- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM "KHÔNG NÊU CỜ"
Phần sau quyển 436 đến phần đầu quyển 437, Hội thứ II.
(Tương đương với 2 phẩm: 1. Phẩm “Trước và Chẳng Trước Tướng”, Q.287 - Q.292, và
2. Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, phần sau Q.292 - Q.296, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phẩm này của Hội thứ II tương đương 2 phẩm: 1. Phẩm “Trước và Chẳng Trước Tướng” từ Q.287 đến Q.292, và 2. Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, phần sau Q.292 đến Q.296, Hội thứ I, ĐBN. Chúng tôi cũng chia phẩm này hai phần để thuyết: 1. Trước và chẳng trước tướng; 2. Thuyết tướng Bát Nhã.
Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 43, “Vô Tác”, tập 4, quyển 63, có giáo lý tương tự như phẩm “Không Nêu Cờ”, nhưng không chia làm 2 phần như phẩm này.
Tóm lược:
1. Đoạn kinh sau đây tương đương với phẩm “Trước và
Chẳng Trước Tướng”, Q.287 đến Q.292, Hội thứ I, ĐBN.
(1- Nhiễm chẳng nhiễm, trước chẳng trước).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nên hành Bát Nhã như thế nào?
Phật nói:
- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát hành Bát Nhã, nếu chẳng hành sắc là hành Bát Nhã, chẳng hành thọ tưởng hành thức là hành Bát Nhã. Cho đến chẳng hành Nhất thiết trí là hành Bát Nhã; chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là hành Bát nhã Ba la mật.
Chẳng hành sắc hoặc thường hoặc vô thường; chẳng hành sắc hoặc vui hoặc khổ; chẳng hành sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; chẳng hành sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến chẳng hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thường hoặc vô thường cho đến tịnh hoặc bất tịnh là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật hãy chẳng thấy sắc thọ tưởng hành thức, huống thấy sắc thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Như vậy, cho đến hãy chẳng thấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; huống chi thấy ba trí này hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã chẳng hành sắc viên mãn, chẳng hành sắc chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành thọ tưởng hành thức viên mãn, chẳng hành thọ tưởng hành thức chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến chẳng hành Nhất thiết trí viên mãn, chẳng hành Nhất thiết trí chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí viên mãn, chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật hãy chẳng thấy chẳng đắc sắc thọ tưởng hành thức, huống thấy đắc sắc thọ tưởng hành thức hoặc viên mãn hoặc chẳng viên mãn. Như vậy, cho đến hãy chẳng thấy chẳng đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; huống thấy đắc ba trí này hoặc viên mãn hoặc chẳng viên mãn.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất lạ, khéo vì các thiện nam thiện nữ Đại thừa, tuyên nói tướng chấp trước chẳng chấp trước.
Phật nói:
- Thiện Hiện! Như vậy. Đúng như ngươi đã nói. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo vì các thiện nam thiện nữ Đại thừa, tuyên nói tướng chấp trước chẳng chấp trước.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã chẳng hành sắc hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành thọ tưởng hành thức hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành ba mươi bảy trợ đạo, chẳng hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát Nhã; chẳng hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật; chẳng hành tất cả Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc chấp trước hoặc chẳng chấp trước là hành Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã như thế, như thật biết rõ sắc không tướng có thể chấp chẳng thể chấp trước. Thọ tưởng hành thức cũng không tướng có thể chấp chẳng thể chấp trước. Như vậy, cho đến như thật biết rõ tất cả Bồ Tát hạnh không tướng có thể chấp chẳng thể chấp trước, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không tướng có thể chấp chẳng thể chấp trước.
(2- Tu và học Bát Nhã như hư không)
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh thẳm sâu rất là hiếm có, hoặc nói hoặc chẳng nói đều chẳng tăng chẳng giảm.
Phật nói:
- Thiện Hiện! Như vậy. Đúng như ngươi đã nói! Pháp tánh thẳm sâu rất hiếm có, hoặc nói hoặc chẳng nói đều không tăng giảm. Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ hết thọ lượng khen chê hư không, hư không kia cũng không tăng không giảm. Pháp tánh thẳm sâu cũng lại như thế, hoặc nói chẳng nói đều không tăng giảm. Ví như huyễn sĩ, khen hay chê không tăng không giảm, cũng không buồn không vui. Pháp tánh thẳm sâu cũng lại như thế, hoặc nói hoặc chẳng nói như hư không chẳng khác.
(Luận Đại Trí Độ lặp lại và giải thích lời Phật dạy như sau:
“Phật dạy: Dù được thuyết ra, hay dù chẳng được thuyết ra, thì pháp này vẫn chẳng tăng chẳng giảm. Dù có dùng thân, dùng ý nhằm hủy hoại cũng chẳng làm cho thật tướng pháp thay đổi được, huống nữa là dùng miệng nói ra. Vì sao? Vì thật tướng pháp là thường hằng, là vô sanh tướng, là như hư không vậy. Bát nhã Ba la mật ví như hư không, chẳng có tăng, chẳng có giảm. Người hành Bát nhã Ba la mật ví như người huyễn, dù được tán thán cũng chẳng vui, dù bị hủy báng cũng chẳng buồn vậy.
Do nghiệp tội nhân duyên, mà hư vọng, điên đảo chấp có các pháp sai khác. Thế nhưng, khi đã vào được trong Bát nhã Ba la mật rồi, thì biết rõ các pháp, ở nơi tự thể, chẳng hề thay đổi.
Ví như, khi đã qui tụ về núi Tu Di rồi, thì hết thảy các sắc pháp đều biến thành vàng ròng cả.
Cũng như vậy, hết thảy các pháp tướng, ở trong Bát nhã Ba la mật, đều là thật tướng pháp, nên đều chẳng thể biết, chẳng thể nói ra được. Dù có nói ra, hay dù chẳng có nói ra, thì thật tướng pháp, trước sau, vẫn rốt ráo là như vậy”).
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là việc rất khó. Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật đây, nếu tu hay chẳng tu thì cũng không tăng không giảm, không buồn không vui, không thuận không trái, song siêng năng tu học Bát Nhã như thế cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì thường không thối chuyển. Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã như tu hư không, đều không sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Như trong hư không không sắc khá biết, không thọ tưởng hành thức khá biết. Không mười hai xứ khá biết, không mười tám giới khá biết. Không bố thí khá biết; không tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật khá biết. Không nội không khá biết, không ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không khá biết. Không ba mươi bảy pháp trợ đạo khá biết, không Phật mười lực, không bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng khá biết. Không Nhất thiết trí khá biết; không Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khá biết. Không quả Dự lưu khá biết; không quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề khá biết. Không tất cả Bồ Tát hạnh khá biết. Không chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá biết. Sở tu Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế. Nghĩa là trong pháp Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây không sắc khá được, không thọ tưởng hành thức khá được. Cho đến không Bồ Tát hạnh khá được. Không chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá được.
Trong đây dù không có các pháp khá được, mà các đại Bồ Tát thường siêng tinh tấn tu học Bát Nhã, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường không quay lui. Vậy nên con nói các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã là việc rất khó.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát thường mặc áo giáp đại công đức(1) như thế, tất cả hữu tình đều nên kính lễ.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát vì hữu tình mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như hư không mà mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát vì muốn giải thoát cho hữu tình mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như muốn giải thoát cho hư không mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát vì tất cả pháp mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như hư không mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát vì cứu vớt chúng sanh ra khỏi khổ sanh tử mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn thì cũng giống như vì cất hư không để chỗ cao hơn mà mặc áo giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát được thế lực đại tinh tấn dũng mãnh, vì loài hữu tình nên sớm thoát khỏi sanh tử như hư không, nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát được thần lực bất tư nghì vô đẳng, vì biển pháp tánh như hư không mặc giáp công đức phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát rất cực mạnh mẽ, vì sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như hư không mặc giáp công đức chuyên cần tinh tấn.
Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát vì các loại hữu tình như hư không thành thục giải thoát được lợi vui lớn, siêng tu khổ hạnh, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Việc đó rất hiếm có. Vì sao? Vì giả sử trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy rẫy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như rừng, tre, mè, lau, mía v.v… hoặc trải một kiếp, hoặc một kiếp hơn, vì các hữu tình thuyết Chánh pháp, đều độ vô lượng vô biên hữu tình khiến vào Niết bàn an vui rốt ráo, mà cõi hữu tình chẳng thêm chẳng bớt. Sở dĩ như vậy là vì các hữu tình đều vô sở hữu, tánh xa lìa vậy.
Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này nên con tác thuyết: Các đại Bồ Tát vì các loại hữu tình như hư không thành thục giải thoát, được lợi vui lớn, siêng tu khổ hạnh, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rất là hiếm có.
Khi đó trong chúng hội có một Bí sô thầm khởi nghĩ này: Ta nên kính lễ Bát Nhã thẳm sâu. Trong đấy tuy không các pháp sanh diệt, mà có những nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát trí kiến khá thi thiết được. Cũng có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề khá thi thiết được. Cũng có Bồ Tát hạnh khá thi thiết được. Cũng có Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khá thi thiết được. Cũng có chúng Bồ Tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khá thi thiết được. Cũng có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo khá thi thiết. Cũng có chư Phật quay xe diệu pháp, khiến các hữu tình lợi ích an vui khá thi thiết được.
Phật biết điều thầm nghĩ kia, liền bảo rằng:
- Bí sô! Như vậy. Đúng như ngươi đã nghĩ! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu mầu nhiệm khó lường, tuy chẳng có pháp mà cũng chẳng phải không.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:
- Thưa Đại Đức! Nếu đại Bồ Tát muốn học Bát nhã Ba la mật phải học như thế nào?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát muốn học Bát Nhã phải như hư không tinh siêng tu học. (Q.437, ĐBN)
Khi đó, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói rộng khiến lưu bố, con phải làm sao thủ hộ họ?
Bấy giờ, Thiện Hiện thay Phật bảo Đế Thích rằng:
- Kiều Thi Ca! Ngươi thấy có pháp khá thủ hộ chăng?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng có! Con chẳng thấy pháp khá thủ hộ được.
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ như Phật đã dạy, an trụ Bát nhã Ba la mật tức là thủ hộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ an trụ Bát nhã Ba la mật thường chẳng xa lìa, phải biết tất cả người phi người thảy rình tìm chỗ dở, muốn làm tổn hại trọn chẳng thể được.
Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam thiện nữ an trụ Bát nhã Ba la mật, chẳng khác có người phát ý siêng năng thủ hộ hư không. Nếu muốn thủ hộ các thiện nam thiện nữ tu hành Bát nhã Ba la mật, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có người có thể thủ hộ huyễn, mộng, vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng và việc biến hóa, thành tầm hương không?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại Đức! Chẳng có!
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam, thiện nữ tu hành Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có người thường thủ hộ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và những việc do Phật biến hóa ra không?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng có!
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam, thiện nữ tu hành Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Có người năng thủ hộ pháp giới, pháp tánh, chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, hư không giới không?
Thiên Đế Thích nói:
- Thưa Đại đức! Chẳng có!
Thiện Hiện bảo rằng:
- Kiều Thi Ca ! Nếu muốn thủ hộ các thiện nam, thiện nữ tu hành Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, nhọc nhằn luống uổng đều không ích gì.
Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:
- Thưa Đại đức! Vì sao đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã dù biết các pháp như huyễn, như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như việc biến hóa, như thành tầm hương, mà đại Bồ Tát này chẳng chấp là huyễn, là mộng, là vang, là tượng, là bóng sáng, là ánh nắng, là việc biến hóa, là thành tầm hương. Cũng lại chẳng chấp thuộc huyễn cho đến thuộc thành tầm hương. Cũng lại chẳng chấp nương huyễn cho đến nương thành tầm hương?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng chấp là sắc, là thọ tưởng hành thức; cũng chẳng chấp do sắc, do thọ tưởng hành thức; cũng chẳng chấp thuộc sắc, thuộc thọ tưởng hành thức; cũng chẳng chấp nương sắc, nương thọ tưởng hành thức. Như vậy, cho đến chẳng chấp là Nhất thiết trí, là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng chẳng chấp do Nhất thiết trí, do Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng chẳng chấp thuộc; cũng chấp nương v.v...
Đại Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dù biết các pháp như huyễn cho đến như thành tầm hương, mà chẳng chấp là huyễn cho đến là thành tầm hương; cũng lại chẳng chấp thuộc huyễn cho đến thuộc thành tầm hương; cũng lại chẳng chấp nương huyễn cho đến nương thành tầm hương.
2. Đoạn Kinh dưới đây tương đương với phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”,
phần sau Q.292 đến Q.296, Hội thứ I, ĐBN.
Bấy giờ, nhờ oai thần Như Lai nên Tam thiên đại thiên thế giới đây, trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tịnh cư đều đem thiên hoa, bột hương đàn trầm xa rải lên Phật, đi đến chỗ Phật đảnh lễ hai chân, lui đứng một phía. Và cũng nhờ thần lực của đức Phật nên chư thiên thấy ngàn cõi Phật ở phương Đông đều có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, ý nghĩa phẩm loại, danh tự đều đồng như đây. Bí sô đứng đầu thỉnh hỏi Bát Nhã đều có tên là Thiện Hiện. Đứng đầu Thiên chúng hỏi Bát Nhã đều tên là Đế Thích. Phương Nam Tây Bắc, bốn góc, trên dưới cũng lại như thế.
Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện rằng:
- Từ Thị Bồ Tát khi chứng Vô thượng Chánh đẳng Giác cũng ở nơi đây tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Các Phật đương lai trong hiền kiếp đây, cũng ở nơi này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật.
(1-Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp không lấy thường hay vô thường, khổ hay lạc, ngã hay vô ngã… để tuyên thuyết Bát Nhã)
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Từ Thị Bồ Tát khi chứng Vô thượng Chánh đẳng giác phải lấy các hành tướng trạng pháp nào tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Từ Thị Bồ Tát khi chứng Vô thượng Chánh đẳng giác, sẽ lấy sắc phi thường phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, sẽ lấy thọ tưởng hành thức phi thường phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến sẽ lấy Nhất thiết trí phi thường phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật; sẽ lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí phi thường phi vô thường tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Sẽ lấy sắc phi lạc phi khổ tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, sẽ lấy thọ tưởng hành thức phi lạc phi khổ tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến sẽ lấy Nhất thiết trí phi lạc phi khổ tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật; sẽ lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí phi lạc phi khổ tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Sẽ lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức phi ngã phi vô ngã; phi tịnh phi bất tịnh; phi buộc phi mở; phi quá khứ phi vị lai… tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Như vậy, cho đến sẽ lấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí phi ngã phi vô ngã; phi tịnh phi bất tịnh; phi buộc phi mở v.v… tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật.
(2-Tướng Bát nhã Ba la mật thanh tịnh như hư không)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Từ Thị Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ chứng pháp nào? Sẽ thuyết pháp nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Từ Thị Bồ Tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ chứng sắc rốt ráo tịnh, thuyết sắc rốt ráo tịnh. Chứng thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, thuyết thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Như vậy cho đến chứng Nhất thiết trí rốt ráo tịnh, thuyết Nhất thiết trí rốt ráo tịnh. Chứng Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh, thuyết Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế duyên vào đâu mà được thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:
- Vì sao sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh? Như vậy, cho đến vì sao Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc không sanh không diệt không nhiễm không tịnh nên thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Thọ tưởng hành thức không sanh không diệt không nhiễm không tịnh nên thanh tịnh, thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không sanh không diệt không nhiễm không tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không không sanh không diệt không dơ không sạch nên thanh tịnh. Hư không thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô, vì sắc không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Thọ tưởng hành thức chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô, vì thọ tưởng hành thức không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô; vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không chẳng khá nắm lấy nên không nhiễm ô. Hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chỉ giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chỉ giả nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Như nương vào hư không mà có tiếng vang hiện hữu, chỉ là lời nói giả. Chỉ là lời nói giả nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chẳng thể nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng thể nói nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không là rỗng không, không có gì để nói, nên không thể nói. Do đấy Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện! Hư không chẳng thể đắc nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng thể đắc nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Hư không là rỗng không, nên chẳng thể đắc. Do đấy Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp không sanh không diệt không dơ không sạch, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả pháp không sanh không diệt không dơ không sạch, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh?
- Thiện Hiện! Vì tất cả pháp rốt ráo không sanh không diệt không dơ không sạch. Do đấy Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
(Để diễn dịch ý của Phật, Đại Trí Độ Luận, nói rằng:
“Phật dạy: Sắc cùng hết thảy các pháp đều rốt ráo thanh tịnh, nên Bát nhã Ba la mật rốt ráo thanh tịnh. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm. Ví như nước trong chẳng có vấy bụi trần, ví như hư không chẳng có nhiễm ô, tánh thường thanh tịnh; hết thảy các pháp, ở nơi thật tướng, cũng chẳng
có nhiễm ô, tánh thường thanh tịnh vậy. Bát nhã Ba la mật cũng như hư không, chẳng có nhiễm ô, tánh thường thanh tịnh. Dù cho các tà kiến, hý luận, các ác sự quấy nhiễu, thì Bát nhã Ba la mật cũng vẫn chẳng có bị tổn hại. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật là chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, nên cũng chẳng có thủ, chẳng có nhiễm ô vậy”.
Tướng của Bát nhã Ba la mật như thế nên nói Bát nhã Ba la mật thanh tịnh như hư không không khác)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam thiện nữ này mắt tai mũi lưỡi đều không bị bệnh, thân căn không khuyết, chẳng suy yếu cũng chẳng yểu mệnh; thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh theo dõi bảo hộ.
Các thiện nam thiện nữ này vào ngày mồng tám, ngày mười bốn và ngày rằm của tháng có trăng và không trăng, đọc tụng tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Bấy giờ, trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tịnh cư đều đến nhóm họp chỗ Pháp sư này để nghe thọ đọc Bát nhã Ba la mật. Các thiện nam thiện nữ đây nhờ ở trong vô lượng Pháp hội đọc tụng tuyên nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, nên được công đức thù thắng vô lượng vô số vô biên, chẳng khá nghĩ bàn, chẳng khá cân lường.
(2-Bát Nhã là đại bảo tạng)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy. Đúng như ngươi đã nói! Nếu các thiện nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… sẽ được tất cả phước đức như ngươi đã nói. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế là đại trân bảo nên các hữu tình tu Bát Nhã tránh khỏi cảnh địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và lại được vô lượng vô số vô biên trời, rồng, dược xoa, người, phi người v.v… đều ủng hộ, bảo vệ; lại khiến cho vô số vô lượng hữu tình đó được sanh vào đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ hay sanh vào các cõi trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ giàu sang phú quý, lợi vui; cũng lại khiến được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề và cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề an vui tự tại. Vì sao? Vì Kinh Bát Nhã thẳm sâu như thế rộng nói khai chỉ mười thiện nghiệp đạo; bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi; bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vô lượng công đức báu quý như vậy.
Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong ấy, được sanh đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, đại tộc Trưởng giả, Cư sĩ. Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong ấy được sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong ấy được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong ấy được Độc giác Bồ đề. Vô lượng vô số vô biên hữu tình tu học trong ấy được vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, được chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, nên Bát nhã Ba la mật như thế được gọi là Đại bảo tạng. Vì công đức quý báu thế gian xuất thế gian đều nương Bát Nhã thẳm sâu như thế mà xuất hiện vậy.
Thiện Hiện! Trong Đại bảo tạng Bát Nhã như thế chẳng nói chút pháp có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh, có lấy có bỏ. Vì sao? Vì không chút pháp khá sanh khá diệt, khá nhiễm khá tịnh, khá lấy khá bỏ vậy. Trong Đại bảo tạng Bát Nhã như thế chẳng nói có pháp là thiện là phi thiện, là hữu ký là vô ký, là thế gian là xuất thế gian, là hữu lậu là vô lậu, là hữu vi là vô vi.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, nên Bát nhã Ba la mật như thế được gọi là Vô sở đắc Đại pháp bảo tạng. Trong Bát Nhã Đại bảo tàng này chẳng nói chút pháp nhiễm ô. Vì sao? Vì không có chút pháp nhỏ nhiệm nào nhiễm ô, nên cũng không chút pháp năng nhiễm Bát Nhã Đại bảo tạng thẳm sâu như thế. Vì sao? Vì pháp năng nhiễm ô bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, Bát nhã Ba la mật như thế được gọi là Vô nhiễm Đại pháp bảo tạng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã không tưởng như vầy, phân biệt như vầy, có đắc như vầy, hý luận như vầy: “Ta năng tu hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu”. Bồ Tát này mới năng như thật tu hành Bát Nhã thẳm sâu, cũng năng gần gũi lễ thờ chư Phật. Mới từ một nước Phật đến một nước Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Dạo các nước Phật, khéo lấy tướng kia để nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu các Bồ Tát hạnh, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế đối tất cả pháp chẳng tự tại chẳng phải chẳng tự tại, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, không đến cõi Dục, không bỏ cõi Dục, không trụ cõi Dục; không đến cõi Sắc, không bỏ cõi Sắc, không trụ cõi Sắc; không đến cõi Vô sắc, không bỏ cõi Vô sắc, không trụ cõi Vô sắc.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế, đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chẳng cho chẳng bỏ. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng chẳng cho chẳng bỏ. Đối bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi cũng chẳng cho chẳng bỏ. Đối Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng cho chẳng bỏ. Đối quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng chẳng cho chẳng bỏ. Đối các Bồ Tát Chánh tánh ly sanh cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng chẳng cho chẳng bỏ. Đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng cho chẳng bỏ.
Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cho pháp Thanh văn chẳng bỏ pháp dị sanh, chẳng cho pháp Độc giác chẳng bỏ pháp Thanh văn, chẳng cho pháp chư Phật chẳng bỏ pháp Độc giác, chẳng cho pháp vô vi chẳng bỏ pháp hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, các pháp như thế thường không biến đổi, pháp tánh, pháp giới, pháp định, pháp trụ cũng không khác vậy.
Bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên tử trụ trong hư không rất đổi vui mừng, đem hoa trời: Hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hoa vi diệu âm và các hương bột mà rải lên Phật, cùng nhau vui mừng, đồng thanh xướng rằng: “Ngày nay, chúng ta ở châu Thiệm bộ, thấy đức Phật chuyển bánh xe diệu pháp lần thứ hai, trong đó có vô lượng trăm ngàn Thiên tử nghe thuyết Bát nhã Ba la mật, đều chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn”.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện rằng:
- Xe pháp như thế chẳng quay lần thứ nhất, cũng chẳng quay lần thứ hai. Vì sao? Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật như thế, đối tất cả pháp chẳng chuyển, chẳng hoàn vậy mà xuất hiện thế gian, vì các pháp vô tánh, tự tánh rỗng không vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Những pháp nào gọi là vô tánh tự tánh không mà Bát nhã Ba la mật như thế đối tất cả pháp, chẳng chuyển, chẳng hoàn mà xuất hiện thế gian?
(3-Bát Nhã là không, là vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh cũng không)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật, tánh Bát nhã Ba la mật không cho đến bố thí Ba la mật, tánh bố thí Ba la mật không vậy. Nội không, tánh nội không không vậy cho đến vô tánh tự tánh không, tánh vô tánh tự tánh không không vậy. Bốn niệm trụ, tánh bốn niệm trụ không vậy cho đến tám Thánh đạo chi, tánh tám chi Thánh đạo không vậy. Như Lai mười lực, tánh Bồ Tát mười lực không, vậy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh mười tám pháp Phật bất cộng không vậy. Nhất thiết trí, tánh nhất thiết trí không vậy. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không vậy. Dị sanh tánh, tánh dị sanh tánh không vậy. Quả Dự lưu, tánh quả Dự lưu không vậy cho đến quả A la hán, tánh quả A la hán không vậy. Độc giác Bồ đề, tánh Độc giác Bồ đề không vậy. Tất cả Bồ Tát hạnh, tánh tất cả Bồ Tát hạnh không vậy. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tánh chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không vậy.
(4- Bát Nhã không chuyển không hoàn)
Thiện Hiện! Bởi các pháp như thế vô tánh tự tánh không vậy. Bát nhã Ba la mật như thế đối tất cả pháp chẳng chuyển, chẳng hoàn vậy mà xuất hiện thế gian.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba la mật, vì đạt tự tánh không tất cả pháp vậy. Dù đạt tự tánh tất cả pháp đều không, mà các Bồ Tát vẫn nương Bát nhã Ba la mật đây chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, độ vô lượng chúng. Dù chứng Bồ đề mà không sở chứng, chứng pháp chẳng chứng, vì bất khả đắc vậy. Dù quay xe pháp mà không sở quay, vì pháp chuyển, pháp hoàn lại bất khả đắc. Dù độ hữu tình mà không sở độ, vì pháp thấy, chẳng thấy bất khả đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Trong Đại Bát nhã Ba la mật đây việc quay xe pháp đều bất khả đắc, vì tất cả pháp chẳng sanh, năng quay sở quay bất khả đắc vậy. Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện có pháp khá chuyển, khá hoàn, vì pháp tánh chuyển, hoàn bất khả đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Đối Bát nhã Ba la mật đây nếu thường tuyên nói khai chỉ phân biệt rõ ràng như thế, khiến dễ ngộ vào. Đấy gọi khéo tịnh tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Trong đây đều không kẻ nói, kẻ thọ và pháp được nói. Đã không kẻ nói, kẻ thọ và pháp, thì kẻ năng chứng cũng bất khả đắc. Không kẻ chứng nên cũng không có kẻ năng đắc Niết bàn.
Đối với Bát nhã Ba la mật này, khéo thuyết pháp thì cũng không có phước điền, vì người thí, người nhận và vật thí đều là tánh Không. Phước điền không, nên phước đức cũng không. Biểu tướng, danh ngôn đều bất khả đắc. Vì thế nên gọi là Đại Ba la mật.
Thích nghĩa:
(1). Mặc áo giáp công đức hay đại thệ nguyện trang nghiêm đã giải thích rồi, nhưng Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 42, “Thán Tịnh”, căn cứ vào lời của Tu Bồ Đề diễn dịch như sau:
“Như ngài Tu Bồ Đề đã nêu lên thí dụ: Bồ Tát biết rõ chúng sanh là tự tánh không, là vô sở hữu như hư không, mà vẫn phát thệ nguyện siêng năng, tinh tấn tu tập, làm những việc khó làm, vì lợi ích cho chứng sanh. Như vậy nên gọi là đại thệ trang nghiêm.
Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh, vì muốn độ hết thảy chúng sanh, mà vẫn biết rõ chúng sanh là hư không, nên gọi là phát đại thệ trang nghiêm vậy”.
Sơ giải:
1. Phần đầu phẩm này nói về nhiễm tịnh,
trước chẳng trước tướng.
1- Các pháp không nhiễm không tịnh, trước chẳng trước:
Các pháp trì độn vô tri, vốn không nhơ không sạch, không tốt xấu, nhiễm tịnh… Do phân biệt chấp trước nên mới thấy có nhiễm tịnh. Để giải thích điểm này Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 43, “Thán Tịnh”, tập 3, quyển 64, nói rằng:
“Thanh tịnh thể hiện ở nơi 2 tướng. Đó là :
- Trí huệ thanh tịnh.
- Duyên pháp thanh tịnh.
Đây là 2 tướng tịnh do đối đãi với nhau, nương vào nhau mà có.
Ly trí tịnh, thì chẳng có duyên tịnh; mà ly duyên tịnh cũng chẳng có trí tịnh. Vì sao? Vì hết thảy tâm pháp cũng như tâm sở pháp đều từ duyên sanh. Nếu tâm chẳng duyên, thì trí chẳng sanh được. Ví như chẳng có củi hay chẳng có các loại chất đốt khác, thì lửa chẳng thể nào hiển tác được.
Người có trí tuệ biết rõ các duyên đều thanh tịnh. Người vô trí chẳng có thể biết được như vậy, nên ở nơi trí tịnh, nơi tương tịnh mà tương đãi phân biệt.
Nên biết, thật tướng pháp bản lai thanh tịnh, ly cả trí lẫn duyên. Chỉ vì tâm và tâm sở y vào các nhiễm duyên pháp, mà cho là chẳng thanh tịnh vậy.
Cũng nên biết, hết thảy các pháp bản lai thanh tịnh, chẳng phải do Phật tạo ra; chẳng phải do ai khác tạo ra. Dù có Phật hay chẳng có Phật, thì pháp tánh vẫn thường trú, chẳng có hoại. Tuy rằng các pháp tướng hư vọng, nhưng bản lai vẫn chẳng nhiễm, chẳng tịnh; tự tánh của các pháp vẫn thường thanh tịnh, là như pháp tánh thật tế, là Bát Nhã Ba La Mật, là đạo, thường là bất sanh, bất diệt, thường là vô tướng, vô tác, vô tri, vô đắc, thường là rốt ráo không”.
Tất cả thấy biết đều duyên vào sở duyên mà “có chuyện”, nên nói do huân tập mà ra. Như con thạch sùng(con thằn lằn)sống trong tường vôi thì trắng sạch. Cũng con thạch sùng ấy, nếu sống trong vách núi thì vằn vện, đen đủi. Đó là do môi trường sống huân tập mà ra. Người tu biết thật tướng các pháp bản lai thanh tịnh, chẳng duyên tâm, tâm sở nên chẳng thấy nhiễm tịnh. Người không tu trái lại tùy thuộc vào sở duyên nên thấy có nhiễm có tịnh.
Tất cả đều do phân biệt, chấp tâm trước tướng mà ra. Nếu đối cảnh không sanh tình, không bị động niệm, thì tâm như như bất động tức được thanh tịnh.
2- Phải tu phải học Bát Nhã như hư không mà tu mà học:
“Pháp tánh thẳm sâu rất hiếm có, hoặc nói hoặc chẳng nói đều không tăng giảm. Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ hết thọ lượng khen chê hư không, hư không kia cũng không tăng không giảm. Pháp tánh thẳm sâu cũng lại như thế... ”
Đối với Bát nhã Ba la mật đây, nếu tu hay chẳng tu thì cũng không tăng không giảm, không buồn không vui, không thuận không trái, giống như hư không, đều vô sở hữu, tức không được không đắc. Nhưng Bồ Tát vẫn tinh siêng tu học, vẫn mặc giáp đội mũ công đức thủ hộ chúng sanh. Mặc dù biết tất cả pháp đều như huyễn như mộng, hữu tình cũng như huyễn mộng... Vậy làm sao nói Bồ Tát thủ hộ ai? Biết như thế nhưng Bồ Tát không thủ không chấp, vẫn tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật không ngừng nghĩ, mặc giáp bị công đức lăng xả vào chúng quân sanh, thực hiện các hạnh nguyện khó hành, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.
Tu Bát nhã Ba la mật là vô trụ, vô thủ, vô trước, không đắc pháp không đắc hữu tình. Chính không thủ, không trước, không đắc mới là đắc pháp, đắc hữu tình... mới có thể thực thi được các công hạnh khó hành, giúp hữu tình vượt biển sanh tử mà qua bờ kia.
Tu Bát Nhã mà còn thủ tâm chấp tướng là còn chướng ngại phải tu như hư không. Bởi vì hư không mưa không làm ướt, lửa không đốt cháy, bụi không làm dơ, gió không lay chuyển, nước không nhận chìm. Hư không rộng lớn dung nhiếp tất cả. Nên kinh bảo tu Bát nhã Ba la mật như hư không mà tu, giống chim xí nương hư không bay lượn mà không bị câu ngại bởi hư không.
2. “Thuyết Tướng Bát Nhã”
1- Nói về thanh tịnh.
Đây chỉ là dư âm của phẩm “Thanh Tịnh” đã thuyết ở trên.
Vì sắc thanh tịnh, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì sắc chẳng thể diễn đạt, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhiểm chẳng tịnh, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì hư không không nhiễm ô nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Rốt ráo tất cả pháp đều như thế cả, nên nói Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.
Đại Trí Độ Luận nói rằng: “Khi vào được trong Bát Nhã Ba La Mật rồi thì biết rõ hữu vi cùng vô vi đều là không, tức là biết rõ hết thẩy các pháp, ở nơi thật tướng, đều là rốt ráo thanh tịnh cả”.
2- Bát Nhã như kho báu lớn:
Người nào thọ trì Kinh này thì đời này, đời sau có vô vàn công đức không thể nghĩ bàn. Vì vậy, mới nói Bát Nhã là kho báu lớn, cứu độ vô lượng chúng sanh. Kinh bảo:
(...) “Thiện nam thiện nữ ấy, do đọc tụng, tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm ở trong đại hội vô lượng ấy mà được công đức thù thắng vô lượng, vô số, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể suy lường. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật nầy là kho báu lớn, có khả năng cứu thoát vô lượng, vô biên hữu tình khỏi sự bần cùng đại khổ của địa ngục, bàng sanh, quỉ giới, loài người và chư thiên có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của dòng họ lớn Sát đế lợi, Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự phú quí an lạc của các chúng trời trong 25 cảnh giới; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả Thanh văn, quả vị Độc giác; có khả năng ban cho vô lượng, vô biên hữu tình sự an lạc của quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì trong kho báu lớn Bát nhã Ba la mật ấy rộng nói khai thị tất cả các pháp Phật. Đối với các thiện pháp quí báu như thế, vô số hữu tình theo đó tu học thì sẽ hưởng phước lộc không thể nghĩ bàn. Vì nhơn duyên nầy nên Bát nhã Ba la mật được gọi là kho báu lớn”.
Phẩm “Công Đức Khó Nghe”, quyển 301, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:
“Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình báu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.
Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì vậy, nên gọi Bát nhã Ba la mật là kho báu lớn”.
Đây là khó báu lớn cứu độ muôn loài khỏi trầm luân không những trong một kiếp, mà là cho vô vàn số kiếp đọa đày trong ba cõi sáu đường. Biết như vậy, phải tu tất cả các thiện pháp để tự độ và độ tha thôi.
3- Bát Nhã là tướng rỗng không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh cũng không nốt.
Phần sau phẩm “Vô Tác” quyển thứ 14, Kinh MHBNBLMĐ, Phật nói với Tu Bồ Đề:
“Nầy Tu Bồ Đề! Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tướng rỗng không nhẫn đến Đàn na Ba la mật, Đàn na Ba la mật tướng rỗng không; nội không nội không tướng rỗng không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không vô pháp hữu pháp tướng rỗng không; tứ niệm xứ tứ niệm xứ tướng rỗng không nhẫn đến bát Thánh đạo bát Thánh đạo tướng rỗng không; Phật thập lực thập lực tướng rỗng không nhẫn đến mười tám pháp bất cộng pháp bất cộng tướng rỗng không; quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm tướng rỗng không nhẫn đến Nhất thiết trí Nhất thiết trí tướng rỗng không”.
Đó là cái là rỗng không Bát Nhã: Trong không, ngoài không, cho đến vô tánh tự tánh cũng không nốt. Nên nói Bát Nhã trong suốt ngang đồng như hư không. Cái rỗng không này đưa đến vô thức vô niệm vô tâm mà sanh trí tuệ.
4- Bát nhã ba la mật không chuyển không hoàn:
Đặc tánh này cũng chỉ là hậu quả của cái gọi là “các pháp vô tri, trì độn, vô tác”. Kinh chỉ nói rộng thêm mà thôi. Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 44,“Vô Tác”, tập 4, quyển 65 giải thích rằng:
“Khi nghe nói Bát nhã Ba la mật là pháp rốt ráo thanh tịnh, rốt ráo bình đẳng, là thật tướng pháp, là pháp đại lợi ích cho chúng sanh, chẳng có lỗi lầm, chư Thiên rất vui mừng, hớn hở, đem hoa tán Phật, và đồng bạch Phật rằng: Ở cõi Diêm Phù Đề này, hôm nay chúng con lại được nghe Phật chuyển pháp luân lần thứ hai.
Hỏi: Vì sao chư Thiên nói đây là lần chuyển pháp luân thứ hai (đệ nhị chuyển pháp luân)?
Đáp: Khi Phật thuyết pháp lần đầu tiên có 5 anh em trong nhóm ngài Kiều Trần Như và 8 vạn chư Thiên được vô sanh pháp nhẫn. Đây là lần chuyển pháp luân đầu tiên (sơ chuyển pháp luân).
Nay trong hội Bát nhã Ba la mật này có vô lượng chư Thiên được vô sanh pháp nhẫn. Bởi vậy chư Thiên gọi đây là lần chuyển pháp luân thứ hai (đệ nhị chuyển pháp luân).
Phật chuyển pháp luân ví như đám mưa lớn rưới xuống mặt đất; mọi cây cỏ đều được thấm nhuần lợi lạc :
- Cây lớn hấp thụ lượng nước lớn.
- Cây nhỏ hấp thụ lượng nước nhỏ. Lần chuyển pháp luân này, Phật thuyết về Niết Bàn quả, cũng chính là Bát nhã Ba la mật vậy.
Vì Bát nhã Ba la mật chẳng khởi, chẳng tác, mà lại dẫn đến vô sanh pháp nhẫn, nên Phật dạy chẳng có chuyển, chẳng có hoàn.
Nếu trong 12 chi duyên khởi mà biết rõ vô minh là hư vọng, là rốt ráo không, là chẳng thật có, thì cũng biết rõ là chẳng có hành… dẫn đến chẳng có lão tử. Như vậy, là chẳng có pháp nào sanh, cũng chẳng có pháp nào diệt cả.
Vì thế gian chấp có pháp sanh, nên nói có chuyển pháp luân; chấp có pháp diệt, nên nói có hoàn pháp luân.
Còn Bát Nhã ly chuyển, ly hoàn, nên nói chẳng có chuyển, chẳng có hoàn; lại vì vô pháp và hữu pháp đều không, nên nói chẳng có chuyển; vì hữu pháp cũng là vô pháp, nên nói chẳng có hoàn.
Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề nêu câu hỏi liên hệ đến sự kiện “vô pháp và hữu pháp đều không, khiến Bát nhã Ba la mật chẳng vì chuyển hay vì hoàn mà xuất hiện”, Phật chỉ trả lời là “vì các pháp tướng đều là tánh không, nên Bát nhã Ba la mật chẳng phải vì chuyển hay vì hoàn mà xuất hiện”?
Đáp: Trước đây đã có nói, do tà niệm, nên mới khởi tà hạnh phân biệt các pháp có 4 tướng, nên trong tứ cú (câu) sau đây :
- Hữu (có),
- Vô (không),
- Diệc hữu, diệc vô (cũng có, cũng không),
- Phi hữu, phi vô (chẳng phải có, chẳng phải không).
Nay vì hiển bày chánh niệm, chánh hạnh, nên chẳng có chấp 4 tướng ấy. Chẳng chấp như vậy mới gọi là “chánh đạo”.
Ngài Tu Bồ Đề đã biết Phật dùng “tịch diệt tướng Niết Bàn” để phá các chấp về “hữu – vô”. Thế nhưng, vì sợ hàng sơ phát tâm chẳng hiểu, mà khởi sanh tà kiến, nên ngài phải thưa hỏi Phật như trên. Phật dạy vô pháp cùng hữu pháp đều là tánh không, nên khi thuyết Bát Nhã chẳng có chuyển, chẳng có hoàn. Phật lại dạy Bát nhã Ba la mật cùng hết thảy các pháp tướng đều là tánh không, nên khi thuyết Bát nhã Ba la mật chẳng có chuyển, chẳng có hoàn. Phật lại dạy Bát nhã Ba la mật cùng hết thảy các pháp tướng đều lá tánh không, nhằm phá chấp về “không tướng”, về “vô tướng tướng”, về “vô tác tướng” vậy.
Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề cùng đại chúng vui mừng, tán thán Bát nhã Ba la mật, và nói rằng: Bát Nhã cùng hết thảy các pháp, tuy là tự tánh không, mà Bát Nhã thường làm lợi ích cho chúng sanh, khiến Bồ Tát đắc Vô Thượng Bồ Đề, chuyển pháp luân. Bồ Tát dụng tâm vô sở đắc hành Bát nhã Ba la mật, nên tuy đắc Vô Thượng Bồ Đề mà chẳng có đắc, tuy chuyển pháp luân mà chẳng có chuyển vậy.
Hỏi: Nếu hết thảy các pháp đều là không, Bát nhã Ba la mật cũng là không, Vô Thượng Bồ Đề cũng là không, thì vì sao lại tán thán Bát nhã Ba la mật là Ma Ha Bát nhã Ba la mật?
Đáp: Thật tướng pháp là Bát nhã Ba la mật. Cho nên, khi nói hết thảy pháp đều là tự tánh không, thì như vậy chính là đã tán thán Bát nhã Ba la mật là Ma Ha Bát nhã Ba la mật rồi vậy.
Lại nữa, khi đã nói “không tướng”, thì chẳng có gì để chấp nữa. Bát nhã Ba la mật là rốt ráo không, nên chẳng có chổ để phá. Tuy ở nơi rốt ráo không, mà Bát nhã Ba la mật vẫn thường hành các thiện pháp. Nói “có đắc”, “có chuyển” là y theo thế tục, chẳng phải là y theo đệ nhất nghĩa.
Y theo thế tục, nói chư Phật thuyết pháp, khiến có người tận phá được các phiền não, vào được đạo, nên mới nói có đắc Vô Thượng Bồ Đề, có chuyển pháp luân vậy.
Nay biết rõ các phiền não… dẫn đến hết thảy các pháp đều là hư vọng, đều chẳng có định tướng, nên biết rõ các pháp chẳng chuyển, chẳng hoàn. Bởi vậy nên nói chuyển pháp luân, mà chẳng có chuyển, chẳng có hoàn.
Vì sao? Vì hết thảy các pháp ở nơi tự tánh đều rốt ráo không, nên chẳng có tướng chuyển, chẳng có tướng hoàn vậy. Cũng nên biết:
- Vì phá chấp thường, mà nói chẳng chuyển; vì phá chấp đoạn, mà nói chẳng hoàn.
- Vì phá chấp hữu, mà nói chẳng chuyển, vì phá chấp vô, mà nói chẳng hoàn.
- Vì phá chấp thế gian, mà nói chẳng chuyển; Vì phá chấp Niết Bàn, mà nói chẳng hoàn.
Hết thảy các pháp đều chẳng chuyển, chẳng hoàn, đều là không, là vô tướng, là vô tác.
Khi đã vào được 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác” là vượt thoát được ngã và ngã sở, nên chẳng còn chấp tâm, chẳng còn thủ tướng nữa”.
Nói tóm lại, kẻ thuyết, kẻ thọ, vật thí đều không. Phước điền không, nên phước đức cũng không, tất cả rỗng không như hư không. Biểu tướng danh ngôn đều bất khả đắc, nên cũng không “tuyên dương xưng tụng”. Như vậy mà gọi là Đại Ba la mật, thật là quái dị? Giáo pháp Tánh không là như thế, tất cả đều rỗng không như hư không. Nếu những ai biết tuân thủ cái không này thì có thể lên tàu mà vượt biển lớn. Nên kinh nói là Đại Ba la mật hay qua được biển sanh tử đến bờ bỉ ngạn bên kia.
---o0o--