Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổng Quan Bát Nhã

17/08/202217:06(Xem: 5109)
Tổng Quan Bát Nhã

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-573

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TỔNG QUAN BÁT NHÃ. 

 

Mười 12 điểm nói trên chỉ là đại cương những gì mà chúng tôi thấy biết từ Đại Bát Nhã. Chắc chắn ở một trình độ cao minh hơn sẽ cho Quý vị một cái nhìn rộng lớn sáng sủa hơn. Ở đây, phần lớn chúng tôi cố gắng khám phá các biểu thị cũng như pháp nghĩa hiển hiện của Bát nhã Ba la mật. Tuy nhiên, 12 điểm nói trên không thể gói ghém hết tất cả các giáo nghĩa của toàn thể Đại tùng thư này, nó chẳng khác nào “lấy thúng úp voi”. Vì vậy, mới có phần “nói thêm”. Nhưng đây cũng chỉ là phần ôn lại, giải thích thêm, không có gì mới mẻ:

 

1. Đại Bát Nhã Ba La Mật được xem như là một Đại tùng thư bao gồm tất cả pháp Phật từ Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Bồ Tát thừa cho đến nhất Phật thừa, gọi chung là tất cả pháp mầu Phật đạo, các thiện pháp, các pháp hi hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát, Bồ Tát đạo hay còn gọi là 81 khoa danh tướng Bát Nhã. Đó là: “Năm uẩn, sáu căn, sáu trần, sáu thức, sáu xúc, sáu duyên sở sinh, bốn duyên, sáu đại, mười hai nhân duyên, sáu độ (lục độ Ba la mật), ngã giả, sinh giả, thọ giả, mệnh giả, hữu tình giả, dưỡng dục giả, chúng số giả, tác giả, sử tác giả, khởi giả, sử khởi giả, thọ giả, sử thọ giả, kiến giả, tri giả, mười tám pháp không, Tứ đế, chân như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dịch tánh, bình đẳng tánh, ly sinh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bốn niệm xứ, bốn chính cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, thất giác chi, Bát chánh đạo, không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn, Bồ Tát thập địa, năm nhãn, sáu thông, mười lực, bốn vô úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, mười tám pháp bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, Dự lưu quả, Nhất lai quả, Bất hoàn quả, A la hán quả, Độc giác Bồ đề, Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao”.

Tất cả các pháp môn Phật học này còn gọi là các pháp thực tu thực chứng, nên phẩm “Khéo Học”, quyển 333 , Hội thứ I, Phật bảo: “Này Thiện Hiện! Nên biết, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, tứ vô sở úy, đại từ, đại bi v.v…đối với các chúng đại Bồ Tát là thầy, là hướng đạo, là ánh sáng, là đuốc, là đèn, là hiểu, là biết, là trí, là tuệ, là cứu, là hộ, là thất, là nhà, là bờ, là bến, là về, là đến, là cha, là mẹ. Nói tóm lại, tất cả Phật pháp đối với các đại Bồ Tát là thầy, là hướng đạo... là đến, là cha, là mẹ”.

Không biết chúng tôi có chủ quan hay không khi nói “không có bộ kinh nào trong kinh điển Phật học liệt kê đầy đủ các pháp môn Phật học như Kinh Đại Bát Nhã”, nên kinh này mới được gọi là mẹ của chư Phật, sanh ra chư Phật, chư Bồ Tát, sanh ra các pháp thế gian và xuất thế gian. Nhưng trọng tâm của Kinh này không phải nói riêng về các pháp mầu Phật đạo mà nói về trí Bát Nhã như Kinh Pháp Hoa nói về tri kiến Phật. Nên phẩm “Chuyển Sanh”, quyển 07, Hội thứ I, ĐBN. Nói: “Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp, thì nên đáp ngay rằng: Đó là Bát nhã Ba la mật sâu xa”.

Đây cũng là trọng điểm cần lưu ý độc giả. Nên bất cứ pháp hội nào Phật cũng khuyên học Bát nhã Ba la mật nếu muốn Giác ngộ, đạt Chánh giác hay Nhất thiết trí trí. Không có Bát Nhã không có Bồ Tát, không có Phật, không có tất cả pháp thế gian hay xuất thế gian. Vì vậy, Bác Nhã mới được xem là nguyên lý chỉ đạo của Tánh Không xuất sanh trí tuệ nhiệm mầu, các biện tài vô ngại và các công đức không thể nghĩ bàn.

Đó tổng quan(quan điểm tổng quát)đầu tiên cần lưu ý: Không có các pháp mầu Phật đạo không có Phật, không có Đại thừa, không có Phật đạo!

 

2. Theo Phật sử, trong nhiều đời kiếp, Phật cũng tu pháp môn này, nên thừa hiểu Bát nhã Ba la mật là gì và cũng thừa hiểu tánh cách hữu ích của nó đối với vấn đề nhân sinh trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần. Đó là lý do tại sao Phật phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp gian khổ tầm cầu, tu học để cuối cùng được giác ngộ. Nhưng ngộ không phải là độc quyền của Phật, mà ngộ là phần thưởng của Phật dành cho tất cả chúng sanh kể từ khi Phật thành đạo. Vì vậy, khi ngộ rồi Phật thấy rằng chúng sanh đang lặn ngụp trong bể khổ sanh tử, để cứu chúng sanh ra, Phật thuyết Đại Bát Nhã Ba La Mật, gọi là dạy bảo trao truyền Bát nhã Ba la mật hay nói khác là Phật trao đuốc tuệ này cho thế hệ mai sau.

Nhưng Bát nhã Ba la mật như chúng ta đã biết, không phải là pháp dễ học, dễ tu, dễ chứng. Những gì Phật hiểu và chứng khác hẳn những gì chúng sanh hiểu và sống. Phật hiểu và chứng cái gọi là đệ nhất nghĩa đế (Thánh đế), chúng sanh hiểu và sống là theo công ước và các tập tục thế gian (Tục đế). Cả hai thế giới này nghịch chiều, đối chọi lẫn nhau. Nên đôi khi chúng ta đọc ĐBN tưởng chừng như Kinh tự mâu thuẫn.

Phật thấu suốt cả hai thế giới này. Nhưng Phật không trụ mà vượt qua và vượt trên cả hai, nên mới có thể chỉ cho chúng sanh thấy những thuận nghịch của chúng. Phật vượt qua và vượt trên cả hai thế giới vô sinh-vô diệt, vô nhiễm-vô tịnh, vô tướng-vô vi… trên mọi đối tác trần gian là do Thế Tôn thâm nhập được Bát nhã Ba la mật. Nên Bát nhã Ba la mật mới được suy tôn và qui hướng hơn bao giờ hết. Đó là tổng quan thứ hai: Phật không an lập thế giới hai chiều “thuận hay nghịch” mà thế giới khách quan tự biểu lộ tính năng động như thế. Khi hiểu ra như vậy, và tự mình vượt qua và vượt trên các hệ lụy thế gian thì chẳng khác nào con cá nhảy ra khỏi lưới, giải thoát được sanh tử.

 

3. Tại sao Phật làm được như vậy? Vì Phật biết rõ thế giới của chúng sanh là thế giới của phiền não. Phiền não bao giờ, ở đâu cũng đưa đến mất mát làm chướng ngại đạo Bồ đề. Đoạn phiền não tức thoát khỏi mọi hệ lụy thế gian, thì tâm thể sẽ rỗng không, sẽ được như như, bình đẳng, thanh tịnh. Đó là cái cần nói cần nhấn mạnh trong việc tu hành. Khi tâm thể thấy rỗng không, như như, bình đẳng thì được thanh tịnh, cái gọi là tịch lặng an nhiên. Mục đích tối cao của việc tu hành, dẫn đến vô thức, vô niệm, vô tâm để phát sanh trí tuệ mà chứng Thánh.

Tuy vô thức mà phát khởi trí tuệ hướng dẫn cuộc đời hành đạo của các ngài. Tuy vô niệm mà luôn luôn tưởng niệm đến chúng sanh không rời sở nguyện. Tuy vô tâm mà vẫn phát khởi đại bi tâm thương sót hữu tình nguyện độ vô lượng hữu tình ra khỏi bể khổ sanh tử. Vì vậy, tuy nói tu pháp không, pháp như, bình đẳng, thanh tịnh không có nghĩa là không có gì hết. Chính không có gì hết, lại mang nhiều diệu dụng công đức không thể nghĩ bàn gọi là diệu hữu chân không.

 

4. Thế giới của chúng sanh là thế giới của chia chẻ phân hóa, thế giới so đo phân biệt, chấp trước, thế giới tương đãi đối trị... Nó là đối tượng của thức vọng điên đảo. Từ đó, sanh ra đủ thứ sai lầm, từ xung đột (conflit), mâu thuẫn (contradiction) cho đến điên đảo, thiên chấp.

Có lẽ chúng tôi không đủ già dặn để nói hết những thứ phức tạp này. Đứng về phương diện chiết tự thì xung đột và mâu thuẫn ý nghĩa gần như nhau. Nhưng kinh nghiệm cho biết rằng xung đột có nghĩa quyết liệt, mạnh bạo hơn nếu nó đi liền với bạo động. Bởi vì, bạo động lúc nào ở đâu cũng gây tang tóc, đau thương.

Còn mâu thuẫn thì sao? Làm sao sống mà không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn là điều tất yếu xảy ra không nhiều thì ít trong cuộc sống luôn luôn va chạm, nứt rạn này. Nhưng mâu thuẫn không đến nỗi tệ. Mâu thuẫn giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và mới, giữa cái trì trệ lạc hậu với phát triển đổi mới. Đó là điều dĩ nhiên. Nhưng nó lại là một thứ cách mạng, một thứ đổi thể, lột xác cần thiết trong sự thăng tiến đối với bất cứ xã hội, bất cứ thời đại nào.

Riêng, thiên chấp thì quá tệ, nó là nguồn gốc của đổ vỡ, mất mát trong thế giới nhị nguyên đối đãi, thế giới của hữu hay vô, của tốt hay xấu, uế hay tịnh, v.v... Tất cả đời sống của chúng ta bắt nguồn từ những nhận thức rối rắm này. Nó là gốc rễ của những thực tại đau thương. Ngày nào còn bị lôi cuốn trong hấp lực của nó thì ngày ấy chúng sanh không thể thoát khỏi những bạo hành của nó. Phải vượt qua và vượt trên thế phân hai mới thấy được thật tướng các pháp, mới đạt được Thánh đạo. Biết như vậy, nên trên con đường thức tỉnh giác quan nội tại để đạt chánh giác, phải vượt qua và vượt trên thế đảo nghịch của cuộc đời thường, nhận thức mới được nâng lên một tầng cao hơn gọi là huệ, huệ đến từ bờ kia. Đừng đánh giá thấp các yếu tố này trong đời sống thường nhật.

 

5. Bát Nhã là không, không trụ ở cao thấp, phải trái, chân tục, phàm thánh, có không v.v... Bát Nhã không trụ tất cả chỗ. Bát Nhã chỉ muốn chỉ rõ cho chúng sanh thấy vạn hữu là đa thù để chúng sanh tự chọn lấy lối sống, cách sống cho phù hợp với sinh hoạt tâm linh. Bát Nhã quá nhiều lần phát biểu không có bờ này, không có bờ kia, cũng không có giữa. Có giữa cũng gọi là có biên, có biên là có nghiêng chấp thì tâm không còn tự do trong tư tưởng hay hành động. Trụ vô sở trụ là chỗ trụ của Bát Nhã. Đó là điểm cần nhấn mạnh mà Bát Nhã luôn luôn lưu ý hành giả Bát Nhã trong việc luyện tâm, luyện trí. Có trụ là có nắm bắt, buông bỏ, nương chấp… Có buông bỏ nương chấp là có quái ngại, thì không còn tự do trong ý chí hay hành động nữa.

 

6. “Nhất thiết pháp không”, là chỗ tự hội của Phật, cái tự hội này đã gây nhiều phản ứng không những đối với những người ngoài đạo mà cả trong Phật đạo nữa. Chúng tôi không biết dùng từ gì để diễn tả cái tự hội này. Nhưng kinh nói “các pháp tự không chứ không phải là không có mà gọi là không”. Đừng xem cái Không này như một thứ hư vô hóa toàn triệt. Các pháp hiện hữu giữa lòng chân tánh của vạn hữu, ai cũng thấy cũng xúc chạm được nhưng tại sao lại bảo là không? Dĩ nhiên, không ai có thể chấp nhận điều này một cách dễ dàng dù lời nói này phát ra từ kim khẩu của Phật. Để giải thích, phẩm “Bồ Tát Pháp Dũng”, quyển 399, Hội thứ I, ĐBN. Phật lấy thí dụ:

“Thí như cây đàn không hầu nương vào các loại nhân duyên hòa hợp mà có tiếng sanh, nhân duyên của tiếng ấy là cái cần, cái ống, khe hở, cái trục, sợi dây v.v... tác ý của nhạc công. Như vậy, từng yếu tố một chẳng có thể sanh tiếng, khi hòa hợp tất cả yếu tố lại, tiếng nó mới phát; tiếng ấy phát sanh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu”.

Ở đây Phật giải thích tất cả pháp là do nhân duyên hòa hợp (còn gọi là duyên khởi(1) hay duyên sanh) giống như cây đàn không hầu không riêng cái cần, cái ống, cái trục, sợi dây hay tác ý của nhạc công... mà có tiếng. Tất cả các thứ ấy hợp lại mới có tiếng phát ra. Cũng vậy, tất cả các pháp không tự sanh, phải có các yếu tố chính cùng các yếu tố phụ hợp lại mới sanh. Như cây lúa là do hạt lúa (nhân chính=tự) nhờ có đất nước, hơi ấm mặt trời, phân bón, sự chăn sóc (nhân phụ=tha)... mới tạo thành cây lúa. Tất cả các yếu tố hợp lại (tự và tha) mới có cây lúa. Nên nói lúa có được là do nhân duyên hòa hợp mà có, nếu không có nhân duyên hòa hợp thì không, còn gọi là Tánh không hay Bản tánh không. Mọi vật đều như vậy, mọi hiện hữu đều như vậy.

Để giải thích thêm cái Không này, Ngài Long Thọ bảo tất cả pháp hiện hữu không ở ngoài nhân duyên, cũng không ở trong nhân duyên riêng có, nên bảo tất cả đều không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên bảo là Không. Đó là những biểu thị của “Duyên khởi” qua cái nhìn của Trung quán để giải thích tại sao Bát Nhã bảo tất cả pháp đều không, một giáo lý làm đảo nghịch trào lưu tư tưởng vô tiền khoáng hậu này.

Vì vậy, TT Thích Tâm Thiện trong phần trình bày thiên khảo luận về “Lịch Sử Tư Tưởng và Triết Học Tánh không”, phát biểu:

“Chúng ta biết rằng, Duyên khởi (Paticcasamuppàda) là giáo lý vô cùng quan trọng, có một không hai trong lịch sử tôn giáo và triết Đông-Tây. Đây cũng là giáo lý thống nhất được ghi lại trong hệ thống Kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền. Như Phật nói: Ngài và các Đức Phật thời quá khứ đều chứng đắc giác ngộ từ giáo lý Duyên khởi. Từ đó, cho thấy tính cách quan trọng của giáo lý này. Ở đây, nếu muốn hiểu một phần nào đó về TÁNH KHÔNG, thì trước hết phải nghiên cứu về Duyên khởi, vì nó là con đường “độc nhất vô nhị” dẫn đến tri nhận thực tại Tánh Không. Duyên khởi và Tánh Không là hai mặt của một thực tại, dù nó được giải minh trên bất kỳ bình diện nào, công ước hay tuyệt đối, tục đế hay chân đế. Duyên khởi, trên mặt hiển thị, là hiện tượng của Tánh Không; và Tánh Không, trên cái nhìn tuyệt đối, là bản chất của Duyên khởi. Đây là một loại hệ luận, mà nói theo ngôn ngữ của Hoa Nghiêm là “tương tức”, “tương nhập” - cùng sinh khởi và cùng hiện hữu”.

Duyên khởi trở thành quan trọng trong việc giải thích nhất thiết pháp không, nên được trình bày ở đây để chúng ta hiểu biết thêm về vai trò của triết thuyết Duyên khởi. Vậy, học Bát Nhã Tánh không phải nhớ đến thuyết duyên khởi, phải nhớ các pháp không có tự tánh. Không có tự tánh, nên không thể tự sanh. Tất cả đều do duyên hội! Đó là tổng quan trọng yếu của Tánh Không và Duyên khởi thuộc hệ Bát Nhã..

 

7. Ai cũng hiểu: Thấy và biết là những quan năng lúc nào cũng song hành. Nhưng đây không phải là những kẻ đồng hành “êm thắm”, có chức năng như nhau. Máy ảnh và tấm ảnh biểu thị cho cái thấy. Người chụp ảnh và người xem ảnh là cái biết. Máy ảnh và tấm ảnh là vô tri, vô thức, nó chỉ ghi lại “nguyên trạng” cảnh giới không thêm không bớt. Nhưng người chụp ảnh và người xem ảnh lại sanh ra vui buồn tức có cảm thọ, ý thức dính vào đó.

Cũng vậy, uẩn xứ giới vừa là máy ảnh, vừa là tấm ảnh, vừa là nhiếp ảnh gia, cũng vừa là người xem. Tất cả mấu chốt của cuộc sống đều tùy thuộc vào những tương quan giữa các thành phần này hay nói khác là tương quan giữa thấy, nghe, hiểu biết của con người (Tâm) và vạn hữu (Vật) bao quanh nó. Không riêng về Đại Bát Nhã Ba La Mật, đạo Phật nói chung xây dựng cơ đồ không ngoài các quan hệ này: Tâm và vật, con người và vạn hữu hay nói khác giữa nhân sinh và vũ trụ, từ đó nẩy sanh các quan điểm khác nhau về cuộc sống.

Quan điểm cuối cùng được coi là chân lý, đó chính là chân như quan Bát Nhã. Chân như quan đó là gì? Nói một cách giản dị và ngắn gọn là Cái chân tướng như thực (yathābhūtaṃ hay bhùtatathatà) cùng khắp của tất cả pháp, cũng gọi là chân như, pháp giới, pháp tánh v.v...  gọi chung là thập nhị như, thập nhị không: 1. Chân như có nghĩa chân thực, thường như. Thể tánh của các pháp chân thực thường như. 2. Pháp giới: Giới nghĩa là chỗ nương. Chân như là chỗ nương của các pháp. 3. Pháp tánh: Tức là thể tánh của các pháp. 4. Bất hư vọng tánh: Pháp tánh chân thực, xa lìa hư vọng. 5. Bất biến dị tánh: Tức pháp thể không biến đổi. 6. Bình đẳng tánh: Lìa tướng sai biệt của các pháp, bình đẳng không hai. 7. Ly sanh tánh: Tức lìa sanh diệt. 8. Pháp định: Tức pháp tánh thường trụ. 9. Pháp trụ: Trụ trong pháp vị chân như. 10. Thật tế: Cái chân thật cùng cực, cái biên tế cuối cùng của sự vật. 11. Hư không giới: Tức lý thể của chân như cùng khắp. 12. Bất tư nghị giới: Lý thể chân như dứt bặt mọi suy tư nói năng, không thể nghĩ bàn(2). Tất cả giải thích trên về chân như nói trên tuy ngắn gọn, cô đọng, nhưng rất hữu ích cho việc thấu triệt về chân như. Người nào hiểu được thập nhị chân như tức nhập pháp giới thì xem là như giác ngộ. Bát Nhã không khoanh vùng, không nhấn mạnh, nhưng nói rất nhiều về các pháp môn này. Vì sao? Vì chúng bao gồm cả nhân sinh và vũ trụ.

Thông thường khi nói đến chân như, kinh sách thường liệt kê 12 thứ chân như căn bản này. Nhưng trong thực tế, chân như theo nhiều tông phái khác nhau còn được gọi là Hư không giới, Đoạn giới, Ly giới, Diệt giới, Cảnh giới vô tánh, Cảnh giới vô tướng, Cảnh giới vô tác, Cảnh giới vô vi, Cảnh giới an ổn, Cảnh giới tịch tịnh, Cứu cánh Niết bàn, Tánh không, Bổn vô, Như Lai tạng, Phật tánh, Pháp thân, Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm, Viên Thành Thực Tính, Bản lai diện mục v.v... Đó là cái thể tính chân thật tuyệt đối của tất cả pháp mà chỉ có Như Lai với Như Lai mới thấu triệt các như này. Nên các Ngài mới được gọi là chư Như Lai. Như Lai là chân thật nghĩa, bất hư vọng tánh, Như Lai là Giác ngộ cùng khắp. Nếu ai hiểu và thâm nhập được các như này thì chẳng khác nào Như Lai hay ít nhất cũng được gọi là Như Lai tùy sanh. Học Bát Nhã phải lưu ý tầm quan trọng của các pháp này.

8. Vì vậy, khi học về Bát nhã Ba la mật nên chú ý đến ba lối thuyết pháp về chân lý của của nhân sinh và vũ trụ:

1- Thiên Đế Thích Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Chí là lối thuyết giảng thấp nhất cho hàng sơ phát tâm hay hạ căn. Vì sao? Vì các bậc này nhờ tu thập thiện, tu các pháp tu như như bố thí, trì giới, an nhẫn hay tu thiền rất giới hạn, nên có chút phước đức trí tuệ mà thác sanh được lên các cõi trời(thường gọi là hai mươi lăm thành phần hay thập nhị ngũ hữu). Nên sự hiểu biết của các vị này quanh quẩn trong việc giữ giới tu thân để tam nghiệp(thân, khẩu, ý) được thanh tịnh mà thôi;

2- Xá lợi Phất, Tu Bồ Đề là lối thuyết cho hàng trung căn. Vì sao? Vì các bậc này thuộc nhị thừa thường tu Tứ đế, 37 pháp trợ đạo, thập nhị nhân duyên… Các pháp tu của các vị này không ngoài diệt trừ kiết sử lậu hoặc để giải thoát cảnh sanh già bệnh tử. Các vị này chỉ biết nhân không, nhưng không biết pháp không; và

3- Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và Phật là lối thuyết pháp cao nhất dành cho bậc thượng căn, thượng phẩm thuộc hàng Đại sĩ. Vì các bậc này tu lục độ vạn hạnh để độ mình độ người qua bể khổ. Các vị này không những biết nhân không mà pháp cũng không(18 pháp không), biết tất cả pháp đều như(thập nhị chơn như). Các Ngài sống trong đệ nhất nghĩa đế, không còn thấy tội phước nhiễm tịnh, tất cả đều bình đẳng, thanh tịnh nên mới được Vô thức, Vô niệm, Vô tâm mà chứng tánh, phát sanh trí tuệ vô thượng..

Do sống trong cảnh giới khác nhau (Tiên thiên, Nhị thừa hay Đại thừa), nên quan niệm cũng khác. Vì vậy, mới có cái nhìn khác nhau(tuệ nhãn), nên thuyết pháp cũng khác nhau. Chỉ có các bậc tu như Văn Thù Sư Lợi hay Phật mới có cái nhìn bình đẳng. Vì một khi vàng tinh luyện đến một mức nào đó thì trở thành vàng ròng, cân lượng không thay đổi nữa. Do đó, khi thọ trì tất cả các loại kinh điển, Phật bảo pháp Phật chỉ một bậc bình đẳng, khác nhau là tùy căn cơ. Kinh Đại Bát Nhã cũng không ngoài thông lệ này!

 

9. Chúng sanh thì đầy vọng tưởng nên không thấy cái như thật. Nhưng vọng tưởng phát xuất từ đâu? Vọng tưởng là những vọng thức hay còn gọi là vọng niệm xuất hiện trong tâm thức của chúng ta một cách mơ hồ. Chúng có thể là ký ức, tập khí của thời xa xưa bỗng đến rồi đi, bỗng ẩn rồi hiện giống như những cụm mây trời vô định. Vọng tưởng, vọng niệm tạo nhiều phiền nhiễu, nó gậm nhấm lần mòn tiềm năng nội tại tích tập trong mỗi người chúng ta. Một chuỗi dài tu luyện cốt bồi dưỡng, vun xới tiềm năng bị hao mòn này. Vì vậy, tu một phần để tránh phiền não mê mờ. Tất cả pháp tu nhất là niệm Phật hay tham thiền quán tưởng, không phải diệt vọng mà là để đình vọng. Đình vọng không có nghĩa là diệt mà là đừng để nó sinh, nếu nó đã sinh thì đừng để nó tiếp tục thì có thể đạt được định mà sanh trí.

 

10. Trí này tức Nhất thiết trí trí, Đại viên cảnh trí, Phật trí, Vô sư trí, Hậu đắc trí, Vô phân biệt trí, Vô trước trí, Vô tận trí... được hình thành bởi vô số, vô biên các pháp môn kết hợp không riêng gì pháp môn niệm Phật hay tham thiền nhập định. Cứ thử kéo ra một pháp sẽ kéo theo những pháp khác. Tất cả pháp môn kết nối nhau như một cuộn chỉ mà đầu mối là Tánh không. Kéo đầu mối ra sẽ kéo theo các pháp liên hệ. Kéo các pháp như huyễn như mộng, các pháp trì độn, các pháp không thì kéo theo các pháp như. Kéo pháp như ra thì kéo luôn pháp giới, kéo pháp giới thì sẽ kéo theo pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, bình đẳng tánh... Kéo bình đẳng tánh ra, thì kéo theo pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới v.v... Nghĩa là kéo thập nhị chân như ra thì kéo theo 18 pháp không, Tứ đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, tứ vô lượng tâm v.v... Phải chăng sự thành tựu Bát Nhã là kết quả của tất cả các tinh thể bất khả phân này hợp lại? Ở đâu có Tánh không thì ở đó có thập dụ, có thập bát không, thập nhị chân như, Tứ đế, 12 nhân duyên, 37 pháp trợ đạo, lục Ba la mật v.v... và v.v... Do đó, học Bát Nhã phải học tất cả pháp, pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Nhưng bất cứ giáo pháp nào dù xảo diệu cách mấy cũng chỉ bồi dưỡng tánh đức trí tuệ từ bên ngoài vào, cái quan trọng chính là ý chí và nghị lực, có thể xem như ngang hàng với tất cả giáo pháp mà chúng ta đã học. Nó là sức mạnh nội chứng. Là sức tống giúp phi cơ rời phi đạo. Nếu Phật không quả quyết “Ta không chứng ngộ dưới cội Bồ đề thì thề quyết không rời chỗ này” thì có lẽ thái tử Tất Đạt Đa không bao giờ thành Phật. Kết quả sau 49 ngày tư duy thiền định. Phật chứng tam minh ngũ nhãn, lục thần thông, diệt trừ mọi phiền não nhỏ nhiệm, rồi trong một sát tương ưng với huệ, chứng Bồ đề. Đó chính là ý chí và nghị lực nói chung là tinh tấn Ba la mật. Đừng xao lảng điễm này!

 

11. Bây giờ, chúng ta nắm được đầu mối của tu hành: Ngoài thì học pháp Không, trong thì phải có ý chí và nghị lực.

Pháp Không (Tánh không hay Bản tánh không): Không, không có nghĩa là rỗng không, không có gì, cũng không có nghĩa là Hữu đối với Vô, cũng không phải là cái không chi. Không đây biểu thị trên cả hai phương diện TÂM và VẬT. Nếu ta tách chúng làm hai phần riêng rẽ, thì TÂM vẫn là TÂM và VẬT vẫn là VẬT, và chúng ta sẽ không thể tìm thấy ý nghĩa nào trong Bát nhã Ba la mật. TÂM hay VẬT trong thực tế cũng như trong tư duy có một liên hệ mật thiết như hình với bóng, nó là một thứ liên hệ bất-khả-phân đối với con người trần tục.

VẬT (Y báo) không có chủ thể, không có tự tánh, duyên hợp giả có nên nói là không. Vạn hữu như sông núi, nhà cửa, xe cộ... hiện tiền mắt có thể thấy, tay có thể xúc chạm được mà bảo là không thật có, là điều hết sức vô lý? Giáo lý Tánh không cho rằng không đây là không có tự tánh, không có chủ thể nên gọi là không. Vì không có tự tánh, không có chủ thể nên không thể tự sanh. Sanh bảo là có, nhưng giả có vì là duyên hội. Hết duyên thì hoại diệt nên bảo là không. Chúng ta đã học quá nhiều tư tưởng này rồi.

TÂM (Chánh báo) không, là rỗng không, nó chỉ cho trạng thái của một thứ gọi là vô thức, vô niệm, vô tâm mà trong nhà thiền diễn tả như một cái thùng thủng đáy, không dung chứa bất cứ thứ gì dù là một hạt bụi nhỏ nhiệm như vi trần trong hư không.

Vì vậy, khi nói đến pháp Không hay Tánh không Bát Nhã là nói đến trạng thái rỗng không của cả TÂM lẫn VẬT. Tổ Đề Đa Ca nói:

 

Ngộ rồi đồng chưa ngộ

Không pháp cũng không tâm.

 

Vậy, cái không của Kinh Bát Nhã chẳng qua là một bài triết học nói về xả chấp, buông bỏ, phủi sạch cốt đưa tâm đến trạng thái vô thức, vô niệm, vô tâm.

Một câu nói mà tôi hằng ngưỡng mộ khi học về Tánh không là câu nói của thiền sư D.T. Suzuki mà chúng tôi mô phỏng là “Phòng sạch bụi là nhờ chổi, nhưng nếu còn chổi thì phòng không thể gọi là trống không”. Bụi ở đây là những phiền não lậu tận, chổi có thể xem là phương tiện lực Bát Nhã. Nhờ chổi nên phòng sạch bụi. Nhưng khi phòng sạch thì chổi cũng phải bỏ. Nếu còn giữ chổi thì phòng không được gọi là trống không. Đó là ý nghĩa của “pháp còn phải bỏ hiến chi phi pháp, sang sông thì phải quên đò”. Khi đạt được không rồi, thì cũng bỏ luôn không, mới được “tận không”, không cưu mang bất cứ thứ gì cả mới đạt vô thức, vô niệm, vô tâm mà chứng tánh.

 

12. Nếu nói thấy vạn hữu không là một chuyện, thấy tâm không là một chuyện khác, rồi bảo rằng: Chủ động chính là tâm, không phải cảnh. Đó lại là một thứ sai lầm khác nữa, vì còn nặng đầu óc phân hai: “A” với “phi A”, năng với sở, chủ với khách. Vậy, phải thấy cả TÂM lẫn VẬT đều không, phải có cái thấy đồng nhất trong suốt thì mới có thế nói tất cả đều sạch trong sạch ngoài, rốt ráo rỗng không trong suốt như hư không. Trạng thái đó gọi là như như bất động. Vào giây phút ấy cũng TÂM đó, cũng VẬT đó nên nói “tức TÂM tức VẬT”. Đạt tới trình độ như vậy không có nghĩa là không còn gì cả.

Ngài Thạch Đầu nói “Người hội muôn vật làm tự mình, ấy là Thánh nhân...” Đó là nhập pháp giới, nên có cái thấy “không mà chẳng không”, một thứ huệ nhiệm mầu xuất hiện gọi là “diệu hữu chân không”.

Đắc Không, tức giác ngộ thì đạt được Nhất thiết trí trí. Có trí thì khởi đại Bi làm lợi ích cho đời, nên nói đạt cái “không mà chẳng không”. Đó cũng là ý nghĩa của câu “Vin vào cái có mà chẳng có, tựa vào cái không mà chẳng không”. Chính nó là diệu hữu chân không. Mặc trái của Tánh không là như thế!

 

13. “Tựa vào cái không mà chẳng không”. Đó là điểm nối kết giữa các mắt xích của Trí, Bi. Phương tiện thiện xảo và Tánh không của hệ thống Đại thừa giáo trong sự thực thi các chương trình cứu rỗi của Bồ Tát. Tự thân của Bát Nhã thì không thể thành tựu một kết quả thực tiễn nào, nó hoạt dụng ngang qua Phương tiện sinh ra từ đại Bi”(3).

Bát Nhã tự nó không thành tựu một kết quả thực tiễn nào cả, nên nói là không. Bát Nhã chỉ có thể hoạt dụng ngang qua phương tiện sanh ra từ đại Bi, nên có vô vàn công đức không thể nghĩ bàn. Đó là cái diệu dụng “không mà chẳng không”, nên gọi là “diệu hữu chân không”. Chỉ có thể giảng luận ra như thế đối với qui trình “Phi mà bất phi”. Một giáo lý lúc nào cũng nói phân hai để cuối cùng chỉ rõ sự hợp nhất nhiệm mầu của nó.

Vậy, học Bát Nhã không phải là không có gì. Chính nhờ cái tưởng “không có gì” mà phát khởi đại Bi làm lợi ích vô lượng, vô số, vô biên chúng hữu tình! Đó là Tánh không và Diệu hữu chân không!

 

14. Bồ Tát sống trong phân biệt nhưng không thấy sai biệt, sống trong sai biệt nhưng không thấy phân biệt. Bởi vì đối với các Ngài đâu cũng là chân như pháp giới. Tất cả pháp không nằm ngoài chân như pháp giới. Vì vậy, dù muốn dù không các Ngài cũng phải sống trong cảnh giới này. Nên các Ngài mới dấn thân lăn xả vào chúng quần sanh mà không ngại ngùng, thực thi các công hạnh khó hành để cứu độ chúng sanh mà không hề mệt mỏi. Đó là điểm đặc sắc nổi bật của Bát Nhã hay đạo Phật gọi là Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo.

Nguyện và hạnh của Bồ Tát là lòng thương yêu lân mẫn, quyết tâm ... cứu giúp thế gian, vì thế gian mà làm nhà cửa, vì thế gian làm chỗ nương tựa, chỉ cho thế gian con đường cứu cánh, vì thế gian làm hòn đảo, vì thế gian làm ánh sáng, vì thế gian làm người dẫn đường, vì thế gian làm chỗ đi đến, phát tâm siêng năng tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. (Q. 548, TBBN)

Đó là chất xúc tác mạnh mẽ trong mối tương thân tương ái giữa con người, nó cũng như ngọn lửa truyền thừa mà nhờ đó đạo Phật được duy trì mãi với thời gian. Phát khởi đại Bi, mong cầu giác ngộ để cứu rỗi chúng sanh thoát khỏi bể khổ, không tiếc thân mạng hay số kiếp. Vì vậy, đối với các Ngài thời gian là phi thời gian, số kiếp phi số kiếp. Đó chính là chỗ ẩn áo của Bồ Tát đối với các chúng sanh khác. Tinh thể của Bồ Tát là như vậy, nên luôn luôn được cổ võ và tán tụng trong toàn thể Đại Bát Nhã Ba La Mật, khác với các Thanh văn hay Duyên giác.

 

15. Đạo Phật biến thể rất nhiều nhưng có hai “thành phần” quan trọng còn tồn tại gần như song hành mãi đến nay: Đó là Tiểu Thừa và Đại Thừa. Về phương diện tu hành cũng như phục vụ chúng sanh hoàn toàn khác nhau:

Tiểu thừa tu là cốt để giải phóng cá nhân, chủ trương phá ngã, diệt tội để thoát khổ, thoát khỏi luân hồi sanh tử. Vì vậy, giáo pháp cơ bản của Tiểu Thừa thuộc hệ Pali và văn học A Hàm gồm có Tứ diệu đế, Mười hai nhân duyên (s: pratītya-samutpāda), Bát chính đạo, thuyết Vô ngã (s: anātman) và Niết bàn. Ngoài ra, Tiểu thừa còn chú trọng đến luật Luân hồi, Nhân quả và Nghiệp báo. Vì vậy, người tu Tiểu Thừa tu để được giác ngộ cá nhân, nên ẩn mình tìm chỗ thanh vắng, tu hạnh viễn ly hay A lan nhã (còn gọi là hạnh đầu đà) để sớm chứng thật tế rồi vào Niết bàn mà không đếm xỉa đến các chúng sanh khác đang oằn oại trong bể sanh tử. Hình ảnh đặc trưng của Tiểu Thừa là A la hán, người sạch hết lậu, không còn luân hồi sanh tử nữa, thật sự giải thoát và đạt Niết bàn.

Đại Thừa cũng chủ trương phá ngã diệt tội, nhưng luôn luôn hướng về việc thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Vì vậy, giáo pháp của Đại Thừa thêm phần tu lục độ là bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và Bát nhã Ba la mật, với mục đích trên cầu quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh. Đó là nhị hạnh của Bồ Tát, hình ảnh đặc trưng của Đại Thừa. Hạnh nguyện của các Ngài không phải tu để giải thoát mà tu để cứu khổ, giúp người khác được giải thoát. Vì vậy, nơi nào có khổ nơi đó có Bồ Tát, và Bồ Tát không vào Niết bàn khi một chúng sanh cuối cùng chưa diệt độ!

Ai học Phật đều biết vấn đề này. Vì vậy, trong toàn thể ĐBN nói riêng và kinh điển Đại Thừa nói chung, từ đầu chí cuối đều chê trách Tiểu thừa như hột giống rải trên hư không, sợ trần sa hoặc, chỉ lo tu để mau giải phóng cá nhân, rồi trốn vào Niết bàn, không kể đến các sanh linh khốn khổ khác. Nên Phật đề cao vai trò của Bồ Tát trong việc cứu độ chúng sanh, thanh tịnh Phật độ của những người hành Bồ Tát đạo.

Nhưng đừng xem đây là sự mâu thuẫn trong quan niệm hay chủ trương khác nhau giữa hai Thừa, mà hãy xem đây là tiến trình xây dựng của đạo Phật theo đà phát triển trong việc phục vụ chúng sanh. Đây không phải là lời biện hộ, Kinh Pháp Hoa chủ trương sát nhập Tiểu Thừa và Đại Thừa vào một thừa duy nhất là Nhất Phật thừa hay Phật thừa, là một thí dụ về việc thống-nhất-hóa đạo Phật mà chính Phật đề xướng 26 thế kỷ trước.

Ngày nay, Tiểu thừa thức tỉnh, cũng phục vụ đại chúng chẳng khác Đại thừa theo nhu cầu và đà phát triển của xã hội.

 

16. Tôn chỉ hồi hướng cho kẻ khác.

Bây giờ nói về hành đạo. Phật đạo được chiêm ngưỡng bởi khả năng hành thiện để hồi hướng cho kẻ khác, là bản chất cố hữu của những người hành Bồ Tát đạo, của những người tu Đại thừa để đi đến giác ngộ. Đó là dấu hiệu tương thân tương ái của tất cả tín đồ Phật giáo. Chúng ta thừa biết bản chất xã hội của Bồ Tát Đại thừa như thế được phản ảnh mãnh liệt trong sinh hoạt của Bồ Tát với tôn chỉ hồi hướng cho kẻ khác. Tu hành không có nghĩa là đứng bên lề xã hội, quên đi những nỗi khổ đau của các chúng sanh khác. Vì sao? Vì mục tiêu tối hậu của những người tu không phải co mình trong cô tịch, tu tất cả các thiện pháp để chứng thật tế rồi nhập Niết bàn, giải thoát cho riêng mình mà quên đi đồng loại đang chịu nhiều thống khổ của cuộc sống đọa đày.

Ngày nay, người tu không có mặc cảm là Tiểu thừa. Trên thực tế bây giờ người tu Tiểu Thừa rộng mở tâm hồn, có tinh thần dấn thân hơn, hy sinh vì kẻ khác nhiều hơn. Họ muốn trở thành những chiến sĩ dũng cảm trong chiến trường cứu đói, cứu khổ... rất phù hợp với tôn chỉ tối cao của đời sống đạo chẳng khác Đại thừa.

Phải có tinh thần hy sinh gian khổ như Trì địa Bồ Tát trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ(4), thường đến các nẻo đường, bến đò, chỗ đường xá lở xụp, gánh đất đá đắp lại cho ngay ngắn hoặc làm cầu cống, đẩy xe trâu mắc sình, kéo thuyền ngược nước, cõng người, chuyển vật đến nơi đến chốn mà không nhận tiền thuê, nếu có nài nỉ lắm thì chỉ lấy một hào. Đó mới xứng đáng với tinh thần Bồ Tát đạo.

Thời đại mới có những nhà bác học, bác sĩ, kỹ sư... suốt đời cặm cụi trong các phòng thí nghiệm thuộc các lãnh vực khoa học kỹ thuật như tìm các nguồn năng lượng mới, chế tạo các phương tiện chuyên chở hiệu quả hơn, tạo các sản phẩm công nghiệp giúp tiện nghi cho đời sống hay các sản phẩm thuộc chương trình không gian như hỏa tiễn, vệ tinh, phi thuyền... trong các ngành khảo cứu không gian hay các chương trình truyền thông, truyền hình hay tiên đoán thời tiết v.v... Trong ngành y khoa cũng có vô số bác học suốt đời tận tụy tìm kiếm các loại thuốc hay phương pháp trị liệu để ngừa hay trị những bệnh ngặt nghèo hay ngăn chận bệnh dịch do siêu vi trùng gây nên v.v... Ngoài ra, trong ngành nông nghiệp cũng vậy, các chuyên viên, các kỹ sư canh nông tìm tòi pha giống(gene) thực vật hay động vật để nâng cao năng xuất lương thực về phẩm cũng như lượng; phát triển các loại thức ăn mới dễ sản xuất, dễ vận chuyển mà hàm lượng dinh dưỡng cao; hoặc nghiên cứu trồng trọt hay chăn nuôi dưới đáy biển, mục đích gia tăng thêm lương thực trong khi diện tích sản xuất trên đất liền bị hạn chế v.v... Các khoa học gia, bác học, bác sĩ, kỹ sư, các chuyên viên v.v... trong mọi ngành nghề trên là tiêu biểu cho tinh thần Bồ Tát trong thời đại mới, thời đại của khoa học kỹ thuật, thời đại digital, đáng được xưng tụng và cổ võ hơn bao giờ hết!

Phải cập nhật tinh thần Bồ Tát đạo theo đà tiến hóa của nhân loại, trong việc cứu khổ chúng sanh. Phật đạo ngày xưa đã đề xướng “ngũ minh” tức người tu Phật phải có năm loại kiến thức: Nội minh có nghĩa phải biết nội điển của Phật giáo để hoằng pháp. Nhân minh: Phải biết phương pháp lý luận để giảng dạy, viết sách hay diễn thuyết. Thanh minh: Phải biết ngôn ngữ văn tự. Công xảo minh: Phải biết về khoa học, kỹ thuật. Và Y phương minh: Phải biết về y khoa: Ngừa bệnh và trị bệnh, để giúp đời. Vì vậy, người học đạo xưa hay nay phải cắp sách đến trường, phải học các ngành nghề chuyên môn như các chúng sanh khác để ra tay cứu độ chúng sanh.

Ngày nay, không những tu sĩ mà thường dân cũng làm công việc cứu nhân độ thế như nhóm “Bác sĩ không biên giới” hay con tàu y khoa của Pháp đi chữa bệnh khắp nơi trên thế giới. Đó là các tổ chức thiện nguyện, nêu gương sáng của tâm đại Bi. Đó cũng là tinh thần của Đại học Na lan đà (Nalanda University) vào thế kỷ thứ V đến XII của Phật giáo Ấn độ khi xưa!

 

17. Pháp môn cúng dường: Cúng dường chư Tăng, Bồ Tát, Phật không có nghĩa là dâng cúng hương hoa phẩm vật thượng diệu để được phước đức. Đó là pháp cúng dường thấp nhất trong đạo Phật. Pháp cúng dường cao cả nhất là: “phát tâm Bồ đề, cứu rỗi tất cả hữu tình, giữ gìn diệu pháp chư Phật, tức là thành tựu cúng dường rộng lớn tất cả Như Lai. Cho đến ghi chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm về Bát nhã Ba la mật”(5).

Vậy, học Bát Nhã phải nhớ đến pháp cúng dường này. Nên Phật bảo: Nếu chúng sanh nào hành Bát nhã Ba la mật như vậy, thì mau viên mãn Bồ Tát hạnh, mau chứng Vô thượng Bồ đề.

 

18. Nghịch đảo hay không đảo nghịch, thuận hay nghịch, mâu thuẫn hay không trong Bát Nhã?

Đoạn kinh quyển 574, phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Hội thứ VII, ĐBN phát biểu táo bạo như sau:

“Xá lợi Phất bạch Phật:

Bạch đức Thế tôn, như Mạn Thù Thất Lợi giảng, Trí Bát Nhã vượt ngoài tri kiến của chư Bồ Tát mới phát tâm”.

Mạn Thù nói với Xá lợi Phất: “Điều tôi giảng nói không những chỉ vượt ngoài tri kiến của họ, mà còn vượt ngoài tri kiến của các vị A la hán đã thành tựu đạo nghiệp. Không ai có thể hiểu biết như thật lời giảng của tôi. Tại sao? Bởi vì phàm tâm không vươn tới Bồ Đề nổi, trí năng cũng không thể; Bồ Đề ở trên thấy, nghe, nhớ, nghĩ; nó không sinh, không diệt, vô tướng. Bồ Đề vì là như tính, nên không nói là hữu hay vô. Không phải là sở tri, sở đắc”.

Xá Lợi Phất nói: “Này Mạn Thù, há không có Pháp giới mà chư Phật chứng nhập. Tại sao? Bởi vì Pháp giới là Phật và Phật là Pháp giới, nên Pháp giới không tự chứng Pháp giới. Pháp giới tức hết thảy các pháp đều không; và Tánh không này là Bồ đề, không hai, không phân biệt. Bởi vì không hai nên không có trí giải; không có trí giải nên không có ngôn thuyết; không có ngôn thuyết nên không có tướng tác và vô tác, hữu và phi hữu, không có tướng quyết định. Đó là tự tánh của vạn hữu. Sự biểu lộ đây kia chỉ là tạo tác do tâm.

“Thưa Ngài Xá Lợi Phất, phạm tội tức thành tựu bất khả tư nghì tức xuất sinh Thật tướng. Thật tướng tức không hai. Chúng sinh vốn bất khả tư nghì nên không có thác sinh lên trời không đọa vào các đường dữ, không chứng nhập Niết bàn. Những kẻ phạm tội không đọa vào địa ngục. Phạm tội và bất khả tư nghì thảy là Thật tướng, và Thật tướng vốn không hai, không sinh, không diệt, không đến không đi, không nhân không quả, không thiện không ác, không dẫn vào ác đạo hay thiên đường, không đưa tới Niết bàn hay sinh tử. Tại sao? Bởi vì trong Pháp giới chân thật không có thiện hay ác, cao hay thấp, trước hay sau.

“Thưa Ngài Xá Lợi Phất, Tì khưu phạm trọng tội không bị đọa vào địa ngục, tịnh tu giới hạnh không sinh lên thiên đường. Kẻ phạm tội không rơi vào nẻo sinh tử, không bị khinh bỉ, không bị xa lánh, không bị cấm nhận cúng thí v.v…và kẻ tịnh tu không có chứng Niết bàn, không có tán dương, không có thân cận, không có cúng thí v.v... Tại sao? Bởi vì trong Pháp giới chân thật chỉ có tướng nhất như; phạm hay không phạm không phân biệt”.

Bấy giờ Mạn Thù bạch Thế Tôn: “Bồ Đề là tội ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ Đề. Tại sao vậy? Bởi vì Bồ Đề và ngũ nghịch thảy đều phi hữu, không có tự tánh. Không có tri và tri giả, kiến và kiến giả, giác và giác giả, phân biệt và phân biệt giả. Nên nói Bồ Đề tức ngũ nghịch. Nếu ai coi Bồ Đề là khả đắc hay khả hành, kẻ ấy đam mê chấp ngã”.

Chúng tôi đọc nhiều Kinh sách Phật học, nhưng chưa thấy Kinh sách nào phát biểu táo bạo như Kinh này. Mạn Thù bảo Xá Lợi Phất: “Tì khưu phạm trọng tội không bị đọa vào địa ngục, tịnh tu giới hạnh không sinh lên thiên đường, kẻ phạm tội không rơi vào nẻo sinh tử, không bị khinh bỉ, không bị xa lánh, không bị cấm nhận của cúng thí v.v… và kẻ tịnh tu không có chứng Niết bàn, không có tán dương, không có thân cận, không có cúng thí v.v... và v.v... Thật trái lẽ quá sức phải không?

Rồi Mạn Thù Bồ Tát bạch Thế Tôn “Bồ đề là ngũ nghịch, ngũ nghịch tức Bồ đề!”

Bồ đề là giác ngộ cùng khắp, Bồ đề là chân thật nghĩa, Bồ đề là Phật. Tại sao Mạn Thù Thất Lợi có thể tuyên bố một cách “ngược đời” như thế? Bởi vì, tất cả cái gì chúng sanh nghĩ đều thuận dòng thế gian. Còn Mạn Thù Bồ Tát hay Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được coi là bậc đại trí, cũng là cổ Phật tức là bậc chứng ngộ, đã chứng ngộ thì ngược dòng thế gian. Lối nói có vẻ nghịch đảo theo pháp thức thường tục, nhưng chẳng có gì nghịch đảo đối với Thánh giả. Bởi vì, chỉ có Thánh giả mới hiểutrong Pháp giới chân thật chỉ có tướng nhất như; phạm hay không phạm không phân biệt”.

Cũng như câu nói: Trần trần không phải bụi mà “trần trần là báu”. Khi hiểu thế nào là bụi trần lăng xăng làm khổ mình khổ người. Biết như vậy, nên tránh được bụi. Tránh bụi, nên không bị bụi trần làm ô nhiễm. Vì vậy, mới nói trần trần là báu.

Cũng vậy, câu nói “Mỗi vọng niệm đều là hóa thân Phật”. Đây, không phải là lối nói nghịch đảo, chẳng có gì là nghịch đảo ở đây. Biết vọng, vọng đến đừng theo, tức vọng yên thì chân hiện, chân hiện tức chứng pháp thân, pháp thân biến hóa để tế độ chúng sanh thì gọi là hóa thân. Nói vắn tắt là thế.

Đoạn phiền não để được Niết Bàn, chẳng khác nào bỏ hình bắt bóng. Bởi vì gốc của bóng là hình hay nói khác có hình nên có bóng. Vậy bỏ hình bắt bóng hay bỏ bóng bắt hình có ích gì? Cả hai chỉ là một. Mê cũng là nó mà ngộ không khác nó. Nên câu nói “phiền não tức Bồ đề”, “sanh tử tức Niết bàn” cũng là câu nói tỉnh thức!

Một khi hiểu thế nào là nghịch đảo thì nó không còn là nghịch đảo nữa! Biết cả thuận lẫn nghịch, biết tất cả dù chi tiết nhỏ nhiệm nào, biết khắp, đó là tỉnh thức. Tỉnh thức tức Giác ngộ. Cái Giác ngộ của bậc đã đạt Thánh trí tự giác như Phật, như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Nên phần “Bố Thí Ba La Mật”, quyển 580, Hội thứ XI, ĐBN. Kinh bảo: “Đối với cảnh nghịch tâm không sân hận, đối với cảnh thuận tâm không ái nhiễm. Nếu nghịch hay thuận đều biết đúng, nó hỗ trợ, làm duyên dẫn đến Nhất thiết trí. Bồ Tát như vậy trong tâm không bị xen tạp đối với tất cả thời, tất cả cảnh”.

cũng cùng phần “Bố Thí Ba La Mật” nói trên, Kinh bảo tiếp: “Phiền não tức Bồ đề là ơn đức lớn của Bồ Tát, phải kính trọng như kính trọng Thế Tôn!”

Càng khổ, càng phiền não thì tâm chí càng tinh luyện, tâm chí càng tinh luyện thì công hạnh sớm thành, công hạnh sớm thành mới thâm nhập vào lẽ nhiệm mầu của kiếp sống. “Thượng Đế ban khổ cho con người để hoàn tất con người”, đó là câu nói của người từng trải, đã nếm quá nhiều cay đắng, mới có những tư tưởng quá đẹp như vậy. Tổ Hoàng Bá Hi Vận nói bóng bẩy hơn:

 

“Chẳng phải một phen sương lạnh buốt

Làm sao mai nở ngát mùi hương?”

 

Thiền sư D.T. Suzuki cũng là người đầy kinh nghiệm trong lãnh vực này, giải thích về tư cách của một người chứng đạo như sau: “Nhưng với người Đại Thừa, mọi phương tiện “lành và khéo” đều được quyền xử dụng, nếu tâm đã sáng, trí đã sạch làu. Họ sống trong một thế giới “phi thiện phi ác”, và một khi an trụ trong đó thì dù họ làm gì vẫn không thể có khuôn thước đạo đức nào đánh giá hoặc phê phán họ được; đó là những hành động chẳng “hữu đạo” mà cũng không “vô đạo”. Những cặp danh từ đối đãi ấy mất hết chỗ đứng trong cái tâm tự do tự tại, tùy thích dọc ngang trên thế giới ngang dọc của sai biệt và mâu thuẫn”. 

Bây giờ, chúng tôi không cho đây là những nghịch đảo táo bạo, cốt gây kích động với mục đích dựng dậy cái tâm ngái ngủ ngàn đời của chúng sanh nữa. Ở đây Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát cũng không phải “lật úp” hay “vặn chéo” những nghĩ tưởng thế gian mà ở đây Mạn Thù Thất Lợi đại diện bậc chứng ngộ nói lên tư tưởng của đệ nhất nghĩa đế, thế giới vô sai biệt, thế giới không hữu không vô, không thiện không ác, không tội không phước v.v...

Giới luật sẽ trở thành một thứ “kỷ luật chết” đối với hoạt dụng của tâm và trí khi hai thứ này được rèn luyện đến độ tuyệt kỹ, chúng tự phát khởi tùy cơ, ứng dụng tùy thời, qua lại tự do tùy tiện mà không một khuôn thước trí năng bình thường nào của thế nhân, cả đến bậc La hán đã thành xong đạo nghiệp có thể đo lường tâm của bậc đại trí như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Tổ sư có dạy: “Kiến sắc phi can sắc, văn thinh bất thị thinh”, nghĩa là thấy sắc không can gì sắc, nghe tiếng cũng không can hệ đến tiếng. Hay như câu: “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tuyết”, gặp sắc đẹp hoặc nghe tiếng hay như hoa trồng trên đá; thấy tài lợi và danh vọng như bụi rớt vào tròng(mắt). Nếu người đạt đến trình độ như vậy thì vào thanh lâu hay tửu điếm chẳng khác nào đạo tràng thanh tịnh của mình (dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng)(6).

 

19. Hệ lụy và giải thoát. Tất cả những gì liên hệ giữa cá nhân hay tập thể trong cuộc sống chung từ vật chất đến tinh thần đều được coi là những hệ lụy (trói buộc) của cuộc sống. Những trói buộc đó có thể do mình, do người hay do hoàn cảnh xã hội tạo nên.

Nhưng làm sao sống mà tránh khỏi “cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”, chỉ có chết, nói “theo nghĩa bình dân” của nó, mới có thể thoát khỏi những trói buộc của cuộc sống! Sống đã là khó mà chết cũng không phải dễ! Chết không phải hết, cũng không phải là giải pháp trọn vẹn? Vì vậy, chúng ta phải kêu gọi đến tôn giáo. Không có bất cứ tôn giáo nào mà không đề cập đến vấn đề giải thoát hay giác ngộ. Chỉ có giải thoát hay giác ngộ mới có thể tháo gỡ được các trói buộc thế gian này. Vì vậy, tôn giáo mới được qui hướng, mới được kính trọng trọn vẹn trong đời sống tâm linh của con người.

Một trong những trói buộc lớn nhất không phải là gia đình mà là bổn phận đối với xã hội hay quốc gia, dân tộc. Ai cũng thấy cũng biết, vì dễ thấy dễ biết nên xin gác vấn đề này qua một bên. Cái khó thấy vì nó sờ sờ trước mắt nhưng lại coi như lẽ đương nhiên. Vì vậy, mới không thấy, không thấy chứ không phải khó thấy. Đó chính là qui ước, các thói quen, tập tục của cuộc sống thế tục.

Thói quen hay tập tục là cái gì có trước khi cha mẹ sanh. Ông nói như vậy, cha nói như vậy, rồi tới đời con, đời cháu tiếp nối. Ông nói đó là thiện, đó là ác, cha con cháu chít chắt bảy đời... đều rập khuôn, cứ thế mà trôi chảy theo dòng thời gian mà không cần biết trong thiện có ác, trong ác có thiện trải qua bao nhiêu thế hệ. Làm sao có thể tháo gỡ chiếc áo cũ rích ngàn đời này?

Còn qui ước là gì? Đó là những qui định hay luật lệ do con người thỏa thuận đặt ra để bảo vệ cuộc sống chung. Nói khác, con người phải tạo ra luật lệ để bảo vệ an ninh, trật tự và phải tôn trọng hay tuân hành cái gì do con người tạo ra đó trong việc tạo dựng hạnh phúc chung cho toàn thể cộng đồng. Như vậy, qui ước là cái giúp chúng ta sống, nhưng đồng thời trói buộc chúng ta! Người lái xe theo luật giao thông của Pháp qui định phải lái bên tay phải, có lẽ bị tai nạn hoặc chết hoặc bị thương nếu hắn lái xe bên Anh (7), (bên Anh lái xe bên tay trái), mặc dù hai quốc gia trên chỉ cách nhau một eo biển hẹp (Manche). Đó là luật lệ, là qui ước!

Đông hay Tây, xuôi hay ngược, phải hay trái... là tiêu chuẩn căn bản do chính con người thỏa thuận với nhau. Thỏa thuận với nhau để cùng thi hành, để cùng hưởng, cùng chịu. Thiếu qui ước, làm sao xã hội thăng tiến? Đó là cái hạn cuộc của cuộc đời thường! Làm sao chấp trì Bát nhã Ba la mật đây?

Đạo pháp muốn giải phóng con người ra khỏi mê lộ của thế gian, trong khi thế gian pháp lại đặt ra những qui chế liên quan đến trật tự và an ninh xã hội để tránh xung đột, chống đối. Tự do của người này là giới hạn tự do của kẻ khác, quyền lợi của nhóm này lại là cái mất mát thiệt thòi của nhóm khác v.v... Con người phải đi trong cái vòng tròn do chính mình tạo ra. Đi ra ngoài hay đi ngược lại là vi luật, là tự sát. Đó là cái hạn cuộc của cuộc sống. Luân lý, đạo đức hay tôn giáo chỉ cấm đoán hay răn đe về phương diện tinh thần, trong khi chế tài của hình luật lại quá khắt khe, đôi khi tước đoạt cả mạng sống.

Ngũ giới là giới cấm hạn chế nhất của hàng Phật tử tại gia. Sát, đạo, dâm, nói dối, rượu chè, sì ke ma túy không ngăn chận được tội lỗi của những kẻ đầy dục vọng điên cuồng hay tham ái vô minh... Vì sao? Vì các hình phạt đó chỉ có tính cách răn đe như giết người khi chết sẽ bị đọa địa ngục, gian tham thì sẽ biến thành ngạ quỷ, dâm dục thì sẽ bị đọa vào loài súc sanh v.v... Nên có nhiều người quan niệm hình phạt trong đạo Phật chỉ là những răn đe, dọa nạt trong tương lai thuộc về luân hồi sanh tử. Đối với những ai tham lam vô độ thì chỉ có lời khuyên là thiểu dục tri túc (muốn ít, biết đủ) hay hơn nữa là khuyên tu thập thiện đạo v.v... Tôn giáo chỉ làm được như vậy không hơn không kém. Chỉ có bậc xuất gia giữ từ 250 giới trở lên cho đến 8.000 giới mới có thể tránh được tội lỗi.

Thật quá khó khi đứng trước ngưỡng cửa của đạo và đời. Sống cách ly chăng? Nếu tất cả mọi người đều sống cách ly hay xuất gia hết, thì ai là người gánh vác cơ đồ chung cho nhân loại? Đâu là đạo, đâu là đời? Đạo hay đời theo đạo Phật chỉ là duyên nghiệp của tiền kiếp, không có sự lựa chọn. Biết như vậy, nếu vì duyên nghiệp phải sống cuộc đời phàm phu tục tử thì phải cố gắng cởi bỏ tham ái, lìa dục, đồng thời phải tu tập các thiện pháp, nhất là lục Ba la mật, để thoát vòng kiềm tỏa của ba cõi sáu đường.

Đạo chỉ khuyến dẫn nhiều hơn là áp đặt, chỉ có con người tự nguyện tìm con đường hướng thượng, tự tu tự hành tự thành Phật đạo để giải thoát các hệ lụy thế gian!

 

20. Tu hay không tu? Hai vấn đề thường được nêu ra, nếu không muốn nói là tranh luận trong ĐBN hay trong đạo Phật nói chung. Quan niệm bản thể hay chân tánh của chúng sanh là Bản hữu (Phật tánh vốn sẵn có từ xưa) hay Tu sanh (do tu hành mới có)?

- Bản hữu là bản tánh của chúng sanh vốn vô cấu ngầm chỉ cho tâm Bồ đề thanh tịnh hay Phật tánh vốn sẵn có của tất cả chúng sanh. Trong phần “Na Già Thất Lợi”, Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Na Già Thất Lợi:

“Vì các loài hữu tình bản lai đều có diệu pháp của chư Phật, tất cả đã có như vậy nên không thối lui Phật trí. Do đó, các hữu tình đều có thể an lập nơi diệu pháp của Phật, tuệ giác không động, biết pháp Tánh không, không danh, không tướng, không nương, không trụ, không lấy, không chấp, không ngăn ngại, không dính mắc, giống như hư không, không tàng chứa, không nắm giữ, vô thượng vắng lặng, cùng cực vắng lặng, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không thành không hoại, chẳng có chẳng không”. Nói như thế có nghĩa là chúng sanh đã có sẵn Bồ đề tâm hay Phật tánh kể từ lúc chưa sanh. Đó là quan niệm Bản hữu, cái sẵn có từ xưa!

- Còn nếu nói bản tánh của chúng sanh là do tu hành mà được thì gọi là Tu sanh hiển đắc tức phải nương vào phạm hạnh tu hành đoạn trừ vọng chấp để trở về cái nguyên thể của thuở ban đầu, nghĩa là do ngoại trần cướp mất tâm, nên phải tu tập để trở về cái bản nguyện khi xưa tức gọi là tu sanh.

Duy Thức Tông khi nói về chủng tử trong A lại da thức có nêu ra hai loại chủng tử: Chủng tử sạch và dơ. Khi thanh lọc loại bỏ được tất cả chủng tử dơ, chỉ còn giữ lại chủng tử vô cấu thanh tịnh thì chứng Thánh.

Như Lai tạng thường được nói trong các Kinh khác cũng có hai thứ: Khi còn nằm trong triền phược gọi là Như Lai tại triền, thì vô minh si ám nên gọi là chúng sanh ngu muội. Khi thoát khỏi cái vỏ triền phược, chứng Thánh thì gọi là Như Lai thoát triền. Vậy triền phược hay giải thoát, sanh tử hay Niết bàn không hai, cũng đều phát xuất từ thân tứ đại này. Lau sạch bụi mặt gương tâm thì giải thoát.

Câu nói thường được nghe là còn luân hồi là còn tái sanh, “sanh để trả nghiệp”. Đó là sự thật phũ phàng nhất. Chấm dứt không còn luân hồi sanh tử nữa tức giải thoát. Muốn thế phải tu. Cuộc sống hiện thực cho thấy rằng nhờ có lầm lỗi nên tu để được Thánh thiện hơn. Đó là ý thức, là lương tâm nằm trong phạm vi luân lý, đạo đức hay tôn giáo của cuộc sống.

Vì vậy, chúng ta có xu hướng nghiêng về Tu sanh. Cuộc sống thực tế cho biết, đã là chúng sanh thì phải tái sanh trong lục đạo luân hồi, nên cần phải tu. Tu để loại bỏ chủng tử dơ, tu để Như Lai tạng thoát triền, tu để giải thoát.

 

21. Làm sao đổi thể hay lột xác? Làm sao con thiềm thừ thoát xác, con cá chép hóa rồng? Đó chỉ là mộng mị phải không?

 

- Phẩm “Thanh Tịnh”, Hội thứ V, quyển 559, ĐBN. Thiện Hiện bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật rộng lớn, đối với tất cả pháp không trói buộc, không dính mắc. Mặc dù chứng Bồ đề nhưng không có sự chứng, mặc dù chuyển vận bánh xe pháp nhưng không có sự chuyển. Không có pháp có thể chỉ rõ, không có pháp có thể hiển bày, không có pháp có thể đắc, không có pháp có thể chuyển, không có pháp có thể vận. Vì tất cả pháp hoàn toàn không sanh, cũng không diệt. Vì không sanh diệt nên không chuyển xoay.

Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì trong pháp vô tánh lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, hoặc chuyển, hoặc xoay đều không thể đắc. Nếu người nào có thể tuyên thuyết, chỉ dạy được như thế thì gọi là người tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật thiện tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người giảng thuyết, người lãnh thọ, cũng không có người chứng đắc Niết bàn, cũng không có người nói pháp ruộng phước. Vì ruộng phước không nên tánh phước cũng không. Danh ngôn biểu thị đều chẳng thể đắc, nên gọi là Bát nhã Ba la mật rộng lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là vô biên Ba la mật, như hư không rộng lớn không biên giới vậy. Đây là chánh đẳng Ba la mật, vì tánh tất cả pháp bình đẳng vậy. Đây là viễn ly Ba la mật, vì tất cả pháp hoàn toàn Không vậy. Đây là khó hàng phục Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là không dấu vết Ba la mật, vì tất cả pháp không danh tự, hình thể vậy. Đây là vô hành Ba la mật, vì tất cả pháp không qua lại vậy. Đây là vô đoạt Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt vậy. Đây là vô tận Ba la mật, vì tất cả pháp không thể tận vậy. Đây là vô sanh Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể sanh vậy. Đây là vô tác Ba la mật, vì các tác giả chẳng thể đắc vậy. Đây là vô tri Ba la mật, vì các sự hiểu biết chẳng thể đắc vậy. Đây là vô chuyển Bát nhã Ba la mật, vì các việc sanh tử chẳng thể đắc vậy. Đây là vô cấu Ba la mật, vì phiền não sạch vậy. Đây là vô nhiễm Ba la mật, vì chỗ nương tựa chẳng thể đắc vậy. Đây là vô hoại Ba la mật, vì lìa biên giới trước vậy. Đây là như huyễn Ba la mật, vì tất cả pháp đều không sanh vậy. Đây là như mộng Ba la mật, vì tánh các ý thức bình đẳng vậy. Đây là vô hý luận Ba la mật, vì biết tánh các hý luận bình đẳng vậy. Đây là vô tư lự Ba la mật, vì các pháp tư lự hoàn toàn không có vậy. Đây là vô động chuyển Ba la mật, vì an trụ pháp giới vậy. Đây là lìa nhiễm Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng hư vọng vậy. Đây là vô tác dụng Ba la mật, vì tất cả pháp không phân biệt vậy. Đây là vắng lặng Ba la mật, vì tướng tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là vô phiền não Ba la mật, vì lìa lỗi lầm vậy. Đây là không hữu tình Ba la mật, vì Niết bàn của hữu tình chẳng thể đắc vậy. Đây là vô đoạn Ba la mật, vì tất cả pháp không phát khởi vậy. Đây là không hai bên Ba la mật, vì đối với tất cả pháp không chấp trước vậy. Đây là không chấp trước Ba la mật, vì bậc Nhị thừa không phân biệt vậy. Đây là vô phân biệt Ba la mật, vì biết tánh các sự phân biệt bình đẳng vậy. Đây là vô lượng Ba la mật, vì pháp không lường vậy. Đây là vô khởi Ba la mật, vì lìa ngã pháp vậy. Đây là hư không Ba la mật, vì đối với tất cả pháp đều không ngăn ngại vậy. Đây là bất sanh Ba la mật, vì tất cả pháp đều chẳng sanh khởi vậy. Đây là vô thường Ba la mật, vì tất cả pháp thường vô tánh vậy. Đây là khổ Ba la mật, vì pháp bức não tánh bình đẳng vậy. Đây là vô ngã Ba la mật, vì không chấp trước tất cả pháp vậy. Đây là Không Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Đây là vô tướng Ba la mật, vì tất cả pháp lìa các tướng vậy. Đây là vô nguyện Ba la mật, vì tất cả pháp không có sự thành tựu vậy. Đây là lực Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng thể khuất phục vậy. Đây là vô lượng Phật pháp Ba la mật, vì quá số lượng vậy. Đây là vô sở úy Ba la mật, vì tâm không khiếp sợ vậy. Đây là chơn như Ba la mật, vì tất cả pháp chẳng hư vọng vậy. Đây là bản thể Ba la mật, vì tất cả pháp không tự tánh”.

Phật xác nhận:

- “Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ngươi nói”.

Thoáng đọc đoạn Kinh này chúng ta không khỏi thất vọng? Bát Nhã không có sự chứng, không có pháp có thể chỉ rõ, không có pháp có thể hiển bày, không có pháp có thể đắc, không có pháp có thể chuyển, không có pháp có thể vận. Bát Nhã là pháp không sanh, không diệt nên phước điền tánh đức cũng không. Bát Nhã là viễn ly, không dấu vết, vô hành, vô cấu, vô nhiễm, vô tịnh, vô hoại, như huyễn như mộng. Bát Nhã là vô tư lự, vô động chuyển, vô tác dụng, vô phiền não, vô đoạn. Bát Nhã là không phân biệt, không chấp trước, vô khởi, vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện...

Khi Thiện Hiện phát biểu như vậy, Phật xác nhận là đúng! Vậy, Bát Nhã mang lại tác dụng gì cho người thọ dụng? Cái gì cũng không, học như vậy có ích lợi gì? Làm sao lột xác được? Nhưng lạ lùng thay nếu thấu hiểu những gì mà Thiện Hiện phát biểu và tuân theo một cách khôn khéo, đó là lột xác, là đổi thể hay chuyển y.

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, cuối cùng trước khi chấm dứt toàn bộ 16 pháp hội, quyển 598, Phật bảo:

“Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng thể tùy lấy, chẳng thể chấp thọ, không năng tùy lấy không năng chấp thọ. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp nào khá chấp thọ, cũng không chút pháp năng chấp thọ. Vì sao? Vì hoặc năng chấp thọ hoặc sở chấp thọ đều chẳng thể đắc. Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp đều chẳng chắc thật như việc huyễn vậy. Vì tất cả pháp đều tánh chẳng tự tại, trơ lì chẳng thể đắc vậy. Vì tất cả pháp đều như bóng sáng chẳng thể lấy vậy.Vì tất cả pháp thảy đều hư ngụy, không tự tánh vậy. Vì tất cả pháp đều như nhóm bọt chẳng thể bắt nắm vậy. Vì tất cả pháp đều như bọt nổi khởi rồi chóng diệt vậy. Vì tất cả pháp như quáng nắng do điên đảo mà sanh. Vì tất cả pháp đều như cây chuối, lõi không chắc thật vậy. Vì tất cả pháp đều như trăng trong nước chẳng thể bắt lấy vậy. Vì tất cả pháp đều như cầu vồng hư dối phân biệt vậy. Vì tất cả pháp đều không có tác dụng nên không thể phát sanh. Vì tất cả pháp đều như nắm tay rỗng không nên tánh, tướng nó không thật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát sau khi quán sát như vậy rồi, đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ và không trước. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát giữ gìn lòng tin sâu sắc đối với tất cả pháp, không còn chấp trước, không chấp chặt, không tham ái là hành Bát nhã Ba la mật. Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy, trụ như vậy mà tu hành Bát nhã Ba la mật thì mau được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ Tát học như vậy là không học về uẩn xứ giới; không vượt qua uẩn xứ giới mà học. Không học về uẩn xứ giới sanh; không học về uẩn xứ giới diệt. Không vì nhiếp phục uẩn xứ giới mà học; không vì không nhiếp phục uẩn xứ giới mà học. Không vì uẩn xứ giới nhiếp phục hay chuyển dời mà học; không vì uẩn xứ giới hướng vào hay an trụ mà học”.

Tất cả pháp như trò huyễn, trơ lì chẳng thể đắc, như bóng sáng chẳng thể nắm bắt, hư ngụy như hòn bọt nổi khởi rồi chóng diệt, như quáng nắng, như trăng trong nước, như cầu vòng, như nắm tay rỗng không... chẳng năng tùy lấy, chẳng thể chấp thọ hoặc năng chấp thọ hoặc sở chấp thọ đều bất khả đắc.

Bát Nhã đã quá nhiều lần trong suốt đại phẩm nhắc nhở chẳng khác tâm lão bà lúc nào cũng dặn dò khuyên bảo trẻ thơ. Có lẽ nếu theo đúng những chỉ dẫn này, chúng ta sẽ không còn gì để nói, để học, để hành, để chấp thủ hay nhiếp phục nữa?

Nói như thế nhưng không phải thế. Học, hành, thọ trì, nhiếp phục... vẫn tiếp tục nhưng đừng thủ, đừng chấp, đừng trụ, đừng trước, đừng mong chờ, nắm bắt... Rồi cái gì đến sẽ đến. Cơ hội lúc nào cũng sẵn sàng đến với chúng ta. Vô minh điên đảo đến nhanh chừng nào, giác ngộ cũng đến nhanh như vậy, thì lo gì có đổi thể lột xác hay không?

Bát Nhã “thật sự khai phóng tất cả năng lực nội tại tích tập từ nhiều đời kiếp trong mỗi người chúng ta, cái năng lực bấy lâu bị co cụm, và bị vặn chéo”(9) bởi nếp sống vị kỷ cá nhân mà chúng ta không lẩn trốn vào đâu được. Bát Nhã sẽ đập vỡ thùng keo sơn để giải phóng toàn bộ trí năng tiềm ẩn trong ta. Cái gì trước kia mong chờ nắm bắt, ôm giữ, cất giấu bây giờ trở thành vô nghĩa. Thế giới sẽ trải rộng ra khi chúng ta sẵn sàng dọn mình lột bỏ cái vỏ sò ích kỷ để thay thế vào đó bằng Trí và Bi. Rồi ra, chúng ta có thể làm chủ trọn vẹn một kho tàng vô tận với đầy quyền năng giúp mình và kẻ khác vui sống.

 

22. Vậy, muốn đổi thể, lột xác thì phải làm sao?

 

- Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 74, Hội thứ I, ĐBN. Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- “Tôn giả! Tất cả pháp Phật đều mang lại vô lượng vô biên các nhóm công đức nên gọi là đạo Bồ đề. Nhưng công đức như vậy do đâu mà có?

Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Công đức như vậy đều do thế lực của Bát nhã Ba la mật mà đạt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều từ đó mà xuất sanh.

- Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật này có khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trú.

- Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật vị lai tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, hiện chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sinh”.

Kinh nói Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của tất cả thiện pháp. Chư Phật ba đời tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng hữu tình là do nhiếp thọ tu hành các pháp tu này. Đó là do công đức Bát Nhã tạo ra.

 

- Phẩm “Quán Chiếu”, quyển 404, Hội thứ II, ĐBN. Phật bảo:

“Này Xá lợi Tử! Nếu có ai hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem sự thật mà nói, pháp nào có thể bao trùm tất cả thiện pháp? Phật đáp ngay: Đó là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật này là mẹ của tất cả thiện pháp, hay sanh các công đức của các Ba la mật và năm loại mắt”.

Không còn gì để ngờ vực nữa, toàn thể Đại Bát Nhã chỗ nào cũng khuyến dẫn đọc tụng, thọ trì, chánh ức niệm, vì người diễn nói, truyền bá sâu rộng Bát nhã Ba la mật. Đồng thời phải lấy tràng hoa thượng diệu, hương bột, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, bảo cái, ngọc diệu, kỹ nhạc, đèn sáng... mà vì cung kính cúng dường!

 

- Hơn thế nữa, phẩm “Thông Đạt”, quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo trời Tối Thắng: “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la mật... ”

Tu một pháp có thể biết tất cả pháp, đạt tất cả pháp mà không lìa một pháp. Pháp đó chính là Bát nhã Ba la mật, pháp Không hay Bản tánh không. Pháp này giải thích tất cả càn khôn vũ trụ, vì trời đất vũ trụ không thể thoát khỏi hấp lực của nó. Nó là nguyên lý chỉ đạo của tất cả các nguyên lý chỉ đạo, nó là bộ phận mẹ sanh ra chư Phật và tất cả pháp thế gian, xuất thế gian..

Vậy, muốn làm chủ trọn vẹn kho tàng vô tận với đầy đủ quyền năng để giúp mình, người vui sống. Chúng ta phải có chìa khóa để mở kho tàng đó. Nhưng may mắn chúng ta không cần chẻ xương bán tủy như Bồ Tát Thường Đề, chư Phật đã trao sẵn cho chúng ta cái chìa khóa mầu nhiệm đó từ khi các Ngài chứng ngộ. Chìa khóa đó chính là Đại Bát Nhã Ba La Mật mà chúng ta đang phụng trì. Hãy ôm lấy nó như phần thưởng để khai thông tất cả nguồn năng lực đầy sáng tạo (Trí) và từ hòa (Bi) đang ấp ủ trong trái tim ta để thực thi các hạnh nguyện mà chúng ta hằng mong ước. Nếu làm được như thế thì con thiềm thừ thoát xác, con cá chép hóa rồng, sẽ tung tăng bay lượn khắp không gian vô tận.

 

23. Đạo ở đâu? Đạo không còn là bí ẩn đối với kẻ đi tìm chân lý nữa. Phẩm “Mạn Thù Thất Lợi”, quyển 574, Hội thứ VII. Phật hỏi:

- “Mạn Thù Thất Lợi! Ngươi đối với Phật pháp lẽ nào không mong cầu?

- Bạch Thế Tôn! Nay con chẳng thấy có pháp nào chẳng phải Phật pháp thì cầu chỗ nào?

- Mạn Thù Thất Lợi! Ngươi đối với Phật pháp đã thành tựu rồi chăng?

- Bạch Thế Tôn! Con nay đều chẳng thấy pháp khá gọi Phật pháp, thì thành tựu cái gì?”

Chúng ta phải hiểu câu nói của Bồ Tát được xem là trí tuệ vào bậc nhất trong hàng Bồ Tát khi Ngài tuyên bố: “Con chẳng thấy pháp nào chẳng phải là Phật pháp thì cầu chỗ nào?” Ai cũng biết Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, một bậc đại trí, là vị cổ Phật, hiện thân làm Bồ Tát, giúp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa chúng sanh ở cõi Nam Thiệm bộ châu này. Ngài biết rõ pháp nào cũng là pháp Phật. Vậy, cầu làm gì? Hay nói cách khác Bồ Tát Mạn Thù biết pháp Phật không do ai làm ra, pháp Phật có sẵn trong thân, pháp Phật có sẵn ngoài thân, pháp Phật tràn đầy trong trời đất. Chỗ nào cũng là pháp, pháp nào cũng gọi là pháp Phật thì cầu làm gì?

Đó là hiểu đạo, hiểu Đạo thì thấy Đạo. Đạo chính là tự thể, là máu mủ của chính ông. Ông là đạo, thì cầu đạo chỗ nào? Cũng vậy, Phật thuyết pháp 49 năm mà nói:

 

“Từ đêm Ta thành Đạo

Đến khi nhập Niết bàn

Ở trong khoảng giữa ấy

Ta trọn không có nói

Duyên tự pháp trụ

Nên Ta nói thế ấy”.

 

Phật cũng không làm ra pháp, pháp có khắp trong trời đất, duyên tự pháp trụ, pháp nhĩ tự nhiên. Hiểu pháp tức là pháp. Hiểu đạo tức là Đạo. Pháp đó chính là Phật, Phật chính là đạo.

Bây giờ, chúng ta ai cũng biết đạo phát xuất từ đâu rồi. Vậy, đến lúc cần úp sách lại, không mượn chữ, mượn lời hay mượn pháp nữa. Không nói khổ nói lạc, không nói sanh tử hay Niết bàn, không nói phiền não hay Bồ đề, không nói đạo hay vô đạo... Quên đi tất cả tội lỗi, phước nghiệp, trí đức, quên luôn cả Bát nhã Ba la mật. Còn nhớ là còn bị nó trói. Phải niệm rằng: Không có những thứ gì từ ngoài vào mà có thể chuyển hóa được nội tâm. Giáo lý và thực hành là chất liệu tốt nhất cũng chỉ là phương tiện bồi dưỡng hạnh nguyện, tánh đức, trí tuệ. Ý chí và nghị lực (hai thành tố quan trọng của tinh tấn) mới chính là năng lực đưa đến nội chứng (chứng ngộ từ bên trong). Chính nó là sức tống mãnh liệt giúp con ngài phá cái kén để trở thành hồn bướm mà thực hiện giấc mơ tiên.

 

Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Thiền sư Đạo Minh (Trần Tôn Túc) pháp tự đời thứ tư của Nam Nhạc Hoài Nhượng, truyền thừa của Hoàng Bá Hy Vận, cùng thầy Tăng giảng kinh uống trà. Sư bảo thầy Tăng:

- Ta không cứu ông nổi đâu!

Tăng nói:

- Mỗ đây không hiểu, xin thương tình chỉ thị.

Sư đưa cái bánh dầu lên chỉ thị, hỏi:

- Cái này là cái gì?

Tăng đáp:

- Sắc pháp.

Sư nói:

- Cái gã nấu dầu này!

Nếu có thể bàn chúng tôi tự hỏi: Cái bánh nói là cái bánh, tại sao lại nói là sắc pháp? Bởi vì tập khí nghe kinh, đọc sách, giảng luận lâu ngày nên sặc mùi kinh kệ, quên đi là mình đang sống, sống một đời tự tại. Đừng mắc phải bệnh này. Phải phủi sạch tất cả mọi tương duyên, không để bất cứ thứ gì ràng buộc, nếu không bị Sư mắng: “Cái gã nấu dầu này”. Tại sao bị mắng là gã nấu dầu? Vì cái bánh mà nói là sắc pháp, nói như vậy là nói láo, nên bị Diêm vương nấu dầu.

Học Bát nhã Ba la mật là khai phóng, tự mình làm chủ lấy đời mình, sống trong tỉnh thức dần dà thì đường mê đổi ngược, được an nhiên tự tại thôi!

 

Kết luận:

(Cho phần Tổng kết toàn bộ)

 

Tất cả kinh điển thuộc hệ Bát Nhã có rất nhiều pháp môn, mỗi pháp môn có giá trị riêng của nó như trong một xâu chuỗi mà mỗi viên ngọc tròn trịa đều đặn không những tự nó chiếu sáng làm tăng giá trị cho chính nó mà còn nâng giá trị rạng rỡ cho toàn thể chuỗi ngọc. Nói như vậy không có nghĩa tu học Bát nhã Ba la mật là phải học một pháp môn hay học toàn thể tất cả pháp môn. Tu hành 81 khoa danh tướng Bát Nhã được gọi là các pháp mầu Phật đạo được xem là quá nhiều quá khó, quá khổ... không biết bao nhiêu đời kiếp mới có thể hoàn tất nói chi đến 84.000 pháp môn. Phẩm “Thông Đạt”, quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo trời Tối Thắng: “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la mật”. Phẩm “Pháp Tánh”, quyển 569, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo: “Thiên vương nên biết! Đối với các pháp ta đã nói ở trước, Bồ Tát nào chỉ tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”.

Vậy, tùy theo điều kiện, tùy theo ước nguyện, căn cơ tu một pháp đến chỗ rốt ráo thì cũng có thể biết tất cả pháp; tu một hạnh được đầy đủ tất cả hạnh, cũng được sanh về cõi Phật thanh tịnh, còn muốn gì hơn! Hãy theo chỉ dẫn này mà tu tập thì có thể vuông tròn hạnh nguyện.

Tới đây chúng tôi có thể nói: Tu như lọc nước vậy, lấy phèn bỏ vào nước đục quậy mạnh, rồi để lắng vài ngày thì có nước trong. Như bỏ hết phiền não tức Niết bàn, lìa hết triền phược tức giải thoát. Đó là lối tu sơ sài của chúng tôi.

Thích nghĩa cho phần Tổng Quan Bát Nhã:

(1). Duyên khởi: Tất cả các pháp hữu vi đều do nhân duyên (các điều kiện hòa hợp mà thành), lý này gọi là duyên khởi. Tức là bất cứ vật gì trong thế giới hiện tượng đều nương vào những điều kiện nhân duyên mà sinh ra, tồn tại, biến hóa (vô thường) và tiêu diệt. Đó là pháp tắc mà đức Phật đã chứng ngộ được. Như 12 chi duyên khởi đã được giải thích rõ trong các Kinh điển A hàm. (Tóm tắt theo Phật Quang Tự điển)

(2). Phỏng theo Phật Quang tự điển.

(3). Thiền luận quyển hạ của Thiền sư D.T. Suzuki.

(4). Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

(5). Phần “Lý Thú Bát Nhã”, Hội thứ X, ĐBN.

(6). Phật Học Phổ Thông, khóa thứ VI - VII, Phật-Học-Viện Quốc-tế xuất bản.

(7). Luật giao thông: Người Anh lái xe bên trái, người Pháp lái xe bên phải.

(8). Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Q. 575, Hội thứ VII, ĐBN.

(9). An trụ chỗ vắng lặng nhiệm mầu chính là thiền quán nhằm tạo cơ hội chứng ngộ.

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com