Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Phẩm “Niệm Trụ”

20/01/202107:58(Xem: 8231)
05. Phẩm “Niệm Trụ”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-535

 

 V. PHẨM “NIỆM TRỤ”

Phần sau quyển 568, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 4: Niệm Xứ của Kinh TTVBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

  

Gợi ý:

Đây là bài pháp tuy ngắn nhưng giáo nghĩa thật vô bờ bến cho những ai tu Bồ Tát đạo, hành Bồ Tát hạnh. Nếu tu theo các khuyến dẫn sau đây thì hạnh nguyện sẽ vuông tròn không kể Tăng lẫn Tục.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Tối Thắng từ tòa đứng dậy che áo bên vai trái, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật có năng lực biết rõ đường chánh, đường tà như vậy thì tâm ấy vin vào đâu mà trụ?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật thì tâm luôn chơn chánh không có mê loạn. Vì sao? Vì Bồ Tát tu tập viên mãn niệm trụ về thân, thọ, tâm, pháp(tứ niệm xứ hay tứ niệm trụ). Hễ có đi vào thành ấp, xóm làng nghe nói lợi dưỡng tâm không tham đắm, nhiễm trước. Giống như Thế Tôn đã dạy trong giới Kinh: Người khéo chánh niệm thì xa lìa các phiền não.

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thân như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này dùng trí như thật xa lìa pháp ác bất thiện tương ưng với thân. Quán sát thân này từ đầu đến chân, chỉ có các thứ bất tịnh tội lỗi: Vô ngã, vô lạc, vô thường, bại hoại, tanh hôi, xú uế, do gân mạch dính liền, gớm ghiếc không đáng nhìn. Quán thân như vậy rồi thì tham dục, chấp thân ngã kiến không còn sanh khởi. Nhờ nhân duyên đó mà các pháp lành tương ưng đều được tùy thuận. (Pháp quán này gọi là Quán thân bất tịnh hay Thân niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thọ như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này suy nghĩ: Các thọ đều khổ nhưng vì hữu tình điên đảo lầm tưởng cho là vui. Phàm phu ngu si cho khổ là vui. Thánh giả chỉ nói tất cả đều khổ, vì muốn đoạn khổ nên cần phải tu tinh tấn và khuyến khích người khác nên tu pháp này. Quán như vậy rồi thường trụ niệm thọ, không tùy thuận hoạt dụng của thọ mà phải tu hành đoạn dứt thọ và cũng dạy cho người như vậy. (Pháp quán này gọi là Quán thọ thị khổ hay Thọ niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về tâm như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này suy nghĩ: Tâm vô thường, người ngu bảo là thường trụ, khổ bảo vui, vô ngã bảo ngã, bất tịnh bảo tịnh. Tâm đây chẳng trụ, nhanh chóng chuyển đổi; cội gốc của thùy miên, cửa của các ác thú, là nhân duyên của mọi phiền não hoại diệt các thiện. Tâm này thường sanh tham, sân, si khó tin tưởng. Tâm dẫn đầu các pháp. Nếu biết rõ tâm thì rõ các pháp. Các pháp thế gian đều do tâm tạo. Tâm chẳng tự thấy các thứ tội lỗi do mình, hoặc thiện hoặc ác đều do tâm khởi. Tâm tánh chuyển nhanh như vòng lửa quay bỗng chốc chẳng dừng, như gió ngựa đồng, như nước bạo động, như lửa năng đốt. Quán như thế khiến nhớ bất động, thì tâm liền theo mình, chẳng theo sở hành. Nếu điều phục tâm như thế là điều phục được các pháp. (Pháp quán này gọi là Quán tâm vô thường hay Tâm niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã khéo niệm trụ về pháp như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này biết như thật thế gian có các pháp ác bất thiện đó là tham, sân, si và các tập khí phiền não. Cần phải tu các pháp để đối trị trị tham, sân, si và các tập khí phiền não. Biết như vậy rồi chẳng hành tham sân si v.v… và dạy người khác nên xa lìa.

Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đối cảnh khởi niệm như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này nếu gặp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp liền nghĩ: Đối với pháp không chân thật này mà lại sanh tham ái ư? Đây chỉ là sự đắm trước của phàm phu ngu si, ấy là bất thiện. (Pháp quán này gọi là Quán pháp vô ngã hay Pháp niệm xứ)

Như Thế Tôn dạy: Ái thì sanh đắm trước, đắm trước thì sanh mê lầm, do đó không biết pháp thiện, pháp ác. Vì vậy đọa vào cảnh giới ác. Bồ Tát không (không nghĩ, không hành) như vậy nên không rơi rớt, không đắm trước cảnh giới và khiến cho người khác cũng vậy.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật niệm A lan nhã(1). Nghĩa là Bồ Tát suy nghĩ: A lan nhã là chỗ không ồn ào, không người ở, là trụ xứ tịch tĩnh. Trời, rồng, Dược xoa, có Tha tâm trí đều biết tâm, tâm sở của ta. Ở đây ta không nên khởi tâm tà vạy. Do suy nghĩ vậy nên được xả ly, đối pháp chánh niệm cần tu hành.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật suy nghĩ: Thành ấp tụ lạc là nơi ồn ào chẳng phải chỗ đi lại của người xuất gia, vậy không nên đến. Đó là quán rượu, mãi dâm, vương cung, đánh bạc, ca múa, các chỗ như vậy cần phải xa lìa. 

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa nghe lợi dưỡng liền khởi chánh niệm thế này: Vì muốn sanh phước cho người nên nhận tài vật rồi bố thí hết cho người nghèo, chứ chẳng phải do tham đắm mà nhận rồi giữ lấy cho vợ con hay gia đình. Người thực hành như vậy được người đời khen ngợi, không bao giờ vì mình, vì cái của mình. Lại suy nghĩ như thế này: Người đời cho rằng hành động như vậy được nổi tiếng là thi ơn. Nhưng thế gian vô thường, tan biến trong phút chốc. Tại sao người trí đối với cái không thường, không thực, không lâu dài, không chủ, lại nương theo đó mà hành, mà khởi ngã, ngã sở.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã vì giáo hóa hữu tình cho đến chính mình nên tự tu tập, ít muốn vui đủ, mặc áo phấn tảo, tâm thường trong sạch, tín lực vững chắc, thà bỏ thân mạng chứ không phạm giới; tâm xa lìa kiêu mạn dù mặc áo xấu đi vào thành khất thực nhưng không hổ thẹn, không lười biếng, siêng tu tinh tấn, việc làm chưa xong thì không bỏ dở giữa chừng, đối với y phục phấn tảo không bị lỗi lầm, đối với y phục cũ mục hư nát không khinh chê, chỉ giữ cái đức của mình, người ly dục mới mặc y phục này, được Như Lai khen ngợi vì ngăn chặn xan tham, cũng không khen mình mặc áo này, hay chê người không mặc; người thực hành như thế được chư thiên lễ kính, được Phật tán thán, Bồ Tát hộ trì, Bà la môn v.v... đều cung kính cúng dường.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thường tu diệu hạnh thanh tịnh như thế.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật với hạnh cao thượng cần gì phải mặc áo phấn tảo này?

Phật bảo:

- Này Thiên vương! Các đại Bồ Tát vì hộ thế gian nên mặc y phục phấn tảo này. Vì sao? Vì thế gian thấy mặc y phục này thì các điều ác đều dứt và sanh điều lành.

Này Thiên vương! Ý ngươi nghĩ sao? Cao hạnh Bồ Tát ai bằng Thế Tôn?

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát tu hạnh cao thượng trăm ngàn, vạn, ức cho đến vô số cũng không thể sánh bằng Thế Tôn. Vì sao? Vì Phật là đấng Pháp vương đầy đủ Nhất thiết trí nên không có một pháp nào mà không thể chiếu soi.

Phật lại hỏi Thiên vương:

- Này Thiên vương! Ý ngươi nghĩ sao? Phật thị hiện khổ hạnh và tán thán công đức tu hạnh Đầu đà cho tất cả trời, rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... để làm gì?

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đức Phật thị hiện như thế là giáo hóa các hữu tình có thể độ được và nói pháp đối trị cho các Bồ Tát mới phát tâm v.v... chưa dứt được phiền não.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Bồ Tát tu hạnh cao thượng mặc y phục phấn tảo cũng lại như vậy. Cho nên Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đầy đủ phương tiện thiện xảo làm lợi ích cho hữu tình.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật vì thế gian nên chỉ giữ ba y. Vì sao? Vì tâm ít muốn biết đủ nên chẳng cầu nhiều. Vì không tìm cầu nên không chứa cất, vì không chứa cất nên không mất mát, vì không mất mát nên không buồn khổ, vì không buồn khổ nên xa lìa phiền não, vì lìa phiền não nên không còn đắm trước, vì không đắm trước thì các lậu tận diệt.    

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì muốn làm lợi lạc hữu tình nên cầm bát vào thành khất thực. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát luôn huân tập đại bi tâm, quán các hữu tình đa số nghèo khổ, vì khiến họ giàu vui nên nhận sự cúng dường. Khi vào thành ấp, uy nghi tề chỉnh, tâm chánh chẳng loạn, khéo nhiếp các căn, bước từ tốn chậm rãi mà đi, không nhìn ngó hai bên, theo thứ lớp khất thực như pháp, không bỏ nhà nghèo, đúng lượng khất thực, không tham cầu nhiều, trong bát cơm ấy sớt một phần bố thí cho kẻ nghèo, cúng dường phước điền. Vì sao? Vì tín thí khó tiêu và vì sanh phước đức.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình thị hiện khất thực.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thường siêng tu học hạnh A lan nhã, nghĩa là tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, ưa học hỏi, kham nhẫn tu chánh hạnh, xa lìa ngã và sự sợ hãi, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh. Các Bồ Tát này thường ưa xuất gia ở trong chánh pháp, giữ tam luân giới, biết rõ pháp tướng. Như Lai đã từng thuyết giới cho ba hạng người già, trẻ, trung niên đều được thấu hiểu, chẳng duyên ngoại cảnh, chuyên niệm tự tâm, chê pháp thế tục, khen pháp xuất gia, điều phục các căn, không chấp giữ cảnh giới ác. Ở A lan nhã, sống nơi không có hiểm nạn, làng xóm khất thực, không xa, không gần, nơi ấy có suối nước trong tắm rửa dễ dàng, rừng nhiều hoa quả, không có thú dữ, hang núi yên tĩnh, ít người. Đối với pháp đã học đêm ngày ba thời chuyên cần đọc tụng, tiếng không cao, thấp. Tâm không duyên ngoại cảnh chỉ chuyên trì nhớ niệm. Bà la môn, Sát đế lợi v.v... có đến chỗ ấy thì niềm nở, vui mừng thăm hỏi, mời ngồi. Quán biết căn tánh để thuyết pháp cho họ được hoan hỷ, tín thọ, vâng làm. Dùng đủ phương tiện khéo léo giúp họ xa lìa ngã tâm. Vì vô ngã nên ở nơi vắng vẻ không có sợ hãi, xa lìa sợ hãi nên vui hạnh tịch tĩnh. Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo như thế nên thị hiện tu hành ở nơi A lan nhã.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật quán biết các hành, suy nghĩ: Các thức ăn uống đều trong sạch thơm tho, nhưng do lửa thân tiếp xúc biến thành bất tịnh, hủy hoại hôi hám. Người ngu vô trí luyến ái thân này và đồ ăn uống. Nếu theo Thánh trí như thật quán sát thì sanh tâm chán ghét không còn say đắm. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ: Nhiều hành động sân giận thì sẽ gây nghiệp ác, ta phải lìa tâm sân để hướng đến chánh đạo, suy nghĩ chân thật chứ chẳng nói suông. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, suy nghĩ: Các pháp có sanh tức là nhân duyên, nhân duyên của pháp lại từ duyên khởi. Làm sao người trí vì pháp duyên sanh hư vọng mà tạo tội lỗi? Trong thân Bồ Tát nếu có chướng ngại thiện pháp tức tự đoạn trừ. Nếu không thể đoạn chướng ngại điều thiện cho người khác, thì tâm liền buông xả, không nên phát khởi vô minh.

Thế nào gọi là pháp chướng ngại điều thiện? Nghĩa là không cung kính Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh, không kính đồng học, tự cao khinh thường những người lớn, nhỏ, già, trẻ, hướng đến năm dục, quay lưng với Niết bàn và phát sanh ngã kiến, hữu tình kiến, cho đến tri giả kiến, kiến giả kiến, chấp không rồi khởi lên đoạn kiến, chấp có, rồi khởi lên thường kiến, xa lìa Thánh hiền, gần gũi phàm phu, nương người phá giới, thân gần bạn ác, xa lìa bạn lành, pháp thâm sâu nghe rồi sanh tâm hủy báng. Thân làm việc ác luật nghi, lời nói ác, tâm nịnh hót, quanh co, bị phiền não che lấp, tham đắm lợi dưỡng, phát sanh đủ 5 mạn:

1. Khinh mạn vì dòng họ cao quí.

2. Khinh mạn vì dòng họ giàu sang.

3. Khinh mạn vì hiểu biết hơn người.

4. Khinh mạn về quốc độ.

5. Khinh mạn về đồ chúng.

Thấy việc ác liền giúp sức, gặp việc thiện lại tránh xa, khen ngợi sắc đẹp của đàn bà, con nít, ngoại đạo, không ưa tu tập hạnh A lan nhã, không biết ăn uống đúng lúc, tuy có đọc tụng mà chẳng đúng thời, xa lìa Sư trưởng, thấy việc thiện không tôn trọng, thấy việc ác không sợ hãi, như voi không có móc, ngựa không dây cương, buông lung chẳng chế ngự được, ưa sân giận, không có từ tâm, thấy người khổ không thương, gặp người bệnh không thăm hỏi, gặp người chết không lo sợ, như sống trong đống lửa mà không mong cầu ra khỏi, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, việc không đáng suy nghĩ thì suy nghĩ, việc đáng suy nghĩ thì không suy nghĩ, việc chẳng mong cầu thì cầu, không ra khỏi bảo đã ra khỏi, chẳng phải đạo gọi là đạo, chưa chứng đắc cho là chứng đắc, ưa huân tập việc đại ác, xa lìa điều thiện lớn, hủy báng Đại thừa và người hành Đại thừa, khen ngợi Tiểu thừa và người học Tiểu thừa, ưa nói lời thô ác, làm loạn, đấu tranh, tâm không từ bi làm cho người khác phải khiếp sợ, nói lời thô bỉ không có một chút chơn thật, say mê theo hý luận không thể bỏ được. Các việc như vậy gọi là pháp chướng ngại điều thiện.    

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, hộ trì pháp tạng vô thượng của Như Lai, nhận lãnh chánh pháp. Vì hộ pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ không phải vì sự cung kính. Vì muốn hộ trì hạnh Đại thừa chứ không vì danh vọng, làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, cứu giúp cho người không được cứu giúp, an lạc người không an lạc, làm cho người không có tuệ nhãn được tuệ nhãn, chỉ đạo Thanh văn cho người tu Tiểu thừa, chỉ đạo Độc giác cho người tu trung thừa, chỉ đạo Vô thượng cho người tu Đại thừa. Nghe pháp như vậy là Vô thượng trí, suốt đời sẽ không nhầm lẫn Thừa thấp kém.

 Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết rõ hoàn toàn các pháp Tỳ nại da khác nhau. Đó là Tỳ nại da, Tỳ nại da hạnh, Tỳ nại da sâu xa, Tỳ nại da vi tế, tịnh cùng bất tịnh, có lỗi không lỗi, giới bổn biệt giải thoát, Tỳ nại da Thanh văn, Tỳ nại da Bồ Tát. Các Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với các pháp Tỳ nại da như thế đều thấy biết rõ.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết rõ tất cả oai nghi giới hạnh, khéo học hỏi thọ trì giới hạnh của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát. Đã tu giới hạnh rồi, nếu thấy oai nghi nào không đúng ý mọi người thì Bồ Tát từ bỏ ngay. Sa môn nào có oai nghi giới hạnh đầy đủ thanh tịnh thì gần gũi họ. Nếu Bà la môn học các hạnh khác thì bảo họ xa lìa, khuyến khích họ tu Tỳ nại da. Tu tập giới hạnh thanh tịnh như vậy nên diệt sạch tâm xảo trá, tật đố. Tự hành hạnh bố thí cũng khuyên người làm theo. Tán thán hạnh bố thí làm cho người học theo, thấy người bố thí sanh tâm tùy hỷ, không có ý niệm nên bố thí cho ta đừng bố thí cho ai khác. Chỉ nên suy nghĩ: Đa số hữu tình đều bị nghèo thiếu, đói lạnh, khốn khổ, nguyện cho họ đời này được an vui, vì nghe chánh pháp nên đời sau an vui. Đời này ta phải siêng năng tu tập. Ta nguyện cùng hữu tình đều được giải thoát. Đây là Bồ Tát không có tâm tật đố, tâm luôn bình đẳng đối với các hữu tình. Nên hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí, đều khắp vì tất cả hữu tình không tu 2 tâm. Vì sao? Vì pháp được tu là cảnh giới của cộng niệm chúng sinh, khiến mau giải thoát, tự mình thoát khỏi lửa sanh tử thì nguyện cho hữu tình cũng được ra khỏi.

Này Thiên vương! Ví như trưởng giả có sáu người con nhỏ dại ông đều yêu thương không có phân biệt. Trưởng giả ở ngoài thấy nhà bị cháy. Ý ngươi nghĩ sao? Có thấy trưởng giả suy nghĩ thế này không: “Đối với sáu đứa con kia, ta cứu đứa nào trước, đứa nào sau?”

- Bạch Thế Tôn! Không nên như vậy. Vì sao? Vì người cha luôn đem tâm bình đẳng đối với con cái.

- Thiên vương nên biết: Bồ Tát cũng vậy, vì những kẻ ngu si tham đắm trong sáu đường, đang ở trong nhà lửa sanh tử không biết đường ra, nên các Bồ Tát đem tâm bình đẳng dùng mọi phương tiện hướng dẫn họ thoát ra, để được an ổn trong cõi tịch tịnh.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, đối với các pháp cũng bình đẳng; vì hộ chánh pháp cúng dường Như Lai, dùng đầy đủ các thứ để cúng dường Như Lai, như thật tu hành để cúng dường Như Lai, làm lợi ích an lạc hữu tình để cúng dường Như Lai, giữ gìn thiện pháp của hữu tình để cúng dường Như Lai. Tùy thuận giáo hóa, hướng dẫn hữu tình, hành Bồ Tát đạo, việc làm đi đôi với lời nói, tâm mong cầu Vô thượng giác không hề mỏi mệt, làm như thế mới gọi là cúng dường chư Phật, chẳng phải đem của cải mới gọi là cúng dường. Vì sao? Vì pháp là thân Phật. Nếu cúng dường pháp tức là cúng dường Phật. Chư Phật Thế Tôn đều đến từ chỗ tu hành như thật, vì làm lợi ích an lạc cho hữu tình, vì hộ trì thiện pháp tùy thuận hữu tình. Nếu chẳng làm như vậy là trái với bổn nguyện, lười biếng giải đãi thì không thể thành tựu Bồ đề tâm. Vì sao? Vì Vô Thượng Bồ đề của Bồ Tát là của chung chúng sanh. Nếu không có chúng sinh, Bồ Tát làm thế nào có thể đắc Bồ đề.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu hành chánh pháp cúng dường Như Lai gọi là chơn cúng dường. Cúng dường như thế để diệt tâm ngã mạn, xa lìa thế tục, cạo bỏ râu tóc, không còn liên hệ đến cha mẹ, anh em, bà con nội ngoại, giống như người đã chết. Tướng trạng và y phục đều khác người đời, dẹp tâm ngã mạn để ôm bình bát vào thành ấp, hoặc là bà con xóm làng, hoặc là đến những nhà nghèo cùng để xin ăn, nghĩ: Mạng sống của ta tùy thuộc vào người khác. Nhờ họ cho ăn, ta mới sống, do đó trừ được tâm ngã mạn. Lại nghĩ: Ta nên hoan hỷ với tư tuởng của thầy bạn, vì xưa chưa được nghe pháp mà nay được nghe. Nếu thấy người kia sân hận, tranh cãi, nên phải nhẫn nhục, khiêm nhường tránh đi. Bồ Tát như thế là trừ được tâm ngã mạn.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thì sanh chánh tín bền chắc. Vì sao? Vì các công đức và năng lực thiện căn đời trước đã đầy đủ nhân lành, thành tựu chánh kiến, nội tâm thanh tịnh, không chạy theo cảnh bên ngoài, tâm hạnh kiên cố chánh trực, không theo ngoại đạo, không có dối trá, các căn thông lợi, đầy đủ Bát nhã Ba la mật, tâm được thanh tịnh, xa lìa triền cái, xa bạn ác, gần bạn lành, học hỏi lời hay, tâm không giải đãi, nghe lời thuyết pháp biết công đức Phật.

 

(Oai thần công đức của Như Lai)

 

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Cúi xin Đấng đại từ thương xót nói cho chúng con nghe về tướng đại oai thần công đức của Như Lai.

Phật bảo Tối Thắng:

- Này Thiên vương! Ngươi hãy lắng nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói một phần nhỏ về oai thần công đức của Phật.

Tối Thắng bạch Phật:

- Xin Thế Tôn nói cho.

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đức đại từ của Như Lai vô biên, bao trùm hết hữu tình và cảnh giới hữu tình, cho đến mười phương tận hư không giới đều được bao trùm không thể so lường được. Đức đại bi của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ Tát đều không thể có được. Vì sao? Vì pháp bất cộng cho nên không có một hữu tình nào ở mười phương thế giới mà không được đức đại bi của Như Lai bao trùm. Pháp của Như Lai nói ra rốt ráo không cùng tận. Vì các loài hữu tình khắp mười phương trải qua vô lượng kiếp, đức Như Lai đã dùng vô lượng nhân duyên nói các pháp yếu cũng không cùng tận. Nếu hữu tình dùng ngôn từ cú nghĩa để hỏi, thì chỉ trong một khảy móng tay đức Như Lai vì tất cả hữu tình đều phân biệt rõ ràng mà không ai có thể bắt bẻ được. Vì đức Như Lai đã đắc vô ngại tịnh lự ở cảnh giới thậm thâm không thể đo lường. Giả sử hữu tình ở các thế giới đều trụ thập địa Bồ Tát đến trăm ngàn kiếp, nhập vào Đẳng trì thù thắng cũng không thể đo lường cảnh định của Như Lai. Thân của Như Lai vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tùy thuận tâm mong thấy của hữu tình nên chỉ trong một niệm đức Như Lai có thể hiện vô lượng thân khác nhau. Thiên nhãn của Như Lai tối thắng thanh tịnh, đức Như Lai đều thấy rõ các hữu tình ở tất cả thế giới với sắc tướng sai khác và các loại vật không đồng nhau như xem trái xoài trong lòng bàn tay; những ai có thiên nhãn cũng không thể sánh kịp. Thiên nhĩ của Như Lai tối thắng thanh tịnh nên đối với âm thanh khác nhau của tất cả hữu tình và tất cả âm thanh của các vật khác thì chỉ trong một niệm Như Lai đều nghe và hiểu rõ ý nghĩa của nó. Tha tâm trí của Như Lai thanh tịnh nên đối với mỗi suy nghĩ tạo nghiệp thọ quả khác nhau của hữu tình cũng chỉ một niệm, trong bốn oai nghi Phật đều biết rõ. Vì sao? Vì Phật thường ở trong định, không có tán loạn.

Thiên vương nên biết: Phật không thất niệm(2), tâm không tán loạn, căn không duyên các cảnh. Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch tịnh vô cấu. Người có phiền não, thất niệm, tán loạn, căn duyên các cảnh khác nhau. Đức Như Lai đắc vô lậu loại trừ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ một oai nghi, an trú trong Đẳng trì cho đến nhập Niết bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết được huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng trì mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nghe đức Như Lai trải qua ba vô số kiếp tu hành mới thành Phật. Vì sao nay nói tu vô lượng kiếp?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Nghĩa ấy không phải vậy. Vì sao? Vì Bồ Tát hướng đến quả vị Chánh đẳng Bồ đề phải tu vô lượng công đức mới được thành tựu, không phải trải qua chừng ấy kiếp số mà có thể chứng nhập pháp lý bình đẳng, phải tu rốt ráo mới thành Phật.

Tối Thắng bạch Phật:

- Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn đã nói hoàn toàn pháp cốt yếu để khuyên tất cả hữu tình phát sanh các căn lành, xa lìa nghiệp chướng, muốn đạt quả Phật, tu Bồ Tát hạnh. Nếu hữu tình nào được nghe oai thần công đức của Như Lai mà sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi, tin tưởng thì nên biết hữu tình ấy sẽ mau thành tựu oai thần công đức như Phật, huống nữa là thọ trì đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng giải cho người khác thì phước đức của người ấy không thể nghĩ bàn.

Phật bảo:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này Thiên vương! Hữu tình kia được Như Lai hộ trì vì trải qua nhiều số kiếp mà người đó đã gieo trồng căn lành, hoặc ở quá khứ đã cúng dường các đức Phật nên mới được nghe oai thần công đức của Phật.

Thiên vương nên biết: Thiện nam, thiện nữ nào tâm không nghi hoặc, trong bảy ngày tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới, cúng dường hương hoa, nhất tâm chánh niệm như trước đã nói về oai thần công đức của Phật, thì khi ấy Như Lai sẽ từ bi hộ niệm, hiện thân cho thấy, làm cho nguyện được đầy đủ. Nếu thiếu hương hoa v.v... cúng dường mà chỉ nhất tâm niệm công đức oai thần thì khi sắp qua đời sẽ được thấy Phật.

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có hữu tình nào nghe nói đại oai thần công đức của Như Lai như vậy mà không có lòng tin lại còn hủy báng nữa không?

Phật dạy:

- Cũng có, nghĩa là có hữu tình nghe nói pháp môn oai thần công đức của Như Lai như vậy sanh tâm sân hận, bất thiện rồi hủy báng, tưởng pháp sư là bạn ác. Người ấy sau khi qua đời sẽ đọa địa ngục chịu khổ nhiều kiếp. Nếu có hữu tình nghe nói đại oai thần và công đức của Như Lai như vậy mà vui mừng, tin thọ, tán thán, ghi nhớ, tưởng pháp sư là bạn lành thì sau khi qua đời được sanh lên cõi trời, dần dần tiến tu sẽ thành Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài bao phủ khuôn mặt, cho đến đỉnh đầu rồi lại bao trùm khắp thân, kế đến che tòa Sư tử, rồi che khắp đại chúng Bồ Tát, đại chúng Thanh văn, sau đó mới che Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế, nhơn phi nhơn v.v... Sau cùng Như Lai thu tướng lưỡi và bảo đại chúng:

- Đức Như Lai có tướng lưỡi này không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã nói ra điều gì các ngươi đều nên tín thọ thì luôn được an vui.

Khi Phật thuyết pháp như vậy, ở trong đại chúng có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, vô số hữu tình đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Thích nghĩa:

(1).  A lan nhã (阿蘭若) Phạm: Araịya, Pāli: Araĩĩa. Còn gọi là A luyện như, A luyện nhã, A lan na, A la nhưỡng, A lan noa. Nói tắt là Lan nhã, Luyện nhã. Dịch là núi rừng, đồng hoang. Chỉ những nơi yên tĩnh vắng vẻ, thích hợp với những người xuất gia tu hành để cư trú. Còn dịch là nơi xa lìa, nơi vắng lặng, nơi rất thong thả, nơi không tranh giành. Tức là nơi vắng vẻ cách xa làng mạc một câu lư xá, thích hợp cho người tu hành. Chỗ ấy, hoặc người ở nơi ấy thì gọi là A lan nhã ca (Phạm: Àraịyaka). Cứ theo Tuệ uyển âm nghĩa quyển thượng chép, thì A lan nhã có ba loại: 1. Đạt ma a lan nhã (Phạm: Dharma araịya), là đạo tràng cầu Bồ đề. 2. Ma đăng già a lan nhã (Phạm: Màtaga-araịya), là nơi tha ma hoặc là nơi cách xa làng mạc một câu lư xá, tức một quãng xa mà tiếng bò kêu không nghe thấy. 3. Đàn đà già a lan nhã (Phạm: Daịđaka-araịya), tức nơi bãi cát xa xôi không thấy khói của người ta đun nấu. Đến đời sau, tất cả chùa chiền tinh xá đều gọi là A lan nhã, phần nhiều cách xa nơi phồn hoa đô hội, là những chỗ yên tĩnh tiện cho người xuất gia tu hành, và người tại gia ra vào lễ bái. Ngoài ra, các tỷ khưu tu hành mà thường xuyên ở nơi A lan nhã, thì gọi là A lan nhã hạnh, là một trong mười hai hạnh đầu đà. [X. Luận Đại tỳ bà sa Q.136; Hữu bộ tỳ nại da Q.24; Tát bà đa tỳ ni tỳ bà sa Q.5; Đại nhật kinh sớ Q.3; Câu xá luận quang ký Q.13; Đại thừa nghĩa chương Q.15; Huyền ứng âm nghĩa Q.23]. Thích nghĩa rồi, nay lặp lại để nhớ.

(2). Thất niệm (失念) Phạm: Musita-smftità. Cũng gọi Vọng niệm. Đối lại: Niệm. Tên của tâm sở (tác dụng tâm), 1 trong 100 pháp. Chỉ cho tác dụng tâm không có khả năng ghi nhớ rõ ràng cảnh sở duyên và các thiện pháp. Tông Duy thức coi Thất niệm là 1 trong 8 đại phiền não thuộc 20 phiền não. Về thể tính của Thất niệm thì có 3 thuyết: 1. Theo luận Đại thừa a tỳ đạt ma tạp tập quyển 1 thì Thất niệm lấy Niệm làm thể, do đó, Thất niệm là một phần của Niệm. 2. Theo luận Du già sư địa quyển 58 thì Thất niệm lấy đẳng lưu của Si làm thể, vì thế Thất niệm là một phần của Si. 3. Tổng hợp 2 thuyết nói trên thì Thất niệm lấy một phần của Niệm và Si làm thể.

 

Sơ giải:

 

1. Bồ Tát trụ tâm như thế nào?

 

Bồ Tát tu hành Bát Nhã làm sao giữ tâm trong chánh niệm? Bồ Tát tu hành Bát Nhã thực hành bốn niệm trụ (thân, thọ, tâm, pháp) thì có thể trụ tâm trong chánh niệm. Bốn niệm trụ đó còn gọi là Tứ Niệm Xứ, gồm có: 1- Thân Niệm Xứ: Quán thân bất tịnh; 2- Thọ Niệm Xứ: Quán sự yêu ghét của cảm thọ hết thảy đều là khổ; 3- Tâm Niệm Xứ: Quán tâm là sinh diệt, vô thường; 4- Pháp Niệm Xứ: Quán hết thảy pháp là vô ngã. Nhờ quán bốn pháp môn này mà Bồ Tát có thể trụ tâm(cột tâm) vào một điểm, đề phòng vọng tưởng tạp niệm để tâm đạt được tịch tĩnh, vắng lặng mà sanh tuệ. Đó cũng là phương tiện của tu thiền định

Hơn nữa Bồ Tát thường tu hạnh A lan nhã, nghĩa là thích ở nơi vắng vẻ, tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, xa lìa ngã-ngã sở, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh, thích hạnh đầu đà, cơm hẩm sống qua ngày, áo rách cốt che thân. Chính luyện thân tâm như vậy, nên Bồ Tát mới có thể xa lìa phiền não sống an vui trong chánh định, đi đứng nằm ngồi, năm thời sống trong rõ ràng thường biết!

Tâm Bồ Tát ít muốn, biết đủ nên chẳng cần tầm cầu, cất giữ, vì không cất giấu nên không sợ mất, vì không sợ mất nên tránh được lo buồn, vì tránh lo buồn nên có thể xa lìa phiền não, vì lìa phiền não nên không đắm trước, vì không đắm trước thì các lậu diệt tận.

Thiên vương nên biết: “Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, chỉ vì hộ pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ không phải vì sự cung kính, cúng dường. Vì làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, cứu giúp cho người không được cứu giúp, an lạc người không an lạc, làm cho người không có tuệ nhãn được tuệ nhãn v.v...

Vì thế, các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thì sanh được chánh tín bền chắc”.

 

2. Oai thần công đức của Như Lai không thể kể hết.

 

Đức đại từ của Như Lai vô biên, bao trùm hết hữu tình và cảnh giới hữu tình, cho đến mười phương tận hư không không thể so lường. Đức đại bi của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ Tát đều không thể bì kịp. Thân của Như Lai vô lượng, vô biên. Vì tùy thuận tâm mong cầu của hữu tình nên chỉ trong một niệm, đức Như Lai có thể hiện vô lượng thân khác nhau cho bất cứ chúng sanh nào mong ước muốn diện kiến. Các thần thông của Như Lai tối thắng tối thượng thanh tịnh, không thể tưởng tượng, không thể nghĩ lường.

Rồi Phật bảo:

“Thiên vương nên biết: Phật không thất niệm, tâm không tán loạn, căn không duyên các cảnh. Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch tịnh vô cấu. Đức Như Lai đắc vô lậu loại trừ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ một oai nghi, an trú trong Đẳng trì cho đến nhập Niết bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết được huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng trì mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát”.

Thế Tôn liền hiện tướng lưỡi dài rộng, trùm cả tam thiên đại thiên, rồi bảo đại chúng:

- “Đức Như Lai có tướng lưỡi này không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã nói ra điều gì các ngươi đều nên tín thọ thì luôn được an vui”.

Nhờ tu các pháp môn trên chư Phật có đạo hạnh công đức, các thần thông, các biện tài vô ngại vô bờ bến như thế. Đó là lời chân thật của Thế Tôn, truyền lại cho những người con Phật. Vậy, cố gắng theo bước chân của người xưa tự tu tập hành trì để giúp mình người được an vui giải thoát.

Hãy nghe Thế Tôn khuyến dẫn Thắng Thiên Vương khi xưa cũng như chúng ta hôm nay:

“Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân, không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ Tát hành sâu Bát Nhã”.

Phật bảo: “Trước hết là phải tu tập chỉ quán để được tịnh giới. Giới thanh tịnh thì hạnh cũng thanh tịnh. Trước đây Phật cũng bảo: “Tu một pháp thì biết tất cả pháp. Pháp đó là Bát nhã Ba la mật”. “Tu một hạnh thì được tất cả hạnh, thì thác cũng có thể sanh về cõi Phật”. Ở đây chỉ cần tu hai pháp mà kết quả không thể ngờ huống chi tu hết Lục độ vạn hạnh?

Bài pháp thiết thực mà đấng Từ Phụ dành cho những người con Phật không kể Tăng hay Tục, phải chấp hành nghiêm chỉnh để khỏi phụ lòng người Cha hiền của toàn thể chúng sanh./.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com