Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận 05. Thế Nào Gọi Là Bát Nhã Ba La Mật?

08/04/202119:38(Xem: 10197)
Luận 05. Thế Nào Gọi Là Bát Nhã Ba La Mật?

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-561

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TÁNH KHÔNG BÁT NHÃ

(Với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 LUẬN #5. THẾ NÀO GỌI LÀ BÁT NHÃ BA LA MẬT?

  

  

Từ lúc mở đầu cho tới đây chúng ta chỉ mới đi vòng ngoài. Trọng tâm của chúng ta là nói về Bát Nhã hay Tánh Không trong việc thành tựu Giác ngộ. Tánh Không là Bát Nhã và Bát Nhã tức Tánh Không hay Bản tánh không. Hơn nữa Bản tánh không chính là Phật. Kinh nói “nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh giác nào lìa Bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời”. Vì những lý do đó, nhà Thiền thường nói “Không giác ngộ không phải là Bát Nhã” hay nói khác “Chỉ thành tựu giác ngộ trong Bát Nhã hay ngược lại”.

Đây không phải là câu nói phô trương phù phiếm hay lời khích lệ dành cho hành giả Bát Nhã. Lịch sử Phật đạo có kể giai thoại về một chàng tiều phu trẻ tuổi nghèo khổ, chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” mà hoát nhiên đại ngộ rồi trở thành Tổ thứ sáu truyền thừa từ thời đức Phật(1). Bát Nhã có đầy đủ diệu dụng như thế, nên đệ tử tục gia hay xuất gia rất ngưỡng mộ, đều muốn qui hướng.

 

1. Khái lược về Bát nhã Ba la mật:

 

1- Cái gì gọi là Bát Nhã?

Muốn tu để đạt Ngộ, đắc Chánh giác và Nhất thiết trí trí thì phải biết Bát Nhã là gì? Có hiểu biết mới có thể tín thọ(tin tưởng). Có tín thọ thì mới có thể phụng hành (học hành). Vậy, ta phải hiểu Bát Nhã như thế nào đây trước khi dấn thân vào cuộc hành trì bất tận này?

 

Bát Nhã: Hạt châu trong chéo áo:

 

Kinh Pháp Hoa nói về “Khai thị ngộ nhập trong tri kiến Như Lai” như sau: “Khai” là mở ra, “thị” là chỉ cho thấy, “ngộ’ là giác biết, “nhập” là đi vào chân lý. Một khi ngộ nhập được chân lý rồi, chân lý chính là ông và ông là chân lý. Chủ đích của Kinh Pháp Hoa nhằm chỉ cho chúng sanh mỗi người đều có tri kiến Như Lai hay Phật Trí. Nhưng vì vọng động tầm cầu những cái từ bên ngoài nên quên đi cái sẵn có nơi mình như chàng cùng tử có sẵn hạt châu trong chéo áo mà không biết, nên phải lang thang khắp đầu đường xó chợ, rày đây mai đó kiếm ăn. Nhưng may mắn cùng tử gặp người có trí chỉ cho biết hạt châu trong chéo áo. Rồi từ đó nhờ bán hạt châu mà chàng ta trở thành người giàu sang sung sướng. Hạt châu ở đây chính là trí kiến Như Lai, Phật Trí hay Bát Nhã Trí sẵn có trong mỗi chúng ta và người trí ở đây tức Phật chỉ cho chúng ta mỗi người đều có Phật Trí hay Bát Nhã Trí.

Bồ Tát Thường Bất Khinh, một nhân vật trong Kinh Pháp Hoa, trên đường hành cước đó đây, bất cứ gặp ai cũng lớn tiếng xướng rằng: “Ta không giám khinh mạn các Ngài, các Ngài là Phật sẽ thành”. Những người qua đường tưởng ông là kẻ điên khùng, nhảm nhí, lấy gậy cây ngói đá đánh đuổi. Nhưng mọi người nào biết chính mình đã có sẵn trí tuệ Phật, chỉ cần tôi luyện sẽ thành.

Bồ Tát Thường Đề hay Bồ Tát Thường khóc, một nhân vật khác trong Kinh ĐBN, người tầm cầu trí tuệ Phật, phải chẻ xương bán tủy. Nhưng trí đó ở đâu mà cầu? Trí tuệ đó chính là tri kiến hay còn gọi là trí tuệ giác tánh của chính ông, do tư duy trì niệm và thực hành lục Ba la mật nói riêng và tất cả pháp Phật nói chung mà hiển lộ.

Những điều trình bày trên cốt trả lời câu hỏi cái gì gọi là Bát Nhã? “Như Lai trí tuệ giác tánh” là câu trả lời. Nhưng đó chỉ là câu trả lời thuộc về danh tướng. Vậy, nội dung của Bát Nhã là gì? Đó chính là chủ đề mà những người tầm cầu Thánh trí và Giác ngộ muốn biết. Phải nghiền ngẫm tụng đọc, thọ trì toàn bộ hơn bảy ngàn trang sách đánh máy khổ lớn, phải thực hành không những trong một kiếp mà trong nhiều đời nhiều kiếp mới có hy vọng nói lên chính xác nội dung pháp nghĩa của bộ Đại tùng thư này và cũng tùy theo căn cơ hay phước đức trí tuệ. Đó là điều khó và khó hơn cả là phải thông đạt nắm bắt đúng Bát Nhã mới có thể làm nổi!

Một bộ kinh mà chúng tôi rất ngưỡng mộ và tán dương được trình bày ở đây gọi là “Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa”. Nói là “bộ” thì không đúng lắm, vì kinh vỏn vẹn chỉ có 262 chữ. Tuy nhiên, nó có thể “trình bày” một cách khái quát cốt tủy của Bát Nhã. Tâm Kinh được giới thiệu ở đây không phải là một khái lược tổng quát mà là một “tối sơ lược” về Bát Nhã, mặc dù kinh ngắn nhưng rất xúc tích.

Tuy nhiên, Quý vị không thể nín cười khi tôi lấy một bộ kinh vỏn vẹn chỉ có 262 chữ để “làm công việc sơ lược” cho một Đại tùng thư như Đại Bát Nhã Ba La Mật, hơn 5 triệu chữ (2), là một điều cực kỳ phi lý phải không?

Nhưng, phải nói đoạn đầu của Tâm Kinh có thể thức tỉnh giác quan nội tại của chúng ta qua tác dụng của lối phủ định vô địch của Tánh Không, có thể đưa hành giả Bát Nhã đến vô niệm vô tâm, nên được chúng tôi giới thiệu ở đây thay vì tóm lược nội dung của Đại Bát Nhã.

 

Để nắm vững Tâm Kinh, chúng tôi trích dẫn Lược bản Tâm Kinh bằng tiếng Anh của Thiền sư D.T. Suzuki đăng trong Thiền luận quyển hạ và Ngài Tuệ Sĩ Việt dịch như sau:

Khi Bồ Tát Quán Tự tại (Avalokitésvara) thực hành tu tập Bát nhã Ba la mật sâu thẳm, trực nhận rằng, có năm uẩn (skandha); và thấy năm uẩn đó không có tự tính trong chúng.

“Này Xá lợi phất (Śāriputra), sắc ở đây là không, không là sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị là không, không tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy.”

“Này Xá lợi phất, hết thảy các pháp ở đây có đặc tướng là không: Chúng không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm; không tăng, không giảm. Vì vậy, này Xá lợi phất, trong tính Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có minh, không có vô minh, không có sự diệt tận của minh, không có sự diệt tận vô minh cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt tận của tuổi già và sự chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc, và không có chứng, bởi vì không có đắc. Không có những chướng ngại trong tâm của Bồ Tát an trụ do y chỉ trên Bát nhã Ba la mật; và bởi vì không có những chướng ngại trong tâm mình, Ngài không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo, đạt đến Niết bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại, và vị lai, do y trên Bát nhã Ba la mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.”

“Vì vậy, nên biết Bát nhã Ba la mật là đại thần chú(mantra), là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, có thể trừ diệt hết mọi khổ đau; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chú được công bố trong kinh Bát nhã Ba la mật:

Gate, gate, pāragate, pārasaṅgate,bodhi, svāhā!”

(Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia,Sāhā!(3)

 

Nhiều đoạn kinh trong ĐBN cũng có ý nghĩa tương tự như Tâm Kinh, thí dụ phẩm “Tương Ưng”, quyển 04, Hội thứ I, ĐBN hay quyển 403, phẩm “Quán Chiếu”, Hội thứ II, ĐBN. Nhưng thay vì Bồ Tát Quán Âm bảo Xá Lợi Phất thì ở đây Phật bảo Xá Lợi Phất:

“Xá Lợi Tử! Không có một pháp nhỏ nhiệm nào hiệp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản tánh là không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì cái không của các sắc, nó chẳng phải là sắc; các cái không của thọ, tưởng, hành, thức, chúng chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì cái không của các sắc, nó chẳng phải là tướng biến đổi, ngăn ngại; cái không của thọ, nó chẳng phải là tướng lãnh nạp; cái không của các tưởng, nó chẳng phải là tướng nắm bắt hình tượng; cái không của các hành, nó chẳng phải là tướng tạo tác; cái không của các thức, nó chẳng phải là tướng liễu biệt. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không, không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì tướng không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Xá Lợi Tử! Như vậy, trong cái không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có 12 xứ, 18 giới; không có sự sanh khởi của vô minh, không có sự diệt tận của vô minh; không có sự sanh khởi của hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử…; không có sự diệt tận của hành cho đến lão tử…; không có khổ Thánh đế, không có tập, diệt, đạo Thánh đế; không có đắc, không có hiện quán; không có Dự lưu, không có quả Dự lưu, không có Nhất lai, không có quả Nhất lai, không có Bất hoàn, không có quả Bất hoàn, không có A la hán, không có quả A la hán, không có Độc giác, không có quả vị Độc giác, không có Bồ Tát, không có hạnh Bồ Tát, không có Phật, không có quả vị Phật”.

Tâm Kinh hay đoạn Kinh ngắn của quyển 04, phẩm “Tương Ưng” nói trên, có thể xem như là khái lược ngắn gọn về Tánh Không. Riêng Tâm Kinh đã đáp ứng được vai trò này với những phủ định liên hồi của nó. Tâm kinh phủ định vai trò của ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, phủ định luôn Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, phủ định luôn cả sự chứng đắc các Thánh quả, để cuối cùng không còn gì có thể phủ định được nữa, lúc đó sẽ đối diện với Không. Khi tâm thể được gột rửa tận cùng như thế, thì sẽ không còn quái ngại nữa, mới có thể xa lìa mộng tưởng điên đảo mà đạt đến cảnh giới Niết bàn rốt ráo.

Ở đây chúng tôi không đề cập đến cái thần bí ẩn mật của Mantra hay Đà la ni trong câu chú “Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăng sa-bà-ha”. Chúng tôi chỉ bàn về Bát Nhã Tánh Không với những nguyên lý chỉ đạo của nó.

 Tuy nhiên, nói cho cùng nội dung của Tâm Kinh quá nhỏ hẹp không đủ tầm vóc để đáp ứng với những vấn đề quá phức tạp đa dạng của Bát nhã Ba la mật. Ở đây hơn bảy ngàn trang giấy đánh máy khổ lớn, trên 5 triệu chữ được gọi là một Đại tùng thư, chắc chắn Đại Bát Nhã có thể đáp ứng một số câu hỏi lớn mà người tầm cầu Thánh trí hay Giác ngộ muốn biết.

 

2- Sao gọi là Ba la mật? 

Tu Bát Nhã để làm gì? Và kết quả ra sao? Câu trả lời giản dị là tu Bát Nhã để đạt huệ. Đạt huệ để làm gì? Để được giải thoát! Giải thoát đi đâu? Đi qua bờ bên kia! Vậy tu Bát Nhã là nhân để đạt huệ và đạt huệ để sang được bờ bên kia, là quả. Muốn nhân tròn quả mãn thì phải tu hành Bát nhã Ba la mật, kết quả chắc chắn sẽ sang được bờ kia.

Nhưng muốn gặt hái được kết quả tốt đẹp đó thì phải làm sao? Câu trả lời giản dị là phải có phương tiện. Nhưng đối với Bát Nhã, tất cả đều không: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, cho đến... vô pháp hữu pháp không, rốt ráo đều không. Như vậy, phương tiện cũng không, nên nói phương tiện phi phương tiện. Hay nói khác tất cả đều bất khả đắc. Và chính bất khả đắc này cũng không nốt, nên nói là “bất khả đắc không”. Và khi hiểu ra như thế thì thấu hiểu Bát Nhã, thấu hiểu Ba la mật. Thấu hiểu nhân (Bát Nhã), thấu hiểu quả (Ba la mật) thì có thể sang được bờ kia. Phẩm “Ba la mật”, Q.296 và Q.297, Hội thứ I, ĐBN. Nói:

“Bát nhã Ba la mật là Ba la mật vô biên vì không có ngằn mé; là Ba la mật không có dấu vết vì không có danh thể; là viễn ly vì rốt ráo không; là vô hành vì tất cả pháp không đến không đi; là Ba la mật vô tri vì các sự hiểu biết chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật chẳng sanh diệt vì tất cả pháp không sanh diệt; là không tạo tác vì các sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; là không dời đổi vì sự sanh tử bất khả đắc, không hư mất vì tất cả pháp không biến hoại; là Ba la mật vô nhị vì xa lìa nhị biên (hai bên); là không sở đắc, không hý luận, không nhiễm, không tịnh; là Ba la mật không kiêu mạn, không tham dục, không sân nhuế, không ngu si, không phiền não; là Ba la mật không đoạn, không hoại, không chấp trước, không phân biệt, không so lường, không khởi đẳng cấp; là Ba la mật bình đẳng, xa lìa nhiễm trước, vô cùng tĩnh lặng, như hư không

Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật như mộng vì tất cả pháp như chiêm bao, chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như tiếng vang vì năng, sở, văn, thuyết đều chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như ảnh tượng vì các pháp đều như ảnh hiện trong gương, chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như bóng nắng, như ảo ảnh vì tất cả pháp như tướng trạng của dòng nước, chẳng thể nắm bắt được; là Ba la mật như biến hóa vì các pháp đều như ảo thuật; là Ba la mật như ảo thành vì các pháp đều như thành bằng hương khói.

Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật khổ, Ba la mật không, Ba la mật vô thường, Ba la mật vô ngã, Ba la mật vô tướng, vì có khả năng vĩnh viễn đoạn trừ các vọng niệm chấp trước.

Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật thập bát pháp không (18 pháp không) vì các pháp chẳng thể nắm bắt được. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật chơn như, là Ba la mật pháp giới, là Ba la mật pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật bốn Thánh đế, là 37 pháp trợ đạo.

Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật không giải thoát môn, là vô tướng giải thoát môn, là vô nguyện giải thoát môn. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật tám giải thoát, là Ba la mật tám thắng xứ, là chín thứ đệ định, là mười biến xứ v.v… Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật Nhất thiết trí, là Ba la mật Đạo tướng trí, là Ba la mật Nhất thiết tướng trí. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật tất cả Bồ Tát hạnh, là quả vị Giác ngộ tối cao. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật Như Lai. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật tự nhiên vì đối với tất cả pháp được tự tại. Bát nhã Ba la mật như vậy là Ba la mật Chánh Đẳng Giác vì đối với tất cả pháp có khả năng giác ngộ chơn chánh bình đẳng tất cả tướng”.

Tất cả các Ba la mật này đều nhiếp thu vào Bát Nhã, nếu biết khắp như thế thì có thể sang được bờ kia. Có lẽ chúng ta phải “học thuộc lòng và phải thực hành thông suốt” các Ba la mật này. Ngày nào thành đạo chính các Ba la mật này sẽ là máu mủ, xương tủy của chính ông thì khi ấy không cần phải học nữa. Bát nhã Ba la mật sẽ tự nẩy sanh diệu dụng, trong mỗi lời nói, mỗi cử chỉ, mỗi thái độ hay hành động của các ông.

 

Chúng ta đã lược nói hai thành phần riêng rẽ của Bát nhã Ba la mật: 1. Bát Nhã và 2. Ba la mật. Mục tiêu của Luận #5 này là thảo luận “Thế nào là Bát nhã Ba la mật?”. Bây giờ, nhập 2 thành phần này lại với nhau, để trả lời câu hỏi đó:

 

3- Sao gọi là Bát nhã Ba la mật? 

Ghép hai vế Bát Nhã và Ba la mật với nhau để có cụm từ Bát nhã Ba la mật thì ý nghĩa của nó ra sao?

 

- Phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 135, ngài Huyền Trang dịch:

“(...) Cái gọi là nghĩa thú của Bát nhã Ba la mật này, là Bát Nhã phi nhị phi bất nhị, phi hữu tướng phi vô tướng, phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi sanh phi diệt, phi thủ phi xả, phi chấp phi bất chấp, phi trụ phi bất trụ, phi thật phi bất thật, phi tương ưng phi bất tương ưng, phi hòa hợp phi bất hòa hợp, phi nhân duyên phi phi nhân duyên, phi pháp phi phi pháp, phi chơn như phi phi chơn như, phi thật tế phi phi thật tế. Nghĩa thú như vậy có vô lượng pháp môn”.

Đoạn kinh này cho thấy nghĩa thú của Bát nhã là chẳng phải hữu tướng-chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhiễm-chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh-chẳng phải diệt... hay nói trắng ra nghĩa thú Bát Nhã là không hai (bất nhị), vượt qua đối đãi thường tình của thế nhân, để những ai thọ trì Kinh này đừng nương vịn cất dấu.

 

- Phẩm “So Lường Công Đức, quyển 129, ĐBN cũng nói: “(...) Vì Bát nhã Ba la mật như thế trong tạng bí mật, đã rộng nói pháp tương ưng Ba thừa. Nhưng vì pháp đã nói là lấy vô sở đắc làm phương tiện, vô tánh, vô tướng làm phương tiện, vô sanh, vô diệt làm phương tiện, vô nhiễm, vô tịnh làm phương tiện, vô tạo, vô tác làm phương tiện, vô nhập, vô xuất làm phương tiện, vô tăng, vô giảm làm phương tiện, vô thủ, vô xả làm phương tiện. Nên đã nói như vậy là do thế tục, chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải Bát nhã Ba la mật, chẳng phải chẳng Bát nhã Ba la mật, chẳng phải bờ bên này, chẳng phải bờ bên kia, chẳng phải giữa dòng, chẳng phải đất liền, chẳng phải nước, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải bằng phẳng, chẳng phải chẳng bằng phẳng, chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu tội, chẳng phải vô tội, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải thuộc dục giới, chẳng phải thuộc sắc giới, chẳng phải thuộc vô sắc giới, chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải chẳng học, chẳng phải chẳng vô học, chẳng phải kiến sở đoạn, chẳng phải tu sở đoạn, chẳng phải chẳng tu sở đoạn, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí.

(...) Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng cùng pháp Dự lưu, chẳng cùng pháp Nhất lai, chẳng cùng pháp Bất hoàn, chẳng cùng pháp A la hán, chẳng bỏ pháp phàm phu”.

Chúng ta có thể tìm thấy những đoạn kinh tương tự như vậy bất cứ trong Hội nào của toàn bản đại phẩm này.

 

- Phẩm “Tham Hành”, quyển 562, Hội thứ V, Phật bảo: “... Nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết bàn, là pháp nghĩa hiển hiện”.

Đoạn Kinh này cũng không giải thích trực tiếp tính cách thực dụng Bát nhã Ba la mật là gì mà chỉ nói pháp nghĩa hiển hiện của nó. Pháp nghĩa của Bát Nhã là ba cửa (tam giải thoát môn) không, vô tướng, vô tác hay vô nguyện. Tất cả pháp chẳng thật có, do duyện hợp gọi là có, duyên tan thì gọi là diệt, chẳng phải sanh diệt. Tất cả pháp lại trì độn vô tri, bất động, tự tánh tịch tĩnh... “Không có bất cứ một pháp nào dù nhỏ nhặt bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự Tánh không này không do ai làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa”. Đó là nghĩa xứ hiển hiện của Bát nhã Ba la mật mà chúng ta có thể tìm thấy trong 5 Hội đầu cũng như rải rác trong các pháp hội khác. Đoạn Kinh này không bộc lộ rõ ràng Bát nhã Ba la mật là gì, nhưng nhờ tụng đọc toàn bộ Đại Bát Nhã nên chúng ta có thể hiểu những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của nó: Chẳng có gì trong Bát Nhã, tất cả đều không. Có lẽ chúng ta không nên mất thời giờ với những đoạn kinh như vậy. Tuy nhiên, xin ghi nhớ đó là giáo lý đỉnh cao của Bát Nhã. Bát Nhã lập cước trên cái trống không đó. Nhưng đừng tưởng không là cái không chi. Không là rỗng không, trong suốt(emptiness)dẫn đến vô thức, vô niệm vô tâm mà chứng Thánh.

 

- Phẩm “Quán Hạnh”, quyển 71, Hội thứ I, ĐBN. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- “Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?

Thiện Hiện trả lời:

- Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ cần phải xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử hỏi:

- Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?

Thiện Hiện đáp:

- Trí này đối với tất cả phiền não, kiến, thú được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với sáu cõi, bốn loài được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với tất cả uẩn, xứ, giới v.v… được vĩnh viễn xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Có lẽ Quý vị thích cái gì cụ thể phải không? Đây là câu trả lời trực tiếp giản dị và thực tế nhất tuy không đầy đủ, nhưng có thể cho Quý vị hiểu cái thực dụng của Bát nhã Ba la mật mà áp dụng vào việc tu tập, học và hành. Có trí thắng diệu tức có Bát Nhã Trí thì có thể xa lìa. Xa lìa cái gì? Xa lìa phiền não, kiến, thú; xa lìa ác đạo; xa lìa 4 loài thấp sanh, noãn sanh, thai sanh hay hóa sanh; cũng xa lìa luôn các lôi cuốn của ngũ dục lục trần... Nếu có thể xa lìa được như vậy gọi là giải thoát. Giải thoát đi đâu? Giải thoát có nghĩa lìa trói lìa buộc của các hệ lụy nói trên.

Cũng cùng đoạn Kinh trên, Cụ thọ bảo tiếp:

“Lại nữa, Xá lợi Tử! Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ đạt đến, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử lại hỏi:

- Trí này đối với pháp nào được vĩnh viễn đạt đến?

Thiện Hiện đáp:

- Trí này đối với thật tánh của sắc được vĩnh viễn đạt đến; đối với thật tánh của thọ, tưởng, hành, thức được vĩnh viễn đạt đến, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Trí này đối với thật tánh của mười hai xứ, mười tám gii được vĩnh viễn đạt đến. Trí này đối với tứ Thánh đế, mười hai nhân duyên, mười tám pháp không v.v… được vĩnh viễn đạt đến. Hay nói rộng, Trí này đối với thật tánh của tất cả pháp Phật được vĩnh viễn đạt đến. Như vậy, nên gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Trí Bát Nhã này có thể vĩnh viễn đạt đến thật tánh của tất cả pháp tức hiểu được chơn như thật tánh của tất cả pháp, thì Giác ngộ hay giải thoát.

Vậy, xa lìa vĩnh viễn các tập khí phiền não tương tục, đồng thời vĩnh viễn biết được chơn như thật tánh của tất cả pháp thì được gọi là Giác ngộ hay đắc Bát Nhã Trí.

Thật là một đoạn kinh quá ngắn, nhưng cụ thể cho những ai tìm sở ngộ, cho những ai hành trì Bát nhã Ba la mật theo các chỉ dẫn giản dị và thiết thực như trên. Đó chỉ là lối diễn tả thông thường để trả lời câu hỏi “Sao gọi là Bát nhã Ba la mật”. Nhưng câu trả lời đó chỉ là một khía cạnh nhỏ, cục bộ.

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật” sau đây, tức là phần cuối cùng Hội thứ XVI, trước khi chấm dứt 22 năm thuyết Bát nhã Ba la mật hay trí tuệ Phật, Phật bảo Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

“... Sao gọi là Bát nhã Ba la mật? Các ngươi nên biết! Thật chẳng có chút pháp nào có thể gọi là Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật sâu xa vượt qua tất cả con đường danh ngôn. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bát nhã Ba la mật sâu xa thật không thể nói đây là Bát nhã Ba la mật, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật thuộc kia, không thể nói Bát nhã Ba la mật do kia, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật từ kia. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Trí tuệ của Như Lai còn không thể đắc, huống chi đắc Bát nhã Ba la mật.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là hiểu các pháp và biết các pháp nên gọi là Bát Nhã.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã hiểu các pháp ra sao?

Nghĩa là các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác nhau, nhưng tất cả pháp không lìa danh ngôn. Nếu hiểu các pháp hoặc biết các pháp đều bất khả thuyết, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà nói, nên gọi là Bát Nhã.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là giả thi thiết. Do giả thi thiết nên gọi là Bát Nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể động chuyển, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết như vậy gọi là như thật biết.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải đây, không phải kia, nên gọi là Bát Nhã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy là sở hành của trí, sở hành phi trí, chẳng phải cảnh trí cùng cảnh phi trí, vì trí xa lìa tất cả cảnh.

Nếu trí là cảnh tức là phi trí, không từ phi trí mà được có trí.

Cũng không từ trí mà có phi trí, không từ phi trí mà có phi trí.

Cũng không từ trí mà được có trí, không do phi trí mà gọi là trí.

Cũng không do trí mà gọi là phi trí, không do phi trí mà gọi là phi trí.

Cũng không do trí mà gọi là trí, tức phi trí gọi là trí. Do đây tức trí gọi là phi trí. Trong đây, trí không thể hiển thị nên gọi là trí, không thể hiển thị thuộc về trí này, không thể hiển thị nguyên do của trí này, không thể hiển thị từ trí này, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí trụ trong tánh trí.

Trí và tánh trí đều bất khả đắc, phi trí cùng tánh cũng lại như vậy, chắc chắn không do phi trí gọi là trí.

Nếu do phi trí gọi là trí thì tất cả phàm phu đều có trí.

Nếu có như thật đối với trí, phi trí đều không thể đắc (nhược hữu như thật ư trí phi trí câu sở đắc). Đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Nhưng thật tánh trí chẳng phải như đã nói. Vì sao? Vì thật tánh trí lìa ngôn ngữ. Trí chẳng phải cảnh của trí, chẳng phải cảnh phi trí. Vì trí vượt khỏi tất cả cảnh, không thể nói đây là cảnh của trí hay phi trí.

Thiện Dũng Mãnh! Đây gọi là như thật giảng nói tướng trí. Như vậy, tướng trí thật không thể nói, không thể hiển bày, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà trình bày. Kẻ trí cũng bất khả thuyết. Cảnh trí còn không có huống có kẻ trí. Nếu có thể như thật biết, như thật tùy ngộ thì gọi là Bát Nhã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có thể hiện quán tác chứng được như thế, thì gọi là Bát Nhã xuất thế. Bát Nhã xuất thế đã nói như vậy cũng bất khả thuyết. Vì sao? Vì thế gian còn không có huống là có xuất thế gian. Sự xuất còn không có huống chi là người xuất. Do đây, Bát Nhã xuất thế cũng không có. Vì sao? Vì hoàn toàn không đắc thế gian, xuất thế gian, người xuất và sự xuất, nên gọi là Bát Nhã xuất thế. Nếu có sở đắc thì không gọi là Bát Nhã xuất thế. Tánh của Bát Nhã này cũng bất khả đắc, vì xa lìa tánh khả đắc của hữu và vô.

Này Thiện Dũng Mãnh! Thế gian gọi là giả lập, không thể dựa vào thế gian giả lập mà thật có xuất thế. Nhưng vì ra khỏi các sự giả lập nên gọi xuất thế. Xuất thế đối với thế gian chẳng thật có xuất hay không xuất. Vì sao? Vì trong này hoàn toàn không có pháp xuất hay có thể xuất, nên gọi xuất thế. Xuất thế ấy không có thế gian và xuất thế gian. Không xuất không phải không xuất nên gọi xuất thế. Nếu như thật biết rõ như vậy gọi là Bát Nhã xuất thế. Như vậy, Bát Nhã chẳng phải như đã nói.

Vì sao? Vì Bát Nhã xuất thế vượt khỏi ngôn ngữ, tuy gọi xuất thế mà không có sự xuất, tuy gọi Bát Nhã mà không có sự biết. Sự xuất, sự biết bất khả đắc hay xuất hay biết cũng bất khả đắc. Như thật biết như vậy gọi là Bát Nhã xuất thế. Do đây nên Bát Nhã vuợt qua tất cả. Thế nên gọi là Bát Nhã xuất thế”.

Chúng ta phải hiểu Bát Nhã như thế nào đây với bài pháp nói trên? Trước tiên chúng ta có thể hiểu mệnh đề này:

“... trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật”. Vậy, muốn hiểu thật tánh của tất cả pháp phải làm sao? Câu trả lời dứt khoát là phải có Bát Nhã Trí. Nhưng, Bát nhã Ba la mật vượt qua danh ngôn thế tục, không thể nói đây là Bát Nhã, cũng không thể nói do đây hay từ đây, do kia hay từ kia mà có Bát Nhã Trí. Bát Nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải đây, không phải kia, nên gọi là Bát Nhã.

Rồi Phật nói một loạt về trí này: “Cũng không từ trí mà có phi trí, không từ phi trí mà có phi trí. Cũng không từ trí mà được có trí, không do phi trí mà gọi là trí v.v... và v.v... Trong đây, trí không thể hiển thị nên gọi là trí, không thể hiển thị thuộc về trí này, không thể hiển thị nguyên do của trí này, không thể hiển thị từ trí này, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí trụ trong tánh trí. Trí và tánh trí đều bất khả đắc, phi trí cùng tánh cũng lại như vậy, chắc chắn không do phi trí gọi là trí”.

Vậy chúng ta phải hiểu trí Bát Nhã như thế nào? Nếu cứ đi vòng vòng cứ đi vòng quanh như thế, chúng ta không bao giờ có thể trả lời dứt khoát câu hỏi thế nào là Bát nhã Ba la mật hay Trí Bát Nhã. Lối diễn tả trên của Phật về trí Bát Nhã cho thấy rằng cái gì thuộc về của Thánh trí do chư Phật giác ngộ đạt được, ngôn ngữ thế tục không thể nắm bắt nổi. Nên tùy theo ngôn ngữ thế tục, Phật cố gắng giải thích. Nhưng ngôn ngũ văn tự không thể nào diễn tả cái gì mà Phật chứng trong giây phút giác ngộ. Vì vậy, phải đi vòng vòng phải đi vòng quanh thôi.

Tạm thời chúng ta giả thiết: Trí tuệ có thể hiểu và biết các pháp thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Đó cũng là câu Phật phát biểu. Muốn thế thì phải tu luyện tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo nhất là lục độ vạn hạnh đến một lúc nào đó chín mùi nứt vỡ, Nhất thiết trí trí, vô trước trí, tự nhiên trí, vô đẳng đẳng trí, vô thượng trí, hậu đắc trí, vô tận trí, vô sư trí... tự nhiên xuất hiện.

Cái gì không thể nói thẳng, không thể chỉ thẳng thì phải giả thi thiết. Do giả thi thiết mà chúng ta biết trí này. Mặc dù, chúng ta biết tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể giảng nói, không thể trình bày.

Tiếp theo kinh thuyết một tràng thực chứng về trí này để nói lên chỗ tùy ngộ của chư Phật. Tùy ngộ có nghĩa đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Ở đây không phải lý luận mà ở đây nói lên sở ngộ, chỗ ngộ, chỗ chứng biết khắp. Đó là chỗ thâm sâu siêu xuất, không thể dùng ngôn ngữ thế gian diễn nói được, nên nói là bất khả tư nghì. Phật là vị đã chứng trí này mà Phật thuyết còn vòng quanh như trên, hiến chi phàm phu như chúng ta. Vả lại, văn tự ngôn thuyết không thể giảng nói nên mới nói là bất khả tư nghị. Tuy nói thế nhưng không phải thế.

Chúng ta có thể trả lời thẳng làm thế nào để được Bát Nhã Trí? Câu trả lời là tu tất cả pháp mầu Phật đạo nhất là lục Ba la mật thành công thì sẽ có trí này. Nghĩa là muốn hiểu muốn đắc trí này và có thể thuyết về trí này ít nhất phải giác ngộ như Phật. Chư Phật ba đời tu học như vậy, chứng Vô Thượng Bồ đề nên có Bát Nhã Trí, Nhất thiết trí trí. Khi có trí này thì có thể nhập pháp giới, biết tất cả càn khôn vũ trụ với đầy đủ quyền năng công đức có thể thuyết pháp mang lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh tận đời vị lai không ngừng nghỉ.

 

2. Phải nắm bắt Bát Nhã như thế nào?

 

Buông bỏ nắm bắt là đặc tánh cố hữu của người thế gian. Thói đời là vậy, nên mất mát đau khổ là “chuyện thường”. Nhưng tu hành mà nói đến nắm bắt buông bỏ là chuyện khó nghe. Nhưng kinh có nói đến, có đề cập, nên chúng ta “phụ hợ” nói theo.

Cả ba Kinh: 1. Kinh Văn Thù Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Mạn Đà La Tìên dịch, 2. Kinh “Mạn Thù Thất Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Tăng Già Ba la dịch hay 3. Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Hội thứ VII, ĐBN” do Ngài Huyền Trang dịch. Cả ba Kinh này đều thuyết, muốn thể nhập Bát Nhã thì:

 “… không bỏ pháp phàm phu nhưng cũng không nắm bắt pháp Thánh hiền. Vì sao? Vì trụ Bát nhã Ba la mật không thấy pháp nào có thể nắm được hay buông bỏ. Tu Bát nhã Ba la mật cũng không thấy Niết Bàn đáng ưa thích, sanh tử nên nhàm chán. Vì sao? đã không thấy có sanh tử thì tại sao lại nhàm chán được. Đã không thấy có Niết Bàn làm sao còn thích ưa nữa. Nếu tu Bát nhã Ba la mật như thế sẽ không thấy phiền não nhơ nhớp đáng bỏ, công đức thanh tịnh nên cầu, đối với tất cả pháp tâm không lay động, đeo đuổi hay trốn chạy. Tại sao? Vì không thấy pháp giới có tăng hay giảm, thuận hay nghịch. Nếu được như vậy mới gọi là tu Bát nhã Ba la mật.

“Không thấy pháp có sanh có diệt là tu Bát nhã Ba la mật. Không thấy các pháp có tăng có giảm tâm không mong cầu; không thấy pháp tướng nên tầm cầu, không thấy tốt đẹp hay xấu xa, không cho là cao thượng hay hạ tiện, không nắm giữ không buông bỏ. Tại sao? Pháp không có tốt đẹp hay xấu xa vì lìa hết các tướng. Pháp không có cao thượng hoặc hạ tiện vì đồng đẳng với pháp tánh. Pháp không nên nắm giữ hay buông bỏ vì trụ thật tế. Đó là tu Bát nhã Ba la mật”.                

“… Khi tu Bát nhã Ba la mật không thấy pháp nào nên trụ, cũng không thấy cảnh giới nào nên nắm giữ hay buông bỏ. Tại sao? Vì các đức Như Lai không thấy tướng trạng cảnh giới chư Phật thì làm gì lại nắm giữ cảnh giới Thanh văn, Độc giác, phàm phu. Không ghi giữ tướng nghĩ lường, cũng không giữ tướng không thể nghĩ lường được, tự chứng pháp không ngoài lãnh vực trí thức không thấy các pháp có chừng ấy tướng trạng. Hàng đại Bồ Tát tu tập được như vậy là đã từng cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức các đức Phật, vun trồng các căn lành nên mới đủ khả năng lãnh hội pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà không sanh tâm sợ hãi”.

Đoạn kinh này rất thực tế, quá hay! Phật nói pháp không đẹp xấu, cao thượng hay hạ tiện, mình lại nói là quá hay. Đó là thói quen, tập khí của phàm phu tục tử. Cái thấy biết bằng cảm quan và thức vọng lúc nào cũng giăng trước mắt tai mũi lưỡi nên dễ nắm bắt hay buông bỏ, nhàm chán hay ưa thích. Nếu thấy ưa thích thì ôm lấy, nếu thấy nhàm chán thì buông bỏ. Đó là thói đời! Còn nắm bắt hay buông bỏ, còn nhàm chán hay ưa thích, là còn đam mê chấp ngã, không thể hiểu thật tướng các pháp, không thể liễu đạo. Vậy, những thảo luận tiếp theo sẽ cho chúng ta cách tiếp thu mới trong việc học hỏi cũng như thông đạt Bát Nhã.

Bát Nhã cái gì cũng không, không tên, không tướng, không bờ, không bến, không chỗ về nương, chẳng phải cảnh nghĩ lường, không tội, không phước, không uế, không tịnh...! Bát Nhã(trí) vượt trên danh ngôn thế tục, vượt trên hữu và vô, vượt trên tất cả như hư không và chơn pháp giới, tất cả đều bất khả đắc. Vậy, rốt ráo phải nắm bắt Bát Nhã như thế nào đây?

Không ai có thể khoanh vùng hay khu định nổi phạm trù của Bát Nhã. Phạm trù này không biên giới, như hư không(5), không thể xác định cụ thể bằng cân lường, đối chiếu, so sánh hay kiểm chứng bằng ống nghiệm để có thể chỉ rõ được, cái gọi là bất khả đắc, bất khả tư nghì. Nên khó có thể nắm bắt Bát Nhã một cách cụ thể. Chỗ tự hội là mảnh đất phì nhiêu chỉ dành cho những ai đã dày công đào xới, mới có thể gặt hái những bông hoa tươi đẹp trên đó.

 

- Phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 127, Hội thứ I, ĐBN sau đây hy vọng đáp ứng phần nào chăng?

“Xá Lợi Tử bảo với trời Đế Thích:

- Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế đã chẳng khá nắm lấy, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng; làm sao ngươi nắm lấy được! Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế vô thủ vô xả, vô tăng vô giảm, vô trụ vô tán, vô ích vô tổn, vô nhiễm vô tịnh. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp chư Phật; chẳng cùng pháp Bồ Tát ; chẳng cùng pháp Độc giác; chẳng cùng pháp Thanh văn, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng cảnh giới vô vi, chẳng bỏ cảnh giới hữu vi. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bố thí Ba la mật, chẳng cùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp không nội, chẳng cùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng chơn như, chẳng cùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Thánh đế khổ, chẳng cùng Thánh đế tập, diệt, đạo. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bốn tịnh lự, chẳng cùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tám giải thoát, chẳng cùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bốn niệm trụ, chẳng cùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp môn giải thoát không, chẳng cùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Bát Nhã Ba mật như thế chẳng cùng năm loại mắt, chẳng cùng sáu phép thần thông. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Phật mười lực, chẳng cùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp không quên mất, chẳng cùng tánh luôn luôn xả. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Nhất thiết trí, chẳng cùng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tất cả pháp môn Đà la ni, chẳng cùng tất cả pháp môn Tam ma địa. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Dự lưu quả, chẳng cùng Nhất lai, Bất hoàn, A la hán quả. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng quả vị Độc giác. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng Bồ Tát hạnh. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng quả vị Giác ngộ tối cao.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích đáp lại Xá Lợi Tử:

- Bạch Đại đức! Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế thật chẳng khá nắm, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế vô thủ vô xả, vô tăng vô giảm, vô tụ vô tán, vô ích vô tổn, vô nhiễm vô tịnh. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp Bồ Tát, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp Độc giác, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng pháp Thanh văn, chẳng bỏ pháp phàm phu; chẳng cùng cảnh giới vô vi, chẳng bỏ cảnh giới hữu vi. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng sáu pháp Ba la mật. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng 18 pháp không. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng chơn như, chẳng cùng pháp giới, pháp tánh... cho đến cảnh giới bất tư nghì. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bốn Thánh đế khổ. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng bốn tịnh lự, chẳng cùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bạch Đại đức! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng tám giải thoát, chẳng cùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ... cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Bạch Đại đức! Nếu đối với Bát nhã Ba la mật có khả năng biết như thế, thì nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, cũng tu hành đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng theo hai bên, không có hai tướng. Như vậy tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng theo hai bên, không có hai tướng.

Lúc bấy giờ, Phật khen trời Đế Thích:

- Hay thay! Như ông đã nói. Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng theo hai bên. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm không có hai tướng. Như vậy, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng chẳng theo hai bên. Vì sao? Vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật ấy cũng không có hai tướng.

Này Kiều Thi Ca! Có những kẻ muốn khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến chơn như cũng có hai tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với chơn như không hai, không hai phần”.

Bát nhã Ba la mật là vô sắc, vô kiến, vô đối, vô thủ, vô xả, không tăng không giảm, không tụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh v.v... Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng pháp chư Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu, chẳng cùng pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi. Bát Nhã là rỗng không, trong suốt, chẳng có gì được biểu lộ, chỉ rõ trong cái “vô chiêu” đó.  Nên “chẳng khá nắm lấy”. Nhưng biết Bát Nhã là vô kiến vô đối vô thủ vô xả, biết Bát Nhã là chẳng cùng tất cả pháp Phật, chẳng bỏ pháp phàm phu, chẳng cùng pháp vô vi, chẳng bỏ pháp hữu vi v.v... “Nếu đối với Bát nhã Ba la mật có khả năng biết như thế, thì nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, cũng tu hành đúng Bát nhã Ba la mật thậm thâm”.

Vậy, Kinh xác định có thể nắm bắt đúng và tu hành đúng Bát nhã Ba la mật với các điều kiện như đã nói đó, có nghĩa là phải biết Bát Nhã là vô kiến, vô đối cho đến không lấy pháp vô vi, không bỏ pháp hữu vi. Và cuối cùng Phật lại bảo: Rốt ráo Bát Nhã không theo hai bên, không có hai tướng. Những kẻ muốn khiến Bát nhã Ba la mật thậm thâm có hai tướng, tức là muốn khiến chơn như cũng có hai tướng. Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với chơn như không hai, không hai phần.

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 594, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo:

“Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát không thấy Bồ đề có xa có gần, thì biết những vị ấy đã gần Vô thượng Bồ đề, cũng gọi là người chơn phát tâm Bồ đề. Ta nương nghĩa này mật ý nói rằng, nếu ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì họ có thể chứng biết ngã và hữu tình đều không có tự tánh, tức có thể biết khắp các pháp không hai. Do có thể biết khắp các pháp không hai, nên nhất định thấu suốt được ngã và hữu tình, cùng tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, lý không sai khác. Nếu biết khắp các pháp không hai, tức có thể biết khắp tất cả pháp Phật. Hoặc có thể biết khắp ngã, tức biết khắp ba cõi.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu biết khắp ngã họ liền đến được bờ kia của các pháp. Vì sao gọi là bờ kia của các pháp? Nghĩa là tất cả pháp thật tánh bình đẳng, không đắc pháp này, cũng không chấp pháp này. Hoặc không đắc bờ kia, cũng không chấp bờ kia, đó gọi là người biết khắp đến bờ kia. Tuy nói như vậy mà như không nói”.

Bồ đề không có xa có gần. Như vậy có nghĩa là Bồ đề nằm trong tầm tay nếu những ai tự biết tướng không hai? Phật cũng nói xa nói gần tức là nói phân hai, nhưng Phật không phân biệt, không chấp. Nên, tới đây Phật “bật mí” chỉ rõ: “... nếu ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật”.

Pháp không hai hay pháp không hai tướng là pháp bất nhị, pháp không đối đãi, không mâu thuẫn hay chống đối nhau. Có chống đối, có mâu thuẫn mới sanh chướng. Pháp chướng đạo bắt nguồn từ ngã và ngã sở. Vì vậy, Phật bảo tất cả pháp đều không sai khác, lấy vô tánh làm tự tánh mà vô tánh là Không, Bản tánh không. Vô tánh cũng là tự tánh Bát Nhã cho đến vô tánh là tự tánh của pháp ở bên trong, ở bên ngoài hay ở giữa hai(4), vô tánh cũng là tánh Phật. Biết như vậy liền đến bờ kia của các pháp.

Vậy, trả lời câu hỏi “Làm sao nắm bắt Bát nhã Ba la mật?” Phật bảo hiểu và biết tất cả pháp như thật thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Nhưng thế nào gọi là hiểu tất cả pháp như thật? Nghĩa là hiểu biết tất cả pháp bình đẳng không hai, nhưng phải lìa ngã, ngã sở đồng thời chẳng thủ chẳng chấp pháp này hay nghĩ tưởng đến bờ nọ bờ kia, mới có hy vọng nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật.

Nhưng thật sự tất cả những dẫn chứng trên chỉ là câu trả lời có điều kiện cho câu hỏi làm sao nắm bắt đúng Bát Nhã mặc dù Phật bảo rõ: Thấy các pháp không hai là thấy thật tướng hay chơn như tất cả pháp. Thấy như vậy là có thể nắm bắt đúng Bát Nhã. Tuy nhiên phải lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện để tư duy quán tưởng các pháp là bình đẳng. Đúng vậy! Vì nắm đúng Bát Nhã phải là sự phối hợp của nhiều yếu tố, không có bất cứ yếu tố đơn côi nào có thể đem lại thành tựu Bát Nhã để bất cứ ai cũng có thể nắm bắt được. Vì vậy, mới có đoạn kinh kế tiếp:

 

3. Muốn nắm bắt đúng Bát Nhã thì

phải tư duy quán tưởng như thế nào?

 

- Phẩm “Thiên Đế”, quyển 77, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:

“Kiều Thi Ca! Ông hỏi cái gì là Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát ? Hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện tư duy sắc là vô thường, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô thường; tư duy sắc là khổ, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là khổ; tư duy sắc là vô ngã, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã; tư duy sắc là bất tịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là bất tịnh; tư duy sắc là không, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là không; tư duy sắc là vô tướng, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng; tư duy sắc là vô nguyện, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện; tư duy sắc là tịch tịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh; tư duy sắc là viễn ly, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly;”

Đó là những tư duy quán tưởng thanh tịnh đối với năm thủ uẩn.

- Cùng đoạn kinh trên Phật bảo:

(phải)... tư duy sắc như bịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức như bịnh; tư duy sắc như ung thư, tư duy thọ, tưởng, hành, thức như ung thư; tư duy sắc như tên đâm, tư duy thọ, tưởng, hành, thức như tên đâm; tư duy sắc như mụt nhọt, tư duy thọ, tưởng, hành, thức như mụt nhọt; tư duy sắc là nóng bức, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là nóng bức; tư duy sắc là bức ngặt, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là bức ngặt; tư duy sắc là bại hoại, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là bại hoại; tư duy sắc là suy hư, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là suy hư; tư duy sắc là biến động, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là biến động; tư duy sắc là chóng diệt, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là chóng diệt; tư duy sắc là đáng sợ, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là đáng sợ; tư duy sắc là đáng nhàm, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là đáng nhàm; tư duy sắc là tai ương, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là tai ương; tư duy sắc là tai họa, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là tai họa; tư duy sắc là ôn dịch, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là ôn dịch; tư duy sắc là phong hủi, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là phong hủi; tư duy sắc tánh của là chẳng an ổn, tư duy tánh của thọ, tưởng, hành, thức là chẳng an ổn; tư duy sắc chẳng đáng tin cậy, tư duy thọ, tưởng, hành, thức chẳng đáng tin cậy;”

Đó là những tư duy về cái đen tối về ngũ uẩn.

- Cũng cùng đoạn kinh trên, Phật bảo tiếp:

(phải)... tư duy sắc là vô sanh vô diệt, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô sanh vô diệt; tư duy sắc là vô nhiễm vô tịnh, tư duy thọ, tưởng, hành, thức là vô nhiễm vô tịnh; tư duy sắc là vô tác vô vi, tư duy thọ, tưởng, hành, thức vô vi vô tác, thì Kiều Thi Ca, đó là Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát.

Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện tư duy uẩn xứ giới và tất cả pháp Phật cũng như trên”.

Phần cuối của đoạn kinh này Phật bảo là phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn là vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô vi vô tác... nghĩa là phải tư duy quán tưởng vượt trên nhị nguyên đối đãi, phải tư duy quán tưởng như đệ nhất nghĩa đế.

 

Tóm lại, điều kiện tiên quyết là phải lấy tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện để tư duy quán tưởng ngũ uẩn là vô thường, khổ, vô ngã, là không, vô tướng, vô nguyện, là tịch tịnh, viễn ly... Tất cả những tư duy quán tưởng về ngũ uẩn như vậy có tánh cách thanh tịnh. Nhưng tư duy như vậy vẫn còn thiếu sót, phải tư duy ngũ uẩn như bệnh hoạn, như ung thư, như tên đâm, như bứt ngặt, như tai ương, đáng nhàm chán… Tất cả những tư duy quán tưởng về ngũ uẩn như vậy có tính cách đen tối. Cuối cùng Phật khuyên phải tư duy quán tưởng ngũ uẩn như vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô vi vô tát. Điều này có nghĩa là phải tư duy, quán tưởng vượt trên tất cả. Vậy, Phật dạy đừng quán tưởng tốt, đừng quán tưởng xấu mà quán tưởng ngũ uẩn là vô nhiễm vô tịnh, vô vi vô tác. Tư duy, quán tưởng tất cả pháp đều như thế thì sạch trong, sạch ngoài mới thấy được chân như, Phật tánh hay mới thấy được chân diện mục. Khi thấy chân diện mục, tức thấy tánh thì thành Phật tức Giác ngộ, đắc Bát Nhã Trí thì có vô vàn công đức trí tuệ có thể tế độ chúng sanh. Đó là chẳng nắm mà chính là nắm bắt. Còn mong cầu nắm bắt là còn sở đắc.

Đứng ở bờ tục đế, bị mây mù che khuất nên không thấy bờ kia. Đứng bên bờ Thánh đế quên đi những khổ nhục, trốn chạy cái đen tối của bờ bên này thì cũng không tốt. Chỉ khi nào vén được mây mù thì càng khôn sáng tỏ!

 

- Cuối cùng đoạn kinh trên, Phật kết luận:

“Chỉ có các pháp nương tựa nhau tăng trưởng, đầy dẫy khắp nơi, không có ngã, ngã sở; lại khởi quán thế này: Tâm hồi hướng của đại Bồ Tát chẳng cùng với tâm Bồ đề hòa hiệp; tâm Bồ đề chẳng cùng với tâm hồi hướng hòa hiệp; tâm hồi hướng ở trong tâm Bồ đề vô sở hữu, bất khả đắc; tâm Bồ đề ở trong tâm hồi hướng vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát tuy quán các pháp, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có sở kiến, thì này Kiều Thi Ca, đó là Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát ”.

Đi “vòng vo tam quốc” rồi cũng nói tới ngã, ngã sở. Nó là đầu mối của những bệnh hoạn, của bao kiếp đọa đầy khổ sở của tất cả chúng sanh. Có ngã, ngã sở là có kiến. Có kiến là có chấp, có chấp là có phiền não. Vậy, phải làm sao?

 

- Phẩm “Khen Pháp Chẳng Chắc Thật”, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích Đề Hoàn nhân:

“Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả pháp, không pháp nào chẳng đều không. Nghĩa là quán tất cả pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp hữu kiến không, pháp vô kiến cũng không. Quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng không. Quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không. Quán tất cả pháp hữu vi không, pháp vô vi cũng không. Quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất thế gian cũng không. Quán tất cả pháp vắng lặng không, pháp chẳng vắng lặng cũng không. Quán tất cả pháp xa lìa không, pháp chẳng xa lìa cũng không. Quán tất cả pháp quá khứ không, pháp vị lai, hiện tại cũng không. Quán tất cả pháp thiện không, pháp bất thiện, vô ký cũng không. Quán tất cả pháp cõi Dục không, pháp cõi Sắc, Vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp học không, pháp vô học, chẳng phải học, chẳng phải vô học cũng không. Quán tất cả pháp thấy bị đoạn không, pháp tu bị đoạn, chẳng phải bị đoạn cũng không. Quán tất cả pháp hữu không, pháp vô, pháp phi hữu phi vô cũng không. Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả pháp như thế thảy đều không. Trong các pháp không, (tất cả) đều vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai sợ, ai kinh, ai nghi, ai ngại?”

 Rốt lại, phải lấy đoạn Kinh này làm kết luận cho câu hỏi “Làm thế nào nắm bắt đúng Bát nhã Ba la mật”. Cụ thọ Thiện Hiện thay lời Phật bảoquán tất cả pháp, không pháp nào chẳng đều không. Ở đây chúng tôi không cố ý hay gượng ép trình bày như vậy. Bất cứ chỗ nào, bất cứ pháp hội nào cũng nói đến “quán không” này. Đây không phải quán cái không lừa phỉnh làm uổng phí bao kiếp tu hành. Quán không đây là hồi chuông cảnh tỉnh, là tiếng vang của cổ trống trời đánh lên cốt dựng dậy cái tâm ngái ngủ ngàn đời của tất cả chúng sanh trong đêm dài cô tịch. Hãy nhiếp tâm lắng nghe dư âm của nó không những trong suốt cuộc đời này, suốt kiếp này mà mãi mãi về lâu về dài về sau.

Liễu ngộ được cái không này là tìm được hạt châu trong chéo áo hay nói theo Pháp Hoa là sau bao thuở lưu lãng giang hồ, nay được trở về quê cũ để được an thân lập mệnh. Bao nhiêu câu trả lời, bao nhiêu giải đáp phối hợp với những tư tưởng tuyệt vời như trên cũng chưa đủ làm cho chúng ta hài mãn. Phẩm “Kiến Bất Động Phật”, quyển 565, Hội thứ V, Phật bảo: “Khánh Hỷ nên biết! Có người muốn nắm lấy lượng và biên giới của Bát Nhã sâu xa thì cũng giống như kẻ ngu si muốn nắm lấy lượng và biên giới của hư không”.

Vậy có ai nắm bắt được hư không chăng?

Phẩm “So Lường Công Đức” bảo rằng: “Bát nhã Ba la mật chẳng thể nắm bắt được vì nó không sắc, không thấy, không đối đãi, gọi là vô tướng thì làm sao nắm bắt được! Vì sao? Vì Bát Nhã như thế không thủ không xả, không tăng không giảm, không trụ không tán, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh v.v…”.

Vậy, làm sao nắm bắt được?

 

4.Bát Nhã Trí siêu xuất làm sao nắm bắt được?

   

Lấy tri thức thường tục của thế nhân mà luận về trí Phật mà một điều không tưởng, chẳng khác nào “đội đá vá trời”. Y kinh giải nghĩa đã là một việc làm xuẩn động ngu si, chỉ làm cho tam thế Phật oan. Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, là một đại Bồ Tát, thuộc đại trí nhất trong hàng tất cả Bồ Tát ở vũ trụ này. Ngài là một cổ Phật, cùng với một vị đại hạnh Bồ Tát khác là Phổ Hiền, từng giúp Phật Thích Ca Mâu Ni trong việc giáo hóa chúng sanh ở cõi này và được mệnh danh là Thích Ca Tam Tôn. Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Thất Lợi nói về trí Phật trong đoạn kinh giới thiệu trong Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, quyển 575, Hội thứ VII, ĐBN như sau:

“(...)Bát Nhã thâm sâu phải biết tức là cảnh giới không nghĩ bàn. Cảnh giới không nghĩ bàn phải biết tức là cảnh giới chẳng hiện hành. Cảnh giới chẳng hiện hành phải biết là cảnh giới vô sở hữu. Cảnh giới vô sở hữu phải biết tức là cảnh giới vô sanh diệt. Cảnh giới vô sanh diệt phải biết tức là cảnh giới chẳng nghĩ bàn. Cảnh giới chẳng nghĩ bàn và cảnh giới của Như Lai, cảnh giới ngã, cảnh giới các pháp đều không hai, không khác.

Vậy nên, bạch Thế Tôn! Nếu tu hành Bát nhã Ba la mật được như thế, đối Đại Bồ đề lại chẳng cầu chứng. Vì cớ sao? Vì Bát nhã Ba la mật sâu thẳm tức Bồ đề vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu thật biết cảnh giới ngã tức biết vô trước. Nếu biết vô trước tức biết vô pháp. Nếu biết vô pháp tức là Phật trí. Trí tức là trí chẳng nghĩ bàn. Phải biết trí Phật không có pháp nào đáng để biết, gọi là chẳng biết pháp. Vì sao? Vì trí này tự tánh hoàn toàn vô sở hữu.

Pháp vô sở hữu làm sao có thể chuyển được chơn pháp giới? Tự tánh của trí này đã không sở hữu tức là không có chấp trước. Nếu không có chấp trước tức bản thể chẳng phải trí. Nếu bản thể chẳng phải trí tức là không có cảnh giới. Nếu không có cảnh giới tức không có chỗ dựa. Nếu không có chỗ dựa tức vô sở trụ. Nếu vô sở trụ tức vô sanh diệt. Nếu vô sanh diệt tức bất khả đắc. Nếu bất khả đắc tức không có chỗ để hướng tới. Đã không có chỗ hướng tới, thì trí này không thể tạo các công đức, cũng không thể tạo phi công đức. Vì sao? Vì trí này không suy nghĩ việc tạo công đức hay tạo phi công đức.

Trí không suy nghĩ là trí không thể nghĩ bàn. Trí không thể nghĩ bàn tức là trí Phật. Vì vậy, trí này không có sự chấp thủ, cũng chẳng chấp thủ tất cả pháp, cũng chẳng phải ngằn trước, chẳng phải ngằn giữa hay ngằn sau, chẳng phải trước đã sanh, chẳng phải trước chưa sanh, không xuất hiện không chìm mất, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lại không có trí nào khác sánh với trí này.

Do đây, trí này không thể nghĩ bàn, đồng với hư không, chẳng thể so sánh, không đây, không kia, chẳng phải đẹp, chẳng phải xấu. Đã không có trí nào khác sánh với trí này được, cho nên trí này không có sự ngang bằng và chẳng có trí nào ngang bằng. Do đây nên gọi trí này là Vô đẳng đẳng. Lại không có trí nào khác có thể nắm bắt đối với trí này. Vậy trí này vô đối, bất đối. Do đây nên gọi là trí Vô đối đối”.

Chúng ta đào xới gần đến gốc rễ của trí này rồi đó. Có trí mới hiểu được trí, không có trí làm sao nắm bắt được trí? Trí của Phật là trí tối cao. Vậy, muốn nắm bắt trí này cũng ít nhất ngang bằng với trí này. Một khi đã ngang bằng trí này thì nắm bắt trí này làm gì nữa? Phật tu Bát Nhã, giác ngộ, mới đắc Bát Nhã Trí. Vậy, nói đến nắm bắt Bát Nhã tức nói đến Giác ngộ, mà Giác ngộ tức là đắc Bát Nhã Trí. Nên khi hỏi làm sao nắm bắt đúng Bát Nhã? Câu trả lời giản dị và chân xác là phải Giác ngộ, có Giác ngộ là có Bát Nhã Trí. Có Bát Nhã Trí rồi thì cần nắm bắt trí nào nữa? Vậy, đừng tìm kiếm nắm bắt bên ngoài nữa. “Cái gì từ ngoài vào không phải là gia bảo nhà ta!”

Đừng bao giờ nói đến nắm bắt khi tu Bát nhã Ba la mật. Mong cầu nắm bắt chẳng khác nào nắm bắt một làn hương!

 

Kết luận cho  LUẬN #5.

(Thế nào là Bát nhã Ba la mật)

 

Viết đến đây chúng tôi không muốn viết nữa. Không thể tìm sở ngộ trong ngôn ngữ văn tự. Không có bất cứ văn tự ngôn ngữ nào có thể thâm nhập vào bản thể hay tâm linh của chúng ta bằng chính sự nội chứng của chúng ta. Tuy nhiên, nội chứng này có sâu cạn khác nhau, sâu nhất có lẽ ở chư Phật. Vì chỉ có Phật mới đủ sức tạo thành một hệ thống giáo lý cho sự chứng ngộ, sẽ là ánh sáng soi đường cho tất cả mọi loài. Nhưng đạt được mục đích chính là do nội lực tiềm sanh trong mỗi người chúng ta. Nhưng nội lực đó chưa đủ mạnh, nên vẫn tuân theo những giáo điều phát xuất từ tâm chứng của Phật. Vậy, một mặt vẫn học Phật mặt khác là phải biết tự mình vương lên trong ánh sáng giác ngộ, không ai giúp mình ngoài mình.

 

Một phút tư duy:

 

Kinh cũng dùng cụm từ “nắm bắt Bát Nhã”, ở đây chúng tôi cũng “phụ hợ” nói theo. Đó là nói theo Tục đế chứ chẳng theo Đệ nhất nghĩa. Mặc dù có đưa ra một số dẫn chứng để cố giảng luận về điều này, nhưng có thể là không tưởng vì nắm bắt Bát Nhã như nắm bắt hư không! Bởi vì, nắm cái không thể nắm, bắt cái không thể bắt. Một khi khởi niệm thì vọng sanh tức còn thủ đắc, còn thủ đắc thì không đắc. Tu thì cứ tu tu lâu thành thục, không tác không chứng, không sanh không tận, không khởi không chìm, yên vững không động” tự biết, tự hội thôi.

 Đọc phẩm “Công Đức Khó Nghe” đưa chúng ta đến một lối hành trì có thể nói là “mau viên mãn Bát nhã Ba la mật”:

“... Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai, chẳng thấy hữu lậu, chẳng thấy vô lậu, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn”.

Chúng ta có thể hiểu được câu này, nghĩa là tu hành Bát Nhã đừng ôm cứng những gì gọi là nhị nguyên đối đãi, đừng thấy hai tướng... thì có thể viên mãn Bát nhã Ba la mật. Trong toàn bộ Đại Bát Nhã Phật khuyến dẫn không biết bao nhiêu lần như vậy. Cứ theo chỉ dẫn này mà tu tập thì Trí Bát Nhã lần lần sáng tỏ. Đó là một tiến trình đáng tin cậy, không viễn vong.

Một đoạn kinh khác của cùng phẩm trên Phật bảo tiếp:

“Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy tất cả pháp Phật thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không có tánh tướng, không có tác dụng, chẳng chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, không tri giác, không cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh… cho đến cái biết, cái thấy”.

Chính Phật cũng dạy “khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy tất cả pháp Phật”. Điều đó có nghĩa là đừng nắm bắt từ bên ngoài dù là Bát Nhã. Tất cả cưỡng bức từ bên ngoài không thể chuyển hóa được nội tâm. Giáo lý và thực hành là chất liệu tốt nhất của tâm linh giúp bồi dưỡng đức tánh trí tuệ(từ bên ngoài). Ý chí và nghị lực mới chính là năng lượng đưa đến chứng ngộ(bên trong). Có chứng ngộ là có trí. Có trí là biết tất cả, không cần nắm bắt mà nó sẳn có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Đó là không cần nắm bắt mà chính là nắm bắt!. 

Thích nghĩa cho phần “Thế nào là Bát nhã Ba la mật?”

(1). Đây là thí dụ về sở ngộ của Lục tổ Huệ Năng: Khi còn là một thanh niên nghèo, ngày ngày phải lên rừng đốn củi nuôi thân và phụng sự mẹ già. Một buổi đẹp trời nào đó chàng tiều phu trẻ tuổi, gánh củi giao cho phú ông trong làng. Trong khi chờ đợi, thì nghe phú ông tụng Kinh Kim Cang, nghe đến câu “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” thì chàng ta hoát ngộ. Nên mới hỏi phú ông Kinh đó là Kinh gì mà hay quá vậy? Phú ông bảo đó là Kinh Kim Cang. Phú ông kể thêm rằng ở chùa Đông Thiền thuộc huyện Huỳnh Mai, có Tổ tên là Hoằng Nhẫn khuyên mọi người trì tụng Kinh này thì sẽ thấy tánh, thành Phật. Nghe như vậy nên chàng tiều phu này có ý định xuất gia, nhưng còn mẹ già cần phải bảo bọc không thể ra đi! Khi nghe than như vậy phú ông động lòng, bảo chàng trai nhỏ tuổi này hãy đốn củi thật nhiều, ông sẽ trả vàng để nuôi mẹ. Thanh niên y theo lời phú ông làm việc vất vả, đốn củi đổi vàng đủ để nuôi mẹ, rồi từ giã ra đi, đến thôn Hoàng Mai thọ giáo Ngũ Tổ và về sau trở thành Tổ thứ sáu có tên là Huệ Năng. Câu chuyên đại khái như vậy. Muốn rõ chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Lục tổ, xin đọc cuốn “Pháp Bảo Đàn Kinh” do Thiền sư Thích Thanh Từ lược khảo, Hội Thiền Học Việt Nam xuất bản.

(2). Đại Bát Nhã do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, tổng cộng có tới 600 quyển, khoảng 167.300 bài tụng (sloka) tính theo Pháp Uyển Châu Lâm quyển 100 và Khai Nguyên Thích Giáo Lục quyển 11. Nếu diễn dịch ra chữ thì tổng cộng hơn 5 triệu chữ. (Mỗi bài tụng gọi là sloka gồm 4 hàng, mỗi hàng gồm 8 chữ. Vậy, 1 sloka có 32 chữ; 32 chữ nhân cho khoảng 167.300 sloka bằng 5.353.600 chữ).

(3). Trên là Lược bản phổ thông tại Trung Hoa và Nhật bản do Thiền sư D.T. Suzuki ghi lại bằng tiếng Anh và Ngài Tuệ Sĩ Việt dịch trong Thiền Luận quyển hạ. Ngoài ra còn có 4 bản Tâm Kinh (2 Lược bản và 2 Quảng bản) cũng do Ngài Tuệ Sĩ dịch từ Hán sang Việt, ghi trong cuốn “Thiền và Bát Nhã” mà chúng tôi dẫn chứng sau đây để quý vị tham cứu thêm:

1. Hai Lược bản Tâm Kinh Việt dịch mà các chùa chiền, am tự hay các Thiền viện Việt Nam thường tụng niệm trước các lễ hội hay mỗi lần công phu:

1- Bản dịch từ Phạn sang Hán của Ngài Huyền Trang:

“Bồ Tát Quán Tự tại trong khi thực hành Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả khổ ách.

Xá lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Xá lợi Tử, đặc tướng Không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm; do đó, trong Không không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho đến, không có già và chết, cũng không có sự diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.

Bồ đề tát đỏa, do y chỉ Bát nhã Ba la mật đa, tâm không bị bưng kín. Do không bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên đảo và mộng tưởng, đạt đến Niết bàn cứu cánh. Chư Phật trong ba đời do y chỉ Bát nhã Ba la mật đa mà chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề

Do đó nên biết Bát nhã Ba la mật đa là thần chú vĩ đại, là minh chú vĩ đại, là chú vô thượng, là chú không gì có thể so sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân thật, vì không hư dối, được gọi là chú Bát nhã Ba la mật đa. Tức thuyết chú rằng:

Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề,

tăng sa-bà-ha”. 

2- Bản dịch từ Phạn sang Hán của Ngài Cưu Ma La Thập:

“Bồ Tát Quán Thế Âm, khi thực hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, soi thấy năm ấm là Không, vượt qua tất cả khổ ách.

Xá lợi phất, sắc là Không cho nên không có tướng não hoại; thọ là Không nên không có tướng cảm thọ; tưởng là Không nên không có tướng tri nhận; hành là Không nên không có tướng tạo tác; thức là không nên không có tướng giác tri. Vì sao vậy? Xá lợi phất, không phải rằng sắc khác Không; không phải rằng Không khác sắc; Không tức thị sắc, sắc tức thị Không; thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.

Xá lợi phất, tướng Không của các pháp ấy không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm, không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại. Cho nên, trong Không không có sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đến không có giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vô minh, cho đến, không có già và chết, không có sự diệt tận của già và chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.

Bồ Tát do y chỉ Bát nhã Ba la mật mà tâm không bị bưng kín; do không bị bưng kín nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả sự điên đảo, mộng tưởng, khổ não, đạt đến cứu cánh Niết bàn. Chư Phật trong ba đời do y chỉ Bát nhã Ba la mật mà chứng đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề

Do đó nên biết, Bát nhã Ba la mật là minh chú vĩ đại, là minh chú tối thượng, là minh chú không gì có thể sánh, diệt trừ tất cả khổ, chân thật, vì không hư dối; được gọi là chú Bát nhã Ba la mật. Tức thuyết chú rằng:

 

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế,

bồ đề tăng sa ha”.

 

2. Hai Quảng bản khác, Việt dịch cũng được Ngài Tuệ Sĩ trích dẫn trong cuốn “Thiền và Bát Nhã”, như sau:

1- Phổ biến trí tạng Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh (Tam tạng Sa môn Pháp Nguyệt, trùng dịch):

Tôi nghe như vậy.

Một thời, Phật trụ tại đại thành Vương xá, trong núi Linh thứu, cùng với Tăng gồm 1250 Tỳ kheo; và bảy vạn bảy nghìn Bồ Tát ma ha tát. Danh hiệu của các vị Thượng thủ là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Văn thù sư lợi, Bồ Tát Di lặc, v.v. Tất cả đều chứng các tam muội, tổng trì, an trú nơi giải thoát bất tư nghị.”

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Tự Tại đang ngồi trên chỗ ngồi, bèn rời đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Thế Tôn, chắp tay hướng về Phật, nghiêng mình cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, con muốn, trong chúng hội này, nói về trái tim của Bát nhã Ba la mật đa, là kho tàng trí tuệ bao hàm cùng khắp của các Bồ Tát. Cúi mong Thế Tôn hứa khả cho những điều con nói. Con sẽ công bố pháp yếu bí mật cho các Bồ Tát.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn, bằng âm thanh vi diệu của Phạm thiên , nói với Bồ Tát Quán Tự Tại rằng:

“Lành thay, lành thay, vị Đại Bi Tâm! Ta hứa khả những điều Ông nói, để làm ánh sáng rọi cùng khắp cho các chúng sinh.”

Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi được Phật hứa khả, được Phật hộ niệm, bèn nhập tam muội chính thọ có tên là Huệ Quang. Sau khi nhập định này, trong khi bằng năng lực của tam-muội mà thực hành Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm, Ngài soi thấy năm uẩn, mà tự tính thảy đều Không. Ngài đã liễu tri năm uẩn mà tự tính thảy đều Không rồi, bèn an lành xuất khỏi tam muội kia, và nói với Trưởng lão Xá lợi phất rằng:

“Thiện nam tử, Bồ Tát có trái tim của Bát nhã Ba la mật đa, được gọi là Kho tàng Trí tuệ phổ biến, ông nay hãy lắng nghe, hãy khéo suy niệm kỹ. Tôi sẽ phân biệt giải thuyết cho ông nghe.”

Được nói như vậy rồi, Trưởng lão Xá lợi phất bạch Bồ-tát Quán Tự Tại:

“Thưa Đức Đại Tịnh, kính thỉnh Ngài nói. Nay quả là đúng lúc.”

Rồi Bồ Tát nói với Xá lợi phất:

“Các Bồ Tát nên học như vậy: Sắc tính là Không. Không tính là sắc. Sắc không khác Không. Không không khác sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng vậy. Thức tính là Không. Không tính là thức. Thức không khác Không. Không không khác thức. Thức tức thị Không. Không tức thị thức.”

“Xá lợi phất, tướng Không của các pháp như thế vốn không sinh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Cho nên, trong Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của mắt, cho đến, không có giới của ý thức; không có vô minh, không có sự tận diệt của vô minh; cho đến, không có già chết, không có sự tận diệt của già chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; không Trí, cũng không Đắc. Vì vô sở đắc.”

“Bồ đề tát đỏa y chỉ Bát nhã Ba la mật đa nên tâm không bị che trùm ngăn ngại. Vì không bị che ngăn, nên không có sự sợ hãi; mộng tưởng điên đảo được rời xa; Niết bàn được cứu cánh.”

“Chư Phật trong ba đời vì y chỉ Bát nhã Ba la mật đa nên chứng đắc Vô thượng Chính đẳng Chính giác.”

“Vì vậy, nên biết, Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là cấm chú tối thượng, là thần chú tuyệt luân diệt trừ tất cả khổ. Là chân thật, vì không hư dối, do đó, được gọi là Chú Bát nhã Ba la mật đa. Tức thuyết chú rằng:

 

“Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế,

bồ-đề, sa-bà-ha.”

 

Phật nói Kinh này xong; các chúng Tỷ kheo và Bồ Tát, hết thảy thế gian, Trời Người, A tu la, Càn thát bà, v.v., sau khi nghe những điều Phật nói, thảy đều hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

2- Phật thuyết Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh do Thí Hộ dịch từ Phạn sang Hán.

“Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú tại thành Vương xá, trong núi Thứu phong, với chúng Đại Bí sô gồm 1250 người, và cùng chúng Bồ Tát vây quanh.

Bấy giờ Thế Tôn liền nhập tam ma địa có tên là Thậm thâm quang minh tuyên thuyết Chính pháp. Khi ấy, Bồ Tát Quán Tự Tại, là vị Ma ha tát, cũng đang ở giữa Phật hội. Nhưng Bồ Tát này đã tu hành Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm, quán chiếu thấy năm uẩn, mà tự tính thảy đều Không.

Rồi thì, tôn giả Xá lợi Tử, nương theo uy thần của Phật, bước lên trước mà bạch Bồ Tát Quán Tự Tại rằng:

“Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoan hỷ muốn tu học ở trong pháp môn Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm này, thì nên học như thế nào?”

Khi ấy, Bồ Tát Quán Tự Tại, là vị Ma ha tát, nói với Tôn giả Xá lợi Tử rằng:

“Ông nay hãy lắng nghe; tôi sẽ nói. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân hoan hỷ muốn tu học ở trong pháp môn Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm này, hãy quán chiếu năm uẩn, mà tự tính thảy đều Không.”

“Thế nào nói là tự tính năm uẩn đều Không? Đó là, sắc là Không; Không tức là sắc; sắc không khác Không, Không không khác sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng như vậy.”

“Xá lợi Tử, tướng Không như vậy của tất cả các pháp này vốn không có cái gì được sinh, không có cái gì bị diệt, không cấu nhiễm, không thanh tịnh, không tăng trưởng, không tổn giảm.”

“Xá lợi Tử, do đó, trong Không không tồn tại sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không tồn tại mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không tồn tại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không tồn tại giới của mắt, không tồn tại giới của thức con mắt, cho đến, không tồn tại giới của ý, không tồn tại giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự tận diệt của vô minh, cho đến, không có già chết, cũng không có sự tận diệt của già chết; không Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không Trí, không đắc cũng không vô đắc.”

“Xá lợi Tử, do vô đắc như vậy, Bồ Tát y chỉ trên hành tương ứng Bát nhã Ba la mật đa, cho nên tâm không bị vướng mắc, cũng không bị trùm kín ngăn ngại. Do không bị vướng mắc, không bị ngăn ngại, nên không có sự sợ hãi, xa lìa vọng tưởng điên đảo, đạt đến sự viên tịch rốt ráo.”

“Chư Phật trong ba đời y chỉ trên Bát nhã Ba la mật đa mà chứng đắc Vô thượng Chính đẳng giác. Do đó, nên biết, Bát nhã Ba la mật đa là minh chú quảng đại, là minh chú vô thượng, là minh chú vô đẳng đẳng, vốn hay dứt trừ hết thảy khổ não, vì đó chính là pháp chân thật, không hư vọng. Những ai tu học hãy tu học như vậy.”

Nay tôi tuyên thuyết đại minh chú Bát nhã Ba la mật đa rằng:

 

“Đát-ninh-dã-tha, nga-đế, nga-đế, bá-ra-nga-đế,

bá-ra-tăng-nga-đế, mạo-đề, sa-hạ.”

 

“Xá lợi Tử, Bồ Tát Ma ha tát tụng đọc minh chú Bát nhã Ba la mật đa này tức là tu học Bát nhã Ba la mật đa thậm thâm.”

Bấy giờ Thế Tôn an lành xuất khỏi tam ma địa; Ngài tán thán Bồ Tát Ma ha tát Quán Tự Tại rằng:

“Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, những điều ông nói, đúng vậy, đúng vậy, Bát nhã Ba la mật đa nên được tu học như vậy. Đó tức là cứu cánh chân thật tối thượng. Hết thảy các đức Như Lai cũng đều tuỳ hỷ.”

Phật thuyết kinh này xong; Bồ Tát Ma ha tát Quán Tự Tại, cùng các Bí sô, cho đến cả thế gian bao gồm chư Thiên, Nhân loại, A tu la, Càn thát bà, vân vân, hết thảy đại chúng, sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ tín thọ phụng hành.

(4). Vô tánh là tự tánh Bát nhã Ba la mật cho đến vô tánh là tự tánh của pháp ở bên trong, bên ngoài hay ở giữa hai (Phẩm “Bát Nhã Hành Tướng”, quyển 38, Hội thứ I, ĐBN).

 

---o0o---

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com