Đế.
-Dùng Tập Pháp Trí, Tập Tỷ Trí để biết được Tập Đế.
-Dùng Diệt Pháp Trí, Diệt Tỷ Trí để biết được Diệt Đế
-Dùng Đạo Pháp Trí, Đạo Tỷ Trí để biết được Đạo Đế
Lại nữa, dùng thức để phân biệt các trần, ví như dùng nhãn thức để phân biệt sắc, dùng nhĩ thức để phân biệt thanh, dùng tỷ thức để phân biệt hương, dùng thiệt thức để phân biệt vị, dùng thân thức để phân biệt sự xúc phạm, dùng ý thức để phân biệt pháp, thì gọi là thức tướng.
Lại nữa, dùng các thức tương ứng pháp để như thật biết các trần, ví như dùng nhãn thức và nhãn thức tương ưng pháp để duyên sắc… dẫn đến dùng ý thức và ý thức tương ứng pháp để duyên pháp thì gọi là thức tướng duyên tướng.
Lại nữa, các pháp hữu vi tương duyên với nhau, làm tăng thượng duyên cho nhau. Các pháp vô vi cũng có các pháp hữu vi làm tăng thượng duyên. Như vậy gọi là tăng thượng tướng.
Lại nữa, hết thảy các pháp đều có nhân và có quả. Như vậy gọi là nhân quả tướng.
Lại nữa, hết thảy các pháp đều có tướng chung và tướng riêng. Ví như nói về con ngựa, thì xét chung cả con ngựa là nói về tướng chung (Tổng tướng), còn xét riêng từng phần như mình dài, chân cao, lông trắng… là nói về tướng riêng (biệt tướng). Như vậy mỗi pháp đều có tổng tướng và biệt tướng.
Lại nữa, y nơi các tướng ấy mà biết được cộng tướng y chỉ. Ví như cây, cỏ, núi, sông… đều y chỉ nơi đất. Ví như gió y chỉ nơi hư không,… như vậy gọi là y chỉ tướng.
--o0o--
Cũng nên biết:
-Hoặc có một pháp tướng dung nhiếp hết thảy các pháp tướng. Như nói Nhất Thiết Pháp là dung nhiếp hết thảy pháp, nói Chư Pháp cũng dung hết thảy pháp.
-Hoặc có nhóm hai pháp tướng dung nhiếp hết thảy các pháp tướng. Như nhóm sắc và vô sắc, nhóm hữu đối và vô đối, nhóm hữu lậu và vô lậu, nhóm hữu vi và vô vi…
-Hoặc có nhóm 3 pháp tướng, 4 pháp tướng, 5 pháp tướng… dung nhiếp hết thảy các pháp tướng.
--o0o--
Thế nhưng, tuy có những tướng sai khác như đã trình bày trên đây, hết thảy các pháp đều như như, bình đẳng, đều là nhất tướng, đều là vô tướng cả.
Bởi nhân duyên vậy, nên gọi là Chư Pháp Không.
Hỏi: Hết thảy các pháp tướng đều là KHÔNG. Như vậy vì sao còn đặt cho mỗi pháp một tên gọi riêng?
Đáp: Phàm phu chẳng biết được rằng các pháp đều là KHÔNG, nên điên đảo chấp mỗi pháp có tướng riêng khác, rồi khởi sanh ái trước, phiền não. Do phiền não mà khởi sanh ra các khổ lạc. Ví như tằm nhả tơ tự trói buộc (triền phược) lấy mình.
Hỏi: Nước có tướng ướt, gió có tướng lay động, lửa có tướng nóng, đất có tướng cứng… Như vậy mỗi pháp đều có tự tướng. Sao lại nói các pháp đều là KHÔNG?
Đáp: Các tướng đều bất định. Chẳng có tướng nào là định tướng cả. Ví như nước có tướng lỏng; khi được đun sôi lại biến thành hơi; khi gặp lạnh lại đông đặc thành nước đá, thành băng, thành tuyết. Ví như các vật bị lửa thiêu đốt biến thành tro…
Như vậy là mỗi pháp tự xả tướng của nó khi gặp các duyên khác, nên nói các pháp chẳng có định tướng.
Lại nữa, các pháp hữu vi có 3 tướng là sanh, trú và diệt; cũng như các pháp vô vi có 3 tướng là bất sanh, bất trú và bất diệt.
Như vậy, nếu các pháp có định tướng thì chẳng có biến đổi như vậy được. Bởi vậy nên nói các pháp tướng đều là KHÔNG.
Hỏi: Nếu nói các pháp đều là KHÔNG, thì làm sao phân biệt phàm phu với Thánh Hiền?
Đáp: Chẳng có pháp gọi là Thánh, cũng chẳng có pháp gọi là Phàm. Chỉ cần phá màn vô minh, chuyển vô trí thành trí là phàm phu liền trở thành Thánh vậy.
Ví như có bệnh mới dùng thuốc; ngay khi hết bệnh, thì chẳng còn cần đến thuốc nữa.
Trong kinh, Phật dạy: “Lìa phàm chẳng có Thánh, lìa Thánh chẳng có phàm”.
Chẳng nên chấp có hai pháp Phàm và Thánh riêng rẽ. Vì sao? Vì các bậc Thánh cũng dùng pháp của người phàm. Chỉ khác ở chỗ bậc Thánh chẳng có chấp tướng, mà người phàm thì chấp tướng. Nếu phàm phu xả được tâm chấp tướng, thì liền được nhập vào dòng Thánh.
(15).- Bất Khả Đắc Không:
Đây là pháp quán về các pháp là bất khả đắc “Chẳng thể được” là KHÔNG, quán Bất Khả Đắc cũng là KHÔNG. Như vậy gọi là Bất Khả Đắc Không.
Hỏi: Nói các pháp đều là KHÔNG cũng đủ rồi. Vì sao còn nói các pháp là Bất Khả Đắc Không?
Đáp: Khi phá hết thảy các pháp tướng rồi, thì nói các pháp là KHÔNG. Các pháp đều KHÔNG, nên đều là bất khả đắc, tức là chẳng có thể được. Nhưng lại phải xả luôn chấp về bất khả đắc, mới vào được Bất Khả Đắc Không.
Hỏi: Nếu hết thảy pháp đều KHÔNG, vì sao trong kinh lại nói đến các pháp là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Lại cũng có nói đến sự thọ nghiệp quả báo?
Đáp: Như bà mẹ sanh con. Tuy mẹ con có khác nhau, nhưng cũng có duyên nghiệp tương tục. Do duyên nghiệp tương tục mà có nghiệp quả nối tiếp trong nhiều đời như vậy.
Bồ Tát, tuy cũng ở trong sanh tử, nhưng đã biết rõ thật tướng các pháp. Vì người độn căn, nói các pháp là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Vì người lợi căn, nói các pháp đều là KHÔNG, nói 5 ấm, 12 nhập, 18 giới… đều chẳng thật có.
Trong kinh Tạp A Hàm và kinh Đại Không nói: “CÓ 2 KHÔNG là Chúng Sanh Không và Pháp Không”.
Trong kinh La Đà nói: “Sắc ấm là tán hoại”.
Trong kinh Ba La Diên và kinh Lợi Chúng nói: “Người được đạo rồi chẳng thủ cũng chẳng xả. Như vậy là lìa các chấp”.
Hỏi: Vì sao gọi Bất Khả Đắc Không là Thật Không?
Đáp: Vì thật pháp là bất khả đắc, là Không, nên là Bất Khả Đắc Không.
Hỏi: Trước nói là Tự Tướng Không. Sao nay lại nói Bất Khả Đắc Không?
Đáp: Nói nhân duyên Bất Khả Đắc Không để đoạn nghi, để người nghe pháp khỏi sợ hãi. Như lời Phật dạy: “Từ khi ta phát tâm đến khi ta thành Đạo, tầm cầu các pháp đều là Bất Khả Đắc”.
Hỏi: Người vào được Bất Khả Đắc Không có những công đức gì?
Đáp: Người tu hành vào được Bất Khả Đắc Không sẽ tiêu sạch ba độc và các kiết sử, được đầy đủ giới, định, huệ và đầy đủ các pháp thiện.
Hỏi: Nghĩa của Chư Pháp Không và Bất Khả Đắc Không có gì khác nhau không?
Đáp: Bất Khả Đắc Không cũng đồng nghĩa với Chư Pháp Không. Nói Bất Khả Đắc Không để khai thị chúng sanh thấy rõ ràng Vô Vi, Đệ Nhất Nghĩa Đế cũng đều là bất khả đắc vậy. Đây là nghĩa của Vô Dư Niết Bàn.
(16).- Vô Pháp Không:
Đây là pháp quán về chỗ không có pháp là KHÔNG.
(17).- Hữu Pháp Không:
Đây là pháp quán chỗ có pháp là KHÔNG
(18).- Vô Pháp Hữu Pháp Không:
Đây là pháp quán về chỗ không pháp và chỗ có pháp đều là KHÔNG.
Vì sanh là bất khả đắc, diệt cũng là bất khả đắc, nên KHÔNG (hữu) và CÓ (vô) đều bất khả đắc. Bởi vậy nên nói “Chỗ không có pháp”, “Chỗ có pháp”, “Chỗ không pháp và có pháp” đều là bất khả đắc, đều là KHÔNG cả.
18 KHÔNG, nêu trên đây, phá hết thảy Sanh, Trú, Diệt, cũng phá hết thảy 3 đời.
Có thuyết nói: “Nếu vào được Vô Pháp Không thì sẽ biết được ở hiện tại các pháp hữu vi và các pháp vô vi đều là KHÔNG cả”. Lại có thuyết nói : “Nếu rõ biết được Vô Sanh, Vô Diệt thì sẽ phá được cả Hữu Vi lẫn Vô Vi, biết rõ Hữu Vi và Vô Vi đều là KHÔNG cả”.
--o0o--
Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Bồ Tát Ma Ha Tát muốn trú Nội Không,… dẫn đến Vô Pháp Hữu Pháp Không phải tu tập Bát nhã Ba la mật.
Nói tóm lại, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 42, “Thán Tịnh”, tập 4, quyển 63, Nói:
“... 13 “pháp không” nêu ở đây, từ nội không... dẫn đến tự tướng không, nhằm phá hết thảy các chấp về pháp tướng. Còn 5 “pháp không” sau cùng gồm có chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không và vô pháp hữu không, nhằm phá tổng tướng của hết thảy các pháp”.
Đại Trí Độ Luận là bộ thích luận viết theo lối “hội thoại” tuy có dài dòng nhưng rất hữu ích cho người học Bát nhã Ba la mật. Chúng tôi trích dẫn 18 pháp không này ở phẩm thứ nhất, tập 2, quyển 31, do Ni Trưởng TN Diệu Không dịch. Như nhiều lần chúng tôi lưu ý: Ai hiểu được 18 pháp không thì có thể gọi là thông đạt Bát Nhã. Vì nó là trọng tâm, là nguyên lý chỉ đạo, cũng là triết lý tối cao của Phật đạo. Đọc và tư duy các pháp tu này cẩn thận có thể thâm nhập Bát Nhã hay Phật đạo. Nên ngay từ đầu khi nói về 18 pháp không này, Bồ Tát Long Thọ bảo:
“Bát nhã Ba la mật là đại trí huệ. Có được trí huệ Bát Nhã là vào được nơi Thật Tướng các pháp, diệt hết thảy các pháp quán. Còn 18 KHÔNG là phương tiện dẫn đến đại trí huệ Bát nhã Ba la mật, là 18 pháp quán để như thật biết Thật Tướng các pháp đều là KHÔNG. Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật được đầy đủ 18 KHÔNG, nên Bát nhã Ba la mật và 18 KHÔNG chẳng phải hai, chẳng phải khác. Vì sao? Vì 18 KHÔNG là chẳng có tướng, tức là vô tướng, Bát nhã Ba la mật cũng là vô tướng. Vì 18 KHÔNG chẳng chấp các tướng, tức là xả ly tướng, Bát nhã Ba la mật cũng xả ly tướng. Bồ Tát tu tập Bát nhã Ba la mật, dùng trí huệ Bát nhã Ba la mật để quán 18 KHÔNG. Khi đã có được đại trí huệ Bát nhã Ba la mật rồi mới an trú đầy đủ trong 18 KHÔNG”.
Chúng tôi một lần nữa thiết tha khuyến dẫn hành giả Bát Nhã đọc luận giải này của Bồ Tát Long Thọ và luận giải của Thiền sư D.T. Suzuki nằm ở LUẬN #3: “Cái Thấy Từ Bờ Kia” thuộc “phần thứ III Tổng luận” cẩn thận. Nó rất cần thiết để hiểu biết thật tánh của tất cả pháp. Nhớ rằng tất cả pháp là không mà không chấp không, thì được không không. Lên một tầng nữa không thấy không mà cũng chẳng thấy chẳng không. Biết như vậy thì mới vào đươc đệ nhất nghĩa không. Đó là chỗ cao tột của Phật đạo, cũng gọi là Niết bàn giải thoát!
3. Các Tam ma địa còn được gọi là Tam Muội (三昧), Tam Ma Đề (三摩提), Tam Ma Đế (三摩帝), Tam Ma Để (三摩底), Tam Muội Địa (三昧地), v.v…; ý dịch là Đẳng Trì (等持), Chánh Định (正定), Chánh Ý (定意), Điều Trực Định (調直定), Chánh Tâm Hành Xứ (正心行處), Định (定); nghĩa là xa lìa hôn trầm, trạo cử, là tác dụng của tinh thần, tâm chuyên trú vào một cảnh, không tán loạn.
Tam Ma Địa là một trong 75 pháp, hay 108 pháp, mà Phật cho là tướng Đại Thừa của Bồ Tát Ma ha tát. Chúng tôi có giải thích sơ trên mặt nổi của các pháp tu nầy hơn là thực chứng. Trong “Phần thứ I Tổng luận” đã giải thích rồi, dựa theo sách vở, không đi sâu vào chi tiết. Thí du: Một trong Tam muội phổ thông mà chúng ta thường đề cập trong Đại Bát Nhã là Tam giải thoát môn, Tam chủng tam muội; Tam chủng đẳng trì. Đó là Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn và Vô nguyện giải thoát môn. Kinh có giải thích tỉ mỉ. Ai chứng được Tam muội này thì có thể bước qua cửa giải thoát.
Vì vậy, ba giáo pháp: Lục Ba la mật, 18 pháp môn và các Tam ma địa mới được xem là tướng Đại thừa của Bồ Tát Ma ha tát./.
2- Phân đoạn hai:
Phần cuối Q.52 cho đến cuối Q.53, Hội thứ I, ĐBN, tương đương với phẩm “Quảng Thừa” quyển thứ 06, MHBNBLMĐ. Tất cả pháp mầu Phật đạo là tướng Đại Thừa của đại Bồ Tát:
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát, chính là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?
Trong nội thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, tuy quán như vậy mà không có sở đắc.
Trong ngoại thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, tuy quán như vậy mà không có sở đắc.
Trong nội ngoại thân, theo thân quán sát, cũng không có thân giác, tuy quán như vậy mà không có sở đắc.
Đại Bồ Tát quán thân, siêng tinh tấn nhất tâm trừ sự tham ưu của thế gian.
Nội thọ, nội tâm, nội pháp, ngoại thọ, ngoại tâm, ngoại pháp, nội ngoại thọ, nội ngoại tâm, nội ngoại pháp, đại Bồ Tát theo thọ tâm pháp quán sát, cũng không có thọ giác, tâm giác, pháp giác, tuy quán như vậy mà không có sở đắc. Đại Bồ Tát quán thân, siêng tinh tấn nhất tâm trừ sự tham ưu của thế gian.
Thế nào là đại Bồ Tát trong nội thân theo thân quán sát?
Lúc đại Bồ Tát đi thời biết là đi, lúc đứng thời biết là đứng, lúc ngồi thời biết là ngồi, lúc nằm thời biết là nằm. Thân hành động thế nào thời biết như vậy. Đây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhất tâm trừ sự tham ưu của thế gian, tuy quán như vậy mà không có sở đắc(1).
Đại Bồ Tát lúc đến, lúc đi, lúc nhìn ngó, co duỗi, cúi ngửa, lúc đắp y, cầm bát, lúc ăn uống, lúc nằm nghỉ, ngủ thức, đứng ngồi, nói nín, lúc nhập thiền, xuất thiền cũng thường nhất tâm. Đây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, tuy quán như vậy mà không có sở đắc(2).
Trong nội thân, lúc theo thân quán sát, đại Bồ Tát nhất tâm niệm, lúc thở vào biết là thở vào, lúc thở ra biết là thở ra, lúc thở vào dài thời biết là thở vào dài, lúc thở ra dài thời biết là thở ra dài, lúc thở vào vắn thời biết là thở vào vắn, lúc thở ra vắn thời biết là thở ra vắn. Đây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, siêng tinh tấn nhất tâm trừ sự tham ưu của thế gian, tuy quán như vậy mà không có sở đắc(3).
Đại Bồ Tát quán sát thân tứ đại nghĩ rằng trong thân thể có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại. Ví như nhà hành thịt dùng dao bén giết bò chia làm bốn phần rồi hoặc đứng hoặc ngồi quán sát bốn phần thịt bò nầy. Cũng vậy đại Bồ Tát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật quán sát thân thể bốn đại: Phong, thủy, hỏa, thổ đại. Đây là trong nội thân, đại Bồ Tát theo thân quán sát, tuy quán như vậy mà không có sở đắc(4).
Đại Bồ Tát lại quán sát thân thể từ đảnh đầu đến chân, da mỏng bao bọc nhiều thứ bất tịnh đầy trong thân. Nghĩ rằng thân thể có tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dầy, gân, thịt, xương, tủy, tim, gan, phổi, tùy, cật, mật, tiểu trường, đại trường, bao tử, bàng quang, phân dãi, mồ hôi, cáu ghét, nước mắt, nước mũi, nước miếng, máu, mủ, đàm, nhớt, não óc. Ví như trong kho của nhà nông chứa lộn lạo đầy những lúa, nếp, mè , đậu, bắp v.v… Người có đôi mắt sáng mở kho liền thấy rõ là lúa, là nếp, là mè, là đậu, là bắp v.v…(5)
- Đại Bồ Tát quán sát trong thân từ đầu đến chân thấy rõ từng chi tiết bất tịnh, để trừ bệnh luyến ái thân xác, đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là “cửu tưởng quán” (skt:Nivasamjna): Loại thiền quán về xác chết, người quán pháp nầy thường hay đến ven rừng để quan sát “lâm thi” biến hoại trong 9 giai đoạn, để thấy rõ sự tan rã ghê tởm của xác thân mà trừ được bệnh dâm dục:
1- Quán xác sình lên (skt: Vyadhmatakasamjna): Tưởng thây vừa mới chết và bắt đầu sình lên,
2- Quán xác đổi sắc bầm tím (skt: Vinilakas): Tưởng thây chết đổi sắc bầm xanh tím.
3- Quán xác rút nhỏ lại (skt: Vipadumakas): Tưởng thây đang hoại diệt
4- Quán xác rỉ máu (skt: Vilohitakas ): Tưởng thây sình bấy nứt rã và rỉ máu,
5- Quán xác bị phủ đầy máu mủ (skt: Vipuyakas): Tưởng thây chết sình lên đầy dẫy máu mủ, sắp rã,
6- Quán xác bị thú ăn (skt: Vikhaditakas): Tưởng thây rã ra từng khúc, làm mồi cho chim thú,
7- Quán xác bị rã ra từng phần (skt: Viksiptakas): Tưởng thây đang tan rã ra từng phần,
8- Quán xác chỉ còn lại xương trắng (skt: Asthis): Tưởng nắng chan mưa gội, thây nay chỉ còn trơ lại một bộ xương trắng,
9- Quán tro còn lại (skt: Vidagdhakas): Tưởng xương tiêu mục theo thời gian, nay chỉ còn trơ lại một nhúm tro.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là 37 pháp trợ đạo: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ đề phần, Bát chánh đạo phần, đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là tam Tam ma địa. Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng của tất cả pháp đều là không, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát không, giải thoát vô tướng, giải thoát vô nguyện, đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát chính là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, pháp trí, tỉ trí, thế trí, tha tâm trí, và như thật trí. (Q. 53, ĐBN)
1- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên chẳng thọ sanh, thì đó là khổ trí.
2- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tập nên đoạn trừ vĩnh viễn, thì đó là tập trí.
3- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết diệt nên tác chứng, thì đó là diệt trí.
4- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết đạo nên tu tập, thì đó là đạo trí.
5- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tham, sân, si hết, thì đó là tận trí.
6- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết cõi đến của chúng sanh chẳng tái sanh, thì đó là vô sanh trí.
7- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết sự chuyển biến tướng sai biệt của năm uẩn v.v... thì đó là pháp trí.
8- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết uẩn giới, xứ và các duyên khởi, hoặc tổng, hoặc biệt là vô thường v.v... thì đó là tỉ trí(loại trí).
9- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tất cả pháp là danh tự giả thiết, thì đó là thế tục trí.
10- Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tâm, tâm sở của hữu tình và tu hành chứng diệt, thì đó là tha tâm trí.
11- Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng của Như Lai, đó là như thật trí.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là ba Vô lậu căn. Đó là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.
1- Thế nào là vị tri đương tri căn? Nếu các hành giả, đối với các Thánh đế, chưa được hiện quán, chưa được Thánh quả, nhưng có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là vị tri đương tri căn.
2- Thế nào là dĩ tri căn? Nếu các hành giả đối với các Thánh đế đã được hiện quán, đã được Thánh quả, lại có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là dĩ tri căn.
3- Thế nào là cụ tri căn? Các hành giả, hoặc là A la hán, hoặc là Độc giác, hoặc là Bồ Tát đã trụ thập địa, hoặc là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là cụ tri căn.
Ba căn như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là mười tùy niệm, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ v.v... có bao nhiêu thiện pháp, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là mười lực của Phật. Đó là xứ phi xứ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, chủng chủng giới trí lực, chủng chủng thắng giải trí lực, căn thắng liệt trí lực, biến hành hành trí lực, tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, tử sanh trí lực, lậu tận trí lực.
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là tám pháp Phật bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, năm loại mắt, sáu phép thần thông, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Với các pháp như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.(6)
- Tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là các pháp môn văn tự Đà la ni(7). Tánh bình đẳng của văn tự, tánh bình đẳng của ngôn ngữ, tánh bình đẳng của ngôn thuyết lý thú, nhập vào các pháp môn văn tự, đó là pháp môn văn tự Đà la ni.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì do nhập vào pháp môn chữ "Khả" nên ngộ tất cả pháp vốn bất sanh; do nhập vào pháp môn chữ "Lạc" nên ngộ tất cả pháp lìa cấu trần; do nhập vào pháp môn chữ "Bả" nên ngộ thắng nghĩa giáo của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Giả" nên ngộ tính không sanh tử của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Na" nên ngộ tính vô đắc thất xa lìa danh tướng của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Lả" nên ngộ tính xuất thế gian của tất cả pháp, nhân duyên của ái vĩnh viễn chẳng hiện; do nhập vào pháp môn chữ "Đà" nên ngộ tính điều phục, tịch tịnh, chơn như, bình đẳng, vô phân biệt của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Bà" nên ngộ tính lìa ràng buộc của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Trà" nên ngộ tính lìa nóng nảy, kiêu mạn, cấu uế của tất cả pháp, được thanh tịnh; do nhập vào pháp môn chữ "Sa" nên ngộ tính vô quái ngại của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Phược" nên ngộ tính ngôn âm đạo đoạn của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Đả" nên ngộ tính chơn như bất động của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Dã" nên ngộ tính như thật bất sanh của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ "Sắc tra" nên ngộ tướng chế phục nhậm trì của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Ca" nên ngộ tác giả của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Ta", nên ngộ tánh bình đẳng về thời gian của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Ma", nên ngộ tánh ngã và ngã sở của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Già" nên ngộ tính hành thủ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Tha" nên ngộ tính của tất cả pháp xứ sở là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Xà" nên ngộ sự sanh khởi tính của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Thấp phược", nên ngộ tánh an ổn của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Đạt" nên ngộ tính giới của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Xả", nên ngộ tánh tịch tịnh của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Khư", nên ngộ tánh như hư không của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Sạn", nên ngộ tánh cùng tận của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Tát đả" nên ngộ tính nhậm trì xứ phi xứ khiến chẳng động chuyển của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Nhã", nên ngộ tánh được biết rõ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Lặc tha", nên ngộ tánh chấp trước nghĩa của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Kha", nên ngộ tánh nguyên nhân của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Bạc", nên ngộ tánh có thể phá hoại của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Xước", nên ngộ tánh che khuất của dục lạc của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Táp ma", nên ngộ tánh có thể nhớ nghĩ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Hạp phược", nên ngộ tánh có thể mời gọi của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Ta", nên ngộ tánh dõng kiện của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Kiện", nên ngộ tánh bình đẳng rộng lớn của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Soai", nên ngộ tánh chứa nhóm của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Nõa" nên ngộ lìa tất cả việc tranh cải ồn ào, không lại, không qua, đi, đứng, nằm, ngồi của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Phả" nên ngộ quả báo đầy đủ cùng khắp của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Tắt ca", nên ngộ tánh tích tụ chứa nhóm của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Dật Ta", nên ngộ tánh tướng già suy của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Chước" nên ngộ dấu vết của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Tra", nên ngộ tánh bức bách xua đuổi nhau của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ "Trạch" nên ngộ chỗ cứu cánh của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được.
Pháp môn văn tự như vậy là có khả năng ngộ nhập đến tận cùng pháp không; trừ văn tự như vậy, còn cái biểu thị về cái không của các pháp lại chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì ý nghĩa của văn tự như vậy chẳng thể nói ra được, chẳng thể hiển thị được, chẳng thể chấp thủ, chẳng thể ghi chép giữ gìn, chẳng thể quán sát, vì lìa các tướng.
Giống như hư không là nơi qui thú của tất cả vật, các pháp môn văn tự này, cũng lại như vậy. Nghĩa không các pháp đều nhập vào pháp môn này mới được rõ bày.
Nhập vào chữ "Khả" này v.v… gọi là nhập vào các pháp môn văn tự. Nếu đại Bồ Tát đối với việc nhập vào các pháp môn văn tự như vậy thì đạt được trí thiện xảo, đối với sự nói năng, sự phô diễn, sự tiêu biểu của các thứ âm thanh, ngôn ngữ đều không bị trở ngại; đối với tánh bình đẳng không của tất cả pháp, có khả năng chứng đắc và duy trì hết; đối với các thứ âm thanh, ngôn ngữ đều được thông suốt.
Nếu đại Bồ Tát có khả năng nghe và nhập vào tướng ấn, cú ấn của các pháp môn văn tự như vậy, nghe rồi thọ trì, đọc tụng rành rọt, vì người khác giảng giải, chẳng ham danh lợi thì do nhân duyên này mà đạt được hai mươi thứ công đức thù thắng. Những gì là hai mươi? Đó là được nghĩ nhớ dai, được tàm quí hơn hết, được sức kiên cố, được chỉ thú của pháp, được sự hiểu biết tăng thượng, được trí tuệ thù thắng, được biện tài vô ngại, được pháp môn tổng trì, được sự không nghi hoặc, được sự không giận hay ưa đối với lời nói nghịch thuận, được an trú trong sự bình đẳng không cao thấp, được sự thông suốt đối với âm thanh ngôn ngữ của hữu tình, được uẩn hoàn hảo, xứ hoàn hảo, giới hoàn hảo, được duyên khởi hoàn hảo, nhân hoàn hảo, duyên hoàn hảo, pháp hoàn hảo, được trí hoàn hảo phân biệt sự thắng liệt của căn, được trí hoàn hảo biết tâm người khác, được sự quán sát khéo léo về tinh tú niên lịch, được trí thiên nhĩ hoàn hảo, trí túc trụ tùy niệm hoàn hảo, trí thần cảnh hoàn hảo, trí hoàn hảo biết sống chết, được trí lậu tận hoàn hảo, được trí hoàn hảo nói về xứ phi xứ(8), được oai nghi hoàn hảo, qua lại trên đường.
Đó là được hai mươi công đức thù thắng.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đạt được pháp môn văn tự Đà la ni, thì nên biết đó là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát.
Thích nghĩa cho phân đoạn 2- này:
(1). Đi, đứng, nằm, ngồi: Tức nói về “tứ oai nghi” của Bồ Tát. Bồ Tát lúc nào cũng sống trong chánh định, sống trong rõ ràng thường biết, nên có thể tự kiểm soát, thúc liễm thân tâm.
(2). Đây ý nói về động thân, Bồ Tát lúc nào cũng có thể kiểm soát hành vi và tư tưởng của chính mình.
(3). Đây nói về “Quán sổ tức”: Tức phương pháp tập định bằng cách đếm hơi thở hay theo dõi hơi thở ra vào để nhiếp tâm.
(4). Đây đề cập đến lối quán tưởng gọi là “Quán giới phân biệt”, Kinh chỉ đề cập là hành giả quán về tứ đại, nhưng lối quán này còn nới rộng đến thập bát giới. Quán giới phân biệt là vận dụng trí tuệ để quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới hạn của thập bát giới từ căn, trần, thức cốt để xem cái ngã có thật, có trường tồn, bất biến hay không?
(5). Đây muốn nói đến pháp “Quán thân bất tịnh”: Đó là quán tưởng về cái dơ bẩn, nhơ nhớp, hôi tanh… của thân xác con người, nhằm đối trị bệnh luyến ái sắc dục.
(6). Đây là tất cả các pháp môn Phật học, còn gọi là các thiện pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát, Bồ Tát đạo… đã tóm lược trong phần thứ I Tổng luận dưới danh mục “các pháp mầu Phật đạo”.
(7). Văn tự Đà la ni: Kinh có đề cập và liệt kê, tuy nhiên cũng giống như các Tam muội là nói lên cái thù thắng của nó, nhưng Kinh không nêu ra phương pháp học tập cũng như kỹ thuật hành trì. Vì vậy, chúng tôi cũng chỉ nói phớt qua.
(8). Xứ phi xứ: Cũng gọi Tri thị xứ phi xứ trí lực, Thị xứ phi xứ lực. Xứ nghĩa là đạo lý, tức là Như Lai biết rõ đúng như thực đối với tất cả nhân duyên quả báo, nếu tạo nghiệp thiện thì biết nhất định được quả báo vui, gọi là Tri thị xứ; nếu tạo nghiệp ác mà được quả báo vui thì không có đạo lý(xứ) này, nên gọi là Tri phi xứ.
Lược giải:
(cho phân đoạn hai)
Được coi là tướng Đại thừa của đại Bồ Tát là các Bồ Tát đã từng học, từng hành các pháp như: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ đề phần, bát chánh đạo phần (tức 37 pháp trợ đạo); ba giải thoát môn (không, vô tướng, vô tác); mười một trí; tam căn (vị tri dục tri căn, tri căn và trí giả căn); tam tam muội (hữu giác hữu quán tam muội, vô giác hữu quán tam muội và vô giác vô quán tam muội); thập niệm; tứ thiền; tứ vô lượng tâm; tứ vô sắc định; bát bội xả, cửu thứ đệ định; thập lực; tứ vô sở úy; tứ vô ngại giải; thập bát bất cộng pháp; các Đà la ni môn; tự môn; a tự môn…
Tất cả các pháp trên được gọi là các thiện pháp, các diệu pháp, các pháp hy hữu, các pháp mầu Phật đạo, đạo Bồ đề, tư lương Bồ đề Bồ Tát, Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh.
Quyển 468, phẩm “Nhiều Đức Tướng”, Hội thứ I, ĐBN do ngài Huyền Trang dịch, được lặp lại một lần nữa để nói lên tầm quan trọng của các Thánh pháp như sau:
Phật bảo Thiện Hiện: “Này Thiện Hiện! Thánh pháp của các Bồ Tát là sáu Ba la mật, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa của Bồ Tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và các pháp vô lậu v.v…
Kết quả của thánh pháp là cảnh giới đại Niết bàn, quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật. Lại nữa Thiện Hiện! Thánh pháp của các Bồ Tát là trí của quả Dự lưu, trí của quả Nhất lai, trí của quả Bất hoàn, trí của quả A la hán, trí của quả Độc Giác Bồ đề, trí của quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật; trí của tứ niệm xứ cho đến tám thánh đạo phần; trí của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; trí của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; trí của tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; trí của bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; trí của tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; trí của Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; trí của pháp nội Không cho đến vô tính tự tính Không; trí của chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì; trí của Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; trí của năm loại mắt, sáu phép thần thông; trí của Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; trí của Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; trí của ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ; trí của pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; trí của Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; trí của pháp thiện và pháp ác; trí của pháp hữu ký, pháp vô ký; trí của pháp hữu lậu, pháp vô lậu; trí của pháp thế gian và pháp xuất thế gian; trí của pháp hữu vi và pháp vô vi; đó là Thánh pháp”.
Kết quả của Thánh pháp là dứt trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục”.
Tất cả các pháp mầu Phật học được liệt kê và giải thích trong hơn 150 trang ở “Phần thứ I Tổng Luận”, quyển 380, Hội thứ I, ĐBN, Quý vị có thể quay lại ôn tập nếu muốn. Tuy nhiên, xét cho cùng thì những giải thích của phần đó chỉ có trên mặt nổi của ngôn từ chứ không phải là những giải thích của những bậc thật tu thật chứng. Bồ Tát Long Thọ là Tổ thứ 14, một trong 28 Tổ của dòng thiền Tây Thiên truyền thừa từ Đức Phật, là bậc thật tu thật chứng, viết những bí quyết của tất cả các pháp tu Phật học trong Đại Trí Độ Luận mà chúng tôi trích dẫn nhiều nhất trong Hội thứ II của thiên Tổng luận này, để giúp bạn đọc nghiên cứu học hỏi thêm. Vậy, xin Quý vị cố gắng tụng đọc thọ trì, đừng phụ lòng một bậc thương tri thức, một bậc Long tượng đã hao tổn tâm trí xiển dương các pháp mầu này!
2. Đoạn hai:
Cuối Q.53 cho đến đầu Q.55, Hội thứ I, ĐBN
(Tương đương với quyển thứ 06, phẩm “Phát Thú”, MHBNBLMĐ).
(Thuyết về thập địa Bồ Tát):
Chắc độc giả còn nhớ câu hỏi đầu tiên của cụ thọ Thiện Hiện trong phẩm “Biện Đại Thừa” này: “Làm sao biết được sự phát tâm hướng đến Đại thừa của đại Bồ Tát?”
Đoạn kinh này Phật trả lời câu hỏi của cụ thọ Thiện Hiện: “Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành sáu pháp Ba la mật, từ một địa vị tiến đến một địa vị, thì nên biết đó là đại Bồ Tát phát tâm(1) hướng đến Đại thừa”.
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp không từ đâu đến, cũng chẳng đến đâu. Vì sao? Vì tất cả pháp không đi không đến, không chỗ khởi hành, không có đích để đến, vì các pháp ấy không biến hoại, đại Bồ Tát ấy, đối với chỗ khởi hành và chỗ đến, chẳng ỷ lại, chẳng tư duy, tuy tu sửa nghiệp ở bậc của mình mà chẳng thấy bậc ấy, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát, khi tu hành sáu pháp Ba la mật, từ một địa vị tiến đến một địa vị.
Thế nào là đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ở bậc của mình từ bậc Cực hỷ địa, bậc Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, cho tới Pháp vân địa?
1- Đại Bồ Tát khi trụ Cực hỷ địa (Phạm: Pramuditàbhùmi), còn gọi là Hoan hỷ địa, nên khéo tu trị mười món thắng nghiệp: Tu trị tịnh thắng ý lạc nghiệp, tu trị tất cả hữu tình bình đẳng tâm nghiệp, tu trị bố thí nghiệp, tu trị thân cận thiện hữu nghiệp, tu trị cầu pháp nghiệp, tu trị thường vui xuất gia nghiệp, tu trị ưa vui thân Phật nghiệp, tu trị mở rộng pháp giáo nghiệp, tu trị phá kiêu mạn nghiệp, tu trị lời hằng chắc chắn ngữ nghiệp, vì tánh của tất cả ngữ ngôn bất khả đắc vậy.
Thế nào là 10 món thắng nghiệp?
Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ý lạc thù thắng thanh tịnh là lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, tu tập tất cả thiện căn.
Đại Bồ Tát tu tu trị tất cả hữu tình bình đẳng tâm nghiệp là lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí dẫn phát bốn thứ vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả.
Đại Bồ Tát tu trị bố thí nghiệp là đối với tất cả hữu tình không có phân biệt mà hành bố thí.
Đại Bồ Tát tu trị thân cận thiện hữu nghiệp là thấy các thiện hữu khuyến hóa hữu tình, khiến họ tu tập Nhất thiết trí trí, liền thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thăm hỏi, thọ lãnh chánh pháp, ngày đêm vâng lời, phụng sự, tâm không lười mỏi.
Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp cầu pháp là lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí, cần cầu Chánh pháp Vô Thượng của Như Lai, chẳng rơi vào các bậc Thanh văn, Độc giác.
Đại Bồ Tát tu trị thường vui xuất gia nghiệp là ở tất cả nơi chốn sanh ra, thường chán sự tạp nhạp ồn ào của lao ngục gia đình, thường ưa vui với Phật pháp, thanh tịnh xuất gia, không gì có thể ngăn trở.
Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ưa mến thân Phật làchỉ thoáng thấy hình tượng Phật rồi cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, hoàn toàn chẳng xả tác ý nghĩ nhớ đến Phật.
Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp triển khai giáo pháp làkhi Phật còn tại thế hay sau khi nhập Niết bàn, vì các hữu tình truyền khai giáo pháp, khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh trong sạch, đó là mươi hai thể loại kinh từ khế kinh… cho đến luận nghị.
Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp phá bỏ kiêu mạn làthường giữ khiêm tốn, cung kính điều phục tâm kiêu mạn, do đó chẳng sanh vào dòng họ hạ tiện.
Đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng lànói ra tương xứng với sự hiểu biết, lời nói và việc làm hợp nhau, thì đó là đại Bồ Tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng.
2- Đại Bồ Tát khi trụ đệ nhị Ly cấu địa (Phạm: Vimalàbhùmi), còn gọi là Vô cấu địa, nên đối tám pháp suy nghĩ tu tập, khiến mau viên mãn: Cấm giới thanh tịnh, biết ơn trả ơn, trụ sức an nhẫn, thọ thắng vui mừng, chẳng bỏ hữu tình, hằng khởi đại bi, đối các Sư trưởng đem tâm kính tin, thưa hỏi, vâng lời, cúng dường, tưởng như thờ Phật, siêng cầu tu tập Ba la mật-đa.
Thế nào là tám pháp cần phải suy nghĩ tu tập?
Đại Bồ Tát giữ cấm giới thanh tịnh làchẳng khởi tác ý Thanh văn, Độc giác và các việc khác về phá giới, chướng ngại, giác ngộ.
Đại Bồ Tát tri ân báo ân làkhi tu hành Bồ Tát hạnh, đối với ơn nhỏ còn chẳng quên báo đáp, huống là đối với ân huệ lớn mà chẳng báo đền.
Đại Bồ Tát trụ sức an nhẫn, dù có các hữu tình đến xúc phạm, hủy nhục, nhưng đối với họ không có tâm tức giận, làm hại.
Đại Bồ Tát thọ hoan hỷ thù thắng là khi giáo hóa hữu tình đã được thành thục, thân tâm vui vẻ, hưởng niềm hoan hỷ thù thắng, thì đó là đại Bồ Tát thọ hoan hỷ thù thắng.
Đại Bồ Tát chẳng bỏ hữu tình là cứu độ hữu tình, tâm hằng chẳng bỏ.
Đại Bồ Tát hằng khởi đại bi làkhi tu hành Bồ Tát hạnh, khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì nhiêu ích tất cả hữu tình, giả sử trải qua vô lượng vô số trăm ngàn kiếp, ở trong đại địa ngục chịu các khổ kịch liệt, hoặc thiêu hoặc nấu, hoặc chém hoặc chặt, hoặc đâm hoặc treo, hoặc xay hoặc giã, chịu vô lượng sự khổ như vậy. Cho đến vì muốn khiến họ nương nơi Phật thừa mà nhập Niết bàn, nhưng tâm đại bi của đại Bồ Tát chưa từng mệt mỏi. Đó là đại Bồ Tát hằng khởi đại bi.
Đại Bồ Tát đối với các Sư trưởng đem tâm kính tín, thăm hỏi, phụng sự, cúng dường tưởng như phụng sự Phật,vì cầu quả vị Giác ngộ tối cao, cung thuận Sư trưởng, không để tâm đến điều gì khác.
Đại Bồ Tát cần cầu tu tập Ba la mật, đối với các Ba la mật chuyên tâm cầu học, xa lìa các việc khác, thì đó là đại Bồ Tát cần cầu tu tập Ba la mật.
3- Đại Bồ Tát khi trụ đệ tam Phát quang địa (Phạm: Prabhàkarìbhùmi), còn gọi là Minh địa, nên trụ năm pháp: Siêng cầu đa văn từng không nhàm đủ, đem tâm vô nhiễm thường tu pháp thí, tuy khai hóa rộng mà chẳng tự cao, trang nghiêm cõi Tịnh độ, trồng các căn lành, tuy dụng hồi hướng mà chẳng tự cử(2), hóa độ hữu tình nhưng chẳng nhàm mỏi trong vô biên sanh tử mà chẳng tự cao, an trụ tàm quí nên không chấp đắm Nhị thừa.
Thế nào là nên trụ năm pháp?
Đại Bồ Tát cần cầu đa văn, thường không chán nản, không cho là đủ, đối pháp được nghe chẳng đắm vào văn tự, phát khởi sự siêng năng tinh tấn, nghĩ rằng: Đối với Chánh pháp của Phật ở cõi này hoặc chư Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới đã nói, ta đều nghe, tu tập đọc tụng, thọ trì, nhưng đối với những giáo pháp ấy, chẳng đắm trước văn tự.
Đại Bồ Tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao, vì các hữu tình tuyên thuyết chánh pháp nhưng chẳng tự dùng thiện căn này hồi hướng quả vị Giác ngộ, huống là cầu việc khác; tuy hóa đạo nhiều mà chẳng tự thị, thì đó là đại Bồ Tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao.
Đại Bồ Tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự đề cao, dõng mãnh tinh tấn tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm các cõi Phật thanh tịnh và làm thanh tịnh tâm của mình và người, tuy làm việc như vậy mà chẳng tự cao, thì đó là đại Bồ Tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao.
Đại Bồ Tát vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng chán nản mệt mỏi với sanh tử vô biên, nhưng chẳng tự cao, vì muốn thành thục tất cả hữu tình, trồng các căn lành, nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến khi chưa được viên mãn Nhất thiết trí trí, tuy chịu sự cần khổ của vô biên sanh tử, nhưng không chán nản mỏi mệt, cũng chẳng tự cao.
Đại Bồ Tát tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước, chuyên cầu quả vị Giác ngộ tối cao, đối với ý nghĩ Thanh văn, Độc giác đầy đủ tàm quí, hoàn toàn chẳng móng khởi, nhưng ở trong đó, cũng không đắm trước, thì đó là đại Bồ Tát, tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước.
4- Đại Bồ Tát khi trụ đệ tứ Diệm huệ địa (Phạm: Prabhàkarìbhùmi), gọi là Tăng diệu địa, nên trụ mười pháp thường tu chẳng bỏ: Ở chỗ vắng lặng, ít muốn, biết đủ(3), thường chẳng bỏ lìa Đỗ đa công đức(4), đối các chỗ học chưa từng nới bỏ, đối các dục lạc sanh nhàm lìa, thường vui phát khởi tâm tịch diệt, lìa bỏ các vật sở hữu, tâm chẳng chìm đắm, đối với các sở hữu vô sở cố luyến.
Thế nào là trụ 10 pháp chẳng bỏ?
Đại Bồ Tát trụ nơi thanh vắng thường chẳng rời bỏ là vì cầu quả vị Giác ngộ tối cao, vượt lên các bậc Thanh văn, Độc giác v.v... thường chẳng rời bỏ nơi thanh vắng.
Đại Bồ Tátthiểu dục là đối với quả vị Giác ngộ còn chẳng tự mong cầu, huống là muốn tiếng khen lợi dưỡng v.v… của thế gian, thì đó là đại Bồ Tát thiểu dục.
Đại Bồ Tát hỷ túc là chỉ vì chứng đắc Nhất thiết trí trí, nên đối với các việc khác không đắm trước, thì đó là đại Bồ Tát hỷ túc.
Đại Bồ Tát thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà, đối với pháp thâm diệu, khởi lên sự kiên nhẫn, quán sát kỹ lưỡng, thì đó là đại Bồ Tát, thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà.
Đại Bồ Tát đối với các học xứ chưa từng xả bỏ, đối với giới đã học, giữ vững chẳng sai lệch, nhưng ở trong đó, thường chẳng chấp tướng.
Đại Bồ Tát đối với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa, đối với dục lạc ngọt ngào hấp dẫn, chẳng khởi dục tâm.
Đại Bồ Tát thường hay phát khởi tâm tịch diệt vốn có, đạt được tất cả pháp nhưng không hề khởi tác.
Đại Bồ Tát bỏ các sở hữu, đối với pháp nội ngoại, không hề chấp thủ.
Đại Bồ Tát tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm, đối với các thức đã trụ chưa từng khởi tâm, thì đó là đại Bồ Tát tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm.
Đại Bồ Tát, đối với các vật sở hữu, không tham luyến đoái hoài, không kỳ vọng thì đó là đại Bồ Tát đối với các sở hữu không có sự tham luyến đoái hoài.
5- Đại Bồ Tát khi trụ đệ ngũ Cực nan thắng địa (Phạm: Sudurjayàbhùmi), còn gọi là Nan thắng địa, nên xa lìa mười pháp: Xa lìa cư gia, nên xa lìa nữ tu sĩ, xa lìa nhà tham lam ganh ghét, nên xa lìa chỗ hội đàm gây gổ giận hờn, xa lìa khen mình chê người, xa lìa mười đạo bất thiện nghiệp, xa lìa tăng thượng mạn, xa lìa điên đảo, xa lìa do dự, xa lìa tham sân si.
Thế nào là chẳng xa lìa 10 pháp?
Đại Bồ Tát xa lìa nhà ở, muốn đến các cõi Phật, tùy theo nơi sanh ra, thường ưa xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thọ trì bình bát, khoác ba pháp y, hiện làm Sa môn, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa nhà ở.
Đại Bồ Tát phải xa lìa Bí sô ni, chẳng cùng ở chung dù trong khoảnh khắc, đối với họ cũng lại chẳng khởi dị tâm.
Đại Bồ Tát phải xa lìa nhà keo kiệt, khởi lên ý nghĩ: Ta một đời tận tụy, làm việc lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, khiến các hữu tình này do phước lực của họ mà cảm được nhà thí chủ tốt đẹp, cho nên ta ở trong đó, chẳng nên tham lam, tật đố, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa nhà keo kiệt.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chúng hội tranh chấp giận dữ, khởi lên ý nghĩ thế này: Nếu ở trong chúng hội, mà trong chúng đó, hoặc có Thanh văn, Độc giác, nói thừa ấy là tương ưng với pháp yếu, khiến ta thối thất tâm đại Bồ đề, vì thế nhất định phải xa lìa chúng hội; lại khởi lên ý nghĩ thế này: Các kẻ tranh chấp giận dữ có thể khiến hữu tình phát khởi sân hại, tạo tác đủ các loại nghiệp ác bất thiện, việc ấy còn trái với đường thiện, huống là đại Bồ đề, vì thế nhất định phải xa lìa sự tranh chấp giận dữ.
Đại Bồ Tát phải xa lìa việc tự khen mình chê người, đối với pháp nội, ngoại, đều không thấy có, nên xa lìa việc khen mình chê người.
Đại Bồ Tát phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, khởi lên ý nghĩ thế này: Mười pháp ác này, còn trở ngại đường thiện, Nhị thừa, Thánh đạo, huống là vị đại Giác ngộ, cho nên phải xa lìa.
Đại Bồ Tát phải xa lìa sự ngạo mạn tăng thượng, vì chẳng thấy có pháp có thể khởi ngạo mạn, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa sự ngạo mạn tăng thượng.
Đại Bồ Tát phải xa lìa điên đảo. Nếu đại Bồ Tát quán việc điên đảo hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa điên đảo.
Đại Bồ Tát phải xa lìa do dự. Nếu đại Bồ Tát quán việc do dự hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ Tát nên xa lìa do dự.
Đại Bồ Tát phải xa lìa tham, sân, si. Nếu đại Bồ Tát hoàn toàn chẳng thấy có việc tham, sân, si, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa tham, sân, si.
6- Đại Bồ Tát khi trụ đệ lục Hiện tiền địa (Phạm: Abhimukhìbhùmi), còn gọi là Mục kiến địa, nên viên mãn sáu pháp Ba la mật: Nên viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã. Lại nên xa lìa sáu pháp: Nên xa lìa tâm Thanh văn, xa lìa tâm Độc giác, xa lìa tâm nóng nảy, thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng buồn chán, xả vật sở hữu tâm không ăn năn, đối với kẻ đến cầu xin trọn chẳng dối gạt.
Thế nào là viên mãn sáu pháp Ba la mật?
Đại Bồ Tát viên mãn sáu pháp Ba la mật, vượt lên các bậc Thanh văn và Độc giác, lại trụ sáu pháp Ba la mật này, Phật và Nhị thừa có khả năng vượt qua năm thứ bờ biển sở tri. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị lai, ba là hiện tại, bốn là vô vi, năm là bất khả thuyết, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải viên mãn sáu pháp Ba la mật.
Đại Bồ Tát phải xa lìa tâm Thanh văn, nếu đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm của các Thanh văn chẳng phải thứ tâm chứng đạo đại Giác ngộ Vô thượng, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa tâm Thanh văn.
Đại Bồ Tát phải xa lìa tâm Độc giác, nếu đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm của các Độc giác nhất định chẳng có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí, cho nên ta nay phải xa lìa nó, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa tâm Độc giác.
Đại Bồ Tát phải xa lìa tâm nhiệt não, nếu đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm sợ hãi sanh tử nhiệt não, chẳng phải là tâm chứng đắc đạo Giác ngộ tối cao, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa tâm nhiệt não.
Đại Bồ Tát thấy kẻ ăn xin đến, tâm chẳng nhàm chán lo lắng nếu đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm nhàm chán lo lắng này đối với đại Bồ đề, chẳng có khả năng chứng đạo, nên ta nay nhất định phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ Tát thấy kẻ ăn xin đến, tâm chẳng nhàm chán lo lắng.
Đại Bồ Tát bỏ các vật sở hữu không tâm hối tiếc, nếu đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm hối tiếc này đối với việc chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao nhất định là chướng ngại nên ta phải bỏ, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải bỏ các vật sở hữu, không có tâm hối tiếc.
Đại Bồ Tát đối với người đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu mạn, dối gạt nếu đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm kiêu mạn dối gạt này, nhất định chẳng phải là đạo Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì đại Bồ Tát khi mới phát tâm cầu quả vị giác ngộ, có phát thệ rằng: Hễ ta có vật gì đều cho người đến xin, tùy theo ý muốn, không làm lơ, nhưng tại sao bây giờ lại kiêu ngạo, dối gạt họ, thì đó là lý do đại Bồ Tát đối với người đến xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.
7- Đại Bồ Tát khi trụ đệ thất Viễn hành địa (Phạm: Dùraôgamàbhùmi), còn gọi là Thâm hành địa, nên xa lìa hai mươi pháp: Nên xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp tri giả, kiến giả, nên xa lìa chấp đoạn, xa lìa chấp thường, nên xa lìa chấp tướng, xa lìa chấp nhân thảy kiến, xa lìa chấp danh sắc, xa lìa chấp uẩn, xa lìa chấp xứ, xa lìa chấp giới, xa lìa chấp đế (Tứ đế), xa lìa chấp duyên khởi, xa lìa chấp ở đắm ba cõi, xa lìa chấp tất cả pháp, xa lìa chấp đối tất cả pháp như lý bất như lý, xa lìa kiến chấp nương vào Phật,xa lìa kiến chấp nương vào Pháp, xa lìa kiến chấp nương vào Tăng, xa lìa kiến chấp nương vào giới, xa lìa sợ hãi pháp không, xa lìa chống trái không tánh. Lại nên viên mãn 20 pháp nữa: Nên viên mãn thông đạt không, nên viên mãn chứng vô tướng, nên viên mãn biết vô nguyện, nên viên mãn ba luân thanh tịnh, nên viên mãn thương xót hữu tình và đối hữu tình không chấp đắm, nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng, nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng, nên viên mãn thông đạt chơn thật lý thú (tuy như thật thông mà không chỗ thông đạt và với trong ấy không lấy không trụ), nên viên mãn trí vô sanh nhẫn, viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú, nên viên mãn diệt trừ phân biệt, nên viên mãn xa lìa các tưởng, nên viên mãn xa lìa các kiến, nên viên mãn xa lìa phiền não, nên viên mãn sa ma tha, tỳ bát xá na (chỉ quán), nên viên mãn điều phục tâm tánh, nên viên mãn vắng lặng tâm tánh, nên viên mãn vô ngại trí tánh, nên viên mãn không bị ái nhiễm, nên viên mãn tùy lòng mong muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật ấy tự hiện thân ra.
Thế nào là nên xa lìa 20 pháp?
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy, nếu đại Bồ Tát quán ngã, hữu tình cho đến cái biết, cái thấy, rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, cái thấy.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp đoạn, nếu đại Bồ Tát quán nghĩa rốt ráo của tất cả pháp là bất sanh, vô đoạn, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa chấp đoạn.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp thường, nếu đại Bồ Tát quán tánh của tất cả pháp là vô thường, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa chấp thường.
Đại Bồ Tát phải xa lìa tướng tưởng, nếu đại Bồ Tát quán tánh tạp nhiễm chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa tướng tưởng.
Đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp về nhân thảy kiến, nếu đại Bồ Tát hoàn toàn chẳng thấy có tánh các kiến, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp về nhân thảy kiến.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp danh sắc, nếu đại Bồ Tát quán tánh của danh sắc hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp uẩn, nếu đại Bồ Tát quán tánh của năm uẩn hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát xa lìa chấp xứ, nếu đại Bồ Tát quán tánh của mười hai xứ hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp giới, nếu đại Bồ Tát quán tánh của mười tám giới v.v... hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp đế, nếu đại Bồ Tát quán tánh của các đế hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp duyên khởi, nếu đại Bồ Tát quán tánh của các duyên khởi, chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp sự trụ trước tam giới, nếu đại Bồ Tát quán tánh của tam giới hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp tất cả pháp, nếu đại Bồ Tát quán tánh của các pháp đều như hư không, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa tất cả pháp.
Đại Bồ Tát phải xa lìa chấp sự như lý, bất như lý đối với tất cả pháp, nếu đại Bồ Tát quán tánh của các pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, và tánh của các pháp không có sự như lý hoặc bất như lý.
Đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật, nếu đại Bồ Tát biết sự kiến chấp nương vào Phật, chẳng được thấy Phật, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật.
Đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp, nếu đại Bồ Tát đạt được chơn pháp tánh là chẳng thể thấy được, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp.
Đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng, nếu đại Bồ Tát biết chúng hòa hợp là vô tướng, vô vi chẳng thể thấy được, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng.
Đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào giới, nếu đại Bồ Tát biết tánh tội phước hoàn toàn chẳng có, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải xa lìa kiến chấp nương vào giới.
Đại Bồ Tát phải xa lìa sự sợ hãi pháp không, nếu đại Bồ Tát quán các pháp không đều không có tự tánh, đối tượng của sự sợ hãi rốt ráo chẳng có, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải xa lìa sự sợ hãi pháp không.
Đại Bồ Tát phải xa lìa tánh chống trái cái không, nếu đại Bồ Tát quán tự tánh của tất cả pháp đều không, cái chẳng phải không cùng cái không, không có sự chống trái, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải xa lìa tánh chống trái cái không.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự thông đạt cái không, nếu đại Bồ Tát đạt tự tướng của tất cả pháp đều không, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự thông đạt cái không.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự chứng đắc vô tướng, nếu đại Bồ Tát chẳng tư duy tất cả tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự chứng đắc vô tướng.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự hiểu biết về vô nguyện, nếu đại Bồ Tát đối với pháp của ba cõi, tâm không có chỗ trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự hiểu biết về vô nguyện.
Đại Bồ Tát phải viên mãn ba luân thanh tịnh, nếu đại Bồ Tát thanh tịnh hoàn toàn mười thiện nghiệp đạo, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn ba luân thanh tịnh.
Đại Bồ Tát phải viên mãn lòng bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước, nếu đại Bồ Tát đã chứng đắc đại bi và nghiêm tịnh cõi nước, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải viên mãn lòng bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước.
Đại Bồ Tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả pháp và ở trong đó không có sự chấp trước, nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, chẳng tăng, chẳng giảm và đối với trong ấy không thủ, không trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả pháp và ở trong đó không có sự chấp trước.
Đại Bồ Tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả hữu tình và trong đó không có sự chấp trước, nếu đại Bồ Tát đối với các hữu tình chẳng tăng, chẳng giảm và đối với trong đó không thủ, không trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước, nếu đại Bồ Tát đối với lý thú chơn thật của tất cả pháp, tuy như thật thông đạt nhưng không có đối tượng thông đạt và ở trong đó không thủ, không trụ.
Đại Bồ Tát phải viên mãn trí Vô sanh nhẫn, nếu đại Bồ Tát chịu đựng sự không sanh, không diệt, không có sự tạo tác của tất cả pháp và biết danh sắc rốt ráo chẳng sanh, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải viên mãn trí Vô sanh nhẫn.
Đại Bồ Tát phải viên mãn thuyết tất cả pháp đều qui về lý nhất tướng, nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp hành, không hai tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn thuyết tất cả pháp đều qui về lý nhất tướng.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt, nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, chẳng khởi sự phân biệt, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự xa lìa các tưởng, nếu đại Bồ Tát xa lìa tất cả tưởng lớn nhỏ vô lượng.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp, nếu đại Bồ Tát xa lìa tất cả kiến chấp của Thanh văn, Độc giác v.v... thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự xa lìa phiền não là xả bỏ sự tương tục của tất cả tập khí phiền não hữu lậu.
Đại Bồ Tát phải viên mãn bậc Sa ma tha, Tỳ bát xá na, nếu đại Bồ Tát tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn bậc Sa ma tha, Tỳ bát xá na.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự điều phục tâm tánh, nếu đại Bồ Tát đối với pháp của ba cõi, chẳng ưa, chẳng động.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh, nếu đại Bồ Tát khéo nhiếp sáu căn.
Đại Bồ Tát phải viên mãn tánh vô ngại trí, nếu đại Bồ Tát tu được Phật nhãn, thì đó là đại Bồ Tát nên viên mãn tánh vô ngại trí.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự không ái nhiễm, nếu đại Bồ Tát đối với ngoại lục xứ, có khả năng khéo xả bỏ, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự không ái nhiễm.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật, nếu đại Bồ Tát tu hành thần thông thù thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thỉnh chuyển pháp luân, làm lợi ích tất cả, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.
8- Đại Bồ Tát khi trụ đệ bát Bất động địa (Phạm: Acalà-bhùmi), còn gọi là Tịch diệt tịnh địa, nên viên mãn bốn pháp: Nên viên mãn ngộ vào tâm hành tất cả hữu tình, viên mãn du hý các thần thông, viên mãn thấy các Phật quốc, tự trang nghiêm quốc độ mình như Phật quốc đã thấy, nên viên mãn cúng dường thừa sự các Đức Phật Thế Tôn.
Thế nào là viên mãn 4 Pháp ở bậc trụ Bất động địa?
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình, nếu đại Bồ Tát dùng trí nhất tâm, biết khắp như thật tâm và tâm sở của tất cả hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình.
Đại Bồ Tát phải viên mãn các thần thông du hý, nếu đại Bồ Tát dùng các thứ thần thông tự tại dạo chơi, để được thấy Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cũng lại chẳng sanh ý tưởng về sự dạo chơi cõi Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn các thần thông du hý.
Đại Bồ Tát phải viên mãn cái thấy các cõi Phật và như cái thấy ấy, mà tự trang nghiêm các cõi Phật, nếu đại Bồ Tát an trụ ở một cõi Phật mà có khả năng thấy vô biên các cõi Phật trong mười phương, cũng có khả năng thị hiện nhưng chẳng từng sanh ý tưởng về cõi Phật, lại vì thành thục các hữu tình, nên hiện ở trong tam thiên đại thiên thế giới, ở ngôi Chuyển luân vương mà tự trang nghiêm, cũng có khả năng xả bỏ mà không có sự chấp trước, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn cái thấy các cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự trang nghiêm các cõi Phật.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, như thật quan sát, nếu đại Bồ Tát vì muốn lợi ích cho các hữu tình, nên đối với nghĩa thú của pháp, như thật phân biệt, như vậy gọi là dùng pháp cúng dường, thừa sự chư Phật, lại phải quan sát kỹ pháp thân chư Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, như thật quan sát.
9- Đại Bồ Tát khi trụ đệ cửu Thiện huệ địa (Phạm: Sàdhumatìbhùmi), còn gọi là Thiện tai ý địa, nên viên mãn bốn pháp: Nên viên mãn trí căn thắng liệt(5), viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn như huyễn đẳng trì(6) hằng vào các định, viên mãn theo các hữu tình căn lành đã thục, nên vào các cõi tự hiện hóa sanh.
Thế nào là viên mãn 4 pháp ở bậc trụ Thiện huệ địa?
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự hiểu biết về cái trí thắng, liệt của căn cơ các hữu tình, nếu đại Bồ Tát an trú mười lực Phật, biết rõ như thật, các căn thắng liệt của tất cả hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự hiểu biết về cái trí thắng, liệt của căn cơ các hữu tình.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật, nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, nghiêm tịnh tâm hành tất cả hữu tình, thì đó là lý do đại Bồ Tát phải viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật.
Đại Bồ Tát phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định, nếu đại Bồ Tát trụ đẳng trì này, tuy có khả năng hoàn thành tất cả sự nghiệp mà tâm chẳng động, lại tu đẳng trì đến thành thục cùng tột, chẳng khởi gia hạnh mà luôn luôn hiện tiền, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự tùy theo thiện căn thuần thục của các hữu tình để nhập vào các cõi, tự hiện hóa sanh, nếu đại Bồ Tát vì muốn thành thục thiện căn thù thắng của các loài hữu tình, tùy theo điều kiện thuận tiện của họ nên nhập vào các cõi mà thị hiện thọ sanh, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát tùy theo căn cơ thành thục của các hữu tình, nhập vào các cõi tự hiện hóa sanh.
10- Đại Bồ Tát khi trụ đệ thập Pháp vân địa (Phạm: Dharma= meghàbhùmi), còn gọi là Tác vũ địa, nên viên mãn mười hai pháp: Nên viên mãn nhiếp thọ đại nguyện vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều khiến viên mãn, viên mãn trí hiểu biết âm ngữ của các loài trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược…, viên mãn trí vô ngại biện thuyết, viên mãn vào thai đầy đủ, viên mãn xuất sanh đầy đủ, viên mãn gia tộc đầy đủ, viên mãn chủng tánh đầy đủ, viên mãn quyến thuộc đầy đủ, viên mãn sanh thân đầy đủ, viên mãn xuất gia đầy đủ, viên mãn trang nghiêm cội Bồ đề đầy đủ, viên mãn tất cả công đức thành xong đầy đủ.
Thế nào là viên mãn 12 Pháp?
Đại Bồ Tát phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều viên mãn, vì đã tu đầy đủ sáu pháp Ba la mật hết sức viên mãn rồi, nên hoặc vì nghiêm tịnh các cõi Phật, hoặc vì thành thục các loại hữu tình, tùy sở nguyện của tâm, đều được viên mãn, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều viên mãn.
Đại Bồ Tát phải viên mãn trí hiểu biết âm thanh, tùy theo các loài khác nhau như Chư thiên, rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn v.v..., nếu đại Bồ Tát tu tập sự hiểu biết vô ngại về ngôn từ thù thắng, biết rõ sự sai biệt về âm thanh ngôn ngữ của hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn trí hiểu biết âm thanh, tùy theo các loài khác nhau.
Đại Bồ Tát phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại, nếu đại Bồ Tát tu tập sự hiểu biết vô ngại, biện tài thù thắng, vì các hữu tình thường thuyết không dừng nghỉ, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự nhập thai hoàn hảo, tùy đối với tất cả chỗ sanh ra, sự thật là thường hóa sanh, nhưng vì lợi ích hữu tình nên hiện nhập thai tạng, ở trong đó, đầy đủ các việc thù thắng, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn việc nhập vào thai hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo, khi xuất thai, thị hiện các việc thù thắng hy hữu, khiến các hữu tình thấy đều hoan hỷ, được lợi lạc lớn, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn gia tộc hoàn hảo hoặc sanh vào nhà thuộc dòng họ lớn Sát đế lợi, hoặc sanh vào nhà thuộc dòng họ lớn Bà la môn, việc nương vào cha mẹ để ra đời không thể chê trách, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn gia tộc hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo, nếu đại Bồ Tát thường hội nhập trong chủng tánh các đại Bồ Tát ở quá khứ mà sanh ra, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo, nếu đại Bồ Tát thường lấy vô lượng vô số Bồ Tát làm quyến thuộc, chẳng phải là các loại hỗn tạp tầm thường, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn sanh thân hoàn hảo, nếu đại Bồ Tát vào lúc sơ sinh, thân thể hoàn hảo, tất cả tướng tốt, phóng hào quang lớn, chiếu khắp vô biên thế giới chư Phật, cũng khiến thế giới ấy, sáu thứ biến động, hữu tình gặp được đều được lợi ích, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sanh thân hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn xuất gia hoàn hảo, nếu đại Bồ Tát vào lúc xuất gia, vô lượng vô số trời, rồng, dược xoa, nhơn phi nhơn v.v… đi theo hai bên, đi đến đạo tràng, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, thọ trì bình bát, hướng dẫn vô lượng vô số hữu tình, khiến nương vào ba thừa mà hướng đến viên tịch, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn việc xuất gia hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn việc trang nghiêm cây Bồ đề hoàn hảo, nếu đại Bồ Tát có thiện căn thù thắng, nguyện lực rộng lớn, đều được cây Bồ đề đẹp đẽ như thế này: Dùng ngọc quí phệ lưu ly làm thân, vàng ròng làm gốc, cành, lá, hoa, quả đều dùng loại bảy báu hảo hạng làm thành; cây này cao rộng phủ khắp cõi Phật trong tam thiên đại thiên thế giới, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn sự trang nghiêm cây Bồ đề hoàn hảo.
Đại Bồ Tát phải viên mãn tất cả công đức hoàn hảo, nếu đại Bồ Tát đầy đủ tư lương trí tuệ thù thắng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ Tát phải viên mãn tất cả công đức hoàn hảo.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì sao nên biết đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân địa, đại Bồ Tát cùng chư Như Lai phát ra lời nói không khác?”
Thiện Hiện! “Nếu đại Bồ Tát ấy đã viên mãn sáu phép Ba la mật, đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đã viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đã viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; đã viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; đã viên mãn tất cả pháp Phật, lại nếu đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả phiền não tập khí, thì liền trụ Phật địa, vì vậy nên biết là đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ Tát cùng với chư Như Lai phát ra lời nói không khác”.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Làm thế nào từ bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ Tát hướng đến bậc Như Lai?”
Phật dạy: “Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, dùng phương tiện thiện xảo hành sáu pháp Ba la mật, tu vô lượng tịnh lự, định vô sắc, ba mươi bảy pháp Bồ đề phần, ba pháp môn giải thoát; học năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, vì tất cả pháp Phật đã được viên mãn, nên vượt lên bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc thứ tám, bậc Cụ kiến địa (Tu đà hàm), bậc Bạc (Tư đà hàm), bậc Ly dục (A na hàm), bậc Dĩ biện (A la hán), bậc Độc giác và mười bậc Bồ Tát, đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tập khí phiền não, mới thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác(7).
Thiện Hiện! Như vậy bậc thứ 10 là Pháp vân địa Bồ Tát hướng đến bậc Như Lai”.
Thiện Hiện! Nên biết đó là đại Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại thừa.
Thích nghĩa cho đoạn hai này:
(1). Phát tâm dịch từ chữ phát thú hay phát xú, đã thích nghĩa ở phẩm “Ma Ha Tát”.
(2). Tự cử: Tự cao.
(3). Đại Bát Nhã ghi là “ít muốn, vui đủ”, trong khi Ma Ha Bát nhã Ba la mật ghi là “ít muốn, biết đủ”: Chữ Hán là “thiểu dục tri túc”. Cũng gọi Vô dục tri túc. Ít muốn biết đủ. Chỉ cho sự tiết chế vật dục. Nghĩa là giảm thiểu dục vọng và biết thỏa mãn với những gì mình đã có. Nếu giải thích từng vế thì Thiểu dục (Phạm: Alpeccha) là đối với những vật chưa được không khởi tâm tham muốn quá phần; còn Tri túc (Phạm:Saôtuwỉa) là đối với những vật đã được thì không chê ít, không sinh tâm hối hận. Thiểu dục tri túc là điều kiện cốt yếu của việc tu đạo, luận Câu xá coi đó là 1 trong 3 cái nhân làm cho thân thanh tịnh(Tam tịnh thân). - Tự điển Phật Quang.
(4). Đỗ đa công đức hay thập nhị đầu đà hạnh(Dhutanga-niddesa) Cũng gọi Thập nhị thệ hạnh, Thập nhị đỗ đa công đức, Đầu đà thập nhị pháp hạnh. Chỉ cho “12 phạm hạnh tu sửa thân tâm”, trừ sạch phiền não trần cấu. Đó là: 1- Ở nơi vắng vẻ yên tĩnh(A lan nhã), cách xa xóm làng đông đúc, ồn ào. 2- Thường đi xin ăn, được thức ăn không sanh ý niệm ngon hay dở. 3- Theo thứ tự xin ăn, không lựa chọn nhà giàu nghèo. 4- Chỉ ăn ngày một bữa để tránh trở ngại việc nhất tâm tu đạo. 5- Trong bữa ăn phải tiết chế lượng thức ăn, nếu ăn nhiều thì bụng đầy khí, chướng ngại đạo nghiệp. 6- Sau giờ ngọ không được uống nước trái cây, nếu uống thì tâm sẽ sanh đắm trước, không thể nhất tâm tu tập các thiện pháp. 7- Mặc áo vá, nếu ham áo mới tốt đẹp thì có hại cho việc tiến tu đạo hạnh. 8- Chỉ giữ 3 áo, không hơn không kém. 9- Ở nơi gò mả, thường thấy xác chết rữa nát, hôi thối, bị chim mổ ăn, hoặc bị thiêu đốt, tử khí bốc lên, nhân đó tu quán vô thường, khổ không để xa lìa ba cõi. 10- Nghỉ dưới gốc cây, noi theo hạnh Phật, ngồi nơi gốc cây tư duy cầu đạo. 11- Ngồi nơi đất trống, khiến tâm sáng suốt bén nhạy để vào Không định. 12- Chỉ ngồi không nằm, nếu nằm thoải mái thì bọn giặc phiền não nắm được cơ hội thuận tiện để phá hoại công đức tu hành. Về hạnh đầu đà cũng có thuyết 13 hạnh, 16 hạnh... Người tu 12 hạnh đầu đà gọi là Thập nhị pháp nhân. (Xem kinh Thập nhị đầu đà; phẩm Lưỡng thông trong kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.14; luận Du già sư địa Q.25). - Tự điển Phật Quang.
(5). Trí căn thắng liệt: căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trí: sự hiểu biết. Căn trí là hai phần vật chất và tinh thần hợp nhau tạo thành con người. Thắng liệt: trên dưới, hơn kém. Căn trí thắng liệt nói nôm na là sự hơn kém của một cá nhân đối với một cá nhân hay một cá nhân đối với cộng đồng.
(6). Như huyễn đẳng trì: (Đẳng trì, Phạm: Samàdhi, cũng gọi Tam ma địa, Tam muội, Tam ma đề, Hán dịch: Đẳng trì, đẳng chí, chính định). Như huyễn đẳng trì hay Như huyễn tam muội: Tam muội thấu suốt lý tất cả các pháp như huyễn, cũng chỉ cho Tam muội biến hóa ra các sự vật như huyễn. Tam muội này giống như nhà ảo thuật biến hiện ra nam, nữ, binh lính... đều được như ý, không bị trở ngại. Bồ Tát ở trong Tam muội này, tuy dùng năng lực biến hóa của Tam muội như huyễn để hóa độ chúng sinh, nhưng cũng biết rõ lý các pháp đều như huyễn, cho nên Bồ Tát không bị dính mắc vào việc độ sinh mà hóa dụng một cách tự tại vô ngại. (Từ điển Phật Quang).
(7). Để khỏi có sự lầm lộn giữa Bồ Tát thập địa với Bồ Tát thập vị cộng Tam thừa mà chúng tôi đã thích nghĩa rải rác trong các phẩm trước. Nhân đoạn kinh này, chúng tôi xin lược dẫn một lần nữa:
1- Cực hỷ địa đến Pháp vân địa nói đủ là thập địa Bồ Tát, gồm: 1/. Cực hỷ địa, 2/.Ly cấu địa, 3/. Phát quang địa, 4/. Diệm tuệ địa, 5/. Nan thắng địa, 6/. Hiện tiền địa, 7/. Viễn hành địa, 8/. Bất động địa, 9/. Thiện tuệ địa, 10/. Pháp vân địa. Đã giải thích quá đầy đủ ở trên.
2- Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; nói đủ là thập vị cộng Tam thừa: 1/. Tánh Quán địa (Phạm: Zukla-vidar= zanà-bhùmi) còn gọi Kiến tịnh địa, Càn huệ địa; 2/. Tánh Địa nhơn (Phạm: Gotra-bhùmi) cũng gọi Tính địa, Chủng tính địa, Chủng địa; 3/. Bát nhơn hay Bát nhân địa (Phạm: Awỉamakabhùmi) cũng gọi Đệ bát địa, Bát địa. Nhân nghĩa là nhẫn; 4/. Tu Đà Hoàn (phạm: Durzana-bhùmi) cũng gọi Cụ kiến địa; 5/. Tư Đà Hàm (Phạm:Tanù-bhùmi) cũng gọi Bạc địa, Nhu nhuyến địa, Vi dục địa; 6/. A Na Hàm (Phạm:Vìta-ràga-bhùmi) cũng gọi Ly dục địa, Ly tham địa, Diệt dâm nộ si địa. 7/. A La Hán (Phạm:Kftàvì-bhùmi) cũng gọi Dĩ tác địa, Sở tác biện địa, Dĩ biện địa; 8/. Bích Chi Phật địa; 9/. Bồ Tát địa và 10/. Phật địa.
Xin xem lại thích nghĩa chi tiết ở phẩm “Học Quán”.
Lược giải:
(cho đoạn hai này)
1- Đại Bồ Tát khi trụ Cực hỷ địa (Phạm: Pramuditàbhùmi), còn gọi là Hoan hỷ địa, nên khéo tu trị mười món thắng nghiệp: Tu trị tịnh thắng ý lạc nghiệp, tu trị tất cả hữu tình bình đẳng tâm nghiệp, tu trị bố thí nghiệp, tu trị thân cận thiện hữu nghiệp, tu trị cầu pháp nghiệp, tu trị thường vui xuất gia nghiệp, tu trị ưa vui thân Phật nghiệp, tu trị mở rộng pháp giáo nghiệp, tu trị phá kiêu mạn nghiệp, tu trị lời hằng chắc chắn ngữ nghiệp, vì tánh của tất cả ngữ ngôn bất khả đắc vậy.
2- Đại Bồ Tát khi trụ đệ nhị Ly cấu địa (Phạm: Vimalàbhùmi), còn gọi là Vô cấu địa, nên đối tám pháp suy nghĩ tu tập, khiến mau viên mãn: Cấm giới thanh tịnh, biết ơn trả ơn, trụ sức an nhẫn, thọ thắng vui mừng, chẳng bỏ hữu tình, hằng khởi đại bi, đối các Sư trưởng đem tâm kính tin, thưa hỏi, vâng lời, cúng dường, tưởng như thờ Phật, siêng cầu tu tập Ba la mật đa.
3- Đại Bồ Tát khi trụ đệ tam Phát quang địa (Phạm: Prabhàkarìbhùmi), còn gọi là Minh địa, nên trụ năm pháp: Siêng cầu đa văn từng không nhàm đủ, đem tâm vô nhiễm thường tu pháp thí, tuy khai hóa rộng mà chẳng tự cao, trang nghiêm cõi Tịnh độ, trồng các căn lành, tuy dụng hồi hướng mà chẳng tự cử, hóa độ hữu tình nhưng chẳng nhàm mỏi trong vô biên sanh tử mà chẳng tự cao, an trụ tàm quí (tự mình biết hổ thẹn và biết hổ thẹn với người khác) nên không chấp đắm Nhị thừa.
4- Đại Bồ Tát khi trụ đệ tứ Diệm huệ địa (Phạm: Prabhàkarìbhùmi), gọi là Tăng diệu địa, nên trụ mười pháp thường tu chẳng bỏ: Ở chỗ vắng lặng, ít muốn, biết đủ, thường chẳng bỏ lìa Đỗ đa công đức, đối các chỗ học chưa từng nới bỏ, đối các dục lạc sanh nhàm lìa, thường vui phát khởi tâm tịch diệt, lìa bỏ các vật sở hữu, tâm chẳng chìm đắm, đối với các sở hữu vô sở cố luyến.
5- Đại Bồ Tát khi trụ đệ ngũ Cực nan thắng địa (Phạm: Sudurjayàbhùmi), còn gọi là Nan thắng địa, nên xa lìa mười pháp: Xa lìa cư gia, nên xa lìa nữ tu sĩ, xa lìa nhà tham lam ganh ghét, nên xa lìa chỗ hội đàm gây gổ giận hờn, xa lìa khen mình chê người, xa lìa mười đạo bất thiện nghiệp, xa lìa tăng thượng mạn, xa lìa điên đảo, xa lìa do dự, xa lìa tham sân si.
6- Đại Bồ Tát khi trụ đệ lục Hiện tiền địa (Phạm: Abhimukhìbhùmi), còn gọi là Mục kiến địa, nên viên mãn sáu pháp Ba la mật: Nên viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã. Lại nên xa lìa sáu pháp: Nên xa lìa tâm Thanh văn, xa lìa tâm Độc giác, xa lìa tâm nóng nảy, thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng buồn chán, xả vật sở hữu tâm không ăn năn, đối với kẻ đến cầu xin trọn chẳng dối gạt.
7- Đại Bồ Tát khi trụ đệ thất Viễn hành địa (Phạm: Dùraôgamàbhùmi), còn gọi là Thâm hành địa, nên xa lìa hai mươi pháp: Nên xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp tri giả, kiến giả, nên xa lìa chấp đoạn, xa lìa chấp thường, nên xa lìa chấp tướng, xa lìa chấp nhân thảy kiến, xa lìa chấp danh sắc, xa lìa chấp uẩn, xa lìa chấp xứ, xa lìa chấp giới, xa lìa chấp đế (tứ đế), xa lìa chấp duyên khởi, xa lìa chấp ở đắm ba cõi, xa lìa chấp tất cả pháp, xa lìa chấp đối tất cả pháp như lý bất như lý, xa lìa kiến chấp nương vào Phật,xa lìa kiến chấp nương vào Pháp, xa lìa kiến chấp nương vào Tăng, xa lìa kiến chấp nương vào giới, xa lìa sợ hãi pháp không, xa lìa trái chống không tánh. Lại nên viên mãn hai mươi pháp nữa: Nên viên mãn thông đạt không, nên viên mãn chứng vô tướng, nên viên mãn biết vô nguyện, nên viên mãn ba luân thanh tịnh, nên viên mãn thương xót hữu tình và đối hữu tình không bị chấp đắm, nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng, nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng, nên viên mãn thông đạt chơn thật lý thú, nên viên mãn trí vô sanh nhẫn, viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú, nên viên mãn diệt trừ phân biệt, nên viên mãn xa lìa các tưởng, nên viên mãn xa lìa các kiến, nên viên mãn xa lìa phiền não, nên viên mãn sa ma tha, tỳ bát xá na (chỉ quán), nên viên mãn điều phục tâm tánh, nên viên mãn vắng lặng tâm tánh, nên viên mãn vô ngại trí tánh, nên viên mãn không bị ái nhiễm, nên viên mãn tùy lòng mong muốn đến các cõi Phật, ở trong chúng hội Phật ấy tự hiện thân ra.
8- Đại Bồ Tát khi trụ đệ bát Bất động địa (Phạm:Acalà-bhùmi), còn gọi làTịch diệt tịnh địa, nên viên mãn bốn pháp: Nên viên mãn ngộ vào tâm hành tất cả hữu tình, viên mãn du hý các thần thông, viên mãn thấy các Phật quốc, tự trang nghiêm quốc độ mình như Phật quốc đã thấy, nên viên mãn cúng dường thừa sự các Đức Phật Thế Tôn.
9- Đại Bồ Tát khi trụ đệ cửu Thiện huệ địa (Phạm: Sàdhumatìbhùmi), còn gọi là Thiện tai ý địa, nên viên mãn bốn pháp: Nên viên mãn trí căn thắng liệt, viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn như huyễn đẳng trì hằng vào các định, viên mãn theo các hữu tình căn lành đã thục, nên vào các cõi tự hiện hóa sanh.
10- Đại Bồ Tát khi trụ đệ thập Pháp vân địa (Phạm: Dharma= meghàbhùmi), còn gọi là Tác vũ địa, nên viên mãn mười hai pháp: Nên viên mãn nhiếp thọ đại nguyện vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều khiến viên mãn, viên mãn trí hiểu biết âm ngữ của các loài trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược…, viên mãn trí vô ngại biện thuyết, viên mãn vào thai đầy đủ, viên mãn xuất sanh đầy đủ, viên mãn gia tộc đầy đủ, viên mãn chủng tánh đầy đủ, viên mãn quyến thuộc đầy đủ, viên mãn sanh thân đầy đủ, viên mãn xuất gia đầy đủ, viên mãn trang nghiêm cội Bồ đề đầy đủ, viên mãn tất cả công đức thành xong đầy đủ.
Tất cả 10 địa trên đều xây dựng trên căn bản: 1. Tu học chánh pháp, 2. Trụ trì địa nghiệp của mình, 3. Luyện tập tâm, trí và 4. Phục vụ chúng sanh. Đó là hạnh nguyện của Bồ Tát cũng gọi là Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo. Học đạo này thì có thể tiến từ một địa đến một địa, viên mãn Bồ đề tâm, đạt Nhất thiết trí trí, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Bồ đề, thì có thể chuyển pháp luân, độ chúng hữu tình.
Những ai đã từng ấp ủ Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh để cứu độ chúng sanh, thì phải kiên trì rèn luyện và thực hành tất cả các pháp tu của thập địa Bồ Tát, mới có thể tròn đầy hạnh nguyện “thượng cầu giác ngộ, hạ hóa chúng sanh”. Đó là phương cách duy nhất, không có chọn lựa nào khác! Ở đây, chúng tôi chỉ lược tóm thập địa, không có giải thích.
Chúng ta sẽ quay lại vấn đề khi đọc phẩm “Tu Trị Địa”, Hội thứ II, ĐBN kế tiếp: Chúng tôi sẽ trích dẫn chiết giải Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát Long Thọ, ngài là Tổ thứ 14 của dòng thiền Tây Thiên, truyền thừa từ Đức Thích Ca Mâu Ni, là bậc thật tu thật chứng có thẩm quyền hơn chúng tôi sẽ giải thích rõ ràng tu thập địa Bồ Tát là như thế nào? Xin hẹn gặp lại Hội thứ II, ĐBN với phẩm “Tu Trị Địa”.
3. Đoạn ba:
Đoạn kinh này xem như bắt đầu Q.55 cho đến đầu Q.56, Hội thứ I, ĐBN(tương đương với phẩm “Xuất Đáo” quyển thứ 06, Kinh MHBNBLMĐ). Phẩm “Xuất Đáo” thật ra chỉ là kết luận của các phẩm: Vấn Thừa, Quảng Thừa, Phát Thú của Kinh MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch. Trong khi Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch, gộp tất cả các phẩm trên vào một phẩm duy nhất có tên là phẩm “Biện Đại Thừa”. Vì vậy, chúng tôi nói phẩm “Xuất đáo” là kết luận của các phẩm liệt kê trên của Kinh MHBNBLMĐ hay là kết luận của phẩm “Biện Đại Thừa” của Kinh ĐBN.
Phật trả lời câu hỏi của cụ thọ Thiện Hiện: “Đại thừa đó từ đâu mà ra, đến trụ ở nơi nào? Đại thừa ấy làm thế nào mà trụ? Ai nương Đại thừa ấy mà xuất hiện?”
1- Đại thừa đó từ đâu ra, đến trụ ở nơi nào?
Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy, từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào?
Thiện Hiện! Đại thừa như vậy từ trong ba cõi ra, đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Do vì Nhất thiết trí trí mà xuất ra ba cõi vậy. Nhưng không hai nên không ra không đến. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Nhất thiết trí trí, hai pháp như thế chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng có sắc chẳng phải không sắc. Chẳng có thấy chẳng phải không thấy. Chẳng có đối chẳng phải không đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Pháp vô tướng không ra không đến. Vì sao? Thiện Hiện! Pháp vô tướng chẳng phải đã ra đã đến, chẳng phải sẽ ra sẽ đến, chẳng phải nay ra nay đến vậy. Thiện Hiện! Như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng ấy có ra có đến, thời là muốn khiến chơn như có ra có đến. Vì sao? Vì chơn như chẳng thể từ trong ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Chơn như, tự tánh chơn như không vậy.
Thiện Hiện! Như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng có ra có đến, thời là muốn khiến chơn như có ra có đến. Vì sao? Vì chơn như chẳng thể từ trong ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Chơn như, tự tánh chơn như không vậy.
Thiện Hiện! Như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng ấy có ra có đến, thời là muốn khiến pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế có ra có đến. Vì sao? Vì pháp giới cho đến thật tế chẳng thể từ trong ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Pháp giới, tự tánh pháp giới là không, cho đến thật tế, tự tánh thật tế là không.
Thiện Hiện! Như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng ấy có ra có đến, thời là muốn khiến sắc có ra có đến. Vì sao? Vì sắc chẳng thể từ trong ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Sắc, tự tánh sắc không vậy. Thiện Hiện! Như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng ấy có ra có đến, thời là muốn khiến thọ tưởng hành thức có ra có đến. Vì sao? Vì thọ tưởng hành thức chẳng thể từ trong ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Thọ tưởng hành thức, tự tánh thọ tưởng hành thức không vậy.
Cũng như vậy, như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng có ra có đến thời là muốn căn trần, xứ, giới cho đến tất cả pháp Phật có ra có đến. Vì sao? Vì căn trần xứ giới cho đến tất cả Phật pháp chẳng phải từ ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Vì căn trần xứ giới cho đến tất cả pháp Phật là không vậy.
Như có kẻ muốn khiến pháp vô tướng ấy có ra có đến, thời là muốn khiến vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi có ra có đến. Vì sao? Vì vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng thể từ trong ba cõi ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi, tự tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi không vậy.
Thiện Hiện! Do những duyên cớ này, như vậy Đại thừa từ trong ba cõi ra, đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì không có hai, nên không có ra không có đến, bởi pháp vô tướng không có động chuyển.
(Để giải thích cho đoạn Kinh này, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 21, “Xuất Đáo”(Ra và Đến), tập 3, quyển 50, nói rằng:
“Ở đây Phật nói “năm ấm tướng” là không, chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí. Vì sao ? Vì năm ấm là không, thì mười hai nhập, mười tám giới,… dẫn đến hết thảy các pháp đều là không cả. Tất cả đều là hư vọng, đều là tự tướng không, chỉ ví như cảnh thấy trong mộng vậy thôi.
Hết thảy các pháp tự đều là không, nên chẳng có xuất, cũng chẳng có nhập. Cho nên nói: Nếu có ai muốn khiến sáu pháp Ba la mật xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.
Bồ Tát vì chúng sanh nói hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, đều là tự tướng không. Dẫn đến Ma Ha Diễn, Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều là như vậy cả.
Hỏi: Sáu pháp Ba la mật có chân, có tục. Tục đế chấp có pháp tướng. Còn chân đế nếu chẳng y nơi pháp tướng thì làm sao lập ra được sáu pháp Ba la mật?
Đáp: Các vị Bồ Tát nào chưa được lậu tận thì còn tu phước. Do còn tu phước nên còn tu sáu Ba la mật của phàm phu. Trong trường hợp này mới thấy có xuất, có nhập.v.v…
Trái lại các đại Bồ Tát biết rõ Ma Ha Diễn(tất cả pháp Đại thừa) là vô tướng pháp, chẳng có xuất, chẳng có nhập. Ở nơi đây, các pháp tướng chỉ là giả danh, chẳng thật có. Bởi vậy khi nói “ Ma Ha Diễn phát xuất từ ba cõi, đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí”, thì cũng phải biết rõ rằng Nhất Thiết Chủng Trí cũng là giả danh, chẳng thật có, cũng là pháp bất động vậy”.
Đã là pháp bất động thì làm gì có đến có đi, có xuất có trụ… Nên Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi và tự tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là không.
Do duyên này, nên việc Đại thừa từ trong tam giới mà ra, đến an trú trong Nhất thiết trí trí, là vô nhị, nên không ra, không đến, vì là pháp vô tướng, nên không động không chuyển).
2- Đại thừa ấy làm thế nào mà trụ?
Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy là trụ chỗ nào?
Thiện Hiện! Đại thừa như vậy đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Vì chỗ trụ của các pháp bất khả đắc. Thiện Hiện! Nhưng Đại thừa đây trụ vô sở trụ!
Như tánh chơn như chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh chơn như không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh chơn như, chơn như tánh không vậy. Thiện Hiện! Như tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp giới, pháp giới tánh không, cho đến tánh thật tế, thật tế tánh không vậy.
Hơn nữa, tánh của sắc thọ tưởng hành thức, các xứ, giới cho đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.
Như tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi; vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi tánh không vậy.
(Để giải thích đoạn kinh này, Đại Trí Độ Luận, cùng phẩm trên nói rằng:
“Trên đây Phật mật ý nói rằng: Từ vô thỉ đến nay, hết thảy các pháp đều là vô trú(vô trụ), chẳng có pháp nào có trú xứ riêng rẽ cả.
Nên biết:
- Nói “trú” là nói trú nơi rốt ráo không.
Vì sao? Vì hết thảy pháp đều là “như pháp tánh thật tế”, đều là bất sanh, bất diệt, bất khởi, bất tác, nên chẳng phải trú (bất trú), cũng chẳng phải chẳng trú (phi bất trú).
- Nói “bất trú” là nhằm phá chấp hữu cũng là nhằm nêu lên nghĩa vô thường, để phá chấp về thường tướng.
- Nói “phi bất trú” là nhầm phá chấp về diệt tướng. Lại nữa, do thuận theo thế đế mà nói “trú”, nhưng nếu chấp “bất trú” thì cũng là lỗi lầm, nên nói “phi bất trú” vậy.
Phật dạy “pháp tánh tướng” là không, nên là bất trú, phi bất trú, là vô khởi vô tác vậy).
3- Ai nương Đại thừa ấy mà xuất hiện?
“Thiện Hiện! Ngươi hỏi, ai là người lại nương vào Đại thừa ấy mà xuất hiện?
Thiện Hiện! Hoàn toàn không có ai nương vào Đại thừa ấy mà xuất hiện. Vì sao? Hoặc chỗ để nương và người nương do lẽ này, vì lẽ này, mà chỗ xuất hiện, chỗ đi đến, lúc xuất hiện, lúc đi đến, tất cả đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc, rốt ráo thanh tịnh, thì như vậy tại sao có thể nói là có chỗ để nương, người nương, có sự xuất hiện, sự đi đến và lúc xuất hiện lúc đi đến?
Ngã không có sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được, kẻ nương Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy không có sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được. Kẻ nương vào Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Chơn như không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Sắc thọ tưởng hành thức, các xứ, giới và tất cả Phật pháp cũng đều như vậy.
Nên cuối cùng, Phật bảo:
Thiện Hiện! Nên biết, sự thành thục hữu tình không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.Thiện Hiện! Nên biết, sự nghiêm tịnh cõi Phật không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Pháp nào, chẳng thể nắm bắt được, nên nói là ngã v.v..., chẳng thể nắm bắt được?
Phật bảo Thiện Hiện: Tánh ngã, chơn như, sắc thọ tưởng hành thức, căn, trần xứ, giới và tất cả Phật pháp đều không thể nắm bắt được. Tất cả pháp ba đời đều bất khả đắc, vì rốt ráo tịnh.
Thiện Hiện! Tánh thành thục hữu tình ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thành thục hữu tình, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh thành thục hữu tình trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thành thục hữu tình, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh thành thục hữu tình ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh nghiêm tịnh cõi Phật ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh nghiêm tịnh cõi Phật trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh nghiêm tịnh cõi Phật ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, tuy quán tất cả pháp đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo thanh tịnh, nên không nương vào Đại thừa mà xuất hiện và đi đến, nhưng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Đại thừa ra khỏi sanh tử ba cõi, đến Nhất thiết trí trí, lợi ích, an ổn tất cả hữu tình, đến tận cùng đời vị lai, thường không dừng nghỉ”.
(Để giải thích cho đoạn Kinh này, Đại Trí Độ Luận nói rằng:
“Hành Ma Ha Diễn (pháp Đại thừa) đi vào Phật đạo, để thành tựu chúng sanh, gọi là xuất. Hành Ma Ha Diễn để thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí, cũng gọi là xuất.
Phật nói “pháp không”, lại nói các pháp đều bất khả đắc, là nhằm khuyến tấn các người hành Ma Ha Diễn phải dụng pháp “vô sở đắc”, để tu sáu pháp Ba la mật.
Nếu Bồ Tát, khởi bi đại tâm, hành sáu pháp Ba la mật, độ thoát chúng sanh, mà tâm chẳng chấp trước, thì gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành đầy đủ “pháp không”.
Phật lại dạy “ngã bất đắc là rốt ráo không”, là nhằm chỉ cho chúng sanh biết rõ rằng hết thảy các pháp, nhẫn đến Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm…, và đều là tự tướng không cả.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói: Ngã, tri giả, khiến giả,… dẫn đến chúng sanh, thanh văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật đều là rốt ráo không cả.
Hỏi: Bất khả đắc có hai nghĩa:
- Đối với người thiểu trí, thì nói theo nghĩa “các pháp là bất khả đắc”.
- Đối với người đại trí, thì nói theo nghĩa “các pháp bất khả đắc cũng là bất khả đắc”
Như vậy, ở nơi đây, nói “bất khả đắc” theo nghĩa nào?
Đáp: Đây là nói về “pháp không”, nên “bất khả đắc” phải được hiểu theo hai nghĩa như vậy.
Hỏi: Nếu nói các pháp, trước sau, đều bất khả đắc, thì như vậy có lợi gì?
Đáp: Phật thuyết các pháp là bất khả đắc, là rốt ráo thanh tịnh. Thế nhưng, Phật sợ người tu hành lại y chỉ nơi “bất khả đắc” mà chấp “không”, chấp “vô pháp”.
Vì người sơ cơ, mà phật dùng “vô” để phá “hữu”, nhưng bọn họ chưa được tâm thanh tịnh, nên lại y chỉ nơi “vô”. Bỏi vậy nên Phật dạy thêm rằng “các pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc.
Hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, dẫn đến “pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên hết thảy các pháp đều là rốt ráo thanh tịnh cả.
Bồ Tát Ma Ha Tát, dụng pháp “vô sở đắc”, hành Ma Ha Diễn hướng về Nhất Thiết Chủng Trí”.
Khi nói tất cả pháp không là bất khả đắc. Nhưng còn chấp “không” hay “vô pháp” nữa thì chưa được hoàn toàn không, nên nói bất khả đắc cũng bất khả đắc nốt. Đó là bất khả đắc không (một trong 18 pháp không) tức không còn gì để chấp nữa. Đó là phủi sạch để được tâm không. Tâm không là tâm thanh tịnh!)
Lược giải:
(cho đoạn ba này)
Như vậy, vấn đề được đặt ra là: 1- Đại thừa từ đâu ra? 2- Đại thừa trụ ở đâu? 3- Ai là người nương Đại thừa mà xuất hiện?
1- Tất cả pháp từ uẩn, xứ, giới và các pháp Phật đều không. Tất cả pháp vô tướng, đều không động chuyển, nên Đại thừa không từ đâu ra và chẳng đến đâu. Nhưng người ta vẫn thấy Đại thừa từ Ba cõi ra và trụ trong Nhất thiết trí trí.
2- Tánh của uẩn xứ giới và tất cả pháp đều chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ vì tất cả pháp đều tánh không. Nên nói Đại thừa chẳng có chỗ trụ mà trụ nơi vô sở trụ. Vô sở trụ là trụ không, trụ không tức là trụ trong Bát Nhã. Đó là chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ; trụ mà chẳng có chỗ trụ, nên gọi là vô sở trụ.
3- Tất cả pháp đều vô sở hữu, hoàn toàn bất khả đắc, rốt ráo thanh tịnh. Như vậy tại sao có thể nói là có chỗ để nương, người nương, có sự xuất hiện, sự đi đến, lúc xuất hiện, lúc đến đi?
Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, tuy quán tất cả đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo thanh tịnh, nên không nương vào Đại thừa xuất hiện và đi đến, nhưng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Đại thừa ra khỏi sanh tử ba cõi, đến với Nhất thiết trí trí, lợi ích an ổn tất cả hữu tình đến tận cùng đời vị lai, thường không dừng nghỉ!
Nói tóm lại, tất cả pháp là không, tánh của tất cả pháp cũng không, vì tất cả pháp vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy kẻ chấp trì Bát nhã Ba la mật không cần phải truy nguyên Đại thừa xuất phát từ đâu và sẽ đi đến đâu mặc dù hành giả Bát Nhã dùng các phương tiện của Đại thừa để đạt Nhất thiết trí trí. Một khi Bồ Tát đặt cứ điểm ở bất cứ nơi nào dù là Nhất thiết trí trí, Giác ngộ hay Chánh giác thì Bồ Tát không tránh khỏi những trói buộc và như thế không còn tự do trong tư duy cũng như hành động. Tu Đại thừa là tu như hư không, như con chim xí bay lượn trên hư không, nương hư không nhưng không trụ ở hư không(1). Hành giả Bát Nhã cũng nương Đại thừa đạt Nhất thiết trí trí ra khỏi tam giới độ chúng hữu tình được Vô dư y Niết bàn nhưng thật sự không có chúng sanh nào được diệt độ.
Đại thừa trên thực tế là một danh tự chung. Người tu theo Đại thừa không ngoài mục đích là hướng đến Giác ngộ. Muốn Giác ngộ thì phải có Bát Nhã hay Nhất thiết trí trí. Vậy, Giác ngộ, Bát Nhã và Nhất thiết trí trí chỉ là một. Nên, có thể nói hoặc Đại thừa, hoặc Nhất thiết trí trí hoặc Bát Nhã hay Giác ngộ là những pháp chẳng hiệp, chẳng tan, chẳng sắc, chẳng hình, là không, là nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.
Vì là nhất tướng, chỗ gọi vô tướng nên có cái thấy bình đẳng. Vì vậy, Phật nói “Bình đẳng là thanh tịnh”.
Bát Nhã là vô niệm, vô tâm, vô đắc, vô thủ, vô trụ… thì đặt câu hỏi Đại thừa từ đâu ra, đến trụ chỗ nào, ai là người nương Đại thừa để làm gì? Khi con người đạt được trạng thái vô niệm, vô tâm, vô đắc v.v... chỗ gọi là như như bất động, rốt ráo thanh tịnh. Nhưng đạt trạng thái đó không phải là không còn gì hết mà tới đó thì cánh cửa trí tuệ vô thượng sẽ hé mở(2), chỉ trong sát na tương ưng với diệu huệ, tất cả tập khí tương tục đều đoạn dứt thì thành Như Lai Chánh Đẳng Chánh giác, đạt được cảnh giới Niết bàn.
Thích nghĩa của phần lược giải này:
(1). Hư không: Đây là từ hay dùng trong các kinh điển Đại thừa cũng như Tiểu thừa mà nhiều người hay nhầm lẫn không gian(hay không giới) với hư không trong nghĩa vô vi của nó. Kinh điển thường thí dụ “tu Đại thừa là tu như hư không như con chim xí bay lượn trên hư không, nương hư không nhưng không trụ ở hư không”. Câu nầy có hai nghĩa rõ rệt “chim xí bay lượn trên hư không”, từ hư không đây có nghĩa là bầu không khí, bầu trời tức không giới là hữu vi, là sắc giới có thể thấy, phân biệt được(dùng từ hư không ở đây không đúng, nhầm lẫn hư không với bầu trời). Câu “tu Đại thừa là tu như hư không”, từ hư không ở đây có thâm nghĩa, hư không là vô vi, không sắc tướng, không vuôn tròn, dài ngắn, không xanh đỏ trắng đen, không khứ lai, xuất nhập, tăng giảm, nhiễm tịnh, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng biến hoại, điên đảo, chẳng hư vọng, phân biệt… Hư không là từ chỉ cái thể vi diệu của các pháp vô vi. Phẩm “Đẳng Không” kế tiếp sẽ nói lên cái thâm áo của từ nầy.
(2). Ngũ đạo pháp môn của Kinh Đại thừa Bắc Thiền gồm:
1- Phật giác ngộ và giác ngộ là không móng tâm.
2- Khi tâm bất động, các giác quan yên lặng và trong trạng thái tĩnh lặng đó cánh cửa trí tuệ vô thượng sẽ hé mở.
3- Trí tuệ vô thượng khai mở dẫn đến khai phóng một cách vi diệu thân và tâm. Tuy nhiên, đây không phải là Niết bàn tịch tĩnh của Tiểu thừa, bởi vì trí tuệ vô thượng do chư Bồ Tát chứng đắc đòi hỏi các cảm thức tuy có hoạt động nhưng không dính mắc.
4- Tính hoạt động không dính mắc nầy nghĩa là không kẹt vào nhị nguyên đối đãi giữa thân và tâm, nơi đó hội được thật tướng các pháp.
5- Rốt cuộc đây là con đường của Nhất tính, dẫn đến giới sự của Như thị không ngăn ngại, không sai biệt. Đó là giác ngộ.
(Trích trong tác phẩm “Vô Niệm” của Thiền sư Suzuki do Thuần Bạch biên dịch).
Ghi chú cho toàn phẩm này:
Phẩm “Biện Đại Thừa” trong Kinh ĐBN, không có phân chia thành 3 đoạn chính và 2 phân đoạn phụ. Ở đây, cũng để dễ hiểu dễ học, chúng tôi chia thành nhiều phần đoạn khác nhau. Tuy nhiên, nếu sự phân chia quá tỉ mỉ, chi tiết… nhưng không rõ ràng có thể gây ngộ nhận cho độc giả! Kinh viết một “lèo”, không phân chia, không đánh số. Mong rằng sự phân đoạn này đem lại sáng sủa phần nào chăng? Nếu Quý vị tụng đọc cẩn thận phẩm này, sẽ thấy rất dễ hiểu mặc dù có phân chia. Đó là dụng đích của chúng tôi./.
---o0o---