Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

64. Phẩm "Thật Ngữ"

05/09/202018:36(Xem: 6816)
64. Phẩm "Thật Ngữ"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-454



PHẨM "THẬT NGỮ"

Phần sau quyển 457 đến phần đầu quyển 458, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Chúc Lụy”, phần sau quyển 346

cho đến phần đầu quyển 347, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Gợi ý:

Phần đầu của phẩm nói lên công đức của người an trụ Bát nhã Ba la mật. Phần sau của phẩm này, Phật phó chúc cho Ngài A Nan thọ trì và gìn giữ Bát nhã Ba la mật. Phật bảo: “Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát nhã Ba la mật thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử”.

Đó là “thật ngữ” phát ra từ kim khẩu của đức Thế Tôn. Biết như vậy, thì phải nghiêm chỉnh chấp trì để khỏi phụ lòng đức từ phụ.

Phẩm này tương đương với phẩm thứ 66, “Chúc Lụy”(Phó Chúc), tập 4, quyển 79, Đại Trí Độ Luận.

 

Tóm lược:

 

(Công đức của những người an trụ cũng như thọ trì Bát Nhã)

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con nói như thế, khen như thế, ghi như thế là thuận Thế Tôn thật ngữ pháp ngữ, đối với pháp tùy pháp thì có thể được ghi nhận là chân chính hay không?

Khi ấy, Phật bảo rằng:

- Kiều Thi Ca! Ngươi nói như thế, khen như thế, ghi nhận như thế là thật thuận Thế Tôn thật ngữ pháp ngữ, đối với pháp tùy pháp thật là chân chính.

Lúc ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:

- Thật hiếm có thưa Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện có nói điều gì cũng đều dựa vào pháp không, vô tướng, vô nguyện; dựa vào bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; cũng dựa vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; dựa vào tám giải thoát cho đến mười biến xứ; cũng dựa vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; dựa vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng dựa vào nội Không cho đến vô tánh tự tánh không, dựa vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cho đến cũng dựa vào Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng dựa vào Bồ Tát hạnh, dựa vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện trụ ở pháp không, quán bố thí, cho đến Bát nhã Ba la mật còn bất khả đắc huống gì người thực hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật làm sao có thể nắm bắt được; quán 37 pháp trợ đạo còn bất khả đắc, huống gì người tu tập bốn niệm trụ, cho đến tám chi Thánh đạo làm sao có thể nắm bắt; quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn bất khả đắc huống gì người tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc làm sao có thể nắm bắt; quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ còn bất khả đắc, huống gì người tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ làm sao có thể nắm bắt; quán Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo còn không thể nắm bắt huống gì người trụ nơi Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo làm sao có thể nắm bắt; quán nội không cho đến vô tính tự tính không còn bất khả đắc huống gì người trụ ở nội không cho đến vô tánh tự tánh không làm sao có thể nắm bắt; quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì còn bất khả đắc, huống gì người trụ ở chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì làm sao có thể nắm bắt; quán tất cả pháp Phật còn bất khả đắc, huống chi người tu tất cả pháp Phật làm sao có thể nắm bắt được; quán pháp không sanh, không diệt còn bất khả đắc huống gì người có thể chứng pháp không sanh, không diệt làm sao có thể nắm bắt. Vì sao? Vì đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ ở chỗ viễn ly, trụ ở chỗ vắng lặng, trụ ở chỗ vô sở hữu, trụ ở chỗ vô sở đắc, trụ ở chỗ rỗng không, trụ ở nơi vô tướng, trụ ở nơi vô nguyện.

Kiều Thi Ca! Đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ chỗ rất thù thắng như vậy. Kiều Thi Ca! Việc trụ chỗ rất thù thắng của Thiện Hiện so với chỗ trụ của đại Bồ Tát đã thực hành Bát Nhã thẳm sâu thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, cho đến không bằng một phần rất nhỏ. Vì sao? Kiều Thi Ca! Trừ chỗ trụ của Như Lai, đối với chỗ trụ của Thanh văn và Độc giác thì chỗ trụ vào việc thực hành Bát Nhã thẳm sâu của đại Bồ Tát là hơn hết, là thù thắng, là tôn quý, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là trên hết, là vô thượng, là không gì sánh bằng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát nào muốn trụ trên tất cả hữu tình thì nên trụ chỗ thực hành Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các vị đại Bồ Tát trụ chỗ này thì hơn hẳn địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, có thể mau viên mãn tất cả pháp Phật, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não nối nhau mau chứng Nhất thiết trí trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường làm lợi lạc tất cả hữu tình.

Bấy giờ trong chúng có vô lượng vô số trời Tam thập tam nghe lời Phật dạy sanh vui mừng cực độ. Mỗi vị cầm hoa thơm vi diệu ở cõi trời rải dâng lên Như Lai và các Tỳ kheo.

Lúc ấy sáu trăm Tỳ kheo ở trong pháp hội, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, che kín vai trái, quỳ gối phải sát đất, khom người cung kính chấp tay hướng về phía Phật. Nhờ thần lực của Phật, trong lòng bàn tay của mỗi vị tự nhiên đầy dẫy hoa thơm vi diệu. Các vị Tỳ kheo rất đi vui mừng vì gặp việc chưa từng có. Họ liền đem hoa này rải lên dâng Phật và các Bồ Tát.

Sau khi đã rải hoa, họ đều phát nguyện: Chúng con xin nhờ sức thiện căn thù thắng này để được thường trụ vào việc thực hành Bát nhã Ba la mật là chỗ mà nhị thừa không thể trụ được và mau đạt được quả vị Vô Thượng Bồ đề vượt hẳn địa vị Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, biết ý hướng thượng muốn đạt đại Bồ đề quyết không thối chuyển của các Tỳ kheo, đức Thế Tôn liền mỉm cười. Như thường lệ của chư Phật, từ miệng Ngài phóng ra đủ loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tím, bích, lục, vàng, bạc, pha lê chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Ánh sáng đó thu nhỏ lại, nhiễu quanh thân Phật ba vòng rồi chui vào đảnh Phật.

Sau khi thấy điềm lành này, Khánh Hỷ vui mừng cực độ rời khỏi chỗ ngồi đảnh lễ chân Phật và chấp tay thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười, chư Phật mỉm cười chẳng phải là không có nguyên do, cúi xin Như Lai thương xót nói cho.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Trong kiếp Tinh Dụ ở đời vị lai, các Tỳ kheo này sẽ được làm Phật, có cùng hiệu là Tán Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng, Điều Ngự trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Họ có tuổi thọ, chỗ ở, quốc độ và các đệ tử Tỳ kheo tất cả đều giống nhau. Các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này từ lúc mới sanh đi xuất gia cho đến sau khi thành Phật dù ở chỗ nào, dù ngày hay đêm cũng thường được rưới hoa thơm vi diệu năm màu. Vì lý do này ta mỉm cười. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Đại Bồ Tát nào muốn trụ nơi tối thắng thì phải thực hành Bát nhã Ba la mật.

Khánh Hỷ nên biết, thiện nam, thiện nữ nào siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu thì thiện nam, thiện nữ ấy vào đời trước hoặc từ trong loài người qua đời mà sanh trở lại nơi đây, hoặc từ cõi trời Đỗ xử đa qua đời, sanh vào loài người. Vào đời trước, hoặc ở trong loài người, hoặc ở trên trời, do đã từng nghe giảng rộng Bát nhã Ba la mật nên vào đời này người ấy có thể siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu. Khánh Hỷ nên biết! Như Lai thấy thiện nam, thiện nữ nào siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu không đoái hoài thân mạng, tài sản thì đúng là đại Bồ Tát.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe lời dạy Bát Nhã thẳm sâu như vậy, nghe xong thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, tuyên thuyết, khai thị, dạy bảo, truyền trao cho các thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa thì nên biết người ấy đã từng gần gũi chư Phật trong quá khứ. Người nào nghe nói Bát Nhã thẳm sâu này, nghe xong thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, tư duy đúng lý thì người ấy cũng đã từng tuyên thuyết, khai thị, dạy bảo, truyền trao cho người khác.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ này đã từng trồng các căn lành ở vô số cõi Phật trong quá khứ, cho nên đời này họ có thể làm được việc này. Thiện nam thiện nữ này liền nghĩ: Trước đây Ta không theo Thanh văn, Độc giác chỉ nghe nói Bát Nhã thẳm sâu này mà quyết chí theo Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác để nghe dạy Bát Nhã thẳm sâu như vậy. Trước đây Ta không trồng căn lành đối với Thanh văn, Độc giác mà quyết chỉ trồng các căn lành đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhờ nhân duyên đó, ngày nay Ta được nghe Bát Nhã thẳm sâu này, ưa thích, thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, giảng rộng cho mọi người không có mệt mỏi nhàm chán. (Q.458, ĐBN)

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe Bát Nhã thẳm sâu, nghe xong thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tu học, tư duy đúng lý, hoặc nghĩa, hoặc văn, hoặc pháp, hoặc ý, hoặc giới luật, họ đều có thể thông đạt thì thiện nam thiện nữ này hiện đang thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào nghe dạy nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật liền sanh lòng tin hiểu trong sạch, không hủy báng, không bị ngăn trở phá hoại thì các thiện nam, thiện nữ này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật phát nguyện rộng lớn, trồng các căn lành ở chỗ các đức Phật và cũng được vô lượng thiện tri thức chơn chánh hộ trì.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào có thể trồng các căn lành vào ruộng phước thù thắng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuy chắc chắn sẽ đạt được hoặc quả Thanh văn, hoặc quả Độc giác nhưng muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì cần phải thông suốt nghĩa lý Bát Nhã thẳm sâu, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; an trụ vào nội Không cho đến vô tính tự tính Không; an trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; an trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nói rộng ra là tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho được viên mãn.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào khéo thông suốt nghĩa lý Bát Nhã thẳm sâu, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cho được viên mãn, như vậy cho đến tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cho được viên mãn. Đại Bồ Tát này chỉ trụ ở địa vị Thanh văn hoặc Độc giác mà không chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì không có việc đó. Vì vậy, các đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải khéo thông đạt nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật làm cho được viên mãn, như vậy cho đến tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng làm cho được viên mãn.

 

(Phó chúc)

 

Vì thế, này Khánh Hỷ! Ta đem Bát nhã Ba la mật giao phó cho ngươi, ngươi nên thọ trì, đọc tụng thông suốt, đừng để quên mất.

Khánh Hỷ nên biết! Trừ kinh điển Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này, nếu ai thọ trì các kinh khác mà Ta đã giảng dạy, giả sử họ có quên mất thì tội ấy còn nhẹ, nhưng đối với kinh điển Bát nhã Ba la mật này, nếu không thọ trì trọn vẹn cho đến quên mất một câu thì tội ấy rất nặng.

Khánh Hỷ nên biết! Đối với kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, người nào có thể thọ trì cho đến một câu không để quên mất thì thu được vô lượng phước đức. Còn nếu đối với kinh điển Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, người nào không thọ trì trọn vẹn cho đến quên mất một câu thì mắc tội rất nặng ngang với phước nói trước. Vì thế, này Khánh Hỷ, Ta đem kinh điển Bát Nhã thẳm sâu, ân cần giao phó cho ngươi. Ngươi phải thọ trì, đọc tụng cho thông suốt và chính xác, tư duy đúng lý và giảng rộng cho người khác nghe, phân biệt, khai thị giúp cho người nghe hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa của nó, để họ có thể diễn giải đúng lý cho người khác nghe. Khánh Hỷ nên biết! Đối với kinh điển Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, giảng rộng cho người khác nghe thì chính là thọ trì nắm giữ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, hiện tại, vị lai đã chứng đắc.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào phát sanh tâm thanh tịnh, hiện đến chỗ Ta và muốn dâng đủ loại vòng hoa vi diệu, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lộng báu, âm nhạc, đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng khen ngợi không hề nhàm chán, không hề mệt mỏi thì đối với kinh điển Bát Nhã thẳm sâu người ấy phải hết lòng lắng nghe, thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, giảng rộng cho người khác, hoặc lại biên chép, trang điểm bằng châu báu, thường dùng đủ loại vòng hoa vi diệu, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lộng báu, âm nhạc, đèn sáng để cúng dường, cung kính, tôn trọng khen ngợi không được biếng nhác.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi Bát nhã Ba la mật thẳm sâu thì chính là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi Ta, cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương thế giới và cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi chư Phật ở quá khứ, vị lai.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như vậy, phát sanh lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng thì chính là đem lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc.

Khánh Hỷ! Nếu ngươi cung kính, tôn trọng và tin tưởng ở Ta thì phải chí thành tha thiết cung kính, tôn trọng, tin tưởng Bát nhã Ba la mật cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Việc giao phó Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này cho ngươi, tuy có vô lượng lý do nhưng Ta chỉ nói tóm gọn. Như Ta đã là đại Sư của các ngươi thì phải biết Bát nhã Ba la mật thẳm sâu cũng là đại Sư của các ngươi. Nếu các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng Ta thì cũng phải cung kính, tôn trọng Bát nhã Ba la mật thẳm sâu.

Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô số phương tiện thiện xảo giao phó Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu cho ngươi, ngươi phải thọ trì đừng để quên mất. Nay ở trước trời, người, A tu la và vô số đại chúng, Ta đem Bát Nhã thẳm sâu này giao phó cho ngươi.

Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam thiện nữ nào ưa thích lắng nghe Bát Nhã thẳm sâu, thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, đem vô lượng pháp môn giảng rộng cho người khác, phân biệt, khai thị, chỉ bày, an lập giúp họ hiểu rõ và siêng năng tu học thì thiện nam thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và gần được viên mãn Nhất thiết trí trí. Vì sao? Khánh Hỷ! Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng đắc đều dựa vào Bát Nhã thẳm sâu này mà được thành tựu.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều dựa vào Bát Nhã thẳm sâu này để thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Khánh Hỷ! Đại Bồ Tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì cần phải siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu này. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là mẹ của các đại Bồ Tát, đã sanh ra các vị đại Bồ Tát.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật giao phó cho ngươi, ngươi phải thọ trì cho đúng đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật này là kho pháp vô tận của các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Pháp Phật đều được sanh ra từ đó.

Khánh Hỷ nên biết! Pháp yếu mà chư Phật hiện tại, quá khứ, vị lai đã nói đều lưu xuất từ kho pháp vô tận là sáu pháp Ba la mật này.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật đời quá khứ, hiện tại và vị lai đều nương vào kho pháp vô tận là dựa vào sáu pháp Ba la mật để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật và chúng Thanh văn đời hiện tại, quá khứ, vị lai đều dựa vào kho pháp vô tận là sáu pháp Ba la mật siêng năng tu học mới nhập diệt cõi Vô dư y Niết bàn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Giả sử các ngươi nói pháp Thanh văn cho các chúng sanh thuộc Thanh văn thừa và nhờ pháp này mà tất cả hữu tình ở Tam thiên đại thiên thế giới đều chứng quả A la hán, thì chưa phải là vì Ta mà làm những việc Phật tử cần làm. Nếu các ông có thể giảng nói một câu pháp tương ưng với Ba la mật cho các chúng sanh thuộc Bồ Tát thừa nghe, thì mới chính là vì Ta mà làm công việc Phật tcần làm và Ta rất tùy hỷ đối với việc này, hơn là việc các ngươi giáo hóa tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới để cho họ đều đắc quả A la hán.

Lại nữa Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình ở Tam thiên đại thiên thế giới nhờ người khác chỉ dạy, nên đồng thời đều được thân người và đều chứng đắc quả A la hán; Các A la hán này có bao phước nghiệp thí tánh, phước nghiệp giới tánh, phước nghiệp tu tánh thù thắng. Ý ngươi nghĩ sao? Các phước nghiệp kia có nhiều không?

Khánh Hỷ thưa:

- Rất nhiều Thế Tôn. Phước nghiệp ấy là vô lượng, vô số.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Nếu có đệ tử Thanh văn nào có thể vì Bồ Tát giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã thẳm sâu trải qua một ngày đêm, thì thu được lượng phước đức nhiều hơn phước kia rất nhiều.

Khánh Hỷ nên biết! Không cần đến một ngày đêm chỉ cần một ngày, lại không cần đến một ngày, chỉ cần nửa ngày, không cần đến nửa ngày, chỉ cần một giờ, không cần đến một giờ chỉ cần qua một bữa ăn, hoặc chỉ cần thoáng một bữa ăn, hoặc chỉ cần trong khoảnh khắc, hay trong nháy mắt, Thanh văn nào có thể giảng nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát nghe chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì phước đức mà Thanh văn này thu được hơn hẳn công đức của tất cả Thanh văn, Độc giác.

Lại nữa Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát giảng nói pháp Thanh văn cho các chúng sanh thuộc Thanh văn thừa, giả sử nhờ pháp này tất cả hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới đều chứng đắc quả A la hán, đều đầy đủ các loại công đức thù thắng thì theo ý ngươi nhờ nhân duyên này đại Bồ Tát đó thu được nhiều phước đức không?

Khánh Hỷ thưa:

- Rất nhiều, thưa Thế Tôn, phước đức mà đại Bồ Tát này thu được là vô lượng vô biên.

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Đại Bồ Tát nào giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã thẳm sâu cho các thiện nam thiện nữ thuộc Thanh văn thừa, Độc giác thừa hoặc Vô thượng thừa suốt một ngày đêm thì thu được lượng phước đức hơn phước nói ở trước rất nhiều.

Khánh Hỷ nên biết! Không cần đến một ngày một đêm… chỉ cần trong nháy mắt, Đại Bồ Tát này có thể giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã thẳm sâu cho các thiện nam thiện nữ thuộc ba thừa thì thu được phước đức hơn phước đức trước vô lượng vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát nhã Ba la mật hơn hẳn tất cả pháp thí tương ưng với Thanh văn, Độc giác và các công đức của nhị thừa. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này tự cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng đem pháp tương ưng với đại thừa để khai thị, dạy dỗ và khích lệ giúp các hữu tình không còn thối lui đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát này tự tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng dạy người khác tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; tự tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng dạy người khác tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tự an trụ vào nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng dạy người khác trụ vào nội không cho đến vô tánh tự tánh không; tự an trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng dạy người khác an trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; nói rộng ra, tự an trụ tất cả pháp Phật cũng dạy người khác an trụ tất cả pháp Phật.

Bấy giờ, bốn chúng vây quanh Như Lai, chứng kiến Thế Tôn khen ngợi Bát nhã Ba la mật và phó chúc cho Tôn giả Khánh Hỷ thọ trì Bát Nhã trước tất cả hội chúng lớn: Trời, rồng, dạ xoa, cho đến nhơn và phi nhơn… Như Lai liền hiện thần thông khiến cho họ đều thấy ở cõi nước trang nghiêm của đức Như Lai Bất Động(1), có các Thanh văn, Bồ Tát vây quanh đang nghe Ngài giảng nói pháp vi diệu. Chúng Thanh văn Tăng ở cõi ấy đều là A la hán các lậu đã hết, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm khéo giải thoát, huệ khéo giải thoát, như tập ngựa khôn, cũng như rồng lớn, đã làm việc cần làm, đã hoàn tất việc đáng hoàn tất, bỏ các gánh nặng, đã được lợi mình, dứt sạch các kiết sử, chính trí giải thoát, tâm được tự tại, rốt ráo đệ nhất. Chúng Bồ Tát Tăng ở cõi ấy đều đạt được Đà la ni và có công đức trí huệ biện tài vô ngại giống như biển lớn. Sau đó, Thế Tôn liền thu thần lực lại làm cho cả hội chúng trời, rồng, dạ xoa cho đến nhơn và phi nhơn… không còn thấy Như Lai Bất Động, cùng Thanh văn, Bồ Tát và các đại chúng khác ở cõi Phật trang nghiêm kia. Vì chúng hội và cõi nước trang nghiêm của đức Phật ấy chẳng phải là đối tượng của nhãn căn ở cõi này. Vì sao? Vì Phật thu thần lực nên không còn duyên để thấy viễn cảnh ấy nữa.

Khi ấy, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ:

- Ngươi có còn thấy cõi nước và chúng hội của Như Lai Bất Động nữa không?

Khánh Hỷ đáp:

- Con không còn thấy cảnh giới ấy nữa vì chẳng phải sở hành của nhãn căn đây.

Phật bảo:

- Khánh Hỷ! Như Như Lai chúng hội cõi nước kia đều chẳng phải cảnh giới sở hành nhãn căn cõi này, phải biết các pháp cũng lại như thế, chẳng phải cảnh giới sở hành nhãn căn. Pháp chẳng hành pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ phải biết: Tất cả pháp tánh không kẻ năng chứng, không kẻ năng kiến, không kẻ năng tri, không động không tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như hư không, không có tác dụng, vì năng lấy bị lấy tánh viễn ly vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, vì năng sở nghĩ bàn tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp đều như huyễn như mộng..., nhiều duyên hòa hợp giả có. Vì tất cả pháp không kẻ tác thọ, vọng hiện như có, nhưng không bền chắc vậy(2).

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào có thể thực hành như vậy, có thể thấy như vậy, có thể biết như vậy, có thể chứng như vậy là thực hành Bát nhã Ba la mật và cũng không chấp trước tướng các pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào học như vậy là học Bát nhã Ba la mật. Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào muốn chứng đắc tất cả Ba la mật, muốn mau được viên mãn thì phải học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì trong các môn học, môn học này là hơn hết, là thù thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là tối thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình, làm nơi trông cậy cho tất cả hữu tình không nơi trông cậy, là nơi quay về nương tựa cho tất cả hữu tình không nơi quay về, là nơi hướng đến cho những người không chỗ hướng đến, là nhà cửa cho người không nhà cửa, là nơi cứu giúp cho những người không ai cứu giúp; chư Phật Thế Tôn khai mở, ca ngợi việc tu học Bát nhã Ba la mật.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các đại Bồ Tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác an trụ trong pháp này thì có thể dùng một ngón tay, hoặc ngón chân nhấc Tam thiên đại thiên thế giới đặt ở phương khác, hoặc đem về chỗ cũ mà các hữu tình ở trong đó chẳng hay chẳng biết, không tổn không sợ. Vì sao? Vì oai lực công đức của Bát Nhã thẳm sâu không thể nghĩ bàn. Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật và các chúng đại Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại, vị lai nhờ học Bát Nhã nên đều đạt được sự hiểu biết vô ngại. Vì vậy, này Khánh Hỷ! Trong các môn học, Ta nói môn học Bát Nhã thẳm sâu là hơn hết, là thù thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là tối thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.

Khánh Hỷ nên biết! Các hữu tình nào muốn nắm bắt hạn lượng bờ mé của Bát Nhã thẳm sâu thì cũng như người vô trí muốn nắm bắt hạn lượng bờ mé hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát Nhã thẳm sâu là vô lượng, vô biên.

Khánh Hỷ nên biết! Ta quyết không diễn tả công đức thù thắng của Bát nhã Ba la mật bằng danh từ “hạn lượng, bờ mé”. Vì sao? Vì tất cả danh từ, văn cú là pháp có hạn, còn công đức thù thắng của Bát Nhã thẳm sâu chẳng phải là pháp có hạn lượng, chẳng phải danh từ, văn cú có thể đo lường công đức thù thắng của Bát Nhã, cũng chẳng phải công đức thù thắng của Bát Nhã là thứ pháp có thể đo lường.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao nói Bát Nhã thẳm là vô lượng?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Vì tánh của Bát Nhã thẳm sâu là vô tận nên Ta nói là vô lượng, vì tánh xa lìa nên Ta nói là vô lượng, vì tánh tịch tịnh nên Ta nói là vô lượng, vì như thật tế nên nói là vô lượng, vì như hư không nên nói là vô lượng.

Khánh Hỷ nên biết! Tất cả chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều học Bát nhã Ba la mật hoàn toàn viên mãn, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giảng giải khai thị cho các hữu tình nhưng Bát Nhã thẳm sâu này vẫn vô cùng tận. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu cũng giống như hư không, là vô tận vậy. Hữu tình nào muốn biết hạn lượng bờ mé Bát Nhã thẳm sâu tức là muốn biết hạn lượng bờ mé của hư không. Khánh Hỷ nên biết! Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận; nội không cho đến vô tính tự tính không chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận; tất cả pháp Phật chẳng phải đã cùng tận, chẳng phải đang cùng tận, chẳng phải sẽ cùng tận. Vì sao? Các pháp như thế không sanh không diệt, cũng không trụ, không đổi không dời, làm sao thi thiết có trụ có tận.

Bấy giờ, Thế Tôn hiện ra tướng lưỡi dài rộng che khắp khuôn mặt, sau đó thu hồi, rồi bảo Khánh Hỷ:

- Nếu người nào có tướng lưỡi như vậy thì có nói lời hư dối không?

Khánh Hỷ đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Từ nay trở đi ngươi hãy vì bốn chúng giảng rộng Bát Nhã thẳm sâu này, phân biệt, khai thị, chỉ bày, an lập giúp họ dễ hiểu.

Khánh Hỷ nên biết! Trong Kinh Bát Nhã thẳm sâu này rộng giảng tất cả Bồ đề phần pháp và các pháp tướng. Vì vậy, tất cả các chúng sanh cầu Thanh văn thừa, Độc giác thừa và cầu Vô thượng thừa đều dựa vào pháp môn Bát Nhã thẳm sâu đã được dạy thường siêng tu học, ch sanh nhàm chán, mệt mỏi. Ai thường siêng tu học như vậy thì sẽ mau chứng đắc pháp mà mình mong cầu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Bát Nhã thâm sâu có thể ngộ nhập vào tất cả pháp môn, có thể ngộ nhập vào tất cả văn tự, có thể ngộ nhập vào pháp môn Đà la ni. Các đại Bồ Tát đối với pháp môn Đà la ni phải siêng năng tinh tấn tu học. Nếu đại Bồ Tát thọ trì pháp môn Đà la ni như vậy thì mau chứng đắc tất cả biện tài, các hiểu biết vô ngại.

Khánh Hỷ nên biết! Kinh điển Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này chính là kho pháp vô tận của chư Phật Thế Tôn đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì vậy, Ta bảo ngươi một cách rõ ràng: Người nào thọ trì đọc tụng, hoàn toàn thông suốt Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này và tư duy đúng lý tức là thọ trì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của tất cả chư Phật ở quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Khánh Hỷ! Ta nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu là đôi chân kiên cố có khả năng đi đến đạo Bồ đề, cũng là đại Đà la ni của tất cả Phật pháp vô thượng. Nếu các ông có khả năng thọ trì các Đà la ni Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, tức là nắm giữ tất cả Phật pháp khiến không mất, cùng các hữu tình tận đời vị lai làm đại nhiêu ích cho tất cả chúng sanh.

 

Thích nghĩa:

(1). Như Lai Bất động hay còn gọi là Bất động Phật, Vô động Phật, Vô nộ Phật, Vô sân Phật, A súc Bất động Như Lai, Diệu Sắc Thân Như Lai… Đây là cõi Tịnh độ Phương Đông.

(2). Đây có thể xem như một định nghĩa chân xác và gãy gọn nhất về tất cả pháp tánh.

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Thật Ngữ” của Hội thứ II này chia làm hai phần rõ rệt: 1. Phần thứ nhất nói về Bồ Tát an trụ cũng như thọ trì Bát nhã Ba la mật và 2. Phần thứ hai là Phật phó chúc cho Ngài A Nan thọ trì Kinh Bát nhã Ba la mật. 

 

1. Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật:

 

   Tất cả dẫn giải của phần đầu phẩm này nằm trong câu Kinh sau đây: “… quán tất cả pháp Phật còn bất khả đắc, huống chi người tu tất cả pháp Phật làm sao có thể nắm bắt được; quán pháp không sanh-không diệt còn bất khả đắc huống gì người có thể chứng pháp không sanh-không diệt làm sao có thể nắm bắt. Vì sao? Vì đối với tất cả các pháp, cụ thọ Thiện Hiện trụ ở chỗ viễn ly, trụ ở chỗ vắng lặng, trụ ở chỗ vô sở hữu, trụ ở chỗ vô sở đắc, trụ ở chỗ rỗng không, trụ ở nơi vô tướng, trụ ở nơi vô nguyện”.

Người chưa vào được Bát Nhã thì thường bị trần cảnh lôi cuốn, nên hợp trần mà bội giác. Người vào được Bát Nhã thật tướng rồi quán biết nhân không pháp không, biết các pháp chỉ là duyên hợp, không thật có, tự tánh không, các pháp không sanh-không diệt, vô sở hữu, không thể nắm bắt cất giữ nữa tức viễn ly, xa lìa trần cấu… nên nói bội trần hợp giác thì tâm được an nhiên tịch lặng mà kinh thường diễn tả là an trụ chỗ vắng lặng nhiệm mầu gọi là cửa giải thoát “không, vô tướng, vô tác”.

Vì vậy, tu là phải thọ trì và an trụ trong Bát nhã Ba la mật, được coi là chỗ trụ, chỗ thực hành thẳm sâu của đại Bồ Tát, cũng là chỗ thù thắng tôn quý, cao cả, là diệu, là vi diệu, là trên hết, là vô thượng, là không gì sánh bằng.

Đại Bồ Tát nào muốn vượt trên tất cả hữu tình thì nên trụ chỗ thực hành Bát Nhã thẳm sâu. Vì sao? Các vị đại Bồ Tát trụ chỗ này thì hơn hẳn các bậc Thanh văn, Độc giác, chứng nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, có thể mau viên mãn tất cả pháp Phật, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não nối nhau, mau chứng Nhất thiết trí trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thường làm lợi lạc tất cả hữu tình.

Nên Kinh MHBNBLMĐ mới nói: “Tận đoạn hết thảy phiền não và tập khí là căn bản của việc hành không”. Đó là lý do tại sao cứ thuyết một vài phẩm Kinh ĐBN thì Phật lại khuyến khích chúng sinh nên đọc tụng thọ trì Kinh này.

 

2. Phó chúc:

 

Phẩm này tương đương với phẩm “Chúc Lụy”, phần sau quyển 346 cho đến phần đầu quyển 347, Hội thứ I, ĐBN. Đức Thích Ca Mâu Ni đem Bát nhã Ba la mật giao lại cho Thị giả của Ngài là Ông A Nan với lời phó chúc thống thiết như sau:

“Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi Bát Nhã thẳm sâu thì chính là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi Ta, cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp ở mười phương thế giới và cũng là cúng dường, cung kính, tôn trọng, ca ngợi chư Phật ở quá khứ, vị lai.

Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ nào nghe nói Bát Nhã thẳm sâu như vậy, phát sanh lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng thì chính là đem lòng tin trong sạch, cung kính tôn trọng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc.

Khánh Hỷ! Nếu ngươi cung kính, tôn trọng và tin tưởng ở Ta thì phải chí thành tha thiết cung kính, tôn trọng, tin tưởng Bát nhã Ba la mật cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Việc giao phó Bát Nhã thẳm sâu này cho ngươi, tuy có vô lượng lý do nhưng Ta chỉ nói tóm gọn. Như Ta đã là đại Sư của các ngươi thì phải biết Bát Nhã thẳm sâu cũng là đại sư của các ngươi. Nếu các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng Ta thì cũng phải cung kính, tôn trọng Bát Nhã thẳm sâu.

Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô số phương tiện thiện xảo giao phó Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu cho ngươi, ngươi phải thọ trì đừng để quên mất. Nay ở trước trời, người, A tu la và vô số đại chúng, Ta đem Bát Nhã thẳm sâu này giao phó cho ngươi.

Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử”.

Đây là lời phó chúc nồng nàn nhất của Thế Tôn đối với Bát nhã Ba la mật. Vì sao?

Vì trong các môn học, môn học này là hơn hết, là thù thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là tối thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình, làm nơi trông cậy cho tất cả hữu tình không nơi trông cậy, là nơi quay về nương tựa cho tất cả hữu tình không nơi quay về, là nơi hướng đến cho những người không chỗ hướng đến, là nhà cửa cho người không nhà cửa, là nơi cứu giúp cho những người không ai cứu giúp; chư Phật Thế Tôn khai mở, ca ngợi việc tu học Bát nhã Ba la mật”.

 

Cứ y như vậy chấp hành thì sẽ có vô vàn công đức. Đó là thật ngữ của Phật, không còn nghi ngờ gì nữa. Do đó, không những tự mình tụng đọc thọ trì truyền bá rộng rãi Kinh này mà còn dùng đủ loại vòng hoa vi diệu, hương xoa, hương bột, y phục, anh lạc, tràng phan, lộng báu, âm nhạc, đèn sáng… mà vì cúng dường./.

 

---o0o---

  


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567