Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

60. Phẩm “Đồng Học"

03/09/202008:19(Xem: 9455)
60. Phẩm “Đồng Học"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-448

PHẨM “ĐỒNG HỌC"


Phần sau quyển 454 đến phần đầu quyển 455, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Học Phương Tiện xảo”, Q.337 – Q.341, Hội thứ I)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Phẩm “Học Phương Tiện Xảo” bắt đầu từ Q.337 đến đầu Q.341 là một phẩm tương đối dài, nên Hội thứ II mới phân chia làm nhiều phẩm, trong đó có hai phẩm chính là “Đồng Học” và “Đồng Tánh”. Hội thứ I không có phẩm tựa riêng là: “Đồng Học” và “Đồng Tánh”. Phần cuối phẩm “Học Phương Tiện Xảo” thuộc Hội thứ I có nói qua sự cùng học, cùng sống của các Bồ Tát trong cuộc sống chung đụng lẫn nhau.

Phẩm này của Hội thứ II tương đương với phẩm thứ 62, cũng có tên là “Đồng Học”, tập 4, quyển 77, Đại Trí Độ Luận.

 

Tóm lược:

 

(Công đức của người thọ trì Bát nhã Ba la mật)

 

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa, khó thấy, khó giác, không thể suy nghĩ, vượt khỏi cảnh giới suy nghĩ, là sở chứng vi mật của người trí tuệ minh mẫn, vi diệu, hoàn toàn xa lìa các tướng phân biệt. Bạch Thế Tôn! Đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, thiện nam, thiện nữ nào thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy như lý, tu hành theo lời dạy, vì người chính thuyết để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không có xen lẫn tâm và tâm sở sai khác thì thiện nam, thiện nữ… đó không những chỉ thành tựu chút ít thiện căn mà còn có thể thành tựu sự nghiệp phải không?

Khi ấy, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều thi ca! Đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, nếu thiện nam, thiện nữ nào thường thích lắng nghe, giữ gìn, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, tu hành theo giáo lý, vì người chính thuyết để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen lẫn các tâm và tâm sở sai khác thì các thiện nam, thiện nữ… này chắc chắn thành tựu căn lành rộng lớn và có thể thành tựu sự nghip.

Này Kiều thi ca! Giả sử có thiện nam, thiện nữ có thể khuyến khích các loài hữu tình ở châu Nam Thiệm bộ này cho đến Tam thiên đại thiên thế giới đều thực hành mười nghiệp lành, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông cùng vô lượng công đức khác.

Có thiện nam, thiện nữ nào đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý v.v… thì công đức mà thiện nam, thiện nữ này đạt được hơn công đức của người nói trước trăm, ngàn lần, cho đến vô lượng, vô số.

Lúc đó, trong chúng có một Tỳ kheo hỏi trời Đế Thích:

- Này Kiều thi ca! Đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, thiện nam, thiện nữ nào thường chú tâm, không tán loạn, ưa thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý v.v… để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen lẫn tâm và tâm sở khác thì công đức mà thiện nam, thiện nữ đó thu được hơn hẳn vô lượng công đức mà các loài hữu tình ở cõi châu Thiệm bộ, cho đến cả Tam thiên đại thiên thế giới có được nhờ cùng nhau thực hành mười nghiệp lành, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông không?

Thiên Đế Thích đáp:

- Những thiện nam, thiện nữ đó mới vừa phát tâm chỉ một niệm tương ưng Nhất thiết trí trí đã thu được công đức lớn hơn công đức mà tất cả các loài hữu tình ở khắp châu Thiệm bộ, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới có được nhờ cùng nhau thực hành mười nghiệp lành, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông v.v... gấp trăm ngàn lần, huống gì lại có thể đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này giữ tâm không loạn, thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý v.v… để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen lẫn tâm và tâm sở khác thì công đức thu được không thể so lường.

Này Tỳ kheo! Ông nên biết công đức trí huệ của thiện nam, thiện nữ này chẳng những hơn hẳn công đức mà các loài hữu tình ở châu Thiệm bộ, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới có được nhờ cùng nhau thực hành mười nghiệp lành, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lưng v.v… mà còn hơn cả công đức mà trời, người, A tu la có được. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích vô lượng hữu tình.

Tỳ kheo nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ này chẳng những hơn công đức mà trời, người, A tu la ở thế gian có được mà còn hơn công đức của tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích vô lượng hữu tình.

Tỳ kheo nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ này chẳng những hơn công đức của tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà còn hơn cả công đức của tất cả đại Bồ Tát xa lìa phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật, an trụ vào pháp nội không cho đến vô tính tự tính không, an trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, an trụ tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy trợ đạo, tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, giáo hóa hữu tình, tu Bồ Tát hạnh, và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích vô lượng hữu tình.

Tỳ kheo nên biết! Công đức, trí tuệ của thiện nam, thiện nữ này cũng hơn hẳn công đức của tất cả Bồ Tát xa lìa phương tiện thiện xảo khi tu hành Bát Nhã. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ này mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích vô lượng hữu tình.

Tỳ kheo nên biết! Thiện nam, thiện nữ này chính là đại Bồ Tát. Nhờ tu hành Bát Nhã sâu xa đúng như đã nói nên đại Bồ Tát này không bị tất cả thế gian, trời, người, A tu la, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn hàng phục. Vì vậy có thể tiếp nối Nhất thiết trí trí không cho đứt đoạn, thường không lìa chư Phật, Bồ Tát là những bạn lành thù thắng chơn thật. Không bao lâu nữa vị ấy sẽ ngồi trên tòa Bồ đề vi diệu, hàng phục tất cả quyến thuộc ác ma, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, cứu vớt các hữu tình ra khỏi sanh, lão, bệnh, tử, làm cho được hoàn toàn an vui, tịch tĩnh.

Tỳ kheo nên biết! Nhờ tu hạnh Bát Nhã sâu xa đúng như đã nói, Bồ Tát này thường học pháp mà đại Bồ Tát nên học, không học pháp mà Thanh văn, Độc giác học.

Tỳ kheo nên biết! Do đại Bồ Tát này tu hành Bát Nhã sâu xa như vậy, thường học các pháp mà đại Bồ Tát cần học nên bốn Đại thiên vương hộ thế thống lĩnh Thiên chúng của mình đến chỗ vị ấy, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và nói: “Lành thay! Đại sĩ hãy mau tinh tấn học các pháp mà đại Bồ Tát nên học, đừng học các pháp mà Thanh văn, Độc giác học. Nếu học như vậy Ngài sẽ sớm an tọa trên tòa Bồ đề vi diệu và chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như trước đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ nhận bốn bát của bốn Đại thiên vương hộ thế đã dâng. Như xưa bốn đại Thiên Vương hộ thế đã dâng lên bốn bát, chúng tôi cũng sẽ dâng như vậy”.

Tỳ kheo nên biết! Nhờ đại Bồ Tát này tu hành Bát Nhã sâu xa như vậy và thường học các pháp Bồ Tát cần học nên Thiên tử Diệu Thời Phần, Thiên tử Diệu Hỷ Túc, Lạc Biến Hóa, Diệu Tự Tại, đồng thời các đại Phạm thiên vương chủ thế giới Ta bà dẫn Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm hội thống lãnh thiên chúng đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và nói: “Lành thay! Đại sĩ hãy sớm tinh tấn học các pháp đại Bồ Tát đã học, đừng học các pháp mà Thanh văn và Độc giác học. Nếu học như vậy sẽ mau được an tọa nơi tòa Bồ đề vi diệu, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển bánh xe diệu pháp cứu độ các hữu tình”.

Tỳ kheo nên biết! Do đại Bồ Tát ấy tu hành Bát Nhã sâu xa như vậy, và thường học những pháp mà Bồ Tát cần học nên Cực quang tịnh thiên cùng với thiên chúng Quang thiên, Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen; trời Biến tịnh cùng với thiên chúng trời Tịnh thiên, Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen; Trời Quảng quả cùng với thiên chúng Quảng thiên, Thiểu quảng thiên, Vô lượng quảng thiên đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen; trời Sắc cứu cánh cùng với thiên chúng trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và đều nói: “Lành thay! Đại sĩ hãy mau siêng năng học các pháp mà Bồ Tát cần học, đừng học các pháp Thanh văn, Độc giác học. Nếu học như vậy sẽ sớm được an tọa nơi tòa Bồ đề vi diệu, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp cứu độ các hữu tình”.

Tỳ kheo nên biết! Nhờ Bồ Tát này tu hành Bát Nhã sâu xa đúng như đã nói nên được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các vị đại Bồ Tát, các vị trời, rồng, A tu la… thường theo hộ niệm, vì thế tất cả hiểm nạn, tai ách ở thế gian và sự buồn khổ nơi thân tâm đều không thể làm hại được Bồ Tát này.

Tỳ kheo nên biết! Do Bồ Tát này tu hành Bát Nhã sâu xa đúng như đã nói nên các thứ bệnh do bốn đại chống trái nhau tạo ra cho khắp thế gian đều không thể làm não hại. Đó là những bệnh như bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh thân, bệnh xương… cốt, tất cả bốn trăm lẻ bốn loại bệnh như vậy đều không có ở trong thân, chỉ trừ khi có nghiệp nặng chuyển thành quả báo nhẹ.

Tỳ kheo nên biết! Nhờ tu hành Bát Nhã sâu xa đúng như đã nói nên Bồ Tát ấy thu được vô lượng vô biên công đức trong đời hiện tại và vị lai, các đức Phật Thế Tôn có thể thấy, biết tất cả.

Bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ thầm nghĩ: Nay để tự biểu lộ tài biện bác của mình, trời Đế Thích đã giảng nói Bát Nhã sâu xa như vậy, khen ngợi công đức thù thắng của Bát Nhã như thế, phải chăng là nhờ sức oai thần của Như Lai?

Trời Đế Thích liền biết tâm niệm của Khánh Hỷ mới thưa:

- Đại đức! Việc tôi giảng nói Bát Nhã sâu xa, việc tôi khen ngợi công đức thù thắng của Bát Nhã đều là nhờ sức oai thần của Như Lai.

Khi ấy Thế Tôn bảo Khánh Hỷ:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Nay trời Đế Thích giảng nói, khen ngợi công đức thù thắng của Bát Nhã sâu xa, nên biết việc đó đều là oai thần của Như Lai, chẳng phải là tài biện bác của ông ấy. Vì sao? Vì công đức thù thắng của Bát Nhã sâu xa nhất định chẳng phải là pháp mà tất cả thế gian, trời, người, A tu la… có thể biết được, nói được. Khánh Hỷ nên biết! Khi Bồ Tát nào học tập, suy nghĩ, tu hành Bát nhã Ba la mật thì tất cả ác ma trong Tam thiên đại thiên thế giới đều sanh nghi ngờ và nghĩ: Không biết Bồ Tát này làm như vậy là để chứng đắc thật tế, lui lại giữ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề hay để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa Khánh Hỷ! Nếu Bồ Tát không lìa Bát nhã Ba la mật, các ác ma rất khổ não, thân tâm đau đớn như bị trúng tên độc.

Lại nữa Khánh Hỷ! Nếu Bồ Tát tu hành Bát Nhã sâu xa thì các ác ma đến chỗ vị ấy hóa ra đủ loại việc đáng sợ vì muốn làm thân tâm Bồ Tát kinh sợ, mê muội, đánh mất tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có ý thối lui đối với việc tu hành cho đến phát sanh một ý niệm rối loạn gây chướng ngại sự chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là ước nguyện sâu kính của ác ma ấy.

Bấy giờ, Khánh Hỷ liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, các vị Bồ Tát đều bị ác ma làm não loạn hay là có người bị não loạn, có người không bị não loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Lúc thực hành Bát Nhã, chẳng phải các vị Bồ Tát đều bị ác ma làm não loạn mà là có người bị não loạn, có người không bị não loạn.

 

(Tại sao có người tu hành Bát Nhã bị ác ma làm náo loạn

có người không?)

 

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, những vị Bồ Tát nào bị ma não loạn, và những vị Bồ Tát nào không bị ma não loạn?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Bồ Tát nào vào đời trước, khi nghe Bát Nhã sâu xa này, không tin hiểu, khinh chê, hủy báng thì lúc thực hành Bát Nhã sâu xa Bồ Tát ấy bị ma làm não loạn. Bồ Tát nào vào đời trước, lúc nghe Bát Nhã sâu xa này tin hiểu, khen ngợi, không hủy báng thì lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát ấy không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào vào đời trước, khi nghe Bát Nhã sâu xa này liền nghi ngờ, do dự là có hay không, là thật hay giả thì khi thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn. Bồ Tát nào vào đời trước, khi nghe Bát Nhã sâu xa này mà tâm của vị ấy không sanh nghi ngờ, do dự và tin chắc là có thật thì khi thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát ấy không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào xa lìa thiện tri thức, bị lệ thuộc vào bạn ác, không được nghe Bát Nhã sâu xa này, do không nghe nên không thể hiểu Bát Nhã, vì không hiểu rõ nên không thể tu tập Bát Nhã, vì không tu tập nên không thể thưa hỏi về Bát Nhã, do không thưa hỏi nên không thể thực hành như pháp Bát Nhã, do không thực hành như pháp nên không thể chứng đắc Bát Nhã sâu xa và lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn. Bồ Tát nào gần gũi bạn lành, không bị lệ thuộc vào bạn ác, được nghe Bát Nhã sâu xa này, nhờ được nghe nên liền hiểu rõ Bát Nhã, do hiểu rõ nên liền có thể tu tập Bát Nhã, nhờ tu tập nên có thể thưa hỏi về Bát Nhã, nhờ thưa hỏi nên có thể thực hành như pháp Bát Nhã, vì thực hành như pháp nên có thể chứng đắc Bát nhã Ba la mật sâu xa và lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát ấy không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Bồ Tát nào xa lìa Bát nhã Ba la mật, chỉ khen ngợi và lệ thuộc vào pháp không chơn chánh, thì lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn. Bồ Tát nào gần gũi Bát nhã Ba la mật, không khen ngợi, không lệ thuộc vào pháp chẳng chơn chánh, thì lúc thực hành Bát Nhã, Bồ Tát này không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào xa lìa Bát Nhã, khinh chê hủy báng pháp chơn chánh, lúc ấy ác ma liền nghĩ: Nay ta nên làm bạn với Bồ Tát này, vì người này hủy báng pháp chơn chánh, vi diệu có thể ảnh hưởng không tốt đối với các chúng sanh khác. Giả sử Bồ Tát thừa này siêng năng tu các pháp lành nhưng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác đồng thời làm cho người khác bị rơi theo thì lúc thực hành Bát Nhã, Bồ Tát ấy bị ác ma làm não loạn.

Trái lại, Bồ Tát nào gần gũi Như Lai, khen ngợi, tin nhận pháp chơn chánh, vi diệu lại làm cho vô số chúng sanh trụ nơi Bồ Tát thừa cũng khen ngợi, tin tưởng pháp chơn chánh, vi diệu vì thế ác ma buồn rầu kinh sợ. Giả sử các Bồ Tát này siêng năng tu các pháp lành mà cũng quyết định không để cho mình và người khác rơi trở vào địa vị Thanh văn, Độc giác, chắc chắn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì khi thực hành Bát Nhã, Bồ Tát ấy không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Lúc nghe giảng Kinh Bát Nhã sâu xa, có người nói như vầy: Bát nhã Ba la mật này nghĩa lý sâu xa, khó thấy, khó hiểu thì giảng nói, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, siêng năng tu tập, biên chép truyền bá Kinh này để làm gì? Ta còn không thể hiểu thấu đáo Kinh này huống gì những người phước mỏng trí cạn. Và nghe người ấy nói, vô số chúng sanh đang tu Bồ Tát thừa đều kinh sợ, liền thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rơi vào địa vị nhị thừa thì khi thực hành Bát Nhã, Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn.

Trái lại. Khi nghe giảng Bát Nhã sâu xa, có người nói như vầy: Bát nhã Ba la mật này có nghĩa lý sâu xa, khó thấy, khó hiểu, nếu lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, siêng năng tu tập, ghi chép truyền bá thì có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi Bồ Tát nghe lời người ấy nói như vậy, họ không thối chí và thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng Bát Nhã, thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, siêng năng tu hành, giảng nói cho người khác nghe, ghi chép, truyền bá để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì khi thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát ấy không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào ỷ vào công đức căn lành của mình khinh chê các vị Bồ Tát khác và nói: Ta có thể tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật còn các ngươi không thể; ta có thể an trụ pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không còn các ngươi không thể; ta có thể an trụ vào chơn như, cho đến cảnh giới bất tư nghì, ta có thể an trụ tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy trđạo còn các ngươi không thể; ta có thể tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc còn các ngươi không thể; ta có thể tu hành tám giải thoát, cho đến mười biến xứ, ta có thể tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện còn các ngươi không thể; ta có thể tu hành Như Lai mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, ta có thể tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả còn các ngươi không thể, ta có thể tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí còn các ngươi không thể; ta có thể trang nghiêm cõi Phật giáo hóa hữu tình còn các ngươi không thể. Khi ấy ác ma vui mừng tột độ nói: Bồ Tát này là bạn của ta, chưa biết lúc nào mới thoát khỏi sanh tử luân hồi. Lúc thực hành Bát Nhã Bồ Tát này đã bị ác ma làm não loạn.

Bồ Tát nào không cậy vào công đức căn lành của mình, không khinh chê các Bồ Tát khác, thường siêng năng tu các pháp lành nhưng không chấp trước vào tướng các pháp lành thì khi thực hành Bát Nhã, Bồ Tát ấy không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào cậy vào tên họ mình được mọi người biết đến nên khinh chê các Bồ Tát tu thiện khác, thường ca ngợi đức hạnh của mình và chê bai lỗi lầm của người khác, thật không có các hành động tướng trạng của đại Bồ Tát bất thối chuyển mà cho là thật có, phát sanh các phiền não, khen mình chê người. Do tâm tăng thượng mạn, vị ấy khinh chê, hủy báng các vị Bồ Tát khác. Sau khi thấy việc ấy, ác ma liền nghĩ: Hôm nay, Bồ Tát này làm cho cung điện trong cõi ta không bị trống tri, có thể tăng thêm địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Khi ấy, ác ma dùng thần lực, giúp cho người ấy tăng thêm oai thế, tài năng. Do đó, nhiều người tin tưởng lời nói của người ấy. Vì vậy người ấy khuyến khích họ cùng phát sanh ác kiến. Sau khi có cùng ác kiến rồi họ liền theo người ấy học tà pháp. Sau khi học tà pháp, phiền não càng tăng thêm. Do tâm điên đảo, các nghiệp phát sanh từ thân, khẩu, ý chiêu cảm quả khổ. Vì lý do này cảnh giới địa ngục, ng quỷ, súc sanh được tăng thêm, cung điện, cõi nước của ma đầy dẫy. Do đó, ác ma vui mừng tột độ. Lúc thực hành Bát Nhã, đại Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn.

Nếu trái lại, Bồ Tát nào không ỷ mình có danh hiệu hư vọng nên không khinh chê các Bồ Tát tu thiện khác, không phát sanh tăng thượng mạn đối với công đức của mình, thường không tự khen mình cũng chẳng chê người khác và có thể biết rõ các việc của ác ma thì lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát đó không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào chê bai, hủy báng, đấu tranh với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa, làm cho ác ma thấy việc đó liền nghĩ: Nay Bồ Tát này xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, gần gũi cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Vì sao? Vì chê bai, hủy báng, đấu tranh lẫn nhau chẳng phải là đạo Bồ đề, chỉ là con đường hiểm ác của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sau khi suy nghĩ xong, ác ma vui mừng cực độ, làm cho oai lực của Bồ Tát này tăng thêm, khiến cho vô số người tăng thêm nghiệp ác, thì lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn.

Bồ Tát nào không chê bai, hủy báng, đấu tranh với người cầu Thanh văn, Độc giác, tìm cách dẫn dắt làm cho họ hướng về đại thừa, hoặc làm cho họ siêng năng tu pháp lành của hệ mình thì lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát đó không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào cùng với Bồ Tát cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đấu tranh, chê bai, bài báng lẫn nhau. Thấy việc này ác ma liền nghĩ: Hai Bồ Tát này đều xa lìa Nhất thiết trí trí mà họ mong cầu, đều gần các đường hiểm ác địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, A tu la…Vì sao? Vì việc đấu tranh, chê bai, hủy báng lẫn nhau chẳng phải là đạo Bồ đề mà chỉ là con đường hiểm ác hướng đến địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, A tu la…

Sau khi nghĩ điều này, ác ma vui mừng tột độ, làm tăng thêm oai thế của họ, khiến cho hai nhóm đó đấu tranh không dứt thì lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát này bị ác ma làm não loạn.

Bồ Tát nào không cùng với các Bồ Tát cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đấu tranh, phỉ báng, khinh chê lẫn nhau mà chỉ khuyên răn thúc đẩy lẫn nhau tu hạnh thù thắng để mau hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì lúc thực hành Bát Nhã sâu xa, Bồ Tát này không bị ác ma làm não loạn.

Lại nữa Khánh Hỷ! Bồ Tát nào chưa được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lại sanh tâm giận hờn, đấu tranh, khinh chê, nhục mạ, phỉ báng các Bồ Tát đã được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tùy theo Bồ Tát này đã phát sanh bao nhiêu tâm niệm không tốt thì bị mất bấy nhiêu kiếp đã từng tu các hạnh thù thắng, trải qua bấy nhiêu thời gian xa lìa bạn lành, lại nhận bấy nhiêu sự trói buộc sanh tử, nếu không xả bỏ tâm đại Bồ đề thì phải trải qua bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp nhẫn nại, siêng năng tu thắng hạnh không ngừng nghỉ sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị mất.

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Thế Tôn:

- Bồ Tát ấy phát sanh tâm ác, mắc tội khổ sanh tử phải trôi lăn suốt bấy nhiêu kiếp hay ở giữa chừng cũng có thể ra khỏi? Bồ Tát này đã thối lui thắng hạnh, cần phải siêng năng bấy nhiêu kiếp sau đó mới phục hồi lại công đức hay ở giữa chừng cũng có thể phục hồi được?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Vì Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, ta nói có xuất tội và bù đáp lại pháp lành. Khánh Hỷ nên biết! Bồ Tát nào chưa được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà sanh hờn giận, đấu tranh, khinh chê, nhục mạ, hủy báng, về sau không có hổ thẹn, ôm lòng ác không bỏ, không chịu phát lồ(1) sám hối đúng pháp thì ta nói các hạng ấy ở giữa chừng không thể hết tội và không phục hồi pháp lành lại được. Người ấy phải lưu chuyển sanh tử trong bấy nhiêu kiếp, xa lìa bạn lành, bị khổ não trói buộc, nếu không xả bỏ tâm đại Bồ đề thì họ phải trải qua bấy nhiêu kiếp mặc áo giáp nhẫn nại, siêng tu thắng hạnh không có gián đoạn sau đó mới có thể phục hồi lại công đức đã mất.

Nếu Bồ Tát chưa được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lại sanh giận hờn, đấu tranh, khinh chê, nhục mạ, phỉ báng các vị đại Bồ Tát đã được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, về sau người ấy hổ thẹn, không còn bị lệ thuộc vào việc ác, tìm cách phát lồ, sám hối như pháp và nghĩ: Ta đã được thân người là thứ khó được, vì sao lại phát sanh tội ác như vậy làm mất đi lợi ích lớn. Ta cần phải làm lợi ích cho tất cả hữu tình cớ sao lại làm tổn hại họ. Ta cần phải cung kính tất cả hữu tình như bề tôi thờ chủ chớ sao lại kiêu ngạo nhục mạ, khinh chê, lấn lướt họ. Ta cần phải chịu đựng cho tất cả hữu tình đánh đập, quở trách chớ sao lại dùng thân miệng bạo ác để báo đáp họ. Ta phải hòa giải tất cả hữu tình giúp họ thương yêu kính trọng lẫn nhau cớ sao lại nói lời bạo ác, tranh đấu với họ. Ta phải chịu đựng cho tất cả hữu tình giẫm đạp trong một thời gian dài giống như đường sá, hoặc như cầu cống chớ sao lại lấn lướt, nhục mạ họ. Ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là vì muốn vớt hữu tình ra khỏi nỗi sanh tử to lớn, giúp họ đạt được Niết bàn hoàn toàn an lạc cớ sao lại làm họ thêm đau khổ. Từ nay về sau ta phải như người ngu, như câm, như điếc, như đui, không sanh tâm phân biệt đối với các hữu tình. Giả sử bị chém chặt đứt đầu, dứt chân, tay, hay bị móc mắt, xẻo tai, cắt mũi, hớt lưỡi và tất cả các phần khác của thân thể ta quyết không gây ác đối với các hữu tình ấy. Nếu ta gây ác thì liền hư hoại tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã phát sanh, hay làm chướng ngại Nhất thiết trí trí mà ta mong cầu, không thể làm cho hữu tình được lợi ích, an lạc. Khánh Hỷ nên biết! Bồ Tát này theo ta có thể hết tội và phục hồi công đức ở giữa chừng chẳng cần phải trải qua bấy nhiêu kiếp trôi lăn sanh tử. Người ấy không bị ác ma làm não loạn và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa Khánh Hỷ! Các thiện nam, thiện nữ sống theo Bồ Tát thừa không nên giao thiệp với người cầu quả Thanh văn, Độc giác. Giả sử giao thiệp với họ thì không được cùng với họ ở chung, giả sử ở chung với họ thì không nên cùng họ luận bàn, quyết định. Vì sao? Vì nếu luận bàn, quyết định với họ thì hoặc là ta sẽ sanh tâm giận dữ, hoặc là nói lời thô ác. Nhưng đối với các hữu tình, các Bồ Tát không nên tức giận hoặc nói lời thô ác. Giả sử bị chặt cả đầu, chân và các phần của thân ta cũng không nên nổi giận và nói lời hung ác. Vì sao? Vì các vị Bồ Tát nên nghĩ: Ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là để cứu hữu tình thoát khỏi nỗi khổ sanh tử, làm cho được hoàn toàn lợi ích an lạc chớ đâu phải để tạo việc ác đối với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Bồ Tát nào giận dữ nói lời thô ác đối với các loài hữu tình thì liền chướng ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và phá hoại vô số pháp hành của Bồ Tát. Vì vậy Bồ Tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì không nên giận dữ và nói lời thô ác đối với các hữu tình.

 

(Tinh thần của những người đồng học)

 

Cụ thọ Khánh Hỷ thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát cùng với các đại Bồ Tát sống chung thế nào?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Các vị Bồ Tát phải coi các các đại Bồ Tát sống chung với mình giống như đại sư. Vì sao? Vì khi chăm sóc lẫn nhau các Bồ Tát này nên nghĩ: Họ đều là thiện tri thức chơn chánh của ta, làm bạn với ta, cùng ta đi chung một thuyền, cùng học một nơi, một lúc và một pháp, lý do học cũng giống nhau. Như người kia nên học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, ta cũng nên học pháp ấy. Như người kia nên học pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không, ta cũng nên học pháp ấy. Như người kia nên học chơn như, cho đến cảnh giới bất tư nghì, ta cũng nên học. Nói rộng ra, người kia nên học tất cả pháp Phật, ta cũng nên học. Bồ Tát này cũng nên nghĩ: Các Bồ Tát ấy nói đạo Bồ đề cho chúng ta nghe tức là bạn lành của ta, cũng là đạo sư của ta. Nếu Bồ Tát ấy trụ vào tác ý tạp loạn, xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì ta sẽ không cùng học với họ. Nếu Bồ Tát ấy gạt bỏ ý nghĩ tạp loạn, không lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí ta sẽ cùng họ học ở trong đó.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Bồ Tát có thể học như vậy thì tư lương Bồ đề mau chóng được viên mãn. Lúc học như vậy, Bồ Tát được gọi là đồng học với các vị đại Bồ Tát đã thành đạt đạo nghiệp.

 

Thích nghĩa:

(1). Phát lồ: Sám hối, Xưng tội. 1- Sám hối với người mình lỡ xúc phạm (có ghi trong Luận tạng). 2- Xưng tội ra với người khác. Tỳ kheo có 4 điều, Tỳ kheo ni có 8 điều, trong 227 điều của giới bản Tỳ kheo trong Kinh phân biệt (Sutta-Vibhanga).

 

Sơ giải:

 

Phẩm này chẳng có gì khó. Mở đầu Kinh thuyết về công đức của người thọ trì Bát nhã Ba la mật, nếu không có tâm xen tạp thì thành tựu công đức không phải nhỏ. Phật đồng ý với trời Đế Thích và bảo rằng:

- “Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều thi ca! Đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, nếu thiện nam, thiện nữ nào thường thích lắng nghe, giữ gìn, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, tu hành theo giáo lý, vì người chính thuyết để hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen lẫn các tâm và tâm sở sai khác thì các thiện nam, thiện nữ… này chắc chắn thành tựu căn lành rộng lớn và có thể thành tựu sự nghip.

Dựa vào lời nói này, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 62, “Đồng Học”, tập 4, quyển 77, bình giải rằng:

“Phật ấn chứng lời của vị Đế Thích, nhưng vì muốn phân biệt thế lực của các hạnh thanh tịnh, nên dạy rằng: Nếu hết thảy người trong cõi Diêm Phù Đề đều thành tựu 10 thiện đạo, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, thì công đức đó đem so sánh với công đức của Thiện nam, Thiện nữ thọ trì... dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì trong trăm, ngàn, muôn, ức phần chẳng sao bằng được một... dẫn đến chẳng có toán số thí dụ nào có thể dùng để sánh kịp.

Vì sao? Vì những người trong cõi Diêm Phù Đề tuy thành tựu được nhiều công đức như vậy, nhưng vì xa lìa thật tướng pháp, nên các công đức kia cũng vẫn chỉ là công đức hữu vi, vẫn là hư vọng, chẳng kiên cố, vẫn chịu sự chỉ phối của luật vô thường. Ví như cỏ rác, tuy nhiều vô lượng, mà chẳng có giá trị bằng hạt kim cương nhỏ bé”.

Loại công đức này chúng ta thường thấy trong Hội thứ I, nhất là phẩm “So Lường Công Đức” cũng như rải rác trong một số các phẩm khác mà chúng ta đã tụng qua. Nên không cần lặp lại.

Kế đến Kinh nói nguyên do tại sao có người tu Bát Nhã không bị ma não loạn, có người tu Bát Nhã lại bị não loạn? Nguyên nhân chỉ vì tăng thượng mạn trong quan niệm học hành giáo pháp cũng như danh lợi hay chứng đắc nên dễ bị ác ma làm não loạn. Cuối cùng Kinh mới nói đến việc đồng học.

Tất cả những người cùng học: Họ là những người đồng hội đồng thuyền, cùng ở một nơi, cùng ăn một chỗ, cùng học một pháp, những người ấy là bạn đồng học hãy xem nhau như đại sư. Phải bỏ các tác ý tạp loạn, nếu có sự bất đồng quan điểm với nhau thì tốt nhất là nên tránh xa, không nên bàn lun tranh cãi!

Đại Trí Độ Luận dựa vào lời Phật diễn dịch ý của Phật trong phẩm thứ 62, “Đồng Học”, tập 4, quyển 77 như sau:

“Phật dạy: Bồ Tát phải xem nhau như Phật; phải cung kính, cúng dường nhau như cung kính, cúng dường Phật. Bồ Tát phải xem Bồ Tát cùng sống chung với mình như là pháp lữ của mình, cùng nhau đi trên thuyền Bát Nhã, nương theo dòng nước vô lậu, để đến bờ giải thoát.

Bồ Tát phải xem người hành Bát Nhã Ba La Mật như pháp lữ của mình, như anh em ruột thịt của mình, chẳng nên cùng nhau khởi đấu tranh. Nếu Bồ Tát pháp lữ chẳng có tạp hạnh, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, thì phải học theo họ; trái lại, nếu Bồ Tát pháp lữ có tạp hạnh, thường ly Tát Bà Nhã tâm, thì chẳng nên học theo họ.

Nếu Bồ Tát học được như vậy, thì tâm khinh mạn, tâm sân hận liền tự diệt. Như vậy gọi là đồng học”.

Muốn rõ chi tiết, Quý vị có thể quay lại đọc phẩm tương đương có tên là “Học Phương Tiện Xảo”, Q.337 đến Q.341, Hội thứ I, ĐBN.

 

Một phút tư duy:

(Đồng hội đồng thuyền)

 

Chúng tôi cùng học Đại Bát Nhã Ba La Mật với Quý vị. Chúng ta là những người đồng hội đồng thuyền, thực hiện một cuộc hành trình đầy gian khổ và thử thách, nhưng không kém phần thú vị không những trong kiếp này mà còn trong nhiều kiếp nữa. Điểm muốn nêu ra ở đây là chúng tôi kêu gọi cũng như khuyến khích độc giả trong việc đọc tụng thọ trì kinh điển nhất là đối với một bộ Kinh quá dài như Đại Bát Nhã này.

Kinh tự nói lên công đức cũng như lợi ích không thể nghĩ bàn trong việc đọc tụng thọ trì rồi. Đối với chúng tôi những ai theo dõi và đọc tụng Kinh này tới đây đã được xem là nhiệt tình, có quyết tâm rồi. Vì sao? Vì cái gì chúng ta đã đọc tụng thọ trì của Hội thứ II này chỉ là những trùng tuyên của Hội thứ I mà thôi, không những thế chúng ta phải tụng cả thảy 6 Hội, hết 573 quyển, đều có giáo lý tương tự như vậy. Hội thứ VII giáo lý mới thay đổi hoàn toàn, có thể tạo ngạc nhiên cho độc giả. Vì giáo lý của Hội thứ VII hoàn toàn “lật úp” tất cả nghĩ tướng thế gian.

Trở lại phần đọc tụng ở đây, mặc dù chúng tôi có luận giải đôi chút để tránh sự khô khan của phần chính văn, trùng tuyên quá nhiều có thể làm Quý vị mệt mỏi. Vì Kinh đã trùng tuyên rồi chúng tôi không muốn trùng tuyên thêm nữa. Ở đây qua kinh nghiệm của người đã từng thọ trì kinh điển truyền lại, cũng như chính bản thân chúng tôi cho biết: Giết chết cảm thọ hay ý thức không phải là điều dễ, ru ngủ được nó đã là điều khó hiến chi giết chết nó. Nó là một thứ tạm gọi là “niệm chúng sanh” (vọng niệm), lúc nào nó cũng tỏ ra mau mắn sn sàng can dự và khuấy rối chánh niệm của chúng ta. Để tránh những quấy rầy thường xuyên của nó, pháp môn niệm Phật của Tịnh độ (còn gọi là Đại thừa thiền) lấy niệm Phật để thay thế cho niệm chúng sanh. Do tụng niệm hay kinh điển lâu ngày thành thục thì được nhất tâm bất loạn tức được chánh định. Nhờ chánh định mới sanh các tam muội!

Ở đây cũng vậy, yếu chỉ cảu Đại Bát Nhã cũng không ngoài chủ đích này. Nên đôi khi tóm tắt Kinh chúng tôi không tránh khỏi mặc cảm tội lỗi khi cắt xén những đoạn Kinh trùng tụng.

Vậy, cứ một mặt thành tâm trì tụng, quên cả không gian lẫn thời gian rồi sẽ thấy cái nhiệm mầu đằng sau sự trì tụng này. Quan niệm của các bậc có đạo học sâu dày của người xưa đã nói như thế. Ngày nay cũng có câu nói không kém phần trí tuệ “Thiên tài chẳng qua là sự tập luyện lâu dài”. Phải tinh tấn lắm mới được./.

 

---o0o---

 


Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com