Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

39. Phẩm “Công Đức Khó Nghe” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

04/07/202008:49(Xem: 8180)
39. Phẩm “Công Đức Khó Nghe” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

43. Pham Cong Duc Kho Nghe 


TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

  

PHẨM “CÔNG ĐỨC KHÓ NGHE”

Phần sau quyển 297 đến hết quyển 302, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Kinh Nhĩ Văn Trì” quyển thứ 15, MHBNBLM)

 
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le






Tóm lược:

 

(Sự tu tập và hành trì Bát nhã Ba la mật)

 

Kinh nói: Nếu thiện nam thiện nữ chỉ được nghe Bát nhã Ba la mật không thôi thì đời trước đã tích tụ nhiều công đức huống chi từng thọ trì, đọc tụng… Nếu người được nghe lại còn thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, đúng theo Kinh tu hành và có thể hỏi, có thể đáp Bát nhã Ba la mật này thì phải biết người ấy đời trước đã từng cúng dường thân cận nhiều đức Phật.

Nếu nghe Bát nhã Ba la mật mà chẳng kinh chẳng sợ, phải biết người ấy đã từ vô lượng ức kiếp thực hành lục Ba la mật. Nếu nghe rồi lại thọ trì, thân cận, đúng như lời mà tu tập, phải biết người ấy như các bậc Bồ Tát bất thối chuyển. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật này rất thâm sâu. Nếu đời trước chưa từng thực hành sáu Ba la mật thâm sâu, thời người ấy không thể nào tin được.

Nếu có thiện nam, thiện nữ nào khinh chê Bát nhã Ba la mật. Phải biết người ấy đời trước cũng đã từng khinh chê Bát nhã Ba la mật. Nên lúc nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm, người ấy không tin ưa, lòng không thanh tịnh. Vì người ấy đời trước chẳng từng thưa hỏi chư Phật và đệ tử Phật phải thực hành sáu Ba la mật thế nào, phải tu tập nội không đến vô pháp hữu pháp không thế nào, phải tu tập chơn như, pháp giới, pháp tánh… như thế nào, phải tu tứ niệm xứ đến bát Thánh đạo thế nào, phải tu hành mười tám pháp bất cộng… đến quả vị Giác ngộ như thế nào. Nếu chưa hề tu tập, chưa hề thưa hỏi nên không có lòng tin hiểu thì không có gì đáng lấy làm lạ!

Thiện nam, thiện nữ muốn trụ Nhất thiết trí, thời phải trụ Bát Nhã. Muốn sanh Đạo chủng trí thời phải tập hành Bát Nhã. Muốn dứt tất cả kiết sử và tập khí thời phải tập hành Bát Nhã. Muốn chuyển pháp luân thời phải tập hành Bát nhã Ba la mật. Muốn được quả Thanh văn, Bích Chi Phật, thời phải tập hành Bát Nhã. Muốn giáo hóa chúng sanh cho được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Bích Chi Phật thời phải tập hành Bát nhã Ba la mật. Muốn giáo hóa chúng sanh được Vô thượng Bồ đề, muốn tổng nhiếp Tỳ Kheo Tăng, thời phải tập hành Bát Nhã.

Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát đối với sắc chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng phải chẳng tu tập sắc tức là an trụ, tu tập sắc. Đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng an trụ chẳng phải chẳng tu tập thọ, tưởng, hành, thức tức là an trụ, tu tập thọ, tưởng, hành, thức. Đối với tất cả pháp Phật chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng phải chẳng tu tập tất cả pháp Phật tức là an trụ, tức là tu tập tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy quán tất cả pháp Phật khoảng trước, sau, giữa đều chẳng thể nắm bắt được.

Vì vậy, nên nói Bát Nhã như thế rất sâu xa, khó có thể suy lường, vô hạn lượng.

Vì sắc như(chơn như của sắc) rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng, nên Bát Nhã rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng; vì thọ như, tưởng như, hành như, thức như rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng, nên Bát Nhã rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng. Vì chơn như của mười hai xứ, mười tám giới rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng, nên Bát Nhã rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng. Vì tất cả pháp như (tức chơn như của tất cả pháp) Phật rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng, nên Bát Nhã rất sâu xa, khó suy lường, vô hạn lượng.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát phải hành Bát nhã Ba la mật như thế nào cho phải?

Phật dạy: Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã chẳng hành tánh sâu xa, chẳng hành tánh rất khó suy lường, chẳng hành tánh vô hạn lượng của uẩn, xứ, giới và tất cả pháp Phật là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tánh sâu xa, tánh khó suy lường, tánh vô hạn lượng của uẩn, xứ, giới thì chẳng phải là uẩn, xứ, giới; vì tánh sâu xa, tánh khó suy lường, tánh vô hạn lượng của tất cả pháp Phật thì chẳng phải là tất cả pháp Phật. Chẳng hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử:

- Thưa Đại đức! Nếu ở trước hàng Bồ Tát tân học Đại thừa mà nói Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế thì có lỗi gì?

Xá Lợi Tử đáp:

- Này Kiều Thi Ca! Nếu ở trước hàng Bồ Tát tân học Đại thừa mà nói Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế thì khi nghe họ sẽ kinh hoàng, sợ hãi, nghi hoặc, chẳng thể tin hiểu, nên sanh hủy báng; do đó tăng trưởng tạo tác, chiêu cảm nghiệp đọa ác thú, chìm đắm ba đường ác, ở lâu trong sanh tử, khó đạt được quả vị Giác ngộ tối cao. Vì thế, chẳng nên ở trước Bồ Tát tân học mà nói Bát Nhã như thế.

Bát nhã Ba la mật rất thậm thâm nầy chỉ nên thuyết giảng cho hàng Bồ Tát bất thối chuyển. Khi nghe Bát Nhã, đại Bồ Tát này chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng sanh nghi hối, tất có thể tin và hành, thời nên biết đó là bậc Bồ Tát chẳng bao lâu sẽ được thọ ký Vô thượng Bồ đề, chẳng quá một hai đời Phật.

Thiện nam, thiện nữ thành tựu thiện căn nên khi được nghe Bát nhã Ba la mật liền thọ trì, tu hành đúng như lời. Phải biết vị này là bậc đại Bồ Tát, đã phát tâm từ lâu, gieo trồng căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, gần gũi thiện tri thức. Vị này có thể thọ trì đến chánh ức niệm Bát nhã Ba la mật. Phải biết thiện nam thiện nữ ấy hoặc đã được thọ ký quả vị đại giác ngộ, hoặc sắp được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Giống như lữ hành leo đèo lặn suối đi qua những vùng hiểm trở để đến nơi giàu sang lập nghiệp. Vị này trước tiên thấy có người chăn súc vật, hoặc thấy cây cối vườn tược… Lòng người ấy cảm thấy thư thái chẳng còn lo sợ ác thú, giặc cướp, đói khát… vì biết mình đã gần đến thành lớn an ổn lợi vui.

Cũng giống như người muốn tìm đường ra biển (dạo chơi hóng mát). Vị này vượt qua khỏi rừng rậm thấy có đồi cát xa xa, lại cảm thấy không khí mát lạnh mặc dù chưa thấy biển nhưng người ấy cũng đoán biết là mình chẳng bao lâu sẽ tới biển.

Cũng giống như mọi người mong chờ Xuân đến, khi thấy cây cỏ bắt đầu ló nụ, tiết Đông giảm dần, vạn vật trở nên ấm áp dễ chịu thì biết chẳng bao lâu Xuân sẽ đến! (Q.300, ĐBN)

Cũng vậy, đại Bồ Tát được nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm rồi thọ trì, đọc tụng nhẫn đến chánh ức niệm… Phải biết đại Bồ Tát nầy đã thành tựu thiện căn tri qua nhiều đời Phật. Chư Thiên Tử đã từng thấy chư Phật vui mừng như vậy… như vậy… thì nghĩ rằng các vị Bồ Tát tu trì Bát Nhã trước đây cũng có tướng tiên khởi được thọ ký như vậy, nên đoán biết các đại Bồ Tát nầy chắc trước sau gì cũng sẽ được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thật là hy hữu, khéo phó chúc các đại Bồ Tát, khéo nhiếp thọ các đại Bồ Tát.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sao? Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cầu đạt quả vị Giác ngộ tối cao, vì lợi lạc cho các hữu tình; vì thương yêu, làm nhiều lợi ích cho hàng thiên nhơn. Các đại Bồ Tát ấy khi hành Bồ Tát đạo vì muốn làm lợi ích vô lượng trăm ngàn ức hữu tình nên dùng tứ nhiếp pháp mà nhiếp thọ họ, đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự; cũng an lập họ khiến siêng năng tu tập mười thiện nghiệp đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy tự hành bốn tịnh lự, cũng dạy người hành bốn tịnh lự; tự hành bốn vô lượng, cũng dạy người hành bốn vô lượng; tự hành bốn định vô sắc, cũng dạy người hành bốn định vô sắc; tự hành sáu phép Ba la mật, cũng dạy người hành sáu phép Ba la mật; tự an trụ địa vị Bất thối chuyển, cũng khuyên họ an trụ địa vị Bất thối chuyển; tự đoạn tất cả phiền não, tập khí, cũng dạy người đoạn tất cả phiền não, tập khí; tự chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng, cũng dạy họ chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật như thế nào để mau đựợc viên mãn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy sắc hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Nếu đại Bồ Tát nào khi tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới hoặc tăng hoặc giảm, chẳng thấy tất cả pháp Phật hoặc tăng hoặc giảm, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai, chẳng thấy hữu lậu, chẳng thấy vô lậu, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy quá khứ, chẳng thấy hiện tại, chẳng thấy vị lai, chẳng thấy thiện, chẳng thấy bất thiện, chẳng thấy vô ký, chẳng thấy Dục giới, chẳng thấy Sắc giới, chẳng thấy Vô sắc giới, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy bố thí Ba la mật, chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh, chẳng thấy chơn như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy tất cả pháp Phật thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp không có tánh tướng, không có tác dụng, chẳng chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, không tri giác, không cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh… cho đến cái biết, cái thấy.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những điều Như Lai đã nói chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Những điều Như Lai đã nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Vì mười hai xứ, mười tám giới chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn; vì tất cả pháp Phật chẳng thể nghĩ bàn nên điều Như Lai nói chẳng thể nghĩ bàn.

Nhưng này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật, đối với sắc chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật, đối với mười hai xứ, mười tám giới chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, đối với tất cả pháp Phật chẳng khởi ý tưởng chẳng nghĩ bàn, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế nghĩa lý sâu xa ai có thể tin hiểu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào từ lâu đã tu sáu pháp Ba la mật, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu, thì đại Bồ Tát ấy có thể tin hiểu Bát nhã Ba la mật sâu xa này.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy nên biết đại Bồ Tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba la mật, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng tư duy phân biệt sắc, chẳng tư duy phân biệt thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tư duy phân biệt tướng của sắc, chẳng tư duy phân biệt tướng của thọ, tưởng, hành, thức; chẳng tư duy phân biệt tánh của sắc, chẳng tư duy phân biệt tánh của thọ, tưởng, hành, thức là vì sao? Vì sắc cho đến thức chẳng thể nghĩ bàn.

Như vậy, nên biết đại Bồ Tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba la mật, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng tư duy phân biệt mười hai xứ, mười tám giới, chẳng tư duy phân biệt tất cả pháp Phật; chẳng tư duy phân biệt tướng của tất cả pháp Phật, chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật chẳng thể nghĩ bàn.

Này Thiện Hiện! Như vậy, nên biết đại Bồ Tát ấy từ lâu đã tu sáu phép Ba la mật, từ lâu đã trồng các căn lành, đã cúng dường nhiều đức Phật, đã phụng sự nhiều thiện hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như vậy là kho báu lớn?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì Bát nhã Ba la mật có khả năng ban cho hữu tình báu công đức.

Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình báu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Kho báu lớn Bát Nhã như vậy có khả năng ban cho hữu tình pháp báu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì vậy, nên gọi Bát nhã Ba la mật là kho báu lớn. (Q.301, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như vậy là nơi tập hợp của mọi thanh tịnh?

Phật dạy:

- Đúng vậy! Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì 12 xứ, 18 giới thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, vì tất cả pháp Phật thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Vì vậy, Bát nhã Ba la mật được xem như là nơi tập hợp của mọi thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Rất lạ, Thế Tôn! Hiếm có, Thiện Thệ! Bát nhã Ba la mật như thế vì quá thẳm sâu, có nhiều các lưu nạn, mà nay tại sao rộng thuyết lưu nạn chẳng sanh?

Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy. Bát nhã Ba la mật thẳm sâu có nhiều lưu nạn, nhờ thần lực Phật nên nay Ta rộng thuyết lưu nạn chẳng sanh. Vậy nên, các Đại thừa thiện nam, thiện nữ thảy đối Bát nhã Ba la mật đây, nếu muốn biên chép nên biên chép mau, nếu muốn đọc tụng, thọ trì thì nên thọ trì mau, tu tập, suy nghĩ, tuyên nói nên tuyên nói mau. Vì sao? Thiện nam tử! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu có nhiều lưu nạn, chớ để nó khởi khiến kẻ biên chép, đọc tụng, thọ trì, tu tập, suy nghĩ, vì người tuyên nói chẳng được rốt ráo.

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ này, nếu muốn một tháng, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn... hoặc bảy cho đến một năm biên chép Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, năng được rốt ráo; nên siêng tinh tấn buộc niệm lo biên chép, trải qua thời gian ấy khiến được rốt ráo thành xong. Thiện Hiện! Các thiện nam thiện nữ này, nếu muốn một tháng, hoặc hai, hoặc ba... hoặc bảy cho đến một năm, đối Bát nhã Ba la mật đây thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, vì người tuyên nói năng được rốt ráo; nên siêng tinh tấn buộc niệm thọ trì cho đến tuyên nói trải thời gian ấy, khiến được rốt ráo thành xong. Vì sao? Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu là ngọc báu vô giá nên nhiều lưu nạn vậy.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Rất lạ, Thế Tôn! Hiếm có, Thiện Thệ! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như ngọc báu vô giá, mà có kẻ biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, vì người diễn nói. Tại sao ác ma muốn làm lưu nạn chẳng cho biên chép diễn nói?

Phật nói: Thiện Hiện! Ác ma đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, dù muốn lưu nạn chẳng cho biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, vì người diễn nói; nhưng vô lực không làm được việc này.

Bấy giờ Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Là thần lực nào khiến ác ma kia chẳng làm lưu nạn được?

Phật nói: Xá Lợi Tử! Là thần lực Phật khiến ác ma kia chẳng thể làm lưu nạn được. Lại nữa, Xá Lợi Tử! Cũng là thần lực của chư Phật mười phương tất cả thế giới, khiến ác ma kia chẳng năng lưu nạn được. Chư Phật Thế Tôn đều chung hộ niệm các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, ra làm nghiệp lành khiến ác ma kia chẳng năng làm lưu nạn được.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng thuyết, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp mười phương thế giới vô lượng vô số vô biên đem Phật nhãn xem thấy. Do nhân duyên đây từ bi hộ niệm.

Phật nói: Như vậy. Như lời ngươi vừa nói. Nếu các thiện nam, thiện nữ biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng thuyết Bát Nhã thẳm sâu, thời các thiện nam, thiện nữ này hằng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp 10 phương vô lượng vô số vô biên thế giới đem Phật nhãn xem thấy hiểu biết hộ niệm, khiến các ác ma chẳng năng quấy nhiễu não loạn, chỗ tu nghiệp lành mau được thành xong.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, nếu đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng nói, phải biết các thiện nam, thiện nữ này đã gần Vô Thượng Bồ đề, các ác ma chẳng năng làm lưu nạn được.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ thảy trụ Bồ Tát thừa, nếu năng biên chép Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, dùng các món trang nghiêm, thọ trì, đọc tụng. Phải biết các thiện nam, thiện nữ này đối Bát nhã Ba la mật đây đã sâu sanh tin hiểu. Nếu lại đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này, đem các hoa hương, bảo tràng, phan lọng, áo mặc, anh lạc, kỹ nhạc, đèn sáng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Phải biết các thiện nam, thiện nữ này thường được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem Phật nhãn xem thấy hiểu biết hộ niệm. Do nhân duyên này quyết định sẽ được đại tài, đại thắng lợi, đại quả, đại dị thục.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này vì năng biên chép, thọ trì đọc tụng, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát Nhã thẳm sâu, do căn lành ấy cho nên được bậc Bất thối chuyển. Ở trong thời gian giữa thường chẳng rời Phật, hằng nghe chánh pháp, chẳng đọa ác thú.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này do căn lành đây, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng xa lìa bố thí Ba la mật; thường chẳng xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này do căn lành đây, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng xa lìa 18 pháp không, thập nhị chân như. Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ nhân này do căn lành đây, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng xa lìa tứ Thánh đế, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tám giải thoát, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn; chẳng xa lìa tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp, Nhất thiết trí, Đạo tướng, Nhất thiết tướng trí... cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; thường chẳng xa lìa thần thông tự tại, dạo các cõi Phật, khuyến thỉnh chư Phật quay xe chánh pháp, độ vô lượng chúng sanh. Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này do căn lành đây, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng xa lìa Bồ Tát hạnh.

 

(Sự bành trướng Bát nhã Ba la mật trên thế giới).

 

Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, Phật diệt độ rồi phương nào sẽ được hưng thịnh?

Phật nói: Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, ta diệt độ rồi đến phương Đông Nam sẽ lần hưng thịnh. Phương kia sẽ có Bí sô, Bí sô ni, tại gia nam, tại gia nữ, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ trụ Bồ Tát thừa, năng đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế đem lòng tin hiểu, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng nói. Lại đem các món tràng hoa thượng diệu, hương xoa, hương bột thảy... đèn sáng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế. Các chúng sanh kia do căn lành thù thắng như thế, nên rốt ráo chẳng đọa ác thú, thường sanh trong trời người hưởng giàu sang sung sướng. Do thế lực tăng ích sáu pháp Ba la mật khiến mau viên mãn. Nhờ đây lại năng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Phật Thế Tôn. Sau tùy chỗ sanh, nương pháp Tam thừa lần lữa tu tập mà ra khỏi.

Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, khi Ta diệt độ rồi từ phương Đông Nam chuyển đến phương Nam sẽ lần hưng thịnh. Rồi lại từ phương Nam đến phương Tây Nam sẽ lần hưng thịnh. Kế đến lại từ phương Tây Nam đến phương Tây Bắc sẽ lần hưng thịnh. Lại từ phương Tây Bắc chuyển đến phương Bắc. Rồi từ phương Bắc đến phương Đông Bắc sẽ lần hưng thịnh.

Sau khi Ta diệt độ rồi phần sau của hậu thời năm trăm năm sau, Bát Nhã thẳm sâu ở phương Đông Bắc đại tác Phật sự. Vì sao? Xá Lợi Tử! Pháp được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tôn trọng tức là Bát nhã Ba la mật. Bát Nhã như thế tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cùng đồng hộ niệm. Xá Lợi Tử! Luật tạng Vô Thượng Chánh Đẳng là pháp mà Phật đã được, chẳng phải có tướng diệt mất. Các Phật đã được pháp Luật tạng Vô thượng Chánh pháp tức là Bát nhã Ba la mật. Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ phương Đông Bắc kia, nếu năng đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng nói, Ta thường hộ niệm các thiện nam, thiện nữ này khiến không não hại. Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ phương Đông Bắc kia, nếu năng biên chép Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, lại đem các món tràng hoa thượng diệu, hương xoa, hương bột thảy, áo mặc... kỹ nhạc, đèn sáng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát Nhã thẳm sâu. Ta nói quyết định các thiện nam, thiện nữ kia, do căn lành đây rốt ráo chẳng đọa ác thú, sanh trong trời người thường hưởng giàu sang sung sướng. Do thế lực đây tăng ích sáu pháp Ba la mật. Sau tùy chỗ sanh, nương pháp Tam thừa lần lữa tu tập mà vào Niết bàn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Ta đem Phật nhãn xem thấy chứng biết, xưng ca khen ngợi các thiện nam, thiện nữ này chỗ được công đức. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác yên ổn trụ trì hiện đang thuyết pháp ở Đông Tây Nam Bắc, bốn góc, trên dưới vô lượng vô biên thế giới cũng đem Phật nhãn xem thấy chứng biết, xưng ca khen ngợi các thiện nam, thiện nữ này chỗ được công đức.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, Phật diệt độ rồi phần sau của hậu thời năm trăm năm sau, ở phương Đông Bắc rộng lưu khắp ư?

Phật nói: Xá Lợi Tử! Như vậy. Bát Nhã thẳm sâu, Ta diệt độ rồi phần sau của hậu thời năm trăm năm sau, ở phương Đông bắc sẽ được rộng lưu khắp. Xá Lợi Tử! Ta diệt độ rồi các thiện nam, thiện nữ phương Đông Bắc kia, nếu được năng nghe Bát Nhã thẳm sâu đây, rất sanh lòng tin hiểu, biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, suy nghĩ, rộng nói. Phải biết các thiện nam, thiện nữ kia đã lâu phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng giác, đã tu hạnh Bồ Tát, cúng dường nhiều Đức Phật, phụng sự nhiều các bạn lành, chỗ trồng căn lành đều đã thành thục. Do phước lực này được nghe Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, rất sanh lòng tin hiểu, lại năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, vì người rộng nói.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Phật diệt độ rồi phần sau của hậu thời năm trăm năm sau, ở phương Đông Bắc có bao nhiêu thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, được nghe Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế rất sanh lòng tin hiểu, lại năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, vì người rộng nói?

Phật nói: Xá Lợi Tử! Ta diệt độ rồi phần sau của hậu thời năm trăm năm sau, ở phương Đông Bắc tuy có vô lượng các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, mà ít kẻ được nghe Bát Nhã thẳm sâu rất sanh lòng tin hiểu, tâm kia chẳng kinh, chẳng khủng, chẳng bố, cũng không ưu hối. Lại năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, vì người rộng nói.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này chẳng lâu sẽ trọn đủ bố thí Ba la mật; chẳng lâu sẽ trọn đủ tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này chẳng lâu sẽ trọn đủ 18 pháp không, thập nhi chơn như, tứ Thánh đế, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết trí trí... cho đến Bô Thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ kia vì được tất cả Như Lai hộ niệm, vì được nhiều bạn lành nhiếp hộ, vì được căn lành thù thắng giữ gìn, vì muốn lợi ích nhiều chúng sanh nên cầu đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Xá Lợi Tử! Ta thường vì các thiện nam, thiện nữ kia nói pháp tương ưng Nhất thiết trí trí. Các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ cũng thường vì các thiện nam, thiện nữ kia nói pháp tương ưng Nhất thiết trí trí. Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ, đời sau lại năng cầu đến Vô Thượng Bồ đề. Cũng năng vì người mà nói pháp khiến đến Vô Thượng Bồ đề. Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ kia thân tâm an định, các ác ma vương cùng quyến thuộc kia hãy chẳng phá hoại tâm cầu đến Vô thượng Chánh Đẳng giác.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ Đại thừa như thế, nghe Ta nói Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, tâm vui mừng được diệu pháp rộng lớn, cũng năng an lập vô lượng chúng sanh nơi thắng thiện pháp khiến đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này, nay ở trước ta cũng ở trước vô lượng Phật quá khứ phát hoằng thệ nguyện rằng: “Ta sẽ an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức các loại hữu tình, khiến phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng giác, tu hạnh Bồ Tát, thị hiện khuyến dẫn khen gắng vui mừng, khiến đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho đến được thọ ký Bất thối chuyển”. Xá Lợi Tử! Ta đối nguyện kia rất sanh lòng tùy hỷ. Vì sao? Xá Lợi Tử! ta xem các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa như thế, đã phát hoằng nguyện tâm ý hợp nhau. Các thiện nam, thiện nữ kia ở đời đương lai an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức các loại hữu tình khiến phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng giác, tu hạnh Bồ Tát thị hiện khuyến dẫn khen gắng vui mừng, khiến đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho đến được thọ ký Bất thối chuyển.

Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ này tin hiểu rộng lớn, hay nương sắc thanh hương vị xúc nhiệm mầu tu bố thí rộng lớn. Tu bố thí đây rồi, lại hay vun trồng căn lành rộng lớn, nhờ căn lành này lại hay nhiếp thọ quả báo rộng lớn. Nhiếp thọ quả báo rộng lớn như thế, chuyên làm lợi vui cho tất cả hữu tình. Đối các hữu tình năng xả tất cả sở hữu trong ngoài. Các thiện nam, thiện nữ hồi hướng căn lành đã trồng như thế, nguyện sanh cõi nước các Đức Phật phương khác, hiện có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đang tuyên nói Bát Nhã thẳm sâu. Nghe Bát nhã Ba la mật pháp thẳm sâu vô thượng rồi, lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức các loại hữu tình trong cõi Phật kia, khiến phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng giác tu Bồ Tát hạnh cho đến khi đạt Bất thối chuyển.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Rất lạ. Bạch Thiện Thệ! Hiếm có. Phật đối các pháp vô sở hữu quá khứ vị lai hiện tại, không pháp nào chẳng chứng biết. Đối tất cả pháp chơn như, pháp giới và pháp tánh thảy, không pháp nào không chứng biết. Đối các pháp giáo hóa, không pháp nào chẳng chứng biết. Đối tâm hành sai khác của các hữu tình khác, không tâm nào chẳng chứng biết. Đối quá khứ, vị lai, hiện tại Phật, Bồ Tát, Thanh văn và cõi Phật, không thứ gì chẳng chứng biết. Đối mười phương cõi tất cả Như Lai Ứng Giác đã thuyết pháp, Bồ Tát, Thanh văn và cõi Phật thảy, không thứ gì chẳng chứng biết.

Xá lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát đối sáu Ba la mật, mạnh mẽ tinh tiến hằng cầu chẳng dứt, đối sáu Ba la mật đây thời được hay chẳng được? Phật nói: Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ kia hằng đối sáu Ba la mật đây mạnh mẽ tinh tiến hớn hở cầu chẳng dứt, tất cả thời được, chẳng phải không được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ kia hằng đối sáu Ba la mật đây, mạnh mẽ tinh tiến mừng cầu chẳng dứt, thì được chư Phật, Bồ Tát thường hộ niệm vậy.

Xá Lợi Tử nói: Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ kia, nếu chẳng được sáu Ba la mật thẳm sâu, thì làm sao thuyết sáu Ba la mật đây? Phật nói: Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ kia, hằng đối sáu Ba la mật mạnh mẽ tin cầu chẳng đoái thân mạng, mà chẳng được Kinh này, thì không có lẽ ấy. Vì sao? Xá Lợi Tử! Các thiện nam, thiện nữ vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thị hiện khuyến dẫn khen gắng vui mừng các loại hữu tình, khiến đối sáu Ba la mật thẳm sâu, thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tu học. Do căn lành đây, tùy sanh chỗ nào thường được sáu Ba la mật thẳm sâu, thọ trì đọc tụng, dũng mãnh tinh tiến, như giáo tu hành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

Lược giải:

 

1. Phần trên của phẩm này nói về sự tu tập và hành trì Bát Nhã:

 

- “Đối với tất cả pháp chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng phải chẳng tu tập là an trụ, tu tập tất cả pháp”. Một khi có an trụ, có tu tập là hành có sở đắc. Nhưng chẳng an trụ, chẳng tu tập thì làm sao Giác ngộ, đạt Chánh giác? Vì vậy, Kinh nói đối với tất cả pháp chẳng an trụ, chẳng tu tập, chẳng phải chẳng an trụ, chẳng phải chẳng tu tập là an trụ, là tu tập tất cả pháp. Đó chính là hành mà không sở hành, hành như vô sự. Hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

- Kinh lại nói: “Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã chẳng hành tánh sâu xa, chẳng hành tánh rất khó suy lường, chẳng hành tánh vô hạn lượng của uẩn, xứ, giới và tất cả pháp Phật là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tánh sâu xa, tánh khó suy lường, tánh vô hạn lượng của uẩn, xứ, giới thì chẳng phải là uẩn, xứ, giới; vì tánh sâu xa, tánh khó suy lường, tánh vô hạn lượng của tất cả pháp Phật thì chẳng phải là tất cả pháp Phật. Chẳng hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật”.

- Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy pháp đúng, chẳng thấy pháp sai, chẳng thấy hữu lậu, chẳng thấy vô lậu, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn”.

- “Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy tất cả pháp dù là pháp Phật thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Vì sao? Vì tất cả pháp không có tánh tướng, không có tác dụng, chẳng chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, không tri giác, không cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh… cho đến cái biết, cái thấy”.

- Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng tư duy phân biệt tất cả pháp, chẳng tư duy phân biệt tướng, chẳng tư duy phân biệt tánh của tất cả pháp, thì đại Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Tu hành mà còn thủ tâm chấp tướng thì còn chướng ngại. Vì sao? Vì Kinh nói như trên: “Tất cả pháp không có tánh tướng, không tác dụng, chẳng thể chuyển động, hư vọng giả dối, tánh chẳng chắc chắn, chẳng tự tại, vô tri giác, vô cảm thọ, xa lìa ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh… cho đến cái biết, cái thấy”.

Tu như vô tu, học như vô học, hành như vô sự. Đó chính là tu, là học, là hành mới mau viên mãn Bát nhã Ba la mật, mới sớm chứng Vô thượng Bồ đề. Tu hành mà còn mong cầu nắm bắt, còn nương vịn thì không bao giờ đến được bờ kia. Đó là tu có sở đắc.

Nói tóm lại, nếu hữu tình đều nghĩ tưởng tất cả pháp không tánh, không tướng, không tác dụng, không động chuyển, hư vọng giả dối, chẳng tự tại, vô tri giác, vô cảm thọ, lìa ngã & ngã sở… thì có thể nói tất cả pháp đều thanh tịnh. Nếu tất cả pháp thanh tịnh thì: Sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh; mười hai xứ, mười tám giới cho đến tám mươi bốn vạn pháp môn... thanh tịnh, nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên tất cả cõi nước ở mười phương thế giới như cát sông Hằng đều thanh tịnh.

Vì vậy, Bát nhã Ba la mật được coi là nơi tập hợp của mọi thanh tịnh thế gian.

 

2. Phần dưới của phẩm này nói về sự bành trướng của Bát Nhã:

 

Sau khi Phật nhập diệt, Bát nhã Ba la mật sâu xa nầy sẽ lan đến các cõi nước phương Nam. Nơi đó, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di sẽ biên chép, sẽ thọ trì, đọc tụng, tư duy, giảng nói, chánh ức niệm, tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa này.

Từ phương Nam truyền đến phương Tây, từ phương Tây sẽ truyền đến phương Bắc, hàng tứ chúng ở các cõi nước ấy cũng sẽ biên chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, giảng nói, chánh ức niệm, tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa này. Do nhơn duyên căn lành của các người đó càng thêm tăng trưởng lớn mạnh, nhờ đó mà họ chẳng còn bị sa vào ác đạo, hưởng phước vui cõi Trời Người, thêm lớn sáu Ba la mật, cúng dường, cung kính, ngợi khen chư Phật, lần lần đắc quả Thanh văn, Bích Chi Phật và Phật thừa.

Bát Nhã sẽ tiếp tục làm Phật sự ở phương Bắc. Rồi từ phương Bắc đến phương Đông Bắc sẽ lần hưng thịnh. Phật bảo Xá Lợi Tử: “Sau khi Ta diệt độ rồi phần sau của hậu thời năm trăm năm sau, Bát nhã Ba la mật thẳm sâu ở phương Đông Bắc đại tác Phật sự”. Thiện nam thiện nữ thọ trì nhẫn đến tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa này sẽ biên chép, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng nói lại cung kính, cúng dường, ca ngợi Bát nhã Ba la mật thẳm sâu này. Các thiện nam, thiện nữ ấy do nhơn duyên đây, căn lành thêm lớn mạnh nên chẳng sa vào ác đạo, được hưởng phúc lợi cõi Trời Người, thêm lớn sáu Ba la mật, cúng dường cung kính, ngợi khen chư Phật, lần lần đắc quả Thanh văn, Bích Chi Phật và Phật thừa.

 

Kết luận:

 

Giáo ý Bát Nhã là trụ mà không chỗ trụ, hành như vô sự, Bồ Tát ra vào thế giới nầy vô số kiếp để độ chúng hữu tình như đi trong hư không. Cứu độ mà không thấy chúng hữu tình được đắc độ, quên cả thời gian, quên cả số kiếp! Ấy thế mà Bồ Tát cứ tu, cứ hành, cứ độ! Đó là chỗ uyên áo khó hiểu, khó nắm của Bồ Tát đạo. Bồ Tát hành những hạnh khó hành, mới độ vô lượng chúng sanh không hề mệt mỏi. Công hạnh của Bồ Tát đạo là như vậy. Nên Bát Nhã mới bảo Bồ Tát được vô vàn công đức trí tuệ không thể nghĩ bàn. Công đức đó vì vậy mới nói là khó nghe!

Khó nghe ở đây có nghĩa “khó được nghe”. Ai cũng có cái nghe, thấy, biết, nhưng muốn nghe được Bát nhã Ba la mật phải là người có thiện căn, công đức, nhiều đời thờ phụng, cúng dường chư Phật, phụng sự bạn lành... mới được phúc duyên này. Nghe rồi thì phải thọ trì, công đức mới được vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567