Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Phẩm "Vô Sở Đắc"

28/01/202109:37(Xem: 7131)
09. Phẩm "Vô Sở Đắc"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-539

 

IX. PHẨM VÔ SỞ ĐẮC

Phần đầu quyển 571, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 8: Không Có Đắc, Kinh TTVBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

  

Gợi ý:

Giáo pháp “Vô Sở Đắc” hay “Bất Khả Đắc” là một trong những giáo pháp được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong toàn hệ Bát Nhã. Tuy đọc quá nhiều lần, nhưng không bao giờ chán. Đó là giáo lý tối cao của chư Phật. Ngày nào còn ôm ấp trong tâm hai chữ “sở đắc” là ngày ấy còn sống trong mờ mịt, mộng ảo thôi. Đó là tự dối mình, dối người và cũng sẽ bị người khác lừa dối!

Ngoài giáo pháp vô sở đắc trên, các giáo pháp khác về tu tịnh hạnh để hộ trì chánh pháp cũng hết sức vi diệu, được xiển dương trong phẩm này mà bất cứ người tu Phật chân chánh nào cũng phải chấp trì nếu muốn thân tâm không dao động, nếu muốn đạt chánh hạnh, chánh giác; nếu muốn chứng Diệu trí, Diệu tuệ, các Tổng trì và các Vô ngại pháp môn khác v.v... Đây là các pháp môn thiết thực nhất cho những ai tu Bồ Tát đạo.

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 571

 

(Muốn đắc thì không đắc, không muốn mới đắc)

 

Bấy giờ, trong hội có vị đại Bồ Tát tên là Thiện Tư hỏi Tối Thắng:

- Đức Phật đã thọ ký quả Bồ đề cho Thiên vương ư?

Tối Thắng đáp:

- Tôi tuy được thọ ký mà như trong mộng vậy.

Thiện Tư hỏi tiếp Tối Thắng:

- Thiên vương được thọ ký là đắc cái gì vậy?

Tối Thắng đáp:

- Tôi tuy được thọ ký nhưng không đắc gì cả.

Thiện Tư lại hỏi:

- Không đắc ấy là không đắc pháp nào?

Tối Thắng trả lời:

- Không đắc ấy là chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình, cho đến chẳng đắc sự thấy biết, chẳng đắc các uẩn và các xứ giới, hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc sanh tử, hoặc Niết bàn, đối với hết thảy như vậy đều không đắc gì cả.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu không có đắc chi cả thì thọ ký để làm gì?

Tối Thắng đáp:

- Vì vô sở đắc nên được sự thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu như nghĩa Thiên vương đã nói đó, bèn có hai cái hiểu: Một là không được gì cả, hai là được trao ký?

Tối Thắng đáp:

- Nếu có hai thì không được thọ ký. Vì sao? Vì trí Phật không hai. Chư Phật Thế Tôn dùng trí không hai để thọ ký cho Bồ Tát.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu trí chẳng hai thì làm sao có trao ký nhận ký?

Tối Thắng đáp:

- Trao ký và nhận ký, ngằn ấy không hai.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu không hai làm sao có ký?

Tối Thắng đáp:

- Nếu hiểu được không có hai ngằn tức có thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Thiên vương nay trụ trong ngằn nào mà được thọ ký vậy?

Tối Thắng đáp:

- Tôi trụ bờ ngã, trụ bờ hữu tình cho đến bờ mé của thấy biết mà được thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ ngã v.v... này phải cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ giải thoát của chư Phật.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ giải thoát của Phật lại cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ vô minh, hữu, ái.

Thiện Tư hỏi:

- Vô minh, hữu, ái lại cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ rốt ráo không sanh.

Thiện Tư hỏi tiếp:

- Bờ không sanh này cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Bờ này phải cầu ở bờ vô tri.

Thiện Tư hỏi lại:

- Bờ vô tri ấy tức là không có sự hiểu biết, vậy thì làm sao bờ này phải cầu sang bờ kia?

Tối Thắng đáp:

- Nếu theo sự hiểu biết mà cầu thì không thể được, vì vô tri nên mới cầu nơi bờ kia.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ này lìa sự nói năng thì làm sao có thể cầu?

Tối Thắng đáp:

- Bởi xa lìa ngôn ngữ nên có thể cầu được.

Thiện Tư lại hỏi:

- Ngôn ngữ này vì sao xa lìa?

Tối Thắng đáp:

- Vì các pháp dựa vào nghĩa, chẳng dựa vào ngữ.

Thiện Tư lại hỏi:

- Tại sao dựa vào nghĩa?

Tối Thắng đáp:

- Vì chẳng thấy tướng nghĩa.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vì sao chẳng thấy?

Tối Thắng đáp:

- Chẳng khởi phân biệt nghĩa là bị nương, ta là hay nương, không hai việc đây nên gọi chẳng thấy.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu chẳng thấy nghĩa này thì cầu chỗ nào?

Tối Thắng đáp:

- Không thấy không nắm bắt nên cầu.

Thiện Tư hỏi lại:

- Pháp có thể cầu ấy tức là có cầu?

Tối Thắng đáp:

- Nghĩa đấy chẳng phải. Bởi vì cầu pháp ấy thật không sở cầu. Vì sao? Nếu thật khá cầu tức là phi pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Cái nào là pháp?

Tối Thắng đáp:

- Pháp không văn tự, cũng lìa ngôn ngữ.

Thiện Tư lại hỏi:

- Trong lìa văn tự ngôn ngữ thì cái nào là pháp?

Tối Thắng đáp:

- Tánh lìa văn tự ngôn ngữ, dứt chỗ tâm hành. Đây gọi là pháp. Tánh tất cả pháp đều không thể nói. Cái không thể nói cũng không thể nói. Nếu có nói ra tức là hư dối. Trong pháp hư dối hoàn toàn không có thật pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Chư Phật Bồ Tát thường có lời nói, vậy đều là hư dối sao?

Tối Thắng đáp:

- Chư Phật Bồ Tát từ đầu đến cuối chẳng nói một chữ, thì làm sao có hư dối?

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu có nói ra sẽ mắc lỗi gì?

Tối Thắng đáp:

- Có lỗi về lời nói.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lời nói có lỗi gì?

Tối Thắng đáp:

- Có lỗi về nghĩ bàn.

Thiện Tư lại hỏi:

- Pháp nào không lỗi?

Tối Thắng đáp:

- Có nói, không nói chẳng thấy hai tướng thì không có lỗi.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lỗi lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Năng chấp làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Chấp lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Lấy tâm chấp đắm làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Đắm lấy gì làm gốc.

Tối Thắng đáp:

- Hư vọng phân biệt là gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Vin vào duyên làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Duyên theo chỗ nào?

Tối Thắng đáp:

- Duyên theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Làm thế nào để không duyên theo?

Tối Thắng đáp:

- Nếu xa lìa ái, thủ thì không còn chỗ để duyên. Vì nghĩa này nên Như Lai thường nói các pháp bình đẳng, không thể duyên theo được.

Khi nói pháp này có năm ngàn Bí sô xa lìa trần cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh. Lại có một vạn hai ngàn Bồ Tát đắc Vô sanh nhẫn. Vô lượng, vô biên hữu tình đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã thâm sâu, làm thế nào để những người chưa phát Bồ đề tâm liền có thể phát tâm, tất cả đều thành tựu và đạt được Bất thối chuyển, sự tu hành thường tiến chẳng lùi?

Phật dạy:

- Thiên vương! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ nói cho ông.

Tối Thắng thưa:

- Lành thay, Đại Thánh! Cúi xin Ngài nói cho, chúng con muốn nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương phải biết! Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã thâm sâu, đem ý thuần tịnh phát Bồ đề tâm, đầy đủ chánh tín, gần gũi Thánh Hiền, ưa nghe chánh pháp, xa lìa sự đố kỵ, bỏn sẻn, thường tu tịch tĩnh, ưa hành bố thí, tâm không hạn ngại, lìa các uế trược, chánh tín nghiệp quả, tâm chẳng do dự, biết rõ như thật nghiệp quả đen trắng. Nếu vì thân mạng quyết chẳng làm ác. Những thiện nam, thiện nữ này tu hành Bát Nhã thâm sâu như vậy thì có thể xa lìa mười nghiệp ác đạo, tâm thường nhớ nghĩ về mười thiện nghiệp đạo. Những thiện nam, thiện nữ này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, nếu gặp các Sa môn, Bà la môn v.v... tinh tấn tu hành chân chánh, giới phẩm trong sạch, nghe nhiều hiểu nghĩa thì thường khởi lên chánh niệm, tâm tánh điều hoà nhu nhuyến, tịch tĩnh không loạn, thường ái ngữ, siêng tu các điều thiện, xa lìa các điều ác; chẳng đề cao mình, chẳng khinh thường người khác; lìa lời thô ác, bỏ lời vô nghĩa, chẳng bỏ niệm trụ, tâm giữ trung thực, thường dứt hung bạo, khéo nhổ tên độc, vứt bỏ hoàn toàn các gánh nặng, ra khỏi tám nạn xứ(1), không còn thọ thân sau. Những thiện nam, thiện nữ này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, nếu gặp Bồ Tát này thì phải nương tựa gần gũi để làm bạn tốt. (Q.571, ĐBN)

Khi ấy, Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo tùy theo sự thích nghi, vì họ mà thuyết pháp: “Các ông nên biết! Người thường bố thí sẽ được giàu vui. Thọ trì tịnh giới thì được tôn quí sanh lên trời. Lắng nghe chánh pháp thì được trí tuệ lớn, lại bảo:

Đây là bố thí, đây là quả của bố thí.

Đây là xan tham, đây là quả của xan tham.

Đây là tịnh giới, đây là quả của tịnh giới.

Đây là phạm giới, đây là quả của sự phạm giới.

Đây là an nhẫn, đây là quả của an nhẫn.

Đây là tức giận, đây là quả của sự tức giận.

Đây là tinh tấn, đây là quả của sự tinh tấn.

Đây là biếng nhác, đây là quả của sự biếng nhác.

Đây là tịnh lự, đây là quả của tịnh lự.

Đây là tán loạn, đây là quả của tán loạn.

Đây là diệu tuệ, đây là quả của diệu tuệ.

Đây là ngu si, đây là quả của ngu si.

(Từ trên xuống tới đây là nói về tu lục Ba la mật)

Đây là nghiệp lành của thân, đây là quả của nghiệp lành nơi thân.

Đây là nghiệp ác của thân, đây là quả của nghiệp ác nơi thân.

Đây là nghiệp lành của lời nói, đây là quả nghiệp lành của lời nói.

Đây là nghiệp ác của lời nói, đây là quả của nghiệp ác nơi lời nói.

Đây là nghiệp lành của ý, đây là quả của nghiệp lành nơi ý.

Đây là nghiệp ác của ý, đây là quả nghiệp ác của ý.

Đây là pháp nên làm, đây là pháp chẳng nên làm.

(Kế nói về thập ác và thập thiện đạo đối với thân ngữ ý)

Nếu tu như thế thì cảm nhận được niềm vui lâu dài. Còn không tu như vậy thì chịu khổ triền miên. Những thiện nam, thiện nữ này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, gần gũi bạn lành, được nghe thuyết pháp thứ tự như vậy”. 

Khi Bồ Tát này biết người có pháp khí thì vì họ tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu, nghĩa là không, vô tướng, vô nguyện, không tạo tác, không sanh, không diệt, không ngã, không hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy. Lại tuyên thuyết duyên khởi sâu xa, nghĩa là do pháp này có nên pháp kia sanh. Khi pháp này diệt thì pháp kia cũng diệt theo. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, sầu than, khổ, ưu, não. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì lão tử, sầu than, khổ, ưu, não diệt.

(Thuyết duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch)

Khi Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu lại nói thế này:

Trong lý chân thật không có một pháp nào có thể sanh có thể diệt. Vì sao? Vì các pháp thế gian đều do nhân duyên sanh, không có ngã, hữu tình, người tạo tác, người lãnh thọ. Nhân duyên hòa hợp thì nói các pháp sanh. Nhân duyên ly tán thì nói các pháp diệt. Không một pháp thật nào để lãnh thọ sự sanh diệt, hư vọng phân biệt trong ba cõi chỉ là giả danh, tùy theo nghiệp chướng phiền não mà thọ quả báo dị thục. Nếu dùng Bát nhã Ba la mật như thật quán sát thì tất cả pháp không sanh, không diệt, không tạo, không nhận. Nếu pháp không tạo cũng là pháp không hành, thì đối với các pháp, tâm không có chấp trước. Nghĩa là chẳng đắm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắm nhãn xứ cho đến ý xứ; chẳng đắm sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng đắm nhãn giới cho đến ý giới; chẳng đắm sắc giới cho đến pháp giới; chẳng đắm nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Khi ấy Bồ Tát lại nói thế này:

Tự tánh các pháp đều rốt ráo Không, vắng lặng xa lìa, không nắm giữ, không đắm trước. Các thiện nam, thiện nữ nghe nói lời như vậy, vẫn tu hành thì càng ngày càng tiến chứ không thối lui.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu muốn gặp chư Phật, ưa nghe chánh pháp, chẳng rơi vào dòng ti tiện; dù sanh ở nơi nào cũng được gặp Phật, được nghe chánh pháp và cúng dường chúng Tăng. Thường diện kiến chư Phật, dõng mãnh tinh tấn, chí cầu chánh pháp, chẳng đắm vợ con, tôi tớ hữu vi. Đối với của cải nhu cầu sinh sống cũng chẳng tham đắm, chẳng nhiễm các dục. Thường nương chánh giáo tu tập pháp Phật, bỏ tục xuất gia như giáo lý tu hành, lại dạy cho người khác. Tuy chỉ dạy cho người khác nhưng chẳng cầu đền đáp. Thấy người nghe pháp thường khởi đại từ. Đối với loài hữu tình thường khởi đại bi, học rộng nghe nhiều chẳng tiếc thân mạng. Thường ưa hạnh viễn ly, ít muốn, vui đủ. Chỉ cầu tìm nghĩa lý, chẳng câu nệ lời nói. Thuyết pháp tu hành không chỉ vì mình, mà vì loài hữu tình được nguồn vui Vô thượng, gọi là Bồ đề của Phật, là cảnh giới đại Niết bàn.    

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu hành như vậy sẽ xa lìa sự buông lung, dõng mãnh tinh tấn, hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc chẳng đắm tướng của sắc, như thật quán sát tội lỗi của sắc này. Tai tiếng, mũi hương, lưỡi vị, thân xúc, ý pháp cũng thế. Nếu buông thả các căn gọi là buông lung. Nếu thường hộ trì gọi là không buông lung. Đại Bồ Tát này hành Bát Nhã thâm sâu bằng phương tiện thiện xảo, điều phục tự tâm, giúp người giữ ý gọi là không buông lung, xa lìa tham dục, tâm thuận pháp lành, quán sát sân si chẳng phải gốc của căn lành, nghiệp ác thân ý là hai tà mạng. Tất cả nghiệp chẳng lành đều phải xa lìa gọi là không buông lung. Khi đại Bồ Tát này hành Bát Nhã thâm sâu, tâm thường chánh niệm gọi là không buông lung. Đại Bồ Tát này biết tất cả pháp, lấy đức tin làm đầu. Người nào chánh tín sẽ không đọa cảnh giới ác, tâm chẳng làm ác, được Thánh Hiền khen ngợi. (Q.571, ĐBN)

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu hành đúng pháp, dù sanh chỗ nào thường được gặp Phật, xa lìa nhị thừa, an trú chánh đạo, được đại tự tại, thành tựu việc lớn gọi là Chánh trí giải thoát của các Như Lai. Đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu muốn cầu an lạc, thường siêng tùy thuận đạo Nhất thiết trí.

Thiên vương nên biết! Nay đại chúng đây được nghe Bát Nhã thâm sâu như vậy, là nhờ đã từng ở vô lượng đại kiếp trong quá khứ cúng dường chư Phật, tu tập căn lành. Vì vậy, cần phải siêng năng tinh tấn hơn, đừng để lui mất. Nếu các trời người thường chế ngự các căn, chẳng đắm năm dục lạc, xa lìa thế gian, thường tu xuất thế, thanh tịnh ba nghiệp, tu tập pháp trợ đạo gọi là không phóng dật. Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, siêng tu tinh tấn, đạt được thắng pháp, gọi là không buông lung. Các đại Bồ Tát muốn đủ chánh tín, tâm không buông lung, tinh tấn chánh niệm, phải học Bát nhã Ba la mật. Nhờ niệm trí này mau chứng được quả vị Vô Thượng Bồ đề đã mong cầu. Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, siêng tu tinh tấn liền được chánh niệm. Dùng niệm trí này biết có, biết không.

 

(Thế nào gọi là có, thế nào gọi là không?)

 

Thế nào là có, là không?  Nếu tu chánh hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là có. Nếu tu tà hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là không.

Sáu căn: mắt, tai, mũi v.v... Sáu cảnh: sắc, thanh, hương vị v.v... Thế tục là có. Thắng nghĩa là không.

Bồ Tát tinh tấn chứng được Bồ đề, đây gọi là có. Bồ Tát biếng nhác chứng được Bồ đề, đây gọi là không.

Nói năm thủ uẩn đều từ hư dối phân biệt mà sanh, đây gọi là có. Nói pháp thế tục tự nhiên mà khởi chẳng phải do nhân duyên, đây gọi là không.

Nói sắc là pháp vô thường, khổ bại hoại, đây gọi là có. Nếu nói thường vui chẳng phải pháp bại hoại, đây gọi là không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Vô minh duyên hành, đây gọi là có. Nếu lìa vô minh mà hành phát sinh, đây gọi là không. Cho đến sanh duyên lão tử, sầu than khổ não cũng lại như vậy.

Bố thí được phước lớn, đây gọi là có, còn bần cùng thì gọi là không.

Thọ trì tịnh giới được sanh cõi lành, đây gọi là có, sanh vào cõi ác thì gọi là không.

Cho đến tu tuệ được thành Thánh, đây gọi là có, tu huệ mà trở thành kẻ ngu si thì gọi là không.

Nếu tu tập nghe nhiều sẽ được trí lớn, đây gọi là có, còn ngu si thì gọi là không.

Nếu tu chánh niệm, thường được xuất ly, đây gọi là có, không được gọi là không.

Nếu tu tà niệm chẳng được xuất ly, đây gọi là có, thường được xuất ly là không.

Nếu lìa ngã và ngã sở thường được giải thoát, đây gọi là có. Chấp ngã và ngã sở nếu được giải thoát, đây gọi là không.

Nếu nói hư không ở khắp tất cả mọi nơi, đây gọi là có. Nói trong năm uẩn có ngã chơn thật, đây gọi là không.

Như thật tu trí thường được giải thoát, đây gọi là có; nếu mắc vào tà trí mà được giải thoát, đây gọi là không.

Lìa các ngã kiến v.v... được Không trí, đây gọi là có. Đắm vào các ngã kiến v.v... thường chẳng được trí Không, đây gọi là không.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu biết có, không của thế gian, thường tu bình đẳng, hiểu rõ các pháp do nhân duyên sanh; vì theo thế tục nên nói có, chẳng khởi thường kiến; biết pháp nhân duyên bản tánh của chúng đều là Không, chẳng sanh đoạn kiến, đối với giáo pháp của chư Phật như thật thông suốt.

Thiên vương nên biết! Phật vì Bồ Tát lược nói bốn pháp là thế gian. Sa môn, Bà la môn v.v... và trời Trường Thọ đều đeo chấp thường. Vì phá chấp này, thuyết các là vô thường. Có những trời người nhiều tham đắm dục lạc, vì phá kiến chấp này nên nói tất cả là khổ. Với hạng tà kiến ngoại đạo chấp thân có ngã, vì phá kiến chấp này nên nói thân vô ngã. Kẻ tăng thượng mạn hủy báng Niết bàn chơn thật, vì vậy nói Niết bàn vắng lặng. Nói vô thường để họ chí tâm cầu pháp rốt ráo, nói khổ để họ mong cầu xa lìa sanh tử. Đối với người nói vô ngã thì hiển rõ Không môn để họ thông suốt, và nói tịch tĩnh để họ hiểu rõ vô tướng, xa lìa sự chấp tướng.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, tu học như vậy đối với các pháp lành quyết không thối lui, mau thành quả vị Vô Thượng Bồ đề.

 

(Bồ Tát phải tu những hạnh nào để hộ trì Chánh pháp?)

 

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu những hạnh nào để hộ trì chánh pháp?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thực hành không trái lời và tôn trọng sư trưởng, thuận theo chánh pháp, tâm hành điều hòa nhu nhuyến, chí tánh thuần chất, các căn vắng lặng, xa lìa tất cả pháp ác bất thiện, tu căn lành thù thắng gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu ba nghiệp thân, ngữ, ý, từ bi, chẳng màng danh lợi, giữ giới thanh tịnh, xa lìa các kiến chấp, gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tâm hành chẳng theo thương, giận, sợ, si, gọi hộ trì chánh pháp. Tu tập tàm quí (tự mình hổ thẹn và biết hổ thẹn với người) gọi là hộ trì chánh pháp. Thuyết pháp tu hành đều đúng như những điều đã nghe gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Chư Phật ba đời vì hộ trì chánh pháp mà thuyết Đà la ni ủng hộ Thiên vương và Nhân vương v.v..., để họ hộ trì chánh pháp được tồn tại lâu dài trên thế gian, cùng các hữu tình làm lợi ích lớn nên nói Đà la ni:

 

Đát điệt tha, a hổ lạc, quật lạc phạt để, hỏa thích noa tóa lũ đồ, giả già, giả già chiếc, ni a bôn, nhã sát đa, sát đa sát diên đa, sát dã tóa ha, thiểm mạt ni yết lạc, ổ lỗ ổ lỗ phạt để ca, la bạt để ca, a bệ xa để ni tóa thích ni, khư xà, khư xà mạt để, a phạt thủy ni, phạt thi phạt đa, phạt đa, nô sa lý ni, bộ đa nô tất một lật để, đề phạt đa nô tất một lật để, tóa ha”.

 

Thiên vương nên biết! Đại thần chú này có thể làm cho tất cả trời, rồng, Dạ xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, người chẳng phải người v.v... tất cả hữu tình đều được an vui. Chư Phật ba đời nói đại thần chú này vì hộ trì chánh pháp và ủng hộ Thiên Vương, Nhân Vương v.v... được an lạc nên dùng sức phương tiện mà tuyên thuyết. Do đó, Thiên Vương, Nhân Vương bản thân và quyến thuộc v.v… đều được an vui, chánh pháp được tồn tại lâu trên thế gian, hữu tình và quốc độ không có tai nạn, nên mỗi mỗi đều phải tinh tấn siêng năng chí thành tụng niệm. Như vậy, làm cho các oán địch, nạn tai, việc ma và chướng ngại pháp v.v... thảy đều tiêu diệt. Nhờ thần chú ấy mà chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian, các hữu tình được lợi ích lớn. Khi thuyết đại thần chú Bát nhã Ba la mật này, các cung điện trời, núi, biển, đại địa v.v... đều chấn động. Có tám mươi ngàn hữu tình phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Bồ Tát tu những pháp nào mà tâm chẳng dao động

đối với quả vị Vô Thượng Bồ đề?)

 

Khi ấy, Thiên vương Tối Thắng vui mừng hớn hở, dùng lưới bảy báu che lên đức Phật, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu những pháp nào mà tâm chẳng dao động đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát nhã Ba la mật, tinh tấn siêng năng tu tập, không ngại đại từ, không chán đại bi, thành tựu việc lớn, gia tăng tinh tấn, học đẳng trì Không, cũng thường tinh tấn siêng năng tu trí bình đẳng, với phương tiện thiện xảo hiểu rõ như thật đại trí thanh tịnh, thông suốt diệu lý bình đẳng của ba đời, không còn chướng ngại, đi theo con đường chư Phật ba đời đã đi.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Bát nhã Ba la mật, tu pháp như thế thì tâm chẳng dao động đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Tu những pháp nào khi nghe việc bất khả tư nghì của Như Lai

mà không kinh, không sợ…?)

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu những pháp nào mà nghe việc Bất tư nghì của các Như Lai, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng ưu, chẳng não?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu hành diệu tuệ, diệu trí đầy đủ, gần gũi bạn lành, ưa nghe pháp thâm sâu, hiểu rõ các pháp đều như huyễn v.v... ngộ đời là vô thường, có sanh thì phải có diệt, tâm không trụ dính mắc giống như hư không.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật tu pháp như vậy nên nghe việc Bất tư nghì của các Như Lai, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng ưu não.

 

(Bồ Tát tu những pháp nào mà thường được tự tại

dù ở bất cứ chỗ nào?)

 

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu những pháp nào mà thường được tự tại dù ở bất cứ chỗ nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu năm thần thông đầy đủ không ngại. Đối với các môn giải thoát, tịnh lự, vô lượng, phương tiện Bát nhã Ba la mật thường được tự tại dù ở bất cứ đâu.

 

(Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chứng được những pháp môn nào?)

 

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật chứng được những môn nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, chứng được môn Diệu trí thì có thể ngộ nhập các căn lanh lợi, chậm lụt của tất cả hữu tình; đạt được môn Diệu tuệ thì có thể phân biệt cú nghĩa của các pháp; đạt được môn Tổng trì thì hiểu rõ tất cả âm thanh và lời nói; đạt được môn Vô ngại thì có thể nói các pháp rốt ráo vô tận.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật sẽ chứng được các môn như vậy.

 

(Bồ Tát hành Bát Nhã chứng được những lực nào?)

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật chứng được những lực gì?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật sẽ được năng lực tịch tĩnh nên thành tựu đại bi; được năng lực tinh tấn nên thành tựu bất thối; được năng lực nghe nhiều nên thành tựu đại trí; được năng lực tin ưa nên thành tựu giải thoát; được năng lực tu hành nên thành tựu xuất ly; được năng lực an nhẫn nên thương giúp hữu tình; được năng lực Bồ đề tâm nên đoạn trừ ngã kiến; được năng lực đại bi nên giáo hóa hữu tình; được năng lực vô sanh nhẫn nên thành tựu mười lực.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật được các năng lực thù thắng như vậy.

Khi Thế Tôn thuyết pháp này, năm trăm Bồ Tát đắc vô sanh nhẫn. Tám ngàn Thiên tử đắc Bất thối chuyển, một vạn hai ngàn các chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh. Bốn vạn trời người đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Thích nghĩa:

(1). Tám nạn xứ: (Bát nan hay Bát nan xứ): Cũng gọi là Tám nan xứ, Phạn ngữ: avakan, là tám điều kiện bất lợi, tám trường hợp không may có thể xảy ra trên con đường tu học, gây sự khó khăn trở ngại cho việc tu tiến. Tám nan xứ bao gồm: 1. Địa ngục ( ; Phạn ngữ: naraka); 2. Súc sanh(畜生; Phạn ngữ: tiryađc); 3. Ngạ quỷ (餓鬼; Phạn ngữ: preta); 4. Trường thọ thiên (長壽天; Phạn ngữ: dỵrghyurdeva), là cõi trời thuộc Sắc giới với thọ mạng cao. Thọ mạng cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc người tu, làm cho dễ quên những nỗi khổ của sanh lão bệnh tử trong luân hồi; 5. Biên địa (邊地; Phạn ngữ: pratyantajanapda), là những vùng không nằm nơi trung tâm, không thuận tiện cho việc tu học Chánh pháp; 6. Căn khuyết (根缺; Phạn ngữ: indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, câm, điếc... 7. Tà kiến (雅見; Phạn ngữ: mithydarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện; 8. Như Lai bất xuất sanh (如來不出生; Phạn ngữ: tathgatnm anutpda), nghĩa là sanh sống trong thời gian không có Phật hoặc giáo pháp của Phật xuất hiện. Trong một số kinh luận giải thích khác biệt về hai nạn xứ thứ 5 và thứ 7: Biên địa được thay bằng châu Uất-đan-việt, vì cho rằng chúng sanh ở châu này hưởng nhiều sự sung sướng nên khó tu tập; tà kiến được thay bằng “thế trí biện thông”, vì cho rằng người học nhiều biết rộng sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp nhận Chánh pháp. Đã thích nghĩa rồi, nay lặp lại để nhớ.

 

Sơ giải:

 

1. Muốn đắc thì không đắc, không muốn mới đắc.

 

Một đoạn Kinh bất hữu nói trong quyển 462, phẩm “Xảo Tiện”, Hội thứ II và quyển 525, phẩm “Phương Tiện Khéo léo”, Hội thứ III, ĐBN diễn tả hết sâu sắc thế nào là hữu sở đắc, thế nào là vô sở đắc mà qua đó chúng ta có thể hiểu toàn bộ giáo pháp này.

Phật bảo Tu Bồ đề:

Nơi nào có hai tướng là hữu sở đắc; nơi nào không hai là vô sở đắc. Khi mắt đối với sắc hay ý đối với pháp là có hai tướng. Chúng sanh đối với Phật là hai tướng. Pháp nương tựa hai tướng là pháp hý luận, thuộc cõi hữu sở đắc.

Phi mắt phi sắc, phi tai phi thanh, phi ý phi pháp, cho đến phi giác phi Phật; lìa hết thảy hý luận như thế, đó là vô nhị, không hai. Đó là chỗ vô sở đắc.

Tu Bồ đề bạch Phật: Bạch thế Tôn! Phải chăng vì hữu sở đắc nên là vô sở đắc hay vì vô sở đắc nên vô sở đắc?

Phật nói: Không phải do hữu sở đắc nên là vô sở đắc. Nhưng vì hữu sở đắc vô sở đắc đều bình đẳng trong tự tánh nên gọi là vô sở đắc. Bồ Tát khi học như thế, gọi là học Bát nhã Ba la mật trong nghĩa vô sở đắc, lìa bỏ các sai lầm.

Tu Bồ đề lại bạch Phật: Bạch thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, không dính hữu sở đắc, không dính vô sở đắc, Bồ Tát đó làm thế nào tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị, dần dần đến chỗ tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí?

Phật bảo tu Bồ đề: Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã sâu xa, không phải trụ hữu sở đắc, không phải trụ vô sở đắc, thực hành Bát Nhã sâu xa có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị dần dần tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí. Vì sao? Bát nhã Ba la mật thậm thâm là vô sở đắc, Nhất thiết trí cũng vô sở đắc; người thực hành thực hành Bát nhã Ba la mật, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả đều vô sở đắc. Vô sở đắc này cũng là vô sở đắc nốt!

Chẳng phải có sở đắc nên vô sở đắc, chẳng phải vô sở đắc nên vô sở đắc. Nhưng có sở đắc hay không sở đắc tánh bình đẳng gọi vô sở đắc. Các đại Bồ Tát đối tánh bình đẳng có sở đắc, không sở đắc nên siêng tu học cả hai. Các đại Bồ Tát khi học như thế gọi học Bát nhã Ba la mật vô sở đắc.

Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã chẳng phải trụ có sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn Nhất thiết trí trí, chẳng phải trụ sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì có sở đắc là có chấp, có chấp là có vướng mắc quái ngại. Vì vậy, không được Vô Thượng Chánh Đẳng giác, không được Nhất thiết trí trí. Nên Phật bảo: “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật, vô sở đắc là tướng của Vô Thượng Bồ Đề, vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”.

Nhưng một khi quan niệm vô sở đắc là tôn chỉ tối cao của Bát Nhã, vô sở đắc cũng trở thành một chướng ngại khác của hành giả Bát Nhã. Vô sở đắc rốt ráo phải là vô sở đắc nốt. Tất cả phải là không, là rỗng không. Đó tôn chỉ Bát Nhã! Bát Nhã phải là Bát Nhã khi hành không, vô tướng, vô tác. “Bát nhã Ba la mật thậm thâm là Vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng là Vô sở đắc; người thực hành Bát Nhã, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả cũng đều Vô sở đắc; Vô sở đắc này cũng là Vô sở đắc nốt”. Phủi sạch hết tất cả thế là xong!

 

Cuộc đối thoại giữa Thiện Tư và Thắng Thiên vương của phẩm này là lối diễn đạt hết sức giản dị. Thắng Thiên vương bảo: Vì vô sở đắc mà được thọ ký. Nhưng thọ ký chẳng khác nào giấc mộng đêm qua. Đắc mà chẳng có gì để đắc: “Không đắc ấy là chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình, cho đến chẳng đắc sự thấy biết, chẳng đắc các uẩn xứ giới hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc sanh tử, hoặc Niết bàn, đối với hết thảy như vậy đều không đắc gì cả”.

Đó là ý chính của phẩm này: Không đắc thiện hay ác, không đắc tạp nhiễm hay thanh tịnh v.v... cho đến không đắc sanh tử hay Niết Bàn. Đó là pháp pháp Không, gọi là lưỡng nguyên pháp.

 

2. Thế nào gọi là Có? Thế nào gọi là Không?

 

Quyển 571, phẩm “Vô Sở Đắc”, tiếp tục thuyết:

Thế nào là có, là không? Nếu tu chánh hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là có. Nếu tu tà hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là không.

Sáu căn: mắt, tai, mũi v.v... Sáu cảnh: Sắc, thanh, hương vị v.v... Thế tục gọi có. Thắng nghĩa nói không.

Bồ Tát tinh tấn chứng được Bồ đề, đây gọi là có. Bồ Tát biếng nhác chứng được Bồ đề, đây gọi là không, v.v...”

Khi nào còn nằm trong vòng lưỡng nguyên, tâm thức sẽ không thoát khỏi chấp trước liền bị dính mắc, chướng ngại. Chỉ khi nào vượt qua và vượt khỏi thế lưỡng nguyên: Hữu và vô, đoạn và thường, khứ lai, sanh diệt... và tìm thấy bình đẳng giữa các pháp, thì mới hy vọng đạt ngộ và giải thoát. Vì vậy, Bồ Tát phải tu Bát nhã Ba la mật, theo con đường Tổ phụ ba đời đã đi, thực thi và hộ trì chánh pháp thì mới có hy vọng!

 

3. Bồ Tát phải tu những hạnh nào để hộ trì Chánh pháp?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thực hành không trái lời và tôn trọng sư trưởng, thuận theo chánh pháp, tâm hành điều hòa nhu nhuyến, chí tánh thuần chất, các căn vắng lặng, xa lìa tất cả pháp ác bất thiện, tu căn lành thù thắng gọi là hộ trì chánh pháp.

Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu ba nghiệp thân, ngữ, ý, từ bi, chẳng màng danh lợi, giữ giới thanh tịnh, xa lìa các kiến chấp, gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tâm hành chẳng theo thương, giận, sợ, si, gọi hộ trì chánh pháp. Tu tập tàm quí (tự biết hổ thẹn và biết hổ thẹn với người) gọi là hộ trì chánh pháp”.

Tu những hạnh như vậy là hộ trì Chánh pháp!

 

4. Bồ Tát tu những pháp nào mà tâm chẳng dao động

đối với quả vị Vô Thượng Bồ đề?

 

“... Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát nhã Ba la mật, tinh tấn siêng năng tu tập, không ngại đại từ, không chán đại bi, thành tựu việc lớn, gia tăng tinh tấn, học đẳng trì Không, cũng thường tinh tấn siêng năng tu trí bình đẳng, với phương tiện thiện xảo hiểu rõ như thật đại trí thanh tịnh, thông suốt diệu lý bình đẳng của ba đời, không còn chướng ngại, đi theo con đường chư Phật ba đời đã đi”.

Nếu Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu pháp như thế ( tu tinh tấn, tu đẳng trì không, tu trí bình đẳng, tu đại trí thanh tịnh) thì tâm chẳng dao động đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

5. Bồ Tát tu những pháp nào mà nghe việc bất khả tư nghì của

Như Lai mà không kinh, không sợ…?

 

“... Nếu đại Bồ Tát tu hành diệu tuệ, diệu trí đầy đủ, gần gũi bạn lành, ưa nghe pháp thâm sâu, hiểu rõ các pháp đều như huyễn v.v... ngộ đời là vô thường, có sanh thì phải có diệt, tâm không trụ dính mắc giống như hư không”.

Nếu Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật tu pháp như vậy nên nghe việc bất tư nghì của các Như Lai, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng ưu não.

 

6. Bồ Tát tu những pháp nào mà thường được tự tại dù ở bất cứ chỗ nào?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu năm thần thông đầy đủ không ngại. Đối với các môn giải thoát, tịnh lự, vô lượng, phương tiện Bát nhã Ba la mật thường được tự tại dù ở bất cứ đâu”.

 

7. Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chứng được pháp môn nào?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, chứng được môn Diệu trí thì có thể ngộ nhập các căn lanh lợi, chậm lụt của tất cả hữu tình; đạt được môn Diệu tuệ thì có thể phân biệt cú nghĩa của các pháp; đạt được môn Tổng trì thì hiểu rõ tất cả âm thanh và lời nói; đạt được môn Vô ngại thì có thể nói các pháp rốt ráo vô tận”.

Nếu Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật sẽ chứng được các môn như vậy.

 

8. Bồ Tát hành Bát Nhã chứng được những lực nào?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật sẽ được năng lực tịch tĩnh nên thành tựu đại bi; được năng lực tinh tấn nên thành tựu bất thối; được năng lực nghe nhiều nên thành tựu đại trí; được năng lực tin ưa nên thành tựu giải thoát; được năng lực tu hành nên thành tựu xuất ly; được năng lực an nhẫn nên thương giúp hữu tình; được năng lực Bồ đề tâm nên đoạn trừ ngã kiến; được năng lực đại bi nên giáo hóa hữu tình; được năng lực vô sanh nhẫn nên thành tựu mười lực.

Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã được các năng lực thù thắng như vậy”.

Đó là tất cả pháp, tất cả hạnh mà Bồ Tát phải học để tự độ và phải hành để có đủ khả năng độ tha mà Phật dạy Thắng Thiên Vương. Đây là các pháp tu hết sức thiết thực, phải học phải hành như thế nếu muốn tu Bồ Tát đạo hành Bồ Tát hạnh hay nói khác “tu lục độ vạn hạnh” để thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

 

Đây là các giáo lý hết sức thiết thực và gần gũi nhất trong việc tu trí tuệ và tịnh hạnh. Nếu theo chỉ dẫn này tu tập ắt được nhiều phúc lợi hiện đời hay hậu đời không những trong một kiếp mà trong nhiều đời nhiều kiếp khác nữa./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567