Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận 06. Những Điều Kiện Để Thành Tựu Giác Ngộ.

08/04/202119:38(Xem: 7394)
Luận 06. Những Điều Kiện Để Thành Tựu Giác Ngộ.

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-562

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TÁNH KHÔNG BÁT NHÃ

(Với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

LUẬN #6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ.

 

 

Chúng ta cảm ơn đạo Phật bằng các kỹ thuật tu trì quán tưởng có thể giúp ta giải quyết các phiền não, các lậu hoặc trong cuộc sống hằng ngày để đưa chúng ta vào cảnh giới mong muốn. Muốn sống cõi nhân thiên giàu sang sung sướng thì tu tập ngũ giới hay thập thiện đạo. Nhưng nếu muốn đi xa hơn thì đạo Phật có thể giúp ta thoát khỏi: Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, kẻ thương yêu mà phải bị chia lìa xa cách, kể oán thù mà phải gần gũi thận cận, những ước mong không bao giờ đến v.v... thì Tứ đế có thể giúp ta đạt địa vị Thanh văn, thoát khổ được giải thoát hay đạt Niết bàn. Nếu chúng ta muốn diệt vô minh, phá vỡ 12 mắc xích của luân hồi sanh tử, thì giáo pháp Thập Nhị Nhân Duyên có thể đưa ta lên địa vị Bích Chi Phật. Muốn đi xa hơn nữa là độ mình độ người, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ thì Lục độ vạn hạnh có thể giúp ta đạt đến cảnh giới Bồ Tát hay Phật.

Tất cả pháp tu trên đều nằm trong các pháp mầu Phật đạo, các thiện pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát hay còn gọi là Bồ Tát đạo. Tất cả các pháp này đều được nhiếp thu vào Bát nhã Ba la mật và được xem như là các pháp thực tu thực chứng cũng là những phương tiện thiện xảo hỗ trợ Bát Nhã hoàn thành sứ mệnh giác ngộ và chứng đắc Vô Thượng Bồ đề hay Nhất thiết trí trí. Không có các pháp này, thì không có Phật, Bồ Tát, không có Thanh văn, Độc giác hay nói khác không có Tiểu thừa, Đại thừa hay Phật đạo.

 

1. Phương tiện thiện xảo:

 

Mười pháp Ba la mật là Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật, phương tiện xảo, nguyện, lực và trí Ba la mật: Sáu Ba la mật đầu được coi là thành phần chánh trong việc cấu thành tinh thể Bồ Tát, bốn Ba la mật sau chỉ được xem như hỗ trợ. Vì vậy, hơn bao giờ hết sáu pháp đầu nhất là Bát nhã Ba la mật được xem là bộ phận mẹ. Vì rằng, thiếu Bát Nhã, các Ba la mật khác không thể hoạt động được. Thành phần thứ hai, thì phương tiện thiện xảo (upayakausalya) được xem là quan trọng hơn cả. Vì rằng, thiếu phương tiện thì không có cứu cánh mà cứu cánh tu hành không ngoài việc thành đạt Bát Nhã hay Giác ngộ, đắc Nhất thiết trí trí, để có thể tự độ và cũng có thể độ tha.

Mục đích của phần thảo luận này chính là phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật. Ngoài ra, một số giáo pháp khác cũng không kém phần quan trọng mà Phật phải dùng từ như mật ngữ, pháp ấn hay các đại luân tự để nói lên chức năng của chúng như những điều kiện thiết yếu trong việc thành tựu Giác ngộ hay thành đạt Bát nhã Ba la mật.

Chắc mọi người còn nhớ Phật sử đã được lặp lại nhiều lần khi Phật chứng đạo, Phật thấy pháp mình chứng khó truyền đạt cho người, nên muốn nhập Niết bàn ngay, may nhờ Phạm Thiên cầu khẩn nếu không thể thuyết giảng cho mọi người thì xin Ngài dùng thí dụ, phương tiện quyền biến tiếp độ chúng sanh. Phật hứa rồi từ đó Phật lặn lội khắp miền Trung Bắc Ấn và các vùng lân cận chung quanh châu thổ sông Hằng, dùng phương tiện quyền biến mà hóa độ chúng sanh.

Phương tiện tức là chất liệu để xây dựng mọi lâu đài vật chất cũng như tinh thần. Không có phương tiện thì không có cái gì để thành cái gì.

 

- Phẩm “Gần Gũi”, quyển 464, Đại Bát Nhã. Nói:

Bồ Tát Ma ha tát dù hành bố thí mà chẳng mong cầu quả thí; dù hành tinh tiến mà chẳng mong cầu được quả chóng thành; dù hành tĩnh lự mà chẳng mong cầu được quả định đã tu; dù hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng mong cầu được quả huệ... Như vậy, là chẳng mong đạt cảnh giới khả ái và sanh nơi tốt đẹp, mà chỉ vì cứu hộ kẻ không được cứu hộ và muốn giải thoát cho kẻ chưa được giải thoát.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí vào bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Bồ Tát Ma ha tát này dù đối tĩnh lự, vô lượng, vô sắc vào ra tự tại mà chẳng nhiếp thọ quả dị thục kia. Vì sao? Bồ Tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo rất thù thắng, quán các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc tự tướng đều không, không thật không thành, không chuyển không diệt, vào tướng các pháp, biết tất cả pháp không tác không năng, vào tướng các hành.

Bồ Tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo như thế, thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây thường tăng trưởng nên năng hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc. Do hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc bèn được tự thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật”.

“(...)Lại nữa, Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tuy được tự tại thuận nghịch vào ra tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thảy, mà trọn nên phuơng tiện khéo léo chẳng muốn nhận quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Duyên giác. Vì sao? Bồ Tát Ma ha tát này quán tất cả pháp tự tướng đều không, không thật không thành, không chuyển không diệt, vào tướng các pháp, biết tất cả pháp không tác không năng, vào tướng các hành. Bồ Tát Ma ha tát này trọn nên phương tiện khéo léo rất thù thắng, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây thường tăng trưởng, nên năng viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí.

Tu Bồ Đề! Như vậy gọi là phương tiện khéo léo. Nếu Bồ Tát Ma ha tát trọn nên phương tiện khéo léo như thế, làm việc đáng làm năng chứng Nhất thiết trí trí. Phương tiện khéo léo thù thắng như thế đều do Bát nhã Ba la mật mà thành tựu.

 

- Phẩm “Thành Thục Hữu Tình”, quyển 392, Hội thứ I, ĐBN, Huệ mạng Tu Bồ Đề thưa Phật rằng:

Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Có Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo tự hành bố thí, cũng khuyên người hành bố thí, ân cần dạy người rằng: Các thiện nam tử! Chớ chấp bố thí, nếu chấp bố thí sẽ thọ lại thân, nếu thọ lại thân sẽ vì thân mà chịu nhiều khổ ải!

Các thiện nam tử! Trong thắng nghĩa đế đều không có bố thí, cũng không kẻ thí, cũng không kẻ thọ, cũng không vật thí, cũng không quả thí. Các pháp như thế đều không tánh. Trong Tánh không vô pháp khá lấy, tánh các pháp không cũng chẳng khá lấy. Như vậy, Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành bố thí Ba la mật, dù đối hữu tình tự hành nơi thí, cũng khuyên người thí, mà đối bố thí, kẻ thí, kẻ thọ, vật thí quả thí đều vô sở đắc. Bố thí như thế gọi là vô sở đắc Ba la mật. Bồ Tát Ma ha tát này khi đối các pháp đây vô sở đắc, phương tiện khéo léo, mới năng giáo hóa hữu tình được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Duyên giác, hoặc Bồ Tát, hoặc tới Vô Thượng Bồ đề. Như vậy, Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật nương pháp bố thí thành thục hữu tình khiến được lợi vui.

Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật nương pháp bố thí thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật cũng chính là thanh tịnh thân tâm mình. Đó là phương tiện thiện xảo, tự lợi lợi tha mang lại nhiều công đức cho những ai hành Bát nhã Ba la mật.

 

 - Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567, ĐBN, Tối Thắng Thiên Vương bạch Phật: Sao gọi Bồ Tát phương tiện thiện xảo?

Phật nói: Thiên vương! Là bốn vô lượng. Các Bồ Tát Ma ha tát vì đủ tâm Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, nên thường lợi vui hữu tình, đấy là phương tiện thiện xảo của Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn vô lượng ấy gọi là Đại?

Thiên vương phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật đủ Từ không ngằn, Từ không phân biệt, Từ các pháp tánh, Từ chẳng ngưng nghỉ, Từ không não hại, Từ rộng nhiêu ích, Từ tánh bình đẳng, Từ khắp lợi vui, Từ xuất thế gian. Loại như thế thảy gọi là Đại từ.

Thiên vương phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không chỗ về nương, vì muốn cứu vớt phát tâm Bồ đề, siêng cầu Chánh pháp. Đã được Chánh pháp rồi vì hữu tình tuyên nói: Các kẻ tham lam, dạy hành bố thí. Kẻ không giới, phá giới, dạy thọ trì giới. Kẻ bạo ác dạy hành nhẫn nhục. Kẻ biếng lười trễ nhác, dạy hành tinh tiến. Kẻ tâm tán loạn, dạy hành tĩnh lự. Kẻ ngu si, dạy học diệu huệ. Vì độ hữu tình dù gặp gian khổ, quyết chẳng bỏ lìa tâm Bồ đề. Như thế gọi là Đại Bi.

Thiên vương phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khởi suy nghĩ này: Ba cõi lửa dữ ta đã ra khỏi nên sanh vui mừng. Sanh tử ràng buộc nay ta đã dứt, nên sanh vui mừng. Ở biển sanh tử tìm tòi lấy tướng, ta đã ra khỏi. Cây cờ kiêu mạn đã dựng từ vô thủy ta đã bẻ gãy. Dùng trí kim cương phá núi phiền não khiến ta tự yên ổn, lại yên ổn kẻ ngu si tâm tối tham sân si, phiền não trói buộc mê mờ, nay mới được tỉnh thức, nên sanh vui mừng. Ta nay đã khỏi tất cả ác thú, lại năng cứu vớt hữu tình ác thú khiến được ra khỏi, nên sanh vui mừng. Hữu tình từ lâu sống trong sanh tử mê loạn chẳng biết đường ra, ta nay chỉ cho chánh đạo, đều đến thành đô Nhất thiết trí an vui rốt ráo, nên sanh vui mừng. Như thế thảy gọi là Đại Hỷ.

Thiên vương phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát hành sâu Bát nhã Ba la mật khắp đối tất cả mắt thấy được sắc, tai nghe được tiếng, mũi ngửi được hương, lưỡi nếm được vị, thân giác được xúc, ý rõ được pháp, chẳng đắm lìa mà khởi tâm xả. Loại như thế thảy gọi là Đại Xả.

Thiên vương phải biết: Các Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật sâu thẳm, trọn nên bốn vô lượng tâm như thế, do đấy gọi là phương tiện thiện xảo.

Phương tiện thiện xảo phát xuất từ bốn tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả của tất cả chư Phật và Bồ Tát, thiếu tâm này cuộc đời hành đạo của các Ngài trở thành tẻ nhạt. Đó chính là mạch sống của chư Phật chư Bồ Tát, mạch sống của Đại thừa.

Bốn thứ tâm lượng rộng lớn đó, nói lên được lòng lân mẫn yêu thương vô bờ bến của các Ngài đối với muôn loài. Bốn tâm này nhằm đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham lam, lại làm lợi ích cho vô lượng vô số chúng sinh. Nên gọi là tứ vô lượng tâm. Thiếu bốn tâm này, Bồ Tát không được xem là người mặc giáp bị công đức thực thi phương tiện thiện xảo cứu độ chúng sanh!

 

- Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, Q. 328 đến Q. 330, Hội thứ I, ĐBN:

“Các Đại Bồ Tát khi tu hành lục Ba la mật, đem tác ý nầy với tất cả thiện căn, cùng các hữu tình bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do sức phương tiện thiện xảo hồi hướng này, mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao”.

Đem thiện căn công đức của chính mình bình đẳng ban cho kẻ khác rồi cùng hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng được xem là phương tiện thiện xảo.

 

- Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, quyển 4, phẩm “Bình Đẳng”. Phật bảo:

“Này Đại Vương! Bậc đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật không có một tâm, một hạnh nào mà không hướng đến Nhất thiết trí. Bậc đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật duyên khắp các pháp mà không bị đắm trước, xem thấy các pháp đều đưa đến giác ngộ nên gọi là phương tiện thiện xảo”.

Phương tiện thiện xảo như vậy, không phải là những chánh sách, những kế hoạch hay các chương trình hành động to lớn mà bất cứ pháp nào đưa đến giác ngộ cũng được xem là phương tiện thiện xảo.

 

2.Các giáo pháp hỗ trợ cho sự thành tựu Giác ngộ:

 

Ngoài 10 Ba la mật như bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, phương tiện xảo, nguyện, lực và trí Ba la mật được xem là những phương tiện thiện xảo chính. Tuy nhiên, Kinh nói bất cứ pháp nào dẫn đến giác ngộ hay thành đạt Bát Nhã đều được xem là phương tiện thiện xảo. Vậy, hãy khảo cứu xem các giáo pháp sau đây mà Phật bảo là mật ngữ, pháp ấn trí ấn, pháp tạng trí tạng hay các đại luân tự thật sự có đóng vai trò quan trọng nào cho sự thành tựu này hay không?

 

1- Vô sở hữu, bất khả đắc và những dẫn xuất(1) của chúng. Đó là những cụm từ hết sức quan trọng trong việc chứng ngộ mà hầu hết Kinh điển Phật giáo thường xuyên nói đến, chúng chẳng khác nào như những Thánh chỉ của Phật đạo:

 

Nơi nào có sở hữu hiện diện thì nơi đó có vô sở hữu, nơi nào có khả đắc hiện diện thì nơi đó có bất khả đắc hay ngược lại. Cả hai song hành như hai mặt của một đồng tiền trong cái thế lưỡng nguyên của chúng. Như vậy, phải nói vô sở hữu, bất khả đắc mới có khả năng chấp cánh bay cao để thoát khỏi sự kiềm tỏa của thế giới phân hai và trở thành một thứ trực giác thực chứng được gọi là “huệ”, huệ đến từ bờ kia. Những đoạn Kinh được trích dẫn sau đây sẽ chứng minh điều đó:

 

1/. Giáo nghĩa Hữu sở đắc và Vô sở đắc:

 

- Phẩm “Xảo Tiện”, quyển 462, Hội thứ II và phẩm “Phương Tiện Khéo Léo”, quyển 525, Hội thứ III, ĐBN nói rằng:

“Khả đắc nằm trong thế giới lưỡng nguyên đối đãi và bất khả đắc lại trong một thế giới vượt lên trên. Bất cứ ở đâu có tương phản giữa có và không, ở đó có khả đắc tánh và do đó có chấp trước; vốn là kẻ thù của giác ngộ và giải thoát.

Phật nói với Tu Bồ đề: Những nơi nào có hai tướng là hữu sở đắc; những nơi nào không hai là vô sở đắc. Khi mắt đối với sắc hay ý đối với pháp là có hai tướng. Chúng sanh đối với Phật là hai tướng. Pháp nương tựa hai tướng là pháp hý luận, thuộc cõi hữu sở đắc.

Phi mắt phi sắc, phi tai phi thanh, phi ý phi pháp, cho đến phi giác phi Phật; lìa hết thảy hý luận như thế, đó là vô nhị, không hai. Đó là chỗ vô sở đắc.

Tu Bồ đề bạch Phật: Bạch thế Tôn! Phải chăng vì hữu sở đắc nên là vô sở đắc hay vì vô sở đắc nên vô sở đắc?

Phật nói: Không phải do hữu sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng vì hữu sở đắc vô sở đắc đều bình đẳng trong tự tánh nên gọi là vô sở đắc. Bồ Tát khi học như thế, gọi là học Bát nhã Ba la mật trong nghĩa vô sở đắc, lìa bỏ các sai lầm.

Tu Bồ đề lại bạch Phật: Bạch thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, không dính hữu sở đắc, không dính vô sở đắc, Bồ Tát đó làm thế nào tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị, dần dần đến chỗ tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí chăng?

Phật bảo tu Bồ đề: Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã sâu xa, không phải trụ hữu sở đắc, không phải trụ vô sở đắc, thực hành Bát Nhã sâu xa có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị dần dần tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí. Vì sao? Bát nhã Ba la mật thậm thâm là vô sở đắc, Nhất thiết trí cũng vô sở đắc; người thực hành thực hành Bát nhã Ba la mật, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả đều vô sở đắc. Vô sở đắc này cũng là vô sở đắc nốt!

Chẳng phải có sở đắc nên vô sở đắc, chẳng phải vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng có sở đắc, không sở đắc bình đẳng trong tự tánh gọi vô sở đắc. Các đại Bồ Tát đối với tánh bình đẳng có sở đắc, không sở đắc nên siêng tu học. Các đại Bồ Tát khi học như thế gọi học Bát nBa la mật vô sở đắc. Vì vậy, trong Đại Trí Độ Luận lặp lại lời Phật dạy như sau:Chấp hữu sở đắc, chấp vô sở đắc đều lầm lỗi. Bởi vậy nên ở nơi cả 2 việc đó, Bồ Tát thường giữ tâm bình đẳng. Dùng vô sở đắc để phá chấp về hữu sở đắc; khi đã phá xong hữu sở đắc rồi, thì cũng phải bỏ luôn chấp về vô sở đắc. Như vậy mới có được tâm bình đẳng ở nơi hữu sở đắc và vô sở đắc vậy”.

 

Các đại Bồ Tát khi hành Bát nBa la mật chẳng phải trụ có sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn Nhất thiết trí trí, chẳng phải trụ sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn được Nhất thiết trí trí. Vì có sở đắc là có chấp, có chấp là có dính mắc quái ngại. Vì vậy, không Giác ngộ, không được Vô Thượng Bồ đề hay Nhất thiết trí trí. Nên Phật bảo: “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật, vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Ở đây, vô sở đắc đã được nâng lên cao độ ngang hàng với Bát nBa la mật hay Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Nhưng kinh nghiệm Bát Ncho thấy rằng một khi quan niệm vô sở đắc là tôn chỉ tối cao của Bát nBa la mật, thời vô sở đắc cũng trở thành một chướng ngại khác đối với hành giả Bát Nhã. Vô sở đắc rốt ráo phải là vô sở đắc nốt. Tất cả phải là không, là rỗng không. Đó là tôn chỉ Bát nBa la mật! Bát nBa la mật phải là Bát nBa la mật khi hành không, vô tướng, vô tác. “Bát nhã Ba la mật thậm thâm là Vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng là Vô sở đắc; người thực hành Bát Nhã, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả cũng đều Vô sở đắc; Vô sở đắc này cũng là Vô sở đắc nốt”.

Tất cả phóng xả(2), phủi sạch hết thế là xong! Đó là phương tiện tốt trong việc tu tập Bát nBa la mật để Giác ngộ. Ngày nào còn mong cầu nắm giữ cất dấu thì ngày đó còn trở ngại cho việc tu học hay chứng đắc.

 

- Phẩm “Vô Tướng”, Q.466, Hội thứ II, ĐBN. Phật bảo:

“... Thiện Hiện phải biết, kẻ trụ có sở đắc, bởi tưởng có sở đắc, không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Bạch thế Tôn! Nếu kẻ có sở đắc, sẽ không đắc, không hiện quán, cũng không được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kẻ không sở đắc, sẽ có đắc, có hiện quán, có được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu không sở đắc, tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì kẻ đó chẳng hoại pháp giới vậy.

“... Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Bạch thế Tôn! Nếu kẻ có sở đắc, sẽ không đắc, không hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hay không sở đắc tức là đắc, tức là hiện quán, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Trong sở đắc, không đắc, không hiện quán cũng không được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các Bồ Tát Ma ha tát làm sao được từ sơ địa lên đến thập địa? Làm sao được Vô sanh pháp nhẫn? Làm sao được dị thục(3) thần thông? Làm sao được dị thục bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật? Làm sao an trụ pháp sanh dị thục như thế để thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường các món thượng diệu để được căn lành, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng quả bất tận, lần lữa cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la mình và các đệ tử vẫn được người đời cung kính cúng dường thế lực căn lành như vậy mới bất tận?

Phật bảo: Thiện Hiện! Vì tất cả pháp sở đắc nên các Bồ Tát Ma ha tát được sơ địa cho đến thập địa. Tức do đây nên được Vô sanh pháp nhẫn. Tức do đây nên được dị thục thần thông. Tức do đây nên được dị thục bố thí cho đến Bát Nhã. Tức do đây nên được an trụ pháp sanh dị thục, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Ở chỗ chư Phật cung kính cúng dường các món thượng diệu mới được căn lành, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cùng quả bất tận, lần lữa cho đến sau vào Niết bàn, Thiết lợi la mình và các đệ tử vẫn được người đời cung kính cúng dường thế lực căn lành vậy mới bất tận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật rằng: Bạch thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều sở đắc, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và các thần thông có sai khác?

Phật bảo: Thiện Hiện! sở đắc ấy, bố thí kể cả năm Ba la mật kia và các thần thông đều không sai khác. Nhưng vì muốn khiến kẻ có sở đắc kia lìa chấp đắm, phương tiện tuyên nói bố thí cùng năm Ba la mật kia và các thần thông có tướng sai khác.

Đoạn kinh này chỉ khai triển thêm đoạn kinh trên. Có sở đắc, thời không đắc, không hiện quán, không đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhưng không sở đắc, tức là đắc, tức là hiện quán, tức đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu trong không sở đắc muốn đắc, muốn hiện quán, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Phật bảo là phá hoại pháp giới.

hữu sở đắc hay sở đắc là nhị pháp, nhưng pháp Phật là pháp môn bất nhị. Tuy biết hoặc đắc hoặc chẳng đắc tất cả các thiện pháp mà Bồ Tát vẫn tu tất cả các thiện pháp. Cho đến tuy biết hoặc đắc hoặc chẳng đắc Nhất thiết trí trí mà Bồ Tát vẫn tu Nhất thiết trí trí. Hoặc đắc hoặc chẳng đắc hữu tình mà thành thục hữu tình. Hoặc đắc hoặc chẳng đắc cõi Phật mà nghiêm tịnh cõi Phật v.v... Vì biết tất cả pháp đều vô sở hữu, bất khả đắc, Bồ Tát vì chúng sanh làm Phật sự, chẳng rời bỏ hữu tình. Đó chính là lòng lân mẫn của Bồ Tát đạo. Vì vậy, phẩm thứ 65, tập 4, quyển 78, Đại Trí Độ Luận mới nói: “... khi hành Bồ Tát đạo, Bồ Tát phải khéo hòa hợp “bi tâm” và “không tâm” mới đem lại đại lợi ích cho chúng sanh.

Có “bi tâm” mới lân mẫn chúng sanh, mới thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh. Có “không tâm” mới diệt được tâm chấp có lân mẫn, có độ thoát chúng sanh”.

 

Nên đem tâm ly tướng vô lậu lìa đắm lìa nhiễm, tu các thiện pháp mà chẳng thấy tâm vô lậu cũng chẳng thấy tất cả Phật pháp, các Bồ Tát này khi thực hành Bát Nhã thậm thâm như thế năng đối với pháp vô tướng, vô tác chóng viên mãn các Ba la mật, cũng năng tròn đầy các công đức khác. Đó gọi là tu vô tướng và tu vô tướng đây là tu Bát Nhã hay tịnh đạo Bồ đề.

 Chính nhờ tu vô sở hữu, bất khả đắc như vậy mới mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, phải nói vô sở hữu, bất khả đắc vô hình chung trở thành Thánh chỉ, một phương tiện hữu hiệu trong việc tu hành Bát nhã Ba la mật để được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề!

 

- Phẩm “Thấy Bất Động”, quyển 521, Hội thứ III, ĐBN nói về năng chứng, sở chứng, sở hành…của Bồ Tát trọn bất khả đắc như sau:

“Các Bồ Tát Ma ha tát sở chứng nghĩa thú trọn bất khả đắc, năng chứng Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc, pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng cũng bất khả đắc.

Cụ thọ Tu Bồ Đề trình Phật: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha tát quán tất cả pháp bất khả đắc, thì có nghĩa thú nào khá làm sở chứng, có Bát nhã Ba la mật nào khá làm năng chứng, lại có những gì mà thi thiết được pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng. Như vậy, vì sao chấp do đây chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thanh văn hay Duyên giác hãy chẳng thể chứng, huống chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Nếu hành như thế đấy gọi Bồ Tát hành vô sở đắc. Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng hành các hành vô sở đắc như thế, đối tất cả pháp không bị ám chướng. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát nghe như thế mà tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng buồn hối, chẳng kinh, chẳng sợ là hành Bát nhã Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát này khi hành như thế chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật là sở hành của ta, chẳng thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là sở chứng của ta, cũng lại chẳng thấy cả xứ thời và chứng”.

Hành Bát nBa la mật mà không thấy pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng cũng chẳng thấy năng hành sở hành. Nếu hành vô sở đắc như thế, thời đối với tất cả pháp không bị ám chướng. Đó là câu nói cảnh giác thường xuyên của Đại Bát Nhã. Hành như vậy thì tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng buồn hối, chẳng kinh, chẳng sợ là hành Bát Nhã, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

- Phẩm “Vô Sở Đắc”, Q.63, Hội thứ I. Thiện Hiện nói:

“Xá Lợi Tử! Chơn như như hư không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn như hư không. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì hư không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được(4), khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó chẳng thể nắm bắt được nên nói là hư không. Chơn như cho đến cứu cánh Niết bàn cũng như vậy, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh của chơn như là không; vì tánh của pháp giới cho đến cứu cánh Niết bàn là không. Trong cái không, khoảng trước chẳng thể nắm bắt được, khoảng sau chẳng thể nắm bắt được, khoảng giữa chẳng thể nắm bắt được, vì biên giới trong đó hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, nên nói là không”.

Không nắm bắt được có nghĩa là bất khả đắc. Tại sao? Vì không có gì là sở hữu, không có gì là sở chứng thì nắm bắt cái gì? Nói như thế nhưng không phải thế. Không phải là không có sở hữu, khả đắc, cũng không phải là không có sở chứng. Có tất cả, nhưng vì nghĩ tưởng mong cầu nắm bắt, nên không được không đắc. Vì vậy, nên nói là không, chứ không phải là không có gì. Có đắc là không đắc, có chứng là không chứng. Không đắc, không chứng mới đắc, mới chứng. Đây không phải là nghịch lý của Bát Nmà đây tình thần vô trụ vô đắc của Bát nBa la mật. Trong đệ nhất nghĩa không có chứng có đắc, còn theo Tục đế, Phật vẫn nói có chứng đắc miễn là đừng mong cầu nắm bắt, đừng thủ tâm chấp tướng la được.

 

- Phần “Na Già Thất Lợi”, quyển 576, Hội thứ VIII, ĐBN. Bồ Tát Long Cát Tường nói “hành hữu sở đắc” như sau:

Nếu chúng Bồ Tát đối với các pháp có chút phần chấp trước, đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ này: Ta đối vấn đề thậm thâm thảy năng hiểu rõ. Đấy thời là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta là kẻ trọn nên nhẫn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta đối các nghĩa đều năng hiểu rõ. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta đối các pháp đều năng giác trọn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng hiểu rõ bản tánh các pháp. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành các đạo Bồ Tát. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc .       

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng nghiêm tịnh cõi Phật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng thành thục các loại hữu tình. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta đối Bồ đề quyết định sẽ chứng. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta định năng quay xe pháp Vô thượng. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng cứu vớt các loại hữu tình. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta có sở hành, ta có sở chứng. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành tứ niệm xứ cùng ba mươi bảy phần pháp Bồ đề. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng tu hành tĩnh lự, vô lượng, đẳng trì, đẳng chí, Đà la ni môn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.

Nếu các Bồ Tát khởi nghĩ rằng: Ta năng chứng Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên diệu pháp chư Phật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc nên sẽ không đắc vô sanh pháp nhẫn”.

 Có sở hành, có sở đắc còn không đắc, không hiện quán huống chi tự mình cho là: Ta hành Bố thí, ta tu tịnh giới, ta đắc Bát Nhã... tức đem cái ngã, ngã sở để hành. Hành như vậy là có chấp đắm. Có chấp đắm là có vướng mắc, có buông bỏ nắm bắt tức có trói buộc thì Bát Nhã không còn ở đó nữa!

 

2/. Giáo nghĩa Vô sở hữu trong Kinh ĐBN:

 

- Phẩm “Hành Tướng”, quyển thứ 03, MHBNBLMĐ, nói về các pháp vô sở hữu, như sau:

“Bạch Thế Tôn! Thật tướng các pháp như thế nào?

Nầy Xá Lợi Phất! Các pháp vô sở hữu, hữu như vậy, vô sở hữu như vậy. Nếu như vậy mà chẳng biết thời gọi là vô minh.

Bạch Thế Tôn! Những gì là vô sở hữu, mà chẳng biết nên gọi là vô minh?

Nầy Xá Lợi Phất! Ngũ ấm đến thập bát giới là vô sở hữu, tứ niệm xứ đến bất cộng pháp là vô sở hữu. Tại sao vậy? Vì là nội không, nhẫn đến vô tánh tự Tánh không vậy.

Ở trong đây, vì sức vô minh làm cho khát ái nên phàm phu tục tử vọng thấy phân biệt. Đây gọi là vô minh. Phàm phu nầy bị nhị biên trói buộc nên chẳng biết, chẳng thấy các pháp vô sở hữu. Do đây mà nhớ tưởng phân biệt chấp trước nơi sắc, nhẫn đến pháp bất cộng.

Nơi pháp vô sở hữu, vì chấp trước nên người này sanh ra phân biệt: Cái biết, cái thấy. Đây là kẻ phàm phu chẳng biết, chẳng thấy. Chẳng thấy, chẳng biết những gì? Chẳng thấy, chẳng biết sắc, nhẫn đến chẳng thấy chẳng biết pháp bất cộng. Do duyên cớ nầy mà sa vào hàng phàm phu như trẻ nít. Người nầy chẳng thoát khỏi. Chẳng thoát khỏi chỗ nào? Chẳng thoát khỏi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới; chẳng thoát khỏi pháp của Thanh Văn, Duyên giác. Người nầy cũng chẳng tin. Chẳng tin những gì? Chẳng tin sắc không, nhẫn đến chẳng tin pháp bất cộng không. Người nầy cũng chẳng an trụ. Chẳng an trụ nơi đâu? Chẳng an trụ nơi lục Ba la mật, chẳng an trụ bậc bất thối chuyển, nhẫn đến chẳng an trụ pháp bất cộng.

Do duyên cớ nầy mà gọi là phàm phu như trẻ nít. Cũng gọi là kẻ chấp trước. Chấp trước những gì? Chấp trước sắc, nhẫn đến ý thức giới, chấp trước tham, nhẫn đến tà kiến, chấp trước tứ niệm xứ, nhẫn đến Phật đạo”.

Tất cả pháp là không, vô sở hữu. Nếu biết như vậy thì không bị pháp trói. Vì cho pháp là thật có, nên phân biệt chấp đắm, rồi sanh tâm hành sai khác: Tung hứng, nắm bắt hay buông bỏ... Đó là hành theo phân biệt, hành theo tham ái, hành theo ngã ngã sở. hành có sở đắc, nên nói là “mất tâm”.

 

3/. Giáo nghĩa Vô sở hữu, Bất khả đắc:

 

- Phẩm “Tu Bồ Đề”, quyển 485, Hội thứ III, ĐBN. Tu Bồ đề bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật cần quan sát kỹ, nếu pháp vô sở hữu bất khả đắc, đấy là Bát nhã Ba la mật. 

Khi ấy, Xá Lợi Phất hỏi Tu Bồ Đề rằng: Trong đây pháp nào gọi vô sở hữu bất khả đắc? 

Tu Bồ Đề đáp rằng: Chỗ gọi Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc. Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự Tánh không vậy.

Xá Lợi Phất! Sắc cho đến thức vô sở hữu bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự Tánh không vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi vô sở hữu bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần thông vô sở hữu bất khả đắc. Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Chơn như cho đến thật tế vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu cho đến Duyên giác vô sở hữu bất khả đắc. Bồ Tát, chư Phật vô sở hữu bất khả đắc. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí vô sở hữu bất khả đắc. Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự Tánh không vậy.

Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật quan sát và tư duy như vậy, thì tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối. Phải biết Bồ Tát Ma ha tát này năng đối Bát nhã Ba la mật này thường chẳng lìa bỏ”.

Tất cả pháp là không, vô sở hữu, bất khả đắc kể cả các pháp Phật. Thật là ngược đời. Nhưng một khi móng khởi chứng đắc pháp này pháp nọ tức là còn mong cầu, nắm bắt thì sẽ không bao giờ toại nguyện, vì còn sở đắc. Nên Kinh nói “nếu pháp vô sở hữu bất khả đắc, đấy là Bát nhã Ba la mật”. Nếu quan sát và tư duy như vậy tâm chẳng kinh, chẳng sợ... thì có khả năng tu hành Bát Nhã mà chẳng xa lìa pháp.

 

- Phẩm “Bồ Tát ”, quyển 45, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:

“(...) Như ý nghĩa đích thực của cảnh mộng, ý nghĩa đích thực của bóng nước, ý nghĩa đích thực của bóng sáng, ý nghĩa đích thực của hoa đóm trong hư không, ý nghĩa đích thực của ảnh tượng, ý nghĩa đích thực của tiếng vang, ý nghĩa đích thực của ảo thành, ý nghĩa đích thực của trò ảo thuật, vô sở hữu, bất khả đắc. Ý nghĩa đích thực của Bồ Tát, vô sở hữu, bất khả đắc, cũng như vậy.

(...) Như ý nghĩa đích thực của vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô đắc, vô thủ, vô nhiễm, vô tịnh, đều vô sở hữu, bất khả đắc, đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán ý nghĩa đích thực của Bồ Tát, vô sở hữu, bất khả đắc, cũng như vậy.

(...) Vì ý nghĩa đích thực của, hoặc là Bồ đề, hoặc là Tát đỏa, hoặc là Bồ Tát, tất cả như vậy đều là chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không sắc, không thấy, không đối chỉ thuần một tướng, chỗ gọi là vô tướng.

(...) Các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, đều vô sở hữu, không ngại, không đắm; nên học, nên biết!”

Ý nghĩa đích thực của tất cả pháp đều như trò huyễn, như bèo bọc sương khói, như hoa đóm giữa hư không... nên nói là không, vô sở hữu, không thể nắm bắt được. Ý nghĩa đích thực của cái gọi là vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô thủ vô đắc... cũng vô sở hữu, không thể nắm bắt cũng lại như vậy. Cả đến hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa hoặc Bồ đề Tát đỏa hoặc Bồ Tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc thì mong cầu nắm bắt làm gì cho luống uổng nhọc nhằn! Vì vậy, “các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, đều vô sở hữu, bất khả đắc thì không ngại, không đắm. Phải nên học, nên biết như thế!”

 

Kinh nói: “... pháp vô sở hữu bất khả đắc đó chính là Bát nhã Ba la mật”(5). Tới đây, chúng ta có thể khẳng định vô sở hữu, bất khả đắc đóng vai trò quan trọng trong việc thành tựu Bát nBa la mật. Nhưng khởi thỉ vô sở hữu, bất khả đắc chỉ được xem như là phương tiện đóng góp cho sự thành tựu này. Qua thời gian, càng dấn thân vào tu hành qua thực chứng, hành giả Bát Nhã thấy rằng càng mong cầu nắm bắt thì Bát Nhã càng xa khỏi tầm tay. Chỉ khi nào từ bỏ không còn mong cầu, nắm bắt, lấy bỏ nữa... thì mới hy vọng đạt ngộ. Nhưng chắc phải một phen vất vả lắm hành giả Bát Nhã mới phát hiện kinh nghiệm thực chứng này: Bát nhã Ba la mật là vô sở hữu bất khả đắc, vô sở hữu bất khả đắc chính là Bát nhã Ba la mật.

Cái gì xưa kia được xem là phương tiện, thì bây giờ biến thành cứu cánh. Kinh nói: “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật; vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề; vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Phẩm thứ 76, “Nhất Tâm Cụ Vạn Hạnh”(Có Định Tâm Là Có Đủ Vạn Hạnh), tập 5, quyển 87, Đại Trí Độ Luận, còn đi xa hơn:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Những người chẳng đắc tướng thì có được đạo, có được quả, có được Vô Thượng Bồ Đề chăng?

Phật dạy: Vô sở đắc (chẳng chỗ đắc) tức là đạo, là quả, là Vô Thượng Bồ Đề”.

Không những vô sở đắc mà vô sở hữu cũng được nâng lên cùng một cấp bậc như vô sở đắc hay bất khả đắc. Cái sở hữu biến thành vô sở hữu, cái khả đắc biến thành bất khả đắc hay ngược lại.

Vô sở hữu, bất khả đắc khi được hiểu ra như vậy thì không những được xem là những điều kiện cần thiết trong việc tu tập và thực hành để thành tựu giác ngộ hay thành tựu Bát Nhã mà chúng tự giải phóng để trở thành Thánh trí tự giác. Một thứ trực giác thực chứng từ bờ bên kia, được xiển dương xuyên suốt Kinh điển Phật học không riêng gì Bát nhã Ba la mật. Ở đâu, bất cứ pháp hội nào, bất cứ Kinh điển nào cũng đều nói đến các cụm từ này. Hơn bao giờ hết, bây giờ vô sở hữu, bất khả đắc trở thành Thánh chỉ cần thiết trong việc tu tập và thực hành Bát Nhã nói riêng hay các pháp môn Phật học nói chung. Vì vậy, vô sở hữu, bất khả đắc được định nghĩa là “tên khác của không”, không này là Tánh không, không này là Bát nBa la mật hay là huệ, huệ đến từ bờ kia.

Trên đây đã thuyết xong hai pháp quan trọng trong sự đóng góp vào thành quả giác ngộ là Vô sở hữu và Bất khả đắc. Sau đây là các pháp nói về vô tướng, vô tánh, tự tướng không, tự tánh không, vô tánh không, tự tánh không và vô tánh tự tánh không... Các pháp này cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc thành tựu Giác ngộ vì liên hệ mật thiết với Tánh không Bát Nhã. Luận giải về các pháp này chính là luận giải phần lớn 18 pháp không trong Bát nBa la mật. Những đoạn Kinh được trích dẫn kèm theo đây chứng tỏ ảnh hưởng tích cực của chúng trong việc tu hành Bát nhã Ba la mật.

 

2- Vô tướng: Nếu thâm nhập vô tướng tức giải thoát hay nói là vượt qua cổng giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.

 

1/. Vô tướng: (Nói vô tướng để phá cái chấp về tướng).

 

Kinh thường nói các pháp không có tướng tức là vô tướng. Nếu hiểu ra các pháp vô tướng thì không chấp tướng nên nói là không bị tướng che. Đó cũng chính là hệ quả của các pháp dẫn xuất từ Tánh không. Có thể nói đây là lối diễn đạt khác, nhờ đó giúp chúng ta thoát khỏi sự câu thúc bởi những gì gọi là nội và ngoại, để dọn đường cho sự thành tựu Thánh trí. Một khi trí này thành tựu thì vô tướng cũng có thể được xem như là huệ, huệ từ bờ kia trong việc ứng cơ tiếp vật.

 

- Phẩm “Diệu Tướng”, quyển 530, Hội thứ III, ĐBN. Phật bảo cụ thọ Tu Bồ Đề:

“…Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ sơ phát tâm cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường nên khéo học tự tánh các pháp. Nếu khéo học được tự tánh các pháp thời năng khéo tịnh được đạo Bồ đề. Cũng năng viên mãn các hạnh Bồ Tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. An trụ pháp này mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem pháp Tam thừa phương tiện điều phục các loại hữu tình, khiến đối ba cõi chẳng lộn quanh nữa, được vào Niết bàn an vui rốt ráo.

Như vậy, Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát nên đem vô tướng mà làm phương tiện tu học Bát nhã Ba la mật khiến mau viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn, tức năng nhiếp thọ được tất cả Phật pháp. Nhờ đây chứng được Nhất thiết trí trí, cùng đời vị lai lợi vui hữu tình”.

Phật bảo muốn năng tịnh đạo Bồ đề thì phải học tự tánh các pháp(Đó là nói theo ĐBN, nói tự tướng là nói theo MHBNBLMĐ)), nhưng phải đem vô tướng làm phương tiện tu học Bát nhã Ba la mật, mới mau viên mãn.

 

- Phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo:

“… Bát nhã Ba la mật nầy không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết, chẳng phải có tướng, có trạng, có ngôn, có thuyết, cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tất cả pháp là không tướng, không trạng, không ngôn, không thuyết mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, vì các hữu tình thuyết tất cả pháp là vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết”.

Do biết tất cả pháp vô tướng, vô trạng, vô ngôn, vô thuyết mà Như Lai chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Còn chúng sanh biết tất cả pháp như thế nào? Chúng sanh biết tất cả pháp xuyên qua tướng trạng. Cái thấy của chúng sanh lúc nào cũng đòi hỏi phải có đối tượng. Có đối tượng mới gọi là thấy, không có đối tượng nói là không thấy. Đối tượng của vật thể không ngoài hình sắc danh tướng. Vì thấy tướng như thế nên bị tướng che. Thấy tướng nhưng không chấp tướng mà biết quay trở lại tự mình kiến chiếu tận nguồn tâm tức thấy tánh, đó là cái thấy đặc biệt, nên nói là chứng tánh.

 

- Phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, phẩm “Chỉ Tướng”, bắt đầu quyển 443, Hội thứ II hay phẩm “Hiện Thế Gian”, quyển 510, Hội thứ III, ĐBN, giải thích một cách vắn tắt tất cả các pháp Phật là vô tướng, như sau:

“Bấy giờ, Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng như lời các ông đã nói! Thiên tử nên biết! Như Lai giác biết như thật tướng tất cả pháp là vô tướng, đã gọi biến ngại là tướng của sắc, lãnh nạp là tướng của thọ, giữ lấy hình tượng là tướng của tưởng, tạo tác là tướng của hành, liễu biệt là tướng của thức, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Tập hợp khổ não là tướng của uẩn, cửa sanh trưởng là tướng của xứ, nhiều độc hại là tướng của giới, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Có thể ban cho là tướng bố thí, không nhiệt não là tướng tịnh giới, không tức giận là tướng an nhẫn, không gì có thể hàng phục là tướng tinh tấn, không tán loạn là tướng tịnh lự, không chấp trước là tướng Bát Nhã, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Vô sở hữu là tướng pháp nội Không v.v... , chẳng điên đảo là tướng chơn như v.v..., chẳng hư vọng là tướng bốn Thánh đế, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Không phiền não là tướng bốn tịnh lự, không giới hạn ngăn ngại là tướng bốn vô lượng, không ồn ào, hỗn tạp là tướng bốn định vô sắc, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Không trói buộc là tướng tám giải thoát, chẳng tán loạn là tướng chín định thứ đệ, có thể xa lìa là tướng ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hay xa lìa là tướng pháp môn giải thoát không, không chấp thủ là tướng pháp môn giải thoát vô tướng, nhàm chán các khổ là tướng pháp môn giải thoát vô nguyện, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Bao gồm quả vị thanh tịnh là tướng của ba thừa mười địa, hướng đến quả Đại Giác là tướng mười địa Bồ Tát, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hay quán chiếu là tướng năm loại mắt, không trì trệ, ngăn ngại là tướng sáu phép thần thông, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Khó khuất phục là tướng mười lực Như Lai, không khiếp sợ là tướng bốn điều không sợ, không đoạn tuyệt là tướng bốn sự hiểu biết thông suốt, đem lại lợi lạc là tướng đại từ, cứu khổ là tướng đại bi, vui mừng với các việc thiện là tướng đại hỷ, bỏ việc ồn ào, phức tạp là tướng đại xả, không gì có thể đoạt là tướng mười tám pháp Phật bất cộng, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hay trang sức là tướng của tướng hảo, hay nhớ nghĩ là tướng của pháp không quên mất, không chấp trước là tướng của tánh luôn luôn xả, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Giữ gìn khắp là tướng tất cả pháp môn Đà la ni, hộ trì các thọ là tướng tất cả pháp môn Tam ma địa, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Thọ giáo hoàn toàn là tướng quả Thanh văn thừa, tự khai ngộ là tướng Độc giác Bồ đề, hướng đến đại quả là tướng Bồ Tát hạnh, đủ đại dụng là tướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng. Hiện Chánh Đẳng Giác là tướng Nhất thiết trí, thông đạt hoàn toàn là tướng Đạo tướng trí, hiện tất cả sự giác tri khác nhau là tướng Nhất thiết tướng trí, Như Lai như thật giác ngộ chúng là vô tướng.

Thiên tử nên biết! Đối với tất cả pháp tướng này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có thể như thật giác biết là vô tướng. Do đó, Ta nói chư Phật chứng được trí vô ngại, không ai có thể sánh bằng”.

Lạ lùng thấy tất cả pháp kể trên từ uẩn xứ giới cho đến Nhất thiết tướng trí tức tất cả pháp Phật, còn gọi là các thiện pháp, các pháp hy hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát... mà Phật giác biết là vô tướng. Đây là lối diễn tả độc đáo. Tại sao Phật giác biết là vô tướng? Vì chúng sanh chỉ an trụ trong hư vọng, danh tướng, phân biệt, chấp đắm... nên quên tâm, tức là chân tâm sẵn có nơi mình mà vọng ngoại tìm cầu danh tướng. Phật bảo chỉ khi nào như thật giác biết tất cả pháp là vô tướng thì gạt bỏ được hư vọng, phân biệt, chấp đắm không những về tướng mà cả phi tướng nữa... thì mới chứng tánh nên được trí vô ngại. Đây là lời dạy đầy trí tuệ không gì hơn! Đoạn kinh sau đây của Kinh MHBNBLMĐ nói rõ ý này:

 

- Phẩm “Thiện Đạt”, Q.27, MHBNBLMĐ, quan niệm tất cả các pháp vô lậu đều vô tướng, như sau:

“Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa thì chúng sanh an trụ tại chỗ nào để được Bồ Tát cứu độ?

- Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh chỉ an trụ trong danh tướng, hư vọng, ức tưởng, phân biệt, vì thế nên Bồ Tát hành lục Ba la mật ở trong danh tướng, hư vọng cứu chúng sanh ra.

- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là danh? Những gì là tướng?

- Này Tu Bồ Đề! Danh chỉ là giả lập đặt ra: Này là sắc, là thọ, tưởng, hành, thức, này là nam, là nữ, là lớn, là nhỏ, này là Địa ngục, là Ngạ quỷ, là Súc sanh, Nhơn, Thiên, này là hữu vi, là vô vi, này là quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, Duyên giác đạo, này là Phật đạo.

Này Tu Bồ Đề! Tất cả pháp hòa hợp đều là giả danh. Dùng danh để đặt tên cho các pháp, thế nên gọi là danh. Tất cả pháp hữu vi chỉ có danh tướng. Người phàm ở trong đó sanh chấp trước.

Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, vì dùng sức phương tiện nên ở trong danh tự, dạy cho họ xa rời mà bảo rằng: Này các chúng sanh! Danh ấy chỉ là rỗng không, phát sanh từ hư vọng, ức tưởng, phân biệt.

Các ngươi chớ chấp trước hư vọng, ức tưởng. Chúng bổn lại đều không, vì tự tánh rỗng không vậy, bậc trí giả chẳng nên chấp trước.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng sức phương tiện vì chúng sanh mà thuyết pháp. Đó là danh.

Những gì là tướng?

Này Tu Bồ Đề! Có hai thứ tướng mà người phàm chấp trước: Một là sắc tướng. Hai là vô sắc tướng.

Những gì gọi là sắc tướng? Những thứ có sắc hoặc thô hoặc tế, hoặc tốt hoặc xấu, đều là rỗng không. Ở trong những pháp rỗng không ấy ức tưởng, phân biệt để tâm nắm lấy tướng. Đây gọi là sắc tướng.

Những gì là vô sắc tướng?

Nơi các pháp vô sắc ức tưởng, phân biệt để tâm nắm lấy tướng nên sanh phiền não. Đây gọi là vô sắc tướng.

Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, dùng sức phương tiện dạy chúng sanh xa lìa chấp trước. Ở trong pháp vô tướng khiến họ rời lìa hai pháp, đó là tướng, là vô tướng.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật dạy chúng sanh lìa tướng khiến họ an trụ trong vô tướng.

(...) Này Tu Bồ Đề! Vì các pháp không có căn bản sự thật mà chỉ có danh tướng, nên Bồ Tát lúc hành Bát nhã Ba la mật có thể đầy đủ Thiền Ba la mật, Tiến Ba la mật, Nhẫn Ba la mật, Giới Ba la mật, Thí Ba la mật, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Tứ vô lượng tâm, Tứ vô sắc định, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Tứ niệm xứ nhẫn đến bát Thánh đạo phần. Có thể đầy đủ nội không nhẫn đến Vô tánh hữu Tánh không, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Giải thoát, Cửu thứ đệ định, vì vô tướng vậy. Có thể đầy đủ Phật thập lực nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, vì vô tướng vậy.

(...)Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát học tất cả pháp vô tướng này thì tăng trưởng pháp lành, đó là sáu Ba la mật, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng. Tại sao vậy? Bồ Tát chẳng lấy những pháp khác làm trọng yếu bằng ba môn giải thoát. Vì tất cả pháp tự tướng không, đó gọi là không giải thoát môn. Vì tất cả pháp vô tướng, đó gọi là vô tướng giải thoát môn. Vì tất cả pháp vô tác, vô khởi, đó gọi là vô tác giải thoát môn.

Nếu Đại Bồ Tát học ba môn giải thoát thì có thể học tướng ngũ ấm, có thể học tướng thập nhị nhập, có thể học tướng thập bát giới, có thể học tướng tứ đế, có thể học mười hai nhơn duyên, có thể học nội không nhẫn đến vô tánh tự Tánh không, có thể học sáu Ba la mật đến mười tám pháp bất cộng”.

Phật đã giảng quá nhiều lần rồi, nào là các pháp giả danh giả tướng, các pháp như huyễn như mộng, các pháp là ngu si, trì độn; nào các pháp là không, các pháp là như, chẳng lúc nào chẳng như, các pháp là bình đẳng, các pháp tự tánh thanh tịnh v.v... Nếu thấy biết các pháp có tướng trạng như vậy gọi là cái thấy từ bờ kia. Nhưng có lẽ những lời dạy đó “chưa đủ thấm”! Bây giờ, Phật nói đến các pháp là vô tướng để chúng sanh đừng thủ tâm chấp tướng nữa mà bị lưu đày trong ba cõi sáu đường.

Bởi các lý do đó mà chúng ta thấy vô tướng giữ vai trò quan trọng trong việc tu tập và thực hành Bát Nhã. Vì vậy, kinh ĐBN thường nhắc nhở: “Bát nhã Ba la mật như thế thật chẳng khá lấy, vì vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng”(6). Kinh nói “Pháp vô tướng không có động chuyển”. Không động chuyển tức như như, thì không phân biêt, không chấp. Nếu không phân biệt không chấp thì không tạo tác thi vi nữa. Do đó, không, vô tướng, vô tác mới được xem là cửa giải thoát. Chỉ khi nào giác biết được tất cả pháp là không, tất cả pháp là vô tướng, liền chấm dứt niềm tạo tác thì có thể bước qua được cổng này!

Kinh bảo “Lìa hết thảy tướng tức chư Phật”. Chúng ta không cần phải lìa tướng, chỉ cần thấy tất cả pháp vô tướng là đủ. Nên Kinh nói: “Tu vô tướng là tu Bát nhã Ba la mật, tu như vậy chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

 Kinh Kim Cang cũng bảo “thấy tất cả tướng không phải tướng liền thấy Như Lai!” Không thấy tướng, thấy tất cả pháp là vô tướng hay thấy tất cả tướng không phải tướng thì thành Đạo tướng trí! Cách nói có khác nhưng nghĩa không khác.

 

2/. Tướng - Vô tướng: (Nói tướng và vô tướng để phá cái chấp cả hai).

 

Tất cả dẫn chứng trên cho chúng ta hiểu biết phải trái, đúng sai của cái thấy “tướng & vô tướng” như thế nào rồi trong việc tu tập và thực hành Bát nBa la mật. Nhưng cốt tủy của cái thấy tướng hay vô tướng của Bát Nhã không giản dị như vậy. Đoạn kinh của phẩm “Học Đạo Khắp”, quyển 370, Hội thứ I, ĐBN, nâng nhãn quan lên một tầng cao hơn khi nói lên quan điểm cốt tủy của Bát Nhã về tướng và vô tướng mà hành giả Bát Nhã thường xuyên phải cảnh giác:

“Nếu tất cả pháp thật có tướng thì các đại Bồ Tát nên học, vì tất cả pháp thật chẳng phải có tướng, không sắc, không thấy, không đối, nhất tướng đó là vô tướng. Vì vậy, đại Bồ Tát chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại chẳng học pháp vô tướng. Vì sao? Vì Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế thì pháp giới vẫn thường trụ, các pháp nhất tướng đó là vô tướng. Vô tướng như thế đã chẳng phải hữu tướng cũng chẳng phải vô tướng.

Tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng thì đó là vô tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật.

Vô tướng như thế đã chẳng phải hữu tướng cũng chẳng phải vô tướng, đại Bồ Tát chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại chẳng học pháp vô tướng”.

Ý nghĩa của vô tướng ở đây khác với cái nghĩ tưởng của chúng sanh. Kinh bảo: “Tất cả pháp chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải nhất tướng, chẳng phải dị tướng. Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc nhất tướng, hoặc dị tướng, đều đồng một tướng thì đó là vô tướng. Tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật”. Thấy như không thấy đã là khó, bây giờ phải thấy tất cả pháp đồng một tướng chỗ gọi là vô tướng thì khó biết mấy! Bịt mắt để không thấy là dễ, nhưng mở mắt thấy tất cả pháp đồng một tướng chỗ gọi là vô tướng thì khó biết chứng nào! Đó là chẳng học pháp hữu tướng, cũng lại chẳng học pháp vô tướng mà chính là học cái bình đẳng của tất cả tướng. Tướng bình đẳng tức là không, trong pháp không tất cả đều rỗng không trong suốt, làm gì có nhiễm, tâm thể được an nhiên tịch lặng. An nhiện tịch lặng nên nói là đạt Niết bàn.

 

3/. Tướng, Vô tướng đều ly: (Ly tất cả tướng và vô tướng liền thấy tánh).

 

Rốt lại tướng, vô tướng đều ly thì mới có thể học và hành Bát Nhã. Phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, Hội thứ V, ĐBN. Kinh nói: “Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy”.

Phẩm “Thiên Tử” nói trên, thuyết tiếp: “Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải lấy tướng mà tu đắc. Các kẻ lấy tướng đều là phiền não. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải thủ tướng mà tu đắc. Người đắc thủ tướng đều là phiền não”.

Chính do sự hiểu biết này mà Thắng Quan Phạm Chí có thể tin hiểu và thành đạt Nhất thiết trí trí. Đây là thí dụ vàng ngọc của Thế Tôn!

Làm sao phá được tướng, chỉ phá là phá cái chấp về tướng hay vô tướng. Tướng là một bên, vô tướng cũng là một bên khác nữa. Cùng một lúc phá cả hai. Nói đến tướng hay vô tướng là vẫn còn nằm trong vòng đối đãi (chấp nhị biên), nên không thể sạch trong sạch ngoài. Chỉ sạch trong sạch ngoài khi cả hai đều ly. Ly thì không cần phá hay khiển.

Thấy tướng là động niệm, thấy vô tướng cũng là động niệm, vì thấy hai. Không thấy hữu tướng, không thấy vô tướng mà thấy bình đẳng giữa các tướng thì thành Đạo tướng trí. Thấy như vậy thì không còn chấp đắm, nắm bỏ, tung hứng, nên có thể ly tướng mà thấy tánh. Đó là cái thấy siêu vượt đối đãi trên mọi vật thể trần ai, nên mới được trí vô ngại, trí vô phân biệt, trí vô trước.

 

3- Vô tánh:

 

Trên chúng ta đã nói các pháp đã đóng góp vào sự thành tựu giác ngộ như vô sở hữu bất khả đắc. Kế đến chúng ta nói vô tướng. Bây giờ, nói đến vô tánh, nhưng không biết vô tánh thật sự đóng vai trò quan trọng cho sự thành tựu này hay không? Hãy đọc những đoạn kinh sau đây sẽ rõ:

 

- Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372, Hội thứ I, ĐBN. Kinh nói: (tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh): “Bồ Tát khi hành Bát Nhã không tưởng hữu, tưởng vô. Nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô thì đó tức là Bồ Tát thuận nhẫn; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là tu đạo; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là đắc quả. Nên biết, vô tánh tức là đạo Bồ Tát Ma ha tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ Tát Ma ha tát.

Do nhân duyên này, nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh”.

Sở dĩ, Phật thuyết về tướng và tánh là vì thuyết tướng là thuyết về hiện tượng (tương đối), thuyết tánh là thuyết về bản thể (tuyệt đối). Tôn giáo lúc nào cũng hướng về tuyệt đối. Thấy tướng sanh tâm động niệm, nên bị tướng che. Ly tướng (không tưởng hữu tướng, không tưởng vô tướng) thì chứng tánh tức chứng cái chân như của vạn hữu. Đó là tu đạo, là đắc quả.

Nhưng khi nói tu để thấy tánh, thì cũng còn sở đắc. Còn sở đắc tức còn đam mê chấp ngã, thì chẳng đắc, chẳng hiện quán, chẳng thể chứng Vô thượng Bồ đề. Nên Kinh bảo thấy vô tánh tức là đạo Bồ Tát Ma ha tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ Tát Ma ha tát, vô tánh mới chứng quả Vô thượng Bồ đề. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định pháp nói về vô tánh giữ vai trò quan trọng trong việc thành tựu Giác ngộ hay thành đạt Bát nBa la mật.

 

- Phẩm “Phương Tiện Khéo léo”, quyển 526, Hội thứ VI, ĐBN. Tu Bồ Đề bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nhất thiết chủng trí lấy gì làm tánh? Lấy gì làm sở duyên? Lấy gì làm tăng thượng? Lấy gì làm hành tướng? Lấy gì làm tướng?

Phật bảo:

- Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh, lấy vô tánh làm sở duyên, chánh niệm làm tăng thượng, vắng lặng làm hành tướng, vô tướng làm tướng.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh hay sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Nói rộng cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng lấy vô tánh làm tánh, hay hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật bảo:

- Tu Bồ Đề! Chẳng những Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh, mà sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh. Cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh? Sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh, cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật bảo:

- Tu Bồ Đề! Vì Nhất thiết chủng trí không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Vì sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, pháp này lấy vô tánh làm tánh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên Nhất thiết chủng trí không có tự tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không có tự tánh?

Phật bảo:

- Tu Bồ Đề! Vì Nhất thiết chủng trí không tự tánh hòa hợp vậy. Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Do nhân duyên đây, các Bồ Tát Ma ha tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.

Ở đây Phật đưa thêm một yếu tố mới vào sự tri nhận về thật thể của tất cả pháp. Đó là yếu tố tự tánh. Tất cả pháp không có thực thể riêng của nó, tất cả đều do duyên hợp mà thành hay nói khác là do duyên hội, nên Kinh nói không tự tánh hòa hợp. “Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Do nhân duyên đây, các Bồ Tát Ma ha tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh. Chúng ta có thể chấp nhận giáo pháp này mà không một lời giải thích nào chăng?

Đây không phải là khái niệm, khái niệm là cái gì trừu tượng, khái quát, còn nằm trong ước đoán hay thức. Vậy, vô tánh là gì? Vô tánh chính là chỗ ngộ của Phật. Khi Phật nói “Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh”. Động từ “lấy” ở đây đứng sau liên từ “nếu’, có nghĩa là thành quả chỉ đạt khi có đủ điều kiện mà điều kiện ở đây là sự hòa hợp của các yếu tố. Nhưng tất cả pháp đều do duyên hợp, không có pháp nào là tự sanh thì phải xác định các pháp đó lấy vô tánh làm tự tánh. Đây là lối nói theo thể xác định, không phải là một diễn dịch có điều kiện. Vì vậy, trong phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372, Hội thứ I, ĐBN. Phật khuyên:

... Các Bồ Tát Ma ha tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán...” Tại sao Phật khuyến cáo như vậy? Vì đó là sự chứng ngộ của Phật.

Nguyên văn của đoạn kinh trên được trích dẫn như sau: Các Bồ Tát Ma ha tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, đạt tất cả pháp, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Do nhân duyên đây, phải biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh”.

Nên Phật bảo:Ta lúc bấy giờ, quán tất cả pháp bình đẳng, lấy vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nghĩa là như thật biết: Đây khổ Thánh đế, đây tập Thánh đế, đây diệt Thánh đế, đây đạo Thánh đế đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vô tướng như thế cũng vô sở hữu. Do đây trọn nên Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng; được vô lượng vô số công đức vi diệu bất khả tư nghì, mới đem Phật diệu trí an lập hữu tình ba nhóm sai khác là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định. An lập ba nhóm riêng biệt như thế rồi, tùy nhóm sở ưng phương tiện hóa đạo khiến được lợi ích an vui thù thắng.

Xét kỹ câu nói trên của Phật: “Bấy giờ Ta quán tất cả pháp bình đẳng lấy vô tánh làm tánh (hay lấy vô tánh làm tự tánh), do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Phật bảo do quán sát tất cả pháp bình đẳng, đạt tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh mà chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là kết luận của Phật. Vì, đó là sự chiếu soi chứng biết của Phật qua Bát Nhã. Tất cả pháp chỉ là duyên hội, các pháp không có chủ thể riêng biệt, không có chủ thể nên không thể tự sanh. Không thể tự sanh nên phải nói tất cả pháp không có tự tánh. Ở đây, chúng ta không dùng từ “nếu” nữa mà nói thẳng ra rằng không có tự tánh, nên lấy vô tánh làm tự tánh. Đó là một hệ luận tất nhiên không phải là kết quả của một diễn dịch có điều kiện.

Dẫu vậy, muốn cho chúng sanh hiểu Phật vì thế tục giả lập nói tất cả pháp không có tự tánh nên lấy vô tánh làm tự tánh. Nên phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 596, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo: “Vô tánh đều do thế tục giả lập, chẳng phải trong ấy có chút tự tánh. Vì không tự tánh nên các pháp đều lập vô tánh làm tánh”.

Chắc Quý vị còn nhớ sở ngộ của Thắng Quân Phạm Chí (Phạm Thiên vương) trong đoạn kinh của phẩm “Thiên Tử”, quyển 556 nói trên không? Tại sao Phạm Chí ngộ nhập được Nhất thiết trí trí? Vì Phạm chí đối với Nhất thiết trí trí không nắm lấy tướng. Phạm chí dùng các môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều chẳng lấy bỏ, chẳng chấp đắm, cũng chẳng đắc. Do đó, mà Phạm Chí thâm nhập được Nhất thiết trí trí.

Trường hợp của Phật cũng thế, ở đây thay vì không nắm lấy tướng như Phạm Chí Thắng quân, Phật lấy vô tánh làm tự tánh nhập Bát nBa la mật, rồi viên mãn tất cả pháp Phật, nhập vào các tĩnh lự, an trụ thanh tịnh, dẫn phát các thần thông, tự tại đối các cảnh giới diệu dụng vô ngại. Rồi trong một sát na tương ưng với diệu huệ, nhập Đẳng giác, rồi vào Diệu giác, trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Muốn được như thế, phải lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, đạt được chân như của tất cả pháp.

Phạm chí Thắng quân đạt Nhất thiết trí trí là dùng các môn ly tướng. Phật nhập được Bát nBa la mật là Phật lấy vô tánh làm tự tánh. Vậy, mới biết vào điện lễ Phật không phải chỉ có một cửa. Nói như vậy có nghĩa là có nhiều tiến trình dẫn đến giác ngộ. Những ai thấy vô tướng, vô tánh, vô tánh tự tánh không thì người đó thành đạo Bồ Tát Ma ha tát. Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372 nói: “... vô tánh tức là đạo Bồ Tát Ma ha tát, vô tánh tức là hiện quán Bồ Tát Ma ha tát”.

 

4- Tự tánh & Vô tự tánh:

 

Không nắm lấy tướng, ly tướng là tôn chỉ tu tập mà Phạm Chí Thắng Quân đạt được Nhất thiết trí trí; còn lấy vô tánh làm tự tánh là tôn chỉ tu tập mà nhờ đó Phật chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bây giờ, chúng ta nói đến tự tánh, nhưng không biết tự tánh giữ vai trò như thế nào trong việc chứng đạo?

 

- Thiền Đông độ là thiền kiến chiếu vào tận nguồn tâm để thấy tự tánh, thấy tánh tức thành Phật. Tổ thứ nhất của tông này là Bồ Đề Đạt Ma chủ trương: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật”. Đây là pháp môn “trực chỉ chân tâm”, phương pháp nhắm thẳng vào tâm, coi đó như là trung tâm của Giác ngộ. Nhưng muốn thế phải “thấy tánh”, thấy tánh tức trực ngộ tự tánh của tâm mình.

Bồ Đề Đạt Ma truyền pháp này cho Nhị Tổ là Huệ Khả, Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, rồi đến Đạo Tín, Hoàng Nhẫn và sau cùng giáo pháp này đến tay Tổ thứ sáu là Huệ Năng thì được phát huy đến cao độ của nó. Lục Tổ thuyết:

“Lìa bổn thể mà nói có pháp này pháp nọ ngoài tự tánh là nói mê, chưa tỏ được tánh. Muôn vật, cả giới định huệ, đều do tự tánh ứng dụng ra, có hiểu thế mới thực là hiểu pháp giới định huệ. Nghe kệ ta đây:

 

“Tự tâm vốn không bao giờ quấy, đó là tự tánh giới,

Tự tâm vốn không bao giờ si, đó là tự tánh huệ,

Tự tâm vốn không bao giờ loạn, đó là tự tánh định”.

 

Nếu ông tỏ sáng tự tánh thì không thấy có gì là đối đãi hai bên nên chẳng cần lập Bồ đề Niết bàn đối lập với phiền não, hoặc giải thoát tri kiến (giới định huệ) đối lập với triền phược. Không có gì là sở đắc hết trong tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy hư linh nhưng từ đó ứng dụng lên tất cả. Cho nên người thấy tánh thì lui tới tự do, không đường không mắc, tùy thế mà làm, tùy cơ mà nói, hiện khắp hóa thân mà chẳng lìa tự tánh, tức được tự tại thần thông, du hí tam muội vậy.

Tự tánh vốn không quấy, không si, không loạn, lúc nào trí huệ cũng chiếu soi, tự do tự tại, dọc ngang đều ứng đối đặng cả. Tự tánh tự sáng tự tỏ (tự ngộ) thoáng tu thoáng ngộ, không thứ lớp gì hết. Muôn vật đều “không tịch” thì có gì là thứ lớp?”(8)

Tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy nói hư giả nhưng từ đó ứng dụng cho tất cả. Cho nên người thấy tánh thì tới lui động tĩnh không thắc mắc, không đối ngại, tùy thế tùy cơ mà nói mà làm, tự sáng tự tỏ, tự do tự tại. Đó là thấy tánh tức trực ngộ tự tánh của tự tâm mình. Đây là quan điểm của Tổ Huệ Năng cũng là quan điểm bắt nguồn từ Bồ đề Đạt Ma, cái gọi là “Nhất hoa khai ngũ diệp”.

 

Chúng ta cũng biết rằng không những trong Kinh ĐBN đều nói về tướng-vô tướng, tánh-vô tánh mà hầu hết các Kinh Phật khác đều có đề cập đến nhất là hệ Bát Nhã. Ngoài ra, các Kinh cũng nói nhiều về tự tánh hay tha tánh nữa. Tự tánh là một từ ghép hết sức vi tế, chi li gây nhiều khó khăn cho người học Phật. Nhưng một khi hiểu được nó thì có thể tháo gỡ gút mắc của ba cõi sáu đường hay nói khác là cảnh giới của luân hồi. Tự tánh là bổn thể của tất cả pháp tức chỉ bản tánh sẵn có, cái tự có, “nó là nó” của các pháp, nhưng chẳng có “cái nó” nào như thế cả, nên nói là không, không có tự tánh. Những danh từ khác như bản chất các pháp, bản tánh, pháp tánh, chân như v.v... là những dụng ngữ đồng loại. Kinh cũng nói: “Không tự tánh là tự tánh Bát Nhã Bát nhã Ba la mật”.

Điểm đặc biệt của những từ này trong Bát Nhã là cốt diễn tả trạng thái của tất cả pháp, mà tất cả pháp theo Bát Nhã là không (nhất thiết pháp không). Vô tướng là không có tướng trạng, vô tánh là không có bản tánh, tự tánh nó là nó, nhưng không có cái nào là nó cả, tất cả pháp đều duyên hợp giả có, nên bảo là không. Bát Nhã phủ nhận sự hiện hữu của tất cả pháp. Bởi vì tất cả những gì gọi là pháp đều do duyên hợp, nên nói nó không có chủ thể, không chủ thể không có nghĩa là không có gì cả mà không chủ thể nên nói giả có đương thể tức không(9).

 

- Phẩm “Bát Nhã Hành Tướng”, quyển 38, Hội thứ I, ĐBN. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:  

Pháp gì là tự tánh Bát nhã Ba la mật? Pháp gì là tự tánh tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật? Cho đến pháp gì là tự tánh pháp ở trong ở ngoài ở giữa hai?

Thiện Hiện đáp: Vô tánh là tự tánh Bát nhã Ba la mật. Vô tánh là tự tánh tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Cho đến vô tánh là pháp tự tánh ở trong ở ngoài ở giữa hai. Xá Lợi Tử! Do cớ đây nên biết Bát nhã Ba la mật rời tự tánh Bát nhã Ba la mật. Tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật rời tự tánh tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật. Cho đến pháp ở trong ở ngoài ở giữa hai rời tự tánh pháp ở trong ở ngoài ở giữa hai. Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật, rời tướng Bát nhã Ba la mật, tĩnh lự tinh tiến an nhẫn tịnh giới bố thí Ba la mật, cho đến pháp ở trong, ở ngoài, ở giữa hai. Xá Lợi Tử! Tự tánh cũng rời tự tánh, tướng cũng rời tướng; tự tánh cũng rời tướng, tướng cũng rời tự tánh; tự tánh tướng cũng rời tướng tự tánh, tướng tự tánh cũng rời tự tánh tướng”.

Kinh kết luận vì tự tánh cũng rời tự tánh, tướng cũng rời tướng, tự tánh cũng rời tướng, tướng cũng rời tự tánh v.v... tất cả đều rỗng không. Nếu tri nhận như vậy mới được vô thức, vô niệm, vô tâm... chỗ tột cùng của những ai hành trì Bát Nhã.

 

- Nên, phẩm “Diệu Hạnh”, quyển 538, TBBN. Thiện Hiện nói:

“... tự tướng Bát nhã Ba la mật cũng lìa tự tướng; tự tánh Bát nhã Ba la mật cũng lìa tự tánh; tướng cũng lìa tự tánh, tự tánh cũng lìa tướng; tự tướng cũng lìa tướng; tự tánh cũng lìa tự tánh; năng tướng cũng lìa sở tướng; sở tướng cũng lìa năng tướng; năng tướng cũng lìa năng tướng; sở tướng cũng lìa sở tướng. Đại Bồ Tát nào có thể như thật biết được nghĩa như thế thì thường không xa lìa Bát nhã Ba la mật thậm thâm”.

Đó là những pháp hết sức tế nhị. Đại Bồ Tát nào có thể như thật biết được nghĩa như thế thì thường không xa lìa Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vậy, nói đến vô tướng, vô tánh, tự tướng, tự tánh, năng sở làm gì? Tất cả phóng xả hết thì tâm được rỗng rang tự tại. Phật nói như vậy với mục đích để chúng sanh đừng bám vào các pháp, một khi thân hoại mệnh chung trở về với cát bụi, thương tiếc sầu khổ, kêu gào, khóc lóc cũng chẳng ích lợi gì!

 

5- Vô Tánh không, tự Tánh không và vô tánh tự Tánh không:

  

Ai cũng biết tướng trạng là cái vỏ bên ngoài. Vì ở bên ngoài nên dễ thấy. Dễ thấy nên dễ nói, dễ hiểu. Còn ruột là cái ở bên trong. Ở bên trong khó thấy, khó thấy nên khó nói. Vậy làm sao thấy “ruột”? Thấy ruột là thấy được thực thể của chúng. Nhưng chẳng có gì là thực thể trong chúng hết, chúng là:

- Vô Tánh không (Svabhava-sunyata): Không của tự tánh;

- Tự Tánh không (Svabhava-sunyata): Không của tự tánh;

- Vô tánh tự Tánh không (Abhava-svabhava sunyata): Không của vô thể của tự tánh.

Tất cả chỉ do thế tục giả lập, nên bảo là không. Ba loại này (vô Tánh không, tự Tánh không, vô tánh tự Tánh không) có thể luận rằng: “Ở đây hiện hữu được nhìn từ quan điểm hữu (astiva) và vô (nastiva); cả hai, đứng riêng biệt hay tương đối, đều được nói là không. Vô Tánh (Abhava) là phủ định của hữu, cùng một nghĩa với Không. Tự Tánh (svabhava) có nghĩa “nó là nó”, nhưng không có cái nó nào như thế, cho nên Không. Vậy thì, đối nghịch của hữu và vô là thực? Không, nó cũng không luôn, vì mỗi phần tử trong đối lập vốn là Không”.(10)

 

- Phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, quyển 296, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo Thiện Hiện:

“Vì Bát Nhã và tánh của Bát Nhã là không; vì tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật và tánh của tịnh lự cho đến bố thí Ba la mật là không, 18 pháp bất cộng và tánh của 18 pháp bất cộng là không, Nhất thiết trí và tánh của Nhất thiết trí là không… Nói chung cho đến tất cả pháp và tánh của tất cả pháp là không. Vì những pháp ấy vô tánh tự Tánh không nên Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp chẳng do chuyển, chẳng do hoàn mà xuất hiện thế gian.

Cụ thọ bạch Phật:

Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật, vì đạt đến tự Tánh không của tất cả pháp, tuy đạt được tự tánh của tất cả pháp đều không nhưng các đại Bồ Tát nhân Bát nhã Ba la mật nầy mà chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh...”

 

- Phẩm “Pháp Tánh Vô Động”, quyển 397, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:

“Này Thiện Hiện! Không có bất cứ một pháp nào dù nhỏ nhặt bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự Tánh không này không do ai làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa”.

Rốt cuộc tự tánh cũng không, tự tánh thường không tức là Niết bàn. Nhưng Niết bàn cũng là không. Nếu người nào tri nhận được như vậy thì thấy được giải thoát mọi hệ lụy thế gian!

 

6- Vô trụ:

 

Một trong những tôn chỉ của Kinh này ở hai chữ vô trụ, tức quán, giải, hành, môn của Kinh này đều nằm hết trong hai chữ đó. Nên câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trở thành giáo pháp kích động thời danh, đánh thức được giác quan nội tại của gã tiều phu trẻ tuổi. Vì vậy, vô trụ ở đây được xem là Thánh giáo cho những ai tầm cầu Giác ngộ hay Bát Nhã Trí.

Vô sở trụ là không nơi nương gá, không chỗ đình trú, không có hậu cứ, bất biến mà tùy duyên, tùy duyên mà bất biến, châu biến(11) vô ngại. Có sở trụ là có trói buộc, có trói buộc là có dính mắc, quái ngại. Vì dính mắc quái ngại nên mới cần tháo gỡ. Hết buộc rồi gỡ, hết gỡ rồi buộc, suốt đời loanh quanh tự mình làm rối mình mà không tự biết. Kinh “Kim Cương” mới bảo “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” - không nên sinh tâm trụ vào sắc, không nên sinh tâm trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp, sinh tâm vô sở trụ, tức là không trụ bất cứ nơi nào. Chính câu nói này làm cho Lục tổ Huệ Năng tỉnh, rồi tìm đường đến thôn Hoàng Mai thọ giáo cầu đạo với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn mà trở thành Tổ thứ sáu.

 

- Phẩm “Thiên Đế”, Hội thứ I, ĐBN. Tu Bồ Đề bảo:

- “Kiều Thi Ca! Sắc, sắc Tánh không. Thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức Tánh không. Hoặc sắc Tánh không, hoặc thọ tưởng hành thức Tánh không, hoặc đại Bồ Tát Tánh không; ngũ uẩn Tánh không, mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật từ Tứ đế, mười hai nhân duyên... cho đến Nhất thiết chủng trí, đều Tánh không, tất cả như thế đều không có hai, không có hai phần. Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật nên trụ như thế.

Thiên Đế Thích lại hỏi:

- Bồ Tát chẳng nên trụ chỗ nào?

Thiện Hiện đáp:

- Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì (nếu trụ sắc như vậy) là lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy. Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc xứ, chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp. Vì sao? Vì (nếu trụ các căn như vậy) lấy hữu sở đắc làm phương tiện. Cả đến chẳng nên trụ mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì (nếu trụ trong ngoài như vậy, tức) lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy”.

- “Tâm chư Phật đều không có chỗ trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tâm Như Lai chẳng trụ sắc, chẳng trụ thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì sắc uẩn thảy chẳng khá được vậy. Thiện Hiện! Tâm Như Lai chẳng trụ 12 xứ, 18 giới, cũng chẳng trụ tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới và tất cả các pháp đều không thể nắm bắt được. Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử rằng:

- Đúng như vậy, đại Bồ Tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đồng như Như Lai đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đối với sắc chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ; đối với thọ tưởng hành thức cũng chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì sắc uẩn thảy không có hai tướng vậy. Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp Phật cũng lại như thế.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật tuy chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ, đem vô sở đắc làm phương tiện, nên học như thế”.

Sắc là cái hay lôi kéo ô nhiễm thì làm sao mà trụ, nên nói chẳng trụ sắc. Nhưng Kinh nói: “Các pháp bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết bàn(12). Nếu vậy, thì có thể trụ sắc. Nên, câu nói “đại Bồ Tát tuy trụ Bát nhã Ba la mật, mà đồng như Như Lai đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ”, là câu nói có thể hiểu được. Vả lại, Kinh cũng nói “sắc thảy không có hai tướng”, không hai tướng nhiễm hay tịnh. Nếu không có hai tướng thì trụ hay không trụ chẳng hệ gì, miễn đừng lấy sở đắc mà trụ.

 

- Phẩm “Nhiếp Thọ”, quyển 101, Hội thứ I, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch:

- “Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy tự an trụ chơn như, dạy người khác an trụ chơn như, khen ngợi pháp chơn như, vui vẻ khen ngợi người an trụ chơn như. Tự an trụ pháp giới, dạy người khác an trụ pháp giới, khen ngợi pháp giới, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp giới. Tự an trụ pháp tánh, dạy người khác an trụ pháp tánh, khen ngợi pháp tánh, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp tánh. Tự an trụ tánh chẳng hư vọng, dạy người khác an trụ tánh chẳng hư vọng, khen ngợi tánh chẳng hư vọng, vui vẻ khen ngợi người an trụ tánh chẳng hư vọng. Tự an trụ tánh chẳng đổi khác, dạy người khác an trụ tánh chẳng đổi khác, khen ngợi tánh chẳng đổi khác, vui vẻ khen ngợi người an trụ tánh chẳng đổi khác. Tự an trụ tánh bình đẳng, dạy người khác an trụ tánh bình đẳng, khen ngợi tánh bình đẳng, vui vẻ khen ngợi người an trụ tánh bình đẳng. Tự an trụ tánh ly sanh, dạy người khác an trụ tánh ly sanh, khen ngợi tánh ly sanh, vui vẻ khen ngợi người an trụ tánh ly sanh. Tự an trụ pháp định, dạy người khác an trụ pháp định, khen ngợi pháp định, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp định. Tự an trụ pháp trụ, dạy người khác an trụ pháp trụ, khen ngợi pháp trụ, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp trụ. Tự an trụ thật tế, dạy người khác an trụ thật tế, khen ngợi pháp thật tế, vui vẻ khen ngợi người an trụ thật tế. Tự an trụ cảnh giới hư không, dạy người khác an trụ cảnh giới hư không, khen ngợi cảnh giới hư không, vui vẻ khen ngợi người an trụ cảnh giới hư không. Tự an trụ cảnh giới bất tư nghì, dạy người khác an trụ cảnh giới bất tư nghì, khen ngợi cảnh giới bất tư nghì, vui vẻ khen ngợi người an trụ cảnh giới bất tư nghì.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy tự an trụ Thánh đế khổ, dạy người khác an trụ Thánh đế khổ, khen ngợi Thánh đế khổ, vui vẻ khen ngợi người an trụ Thánh đế khổ. Tự an trụ Thánh đế tập, dạy người khác an trụ Thánh đế tập, khen ngợi Thánh đế tập, vui vẻ khen ngợi người an trụ Thánh đế tập. Tự an trụ pháp Thánh đế diệt, dạy người khác an trụ pháp Thánh đế diệt, khen ngợi pháp Thánh đế diệt, vui vẻ khen ngợi người an trụ pháp Thánh đế diệt. Tự an trụ Thánh đế đạo, dạy người khác an trụ Thánh đế đạo, khen ngợi Thánh đế đạo, vui vẻ khen ngợi người an trụ Thánh đế đạo”.

Đó là nói về trụchỗ trụ của Bồ Tát.

 

Kinh nói tiếp:

- “Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi an trụ chơn như, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ chơn như thì đại Bồ Tát ấy, vì chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ chơn như, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí.

(...)Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi an trụ Thánh đế khổ, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ Thánh đế khổ thì đại Bồ Tát ấy, vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ Thánh đế khổ, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí. Đại Bồ Tát khi an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, nếu nghĩ: Ta có khả năng an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo thì đại Bồ Tát ấy vì bị sự chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí”.

Đoạn kinh này nói về trụ có sở đắc. Nhưng một khi tự mình xác nhận có trụ và có chỗ an trụ mặc dù là trụ trong các pháp được xem là có nhiều công đức nhất. Trụ như vậy, an trụ như vậy là có sở đắc, thì chẳng trụ, chẳng đắc!

 

- Phẩm “Vô Trụ”, quyển 37, Hội thứ I và phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 54, Hội thứ I, ĐBN, Phật lại bảo:

“Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy là trụ chỗ nào? Thiện Hiện! Đại thừa như vậy đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Vì sao? Vì chỗ trụ của các pháp bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Nhưng Đại thừa đây trụ vô sở trụ!

Thiện Hiện! Như tánh như chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh như không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh (chơn)như, tánh như không. Thiện Hiện! Như tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp giới, pháp giới Tánh không, cho đến tánh thật tế, thật tế Tánh không vậy”.

(…)Thiện Hiện! Như tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, danh tự giả tưởng thi thiết lời nói Tánh không vậy.

Thiện Hiện! Như tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi; vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi Tánh không vậy.

Thiện Hiện! Do những duyên cớ này, nên Đại thừa như vậy, tuy đều không có chỗ trụ, mà trụ nơi vô sở trụ”.

 

Đoạn Kinh trên (phẩm “Thiên Đế”) chỉ “chỗ an trụ” của Bồ Tát. Đoạn Kinh kế tiếp (phẩm “Nhiếp Thọ”) nói về “trụ” nhưng dưới điều kiện là “không được chấp ngã và ngã sở”. Đoạn Kinh trong quyển 37, phẩm “Vô Trụ” và quyển 54, phẩm “Biện Đại Thừa” nói “chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ”. Bát nhã Ba la mật kết luận “Đại thừa tuy đều không có chỗ trụ mà trụ nơi vô sở trụ”. Có trụ là có quái ngại, tu tất cả pháp nhưng chẳng trụ bất cứ pháp nào. Tuy không trụ ở bất cứ pháp nào nhưng Bồ Tát vẫn có khả năng hoàn thành sự nghiệp. Không trụ tất cả chỗ là trụ vô sở trụ. Vô sở trụ đây được xem là chân trụ!

 

- Phẩm “Vô Trụ”, quyển 37, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không có phương tiện khéo léo, thì bị chấp ngã và ngã sở ràng buộc quấy rối, nên trụ 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới và tất cả các pháp Phật. Do vì trụ này nên đối uẩn xứ giới tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật và chẳng năng thành xong Nhất thiết tướng trí được!”

Một khi bị ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu... nên trụ trong điên đảo, rồi gia công dụng hạnh sai khác mà lạc mất tâm đạo.

 

- Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, quyển 574, Hội thứ VII. Phật hỏi:

- “Mạn Thù Thất Lợi! Ngươi tu Bát nhã Ba la mật thì trụ chỗ nào?

- Bạch Thế Tôn! Con tu Bát Nhã thâm sâu hoàn toàn không có chỗ trụ.

- Mạn Thù Thất Lợi! Không có chỗ trụ thì làm sao có thể tu Bát Nhã thâm sâu?

- Bạch Thế Tôn! Do không có chỗ trụ nên con có thể tu Bát nhã Ba la mật”.

Chỉ có Bồ Tát trí tuệ đắc pháp rốt ráo không, có tầm vóc cỡ Văn Thù Sư Lợi mới có thể trả lời: Do không sở trụ nên mới có thể tu Bát nhã Ba la mật. Có lẽ chúng ta nên lấy câu này làm tôn chỉ tu hành Bát nhã Ba la mật.

 

Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 600, Hội thứ XVI, ĐBN. Nói:

“... Chẳng phải tất cả các pháp có nghĩa khá trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ. Bởi không nắm giữ nên không thể trụ được. Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp, thị hiện các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập.

(...) Vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào pháp nào, cũng không thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ hay đây là pháp có thể tích tập”.

 

Thiền sư D.T. Suzuki trong Thiền luận quyển hạ nói rằng: “Cho nên, các nhà Đại thừa là những người tùy thuận chân lý Tánh không, trụ trong Bát Nhã, từ chối không tìm gốc rễ của mình trong Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức, cũng không tìm trong thế giới Hữu vi hay Vô vi. Trụ xứ đó được gọi là trụ xứ vô sở trụ. Vì lý do này, trụ trong Bát Nhã, theo bất cứ ý nghĩa nào khác, đều trụ nơi chấp thủ, và cái đó phải tránh nếu người ta muốn tự mình tác chủ. Khi có trụ điểm cố định, ở đâu đó, dù ở trong Bát Nhã, đấy là một kết quả nó trói buộc chúng ta, và chúng ta không còn độc lập trong tri thức, đạo đức hay tâm linh. Bát nhã Ba la mật như thế dạy chúng ta quét sạch mọi trụ điểm cố định có thể có, hay quét sạch mọi vọng tưởng. Khi đạt được thế giới không còn vọng tưởng, đấy là vô trụ xứ hay trụ trong Tánh không. Phật hay Bồ Tát nói ra giáo pháp của mình từ chỗ vô trụ xứ đó; cho nên, trong đó, không có người thuyết, không có pháp được thuyết cũng không có người nghe thuyết”.

Tâm chúng sanh lúc nào cũng sanh khởi, sanh khởi theo hình sắc danh tướng… Do đó, càng lún sâu vào trầm luân khổ ải. Nên Phật bảo “Đừng bám trụ mà sanh tâm”. Có như vậy, mới không bị lay chuyển, trói buộc hay nói khác có như vậy mới làm chủ trọn vẹn chính mình.

Bát Nhã Bát thiên tụng, có câu “Tâm Như Lai không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu vi, không trụ trên các pháp vô vi, và do đó không rời sở trụ”. Kinh Duy Ma cũng có đoạn “Bồ đề không trụ, do đó không chứng” hay “nương theo cội nguồn không trụ mà hết thảy các pháp được thành lập”. Và Kinh Lăng Nghiêm lại nói “Những vị Bồ Tát như thế lấy tất cả cõi Phật làm trụ xứ, nhưng không dính mắc vào trụ xứ này, vì vốn không thể chứng, không thể thấy”.

Vậy, chỗ trụ tốt nhất là chân như, là Niết bàn. Nói như thế có đúng không? Nhưng nếu quá tùy thuộc vào chúng cũng rơi vào trở ngại khác nữa. Trụ chỗ vô trụ mới chính là chân trụ!

 

Kết luận chung cho LUẬN #6:

(Những điều kiện trong việc thành tựu Giác ngộ hay

thành đạt Bát Nhã).

 

Kết luận riêng cho mục này, không gì hơn, một lần nữa chúng tôi lặp lại thông điệp đầu tiên, Phật tuyên dương cho toàn thể vũ trụ này, khi mở đầu thuyết Đại Bát Nhã ở quyển 03, phẩm “Học Quán”, Hội thứ I. Như sau:

(...) “Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô trụ làm phương tiện, để an trụ Bát nhã Ba la mật, là vì sở trụ và năng trụ chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô xả mà làm phương tiện, để viên mãn Bố thí Ba la mật, là vì kẻ thí, kẻ cho và của cho đều chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô hộ mà làm phương tiện, để viên mãn Tịnh giới Ba la mật, là vì tướng phạm và không phạm chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô thủ mà làm phương tiện để viên mãn An nhẫn Ba la mật, là vì tướng động và bất động chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô cần làm phương tiện, để viên mãn Tinh tiến Ba la mật, là vì thân và tâm siêng hay lười chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô tư làm phương tiện, để viên mãn Tĩnh lự Ba la mật, là vì hữu ý vị hay vô ý vị chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô trước mà làm phương tiện, để viên mãn Bát nhã Ba la mật, là vì tánh tướng của các pháp chẳng khá được vậy”.

Ngoài giáo pháp gọi là Vô phân biệt, Vô chấp, Bất nhị, Vô sở hữu, Bất khả đắc được xem là huệ, huệ từ bờ kia. Ta còn thấy có vô vàn pháp môn nói về Viễn ly, Vô tánh, Vô tướng, Vô trạng, Vô ngôn, Vô thuyết, Vô kiến. Phẩm “Học Quán” quyển 03, còn thêm vào đó một số giáo pháp khác nói về Vô trụ, Vô xả, Vô hộ, Vô thủ, Vô cần, Vô tư, Vô trước làm phương tiện. Chúng ta cũng có thể thêm Vô thức, Vô niệm, Vô tâm vào danh sách kể trên nếu muốn, trong việc học và hành Bát Nhã để thành tựu Giác ngộ.

Tất cả giáo pháp trên dẫn xuất từ Tánh không Bát Nhã. Không có Tánh không, không có các pháp này hay ngược lại. Chúng ta có thể nói chúng như là phương tiện vì chúng hộ trì chánh pháp và chúng cũng là chánh pháp, vì lúc nào cũng hộ trì hành giả Bát Nhã để mở cánh cửa giải thoát. Khi giải thoát rồi, thì Phật hay Bồ Tát lại dùng các Thánh pháp này như khí cụ (phương tiện) hướng dẫn chúng sanh để giải thoát cho các chúng sanh khác.

Ở đây không phải là chu trình lý luận “con gà đẻ cái trứng”. Khởi thủy, như trên đã nói hai pháp vô sở hữu, bất khả đắc được xem là phương tiện, thì bây giờ chúng biến thành cứu cánh. Kinh nói “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật; vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề; vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”. Nói như vậy có nghĩa vô sở đắc được nâng lên mức độ như Bát nhã Ba la mật, như Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Sự so sánh đó không có gì quá đáng! Một khi tư tưởng vượt qua mức độ của trí năng thường tục, thì tất cả sẽ là trí, tất cả trí thì cùng có mức độ ngang nhau như vàng, tôi luyện đến một mực độ nào đó thì được vàng ròng, cân lượng không chuyển thì không cần tôi luyện thêm nữa.

Vì vậy, vô sở hữu, bất khả đắc không những được xem là những phương tiện cần thiết trong việc tu tập và thực hành để thành tựu Giác ngộ mà chúng còn “chấp cánh bay cao” để trở thành Thánh trí tự giác, một thứ trực giác thực chứng từ bờ kia. Ở đâu, bất cứ pháp hội nào, bất cứ Kinh nào cũng đều xiển dương các cụm từ ẩn áo này.

Hơn bao giờ hết, bây giờ vô sở hữu, bất khả đắc trở thành Thánh chỉ hay pháp ấn trong việc tầm cầu Giác ngộ. Vì vậy, vô sở hữu, bất khả đắc mới được gọi là “tên khác của Không”. Không, Tánh không hay Bản tánh không này tức Bát nhã Ba la mật hay là huệ từ bờ kia. Cái gì xưa kia gọi vô sở hữu, bây giờ biến thành sở hữu; cái gì xưa kia gọi là bất khả đắc, bây giờ biến thành khả đắc hay ngược lại. Cả hai cùng vận hành như hai anh em song sanh trong cùng một bào thai hay cùng trong tạng bí mật của Như Lai, vì cả hai vượt qua và vượt trên thế giới lưỡng nguyên này!

Cũng như vậy, các giáo pháp Vô phân biệt, Bất nhị, Vô trước, Vô tánh, Vô tướng, Vô trạng, Vô kiến, Vô ngôn, Vô thuyết, Vô trụ, Vô xả, Vô thủ, Vô hộ, Vô cần, Vô tư, Vô niệm, Vô tâm kể cả Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tác, Vô sanh, Vô diệt, Vô khởi, Vô sở y, Vô tận, Viễn ly, Tịch tĩnh, Niết bàn, Chơn như, Thật tế... cũng được gọi là tướng trí vì chúng có cùng áo nghĩa tương tự như vô sở hữu, bất khả đắc vậy. Ở đây chúng ta có thể lấy từ vô trước làm thí dụ. Quyển 597, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI để chứng minh lời nói này: “Như vậy, nói tất cả pháp lấy vô trước làm tướng, phải biết tướng vô trước này tức là chỗ hành của trí. Cũng là chỗ hành của Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Đây không phải là tưởng tượng bốc cao mà ở sát na chứng ngộ chư Phật chứng biết các từ nói trên là tướng trí, chỗ hành của trí, chỗ hành của Bát nhã Ba la mật cũng được gọi là huệ đến từ bờ kia qua sự soi rọi của Bát nhã Ba la mật. Với những lý do đó, chúng ta có thể nói tất cả giáo lý từ Vô phân biệt, Bất nhị, Vô trước... cho đến Thật tế là những điều kiện hay những phương tiện thiết yếu hỗ trợ cho sự thành tựu Thánh trí tự giác hay Giác ngộ này. Bởi vì, tướng trí vượt qua được thế giới lưỡng nguyên, thế giới của lý luận so đo, phân biệt hay vô phân biệt, nhị hay bất nhị, không hay bất không, trước hay vô trước...

- Tổ Huệ năng bảo: “Không có gì là sở đắc hết trong tự tánh, tự nó vốn hư linh, tuy hư linh nhưng từ đó ứng dụng lên tất cả”.

- Phẩm “Diệu Tướng”, Hội thứ III, ĐBN Phật bảo: “Các đại Bồ Tát lấy vô tánh làm Thánh đạo. Vô tánh như vậy mới được gọi là diệu tướng. Tu theo diệu tướng này thì giác ngộ, chứng được Bát Nhã Trí hay Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kinh cũng nói “vô tánh cũng là tánh Phật”. Do đây, nên chúng ta nói vô tánh là một trong những điều kiện thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ! Nên Phật bảo:Ta lúc bấy giờ, quán tất cả pháp bình đẳng, lấy vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cái khó thấy, khó giác là tất cả pháp không có tự tánh hòa hợp, chúng ta có thể hiểu mệnh đề này. Nhưng vì không có tự tánh hòa hợp nên lấy vô tánh làm tự tánh là điều khó hiểu khó giác. Đây không thể nói là khái niệm, nó chính là tâm chứng của Phật, vì chúng sanh nên Phật giả thi thiết theo thế tục mà nói là Vô tướng, Vô tánh, Tự tánh, Vô Tánh không, Tự Tánh không, Vô tánh tự Tánh không. Ở đây không có gì là lộn lạo giữa Tánh, Tướng, Tự tánh, Tự tướng, Vô tánh, Vô tướng, Vô Tánh không, Tự Tánh không, Vô tánh tự Tánh không... tất cả đều không hết.

Bây giờ, đối với người tu Bát Nhã chỉ có cách là hãy lìa tất cả cái gì gọi là tướng: Phẩm “Pháp Giới”, quyển 567, ĐBN Phật bảo Tối Thắng: “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên xa lìa các tướng, nghĩa là hoàn toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tầm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri”. Nghĩa là lìa tất cả: Hữu tướng, tri tướng, thức tướng, duyên tướng, tăng thượng tướng, nhân tướng, quá tướng, tổng tướng, biệt tướng, y tướng... Cũng đừng tưởng hữu tưởng vô, phải quán tất cả pháp không có tự tánh lấy vô tánh làm tự tánh, tất cả pháp là nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Kế đến, lìa cả tánh, lìa luôn tự tánh, lìa luôn vô tánh, lìa cả vô tánh tự Tánh không.

Nói lìa, nói như vậy như không nói gì.  Vì lìa hết thì lấy gì để tu để học. Mục đích nói lìa có nghĩa là phủi sạch tất cả để dọn mình quán không. Quán tất cả pháp đều không, tất cả đều như, như này là bình đẳng, bình đẳng nên nói là thanh tịnh. Nói vô tướng, nói vô tánh hay nói vô Tánh không, tự Tánh không hay vô tánh tự Tánh không cốt để quên cảnh nhớ tâm. Trời đất, cây cỏ, sông núi, biển cả... chỗ nào cũng đẹp hết. Nên tứ Tổ Đạo Tín mới bảo: “Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu tại nơi tâm”. Vậy, nói đến tánh tướng thể dụng làm gì?

 

Tới đây, chúng ta có thể kết luận rằng tất cả những gì mà chúng ta tri nhận và biết ơn đạo Phật ở đây với những tướng trí kể trên dẫn xuất bắt đầu bằng chữ không (vô, bất, chẳng, phi...) hay không không của Bát Nhã. Nhưng lạ lùng thay đạo Phật không chấm dứt bằng những từ không này. Trong cái không hay không không đó lại có cái “bất không”, cái bất không này lại trở thành diệu hữu, có khả năng mở đạo nhãn cho chúng ta trong vô vàn số kiếp, không chút ngại ngùng trong thế giới đa thù đa dạng này! Vậy, mới có câu “Vin vào cái có mà chẳng có, tựa vào cái không mà chẳng không”. Đó là yếu chỉ tu hành Bát nhã Ba la mật.

Thích nghĩa cho LUẬN #6 “những điều kiện để thành tựu Giác ngộ”:

(1). Vô sở hữu, bất khả đắc là giáo pháp chánh của Bát nhã Ba la mật. Từ giáo pháp chánh này lại sanh ra các giáo pháp phụ có ý nghĩa tương tự tùy theo tình trạng như từ bất khả đắc mà có hữu sở đắc hay vô sở đắc. Từ năng nên có sở, từ hữu nên có vô. Vậy, hữu sở đắc, vô sở đắc là dẫn xuất từ bất khả đắc. Cũng như dấm (acetic acid) là dẫn xuất của rượu (rượu để lâu hóa dấm).

(2). Phóng xả: Từ bỏ, vứt đi, không còn lệ thuộc mọi ràng buộc để cho tâm an định bằng cách buông bỏ mọi lo nghĩ và tính toán. Phóng xả tương tự như từ phóng hạ là buông bỏ, buông xuống vạn duyên.

(3). Dị thục: Vipaka (skt)—Quả báo nương theo thiện ác của quá khứ mà có được, cái quả khác với tính chất của cái nhân, như thiện nghiệp thì cảm lạc quả, ác nghiệp thì cảm khổ quả, cả hai lạc quả và khổ quả không còn mang tính chất thiện ác nữa, mà là vô ký (neutral), nên gọi là dị thục tức là cái nhân khi chín lại khác. Tự điển Phật học Việt Anh- Thiện Phúc.

(4). Chẳng thể nắm bắt được: Dịch từ cụm từ bất khả đắc (C: bùkě dé; J: fukatoku), nghĩa là không thể đạt được.

(5). Quyển 409, phẩm “Thắng Quân”, Hội thứ II, ĐBN hay quyển 538, phẩm “Diệu Hạnh”, Tiểu Bản Bát Nhã, Hội thứ IV.

(6). Quyển 127, Phẩm “So Lường Công Đức”, Hội thứ I, ĐBN.

(7). Vô y: Không nương tựa vào đâu cả. (Tự điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)

(8). Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm “Đốn Tiệm”. Trích lại trong Thiền Luận quyển thượng của Thiền sư D.T. Suzuki.

(9). Đương thể tức không: (當體即空) Thể của tất cả pháp hữu vi tức là cái không. Bởi vì vạn tượng đều do nhân duyên giả hợp mà có, tất cả đều như mộng như huyễn, không có thực tính. Quán xét đương thể tức không gọi là Thể không quán. (xt. Thể Không Quán)- Phật Quang Từ điển.

(10). Trích trong Thiền Luận, quyển hạ của Thiền sư D.T. Suzuki.

(11). Châu biến: Vận hành cùng khắp.

(12). Kinh nói: “Các pháp bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết bàn”. Phẩm “Nghiêm Tịnh Cõi Phật”.

 

---o0o---

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567