Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Phẩm "Thọ Dụ" Hay "Dụ Cây"

08/09/202009:54(Xem: 7688)
68. Phẩm "Thọ Dụ" Hay "Dụ Cây"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-462

 

PHẨM "THỌ DỤ" HAY "DỤ CÂY"

Phần sau quyển 463, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Nói Thật”, phần cuối Q.363

cho đến đầu Q.366, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là thẳm sâu. Các đại Bồ Tát thưng làm việc khó làm. Nghĩa là chẳng đắc các hữu tình, cũng chẳng đắc thi thiết hữu tình, mà vì hữu tình mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người muốn trồng cây trong hư không là nơi không sắc, không thấy, không đối, không chỗ nương dựa, việc ấy rất khó. Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, chẳng đắc hữu tình mà thi thiết hữu tình, vì hữu tình mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí là việc rất khó?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Bát nhã Ba la mật như thế rất là thẳm sâu. Các đại Bồ Tát năng làm việc khó làm là tuy biết chẳng đắc hữu tình mà vẫn mong cầu mau chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Phải biết các đại Bồ Tát tuy chẳng thật thấy hữu tình, cũng chẳng thấy thi thiết hữu tình, mà các hữu tình ngu si điên đảo chấp là thật có, chìm đắm sanh tử chịu khổ vô cùng. Vì cứu vớt họ nên mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí, dùng phương tiện thiện xảo mà cứu độ. Ví như có người trồng cây thuốc tuy chẳng biết có được thọ dụng gốc cọng, nhánh lá, hoa quả về sau hay không mà vẫn tùy thời tưới bón, gia công chăm bón. Cây này về sau lớn lên, gốc cọng nhánh lá hoa quả thịnh tốt, nhiều người thọ dụng lành bệnh được yên vui.

Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, tuy chẳng thấy có phước báo(1), mà vì hữu tình mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí, lần hồi tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng các Bồ đề phần pháp khác. Đã viên mãn rồi, bèn năng chứng được Nhất thiết trí trí, khiến các hữu tình thọ dụng phước báo nhánh lá, hoa quả đều được lợi ích.

Thiện Hiện phải biết: Lợi ích nhánh lá là các hữu tình nương Bồ Tát đây giải thoát các thú; lợi ích nơi hoa là các hữu tình nương Bồ Tát đây hoặc sanh đại tộc Sát đế lợi, hoặc sanh đại tộc Bà la môn, hoặc sanh đại tộc Trưởng giả, Cư sĩ, hoặc sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; lợi ích nơi quả là Bồ Tát đây tự chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khiến các hữu tình hoặc trụ quả Dự lưu, hoặc trụ quả Nhất lai, Bất  hoàn, A la hán, hoặc trụ Độc giác Bồ đề, hoặc trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các hữu tình này siêng tu thiện pháp, nương đạo Tam thừa lần hồi chứng được Tam thừa Niết bàn. Như vậy, gọi là phước báo nhiêu ích(2).

Thiện Hiện! Tuy làm việc lợi ích lớn như vậy nhưng các Đại Bồ Tát hoàn toàn không thấy thật có hữu tình nào đạt được Niết bàn, chỉ thấy vọng tưởng và các khổ lặng dứt.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu, chẳng đắc hữu tình và thi thiết hữu tình. Vì diệt trừ ngã chấp điên đảo kia, mong cầu mau chứng Nhất thiết trí trí. Do nhân duyên đây, là việc rất khó!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Phải biết các đại Bồ Tát như Phật. Vì sao? Vì nương tựa vào Bồ Tát bèn dứt được 3 cõi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng dứt được nghèo túng thấp hèn trong 3 cõi?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Các Bồ Tát nên biết như Phật. Thế gian nếu không có Bồ Tát sẽ không có Như Lai ba đời, cũng không có Độc giác và chúng Thanh văn. Cũng không dứt được địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và các nghèo túng thấp hèn cùng các khổ khác.

Vậy nên, Thiện Hiện! Ngươi nói chúng đại Bồ Tát y như Đức Phật, thật chính xác.

Lại nữa, Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ Tát tức là Như Lai. Vì sao? Thiện Hiện! Vì do “như đây” thi thiết Như Lai, tức do như đây thi thiết Độc giác, cũng do như đây thi thiết Thanh văn, cũng do như đây thi thiết sắc thọ tưởng hành thức. Cũng do như đây thi thiết  tất cả Hiền Thánh. Cũng do như đây thi thiết nhãn xứ cho đến ý xứ. Cũng do như đây thi thiết nhãn giới cho đến ý giới v.v... Cũng do như đây thi thiết nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng do như đây thi thiết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng do như đây thi thiết địa giới cho đến thức giới. Cũng do như đây thi thiết nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng do như đây thi thiết vô minh cho đến lão tử. Cũng do như đây thi thiết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng do như đây thi thiết nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không. Nói rộng ra, cũng do như đây thi thiết tất cả pháp Phật. Cũng do như đây thi thiết hữu vi giới cho đến vô vi giới. Cũng do như đây thi thiết tất cả pháp. Cũng do như đây thi thiết tất cả hữu tình. Cũng do như đây thi thiết tất cả đại Bồ Tát.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Như Lai như, hoặc Độc giác như, hoặc Thanh văn như, hoặc tất cả Hiền Thánh như, hoặc sắc như cùng tất cả pháp như, hoặc tất cả hữu tình như, hoặc tất cả Bồ Tát như, các như như thế đều không khác. Do vì không khác nên gọi là như(3). Các đại Bồ Tát tu học viên mãn như này liền có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Do đã chứng đắc Nhất thiết trí trí nên được gọi là Như Lai. Do đó, nên biết các đại Bồ Tát tức là Như Lai. Vì tất cả các pháp, tất cả hữu tình đều lấy như làm định lượng.

Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát nên học Bát Nhã thẳm sâu. Nếu học Bát Nhã thẳm sâu thời học được tất cả pháp như. Nếu tất cả pháp như, thời đối tất cả pháp tự tại, thời biết được tất cả căn thắng liệt của hữu tình. Nếu biết được tất cả căn thắng liệt của hữu tình, thời năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình. Nếu năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình, thời biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả. Nếu biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả, thời nguyện trí viên mãn. Nếu nguyện trí viên mãn, thời năng tịnh tu diệu trí ba đời. Nếu năng tịnh tu diệu trí ba đời, thời năng viên mãn Nhất thiết trí trí.

Nếu năng viên mãn Nhất thiết trí trí, thời năng hành Bồ Tát hạnh không trái. Nếu năng hành Bồ Tát hạnh không trái thời năng thường đem tài thí, pháp thí nhiêu ích hữu tình. Nếu năng thường đem tài thí, pháp thí nhiêu ích hữu tình, thời năng như thật thành thục hữu tình. Nếu năng như thật thành thục hữu tình, thời năng như thật nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu năng như thật nghiêm tịnh cõi Phật, thời năng chứng được Nhất thiết trí trí. Nếu năng chứng được Nhất thiết trí trí, thời năng như thật quay xe diệu pháp, thời năng an lập hữu tình nơi đạo Tam thừa. Nếu năng an lập hữu tình nơi đạo Tam thừa, thời năng khiến hữu tình vào cõi Vô dư y Niết bàn.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thấy tất cả công đức tự lợi lợi tha vô lượng như thế, muốn khiến tâm đại Bồ đề đã phát bền vững chẳng thối chuyển nên siêng tinh tấn tu hành Bát Nhã phương tiện thiện xảo.

 

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, như thuyết tu hành Bát Nhã thẳm sâu, thế gian trời người A tu la… đều nên kính lễ chăng?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Nếu đại Bồ Tát thường phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, như thuyết tu hành Bát Nhã thẳm sâu, thế gian trời người A tu la… đều nên kính lễ.

 

(So sánh phước đức)

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu vì làm lợi ích cho tất cả hữu tình, các đại Bồ Tát vừa phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề thì được bao nhiêu phước đức?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Giả sử có người làm cho tất cả hữu tình đầy khắp Tiểu thiên thế giới đều đạt địa vị Thanh văn, Độc giác, thì theo ý ngươi, phước đức của người này có nhiều không?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức mà người này đạt được nhiều vô lượng, vô biên.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Phước mà người này đạt được so với phước của một đại Bồ Tát đạt được nhờ mới phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề để làm lợi ích tất cả hữu tình mà ông vừa hỏi, thời không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ức muôn ức. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác đều nương vào đại Bồ Tát mà có. Không phải đại Bồ Tát nào nương vào các Thanh văn, Độc giác mà có.

Thiện Hiện! Thôi không nói Tiểu thiên thế giới, nếu có người làm cho tất cả hữu tình đầy cả Trung thiên hay Tam thiên đại thiên thế giới đều đạt quả Thanh văn hoặc Độc giác, hoặc đều được trụ Tịnh quán địa, hoặc đều trụ Chủng tánh địa, hoặc Đệ bát địa, hoặc Cụ kiến địa, hoặc Bạc địa, hoặc Ly dục địa, hoặc Dĩ biện địa, thì theo ý ngươi, phước đức của người này có nhiều không?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Phước đức người này đạt được nhiều vô lượng, vô biên.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Phước mà người này đạt được so với phước của một đại Bồ Tát thu được nhờ mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề để làm lợi ích tất cả hữu tình mà ông đã hỏi thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, một phần trăm ức muôn ức. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác hoặc bậc trụ Tịnh quán địa, hoặc bậc trụ Chủng tánh địa, hoặc bậc Đệ bát địa v.v… đều nương vào đại Bồ Tát mà có. Không phải đại Bồ Tát nương vào các bậc trên mà có.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử có người làm cho tất cả hữu tình đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới đều nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, lượng phước của người này đạt được so với phước mà một đại Bồ Tát hành Bồ đề hướng đạt được thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức muôn ức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả sử có người làm cho tất cả hữu tình đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới đều hành Bồ đề hướng, lượng phước mà người này đạt được so với phước của một vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có được thì không bằng một phần trăm, một phần ngàn, như vậy cho đến không bằng một phần trăm ngàn, trăm ức muôn ức.

 

(Bồ Tát sơ phát tâm Vô Thượng Bồ đề tư duy những gì?)

 

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát sơ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác tư duy những gì?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này hằng chính tư duy Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nhất thiết trí trí lấy gì làm tánh? Lấy gì làm sở duyên? Lấy gì làm tăng thượng? Lấy gì làm hành tướng? Lấy gì làm tướng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh, lấy vô tướng làm nhân, không chỗ cảnh giác, không sinh, không hiện. Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm sở duyên, lấy chánh niệm làm tăng thượng, lấy tịch tịnh làm hành tướng, lấy vô tướng làm tướng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Chỉ Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh, hay sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay 12 xứ cho đến 18 giới lấy vô tánh làm tánh? Hay nhãn xúc cho đến ý xúc cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay địa giới cho đến thức giới cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay vô minh cho đến lão tử cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay chơn như cho đến bất tư nghì giới cũng lấy vô tánh làm tánh? Hay nói rộng cho đến tất cả pháp Phật cũng lấy vô tánh làm tự tánh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Chẳng những Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng lấy vô tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Duyên nào mà nói Nhất thiết trí trí lấy vô tánh làm tánh? Sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí tự tánh không vậy. Nếu pháp tự tánh không, pháp này lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cũng tự tánh không. Nếu pháp tự tánh không, pháp này lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng tự tánh không. Nếu pháp tự tánh không, pháp này lấy vô tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Duyên nào Nhất thiết trí trí tự tánh không? Sắc thọ tưởng hành thức cũng tự tánh không? Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng tự tánh không?

 

(Pháp không có tự tánh hòa hợp, nên lấy vố tánh làm tự tánh)

 

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí tự tánh không hòa hợp. Nếu pháp nào tự tánh không hòa hợp, thời pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cũng tự tánh không hòa hợp. Nếu pháp tự tánh không hòa hợp, thời pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến tất cả pháp Phật cũng tự tánh không hòa hợp. Nếu pháp tự tánh không hòa hợp, thời pháp ấy lấy vô tánh làm tánh.(4)

Thiện Hiện! Do nhân duyên này các đại Bồ Tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy không làm tự tánh, lấy vô tướng làm tự tánh, lấy vô nguyện làm tự tánh. Thiện Hiện! Do nhân duyên này các đại Bồ Tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp đều lấy chơn như làm tự tánh, thật tế làm tự tánh, pháp giới làm tự tánh.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này các đại Bồ Tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh, các đại Bồ Tát sơ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, thành tựu những phương tiện thiện xảo nào năng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Thành tựu những phương tiện thiện xảo nào năng trụ nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không, thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật. Thành tựu những phương tiện thiện xảo nào năng trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật. Thành tựu những phương tiện thiện xảo nào năng trụ tất cả pháp Phật để thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo tối thắng. Tuy biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh, mà thường tinh siêng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Tuy thường tinh siêng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mà hằng thông đạt tất cả hữu tình và các cõi Phật đều lấy vô tánh làm tánh.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này tuy hành bố thí cho đến Bát Nhã học đạo Bồ đề, mà biết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật và đạo Bồ đề đều lấy vô tánh làm tánh. Như vậy, cho đến tuy hành Nhất thiết trí trí học đạo Bồ đề mà Nhất thiết trí trí và đạo Bồ đề đều lấy vô tánh làm tánh.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này như vậy tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật học đạo Bồ đề, nói rộng cho đến như vậy tu hành Nhất thiết trí trí học đạo Bồ đề, nếu chưa thành tựu Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, đều gọi học đạo Bồ đề chưa được viên mãn.

Nếu học đạo đây đã được viên mãn, chỉ trong một sát na tương ưng Bát Nhã, liền chứng Nhất thiết trí trí. Bấy giờ tất cả tập khí phiền não nhỏ nhiệm nối nhau đều hẳn chẳng sanh, gọi vô dư y đoạn đắc, thì thành Phật. Lại đem mắt Phật vô chướng thanh tịnh khắp xem mười phương ba đời hết thảy các pháp, hãy chẳng đắc không huống sẽ đắc có. Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên hành Bát nhã Ba la mật, tin hiểu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.

Thiện Hiện! Đấy gọi đại Bồ Tát thành tựu tối thắng phương tiện thiện xảo, nghĩa là hành Bát nhã Ba la mật quán tất cả các pháp hãy chẳng đắc không, huống sẽ đắc có.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này khi tu hành bố thí Ba la mật, đối bố thí đây kẻ thí kẻ thọ, vật thí, quả thí và tâm Bồ đề hãy chẳng thấy không, huống sẽ thấy có. Như vậy, cho đến khi chứng được Nhất thiết trí trí, đối Nhất thiết trí trí hoặc kẻ năng chứng, hoặc sở chứng, hoặc do đây chứng, hoặc thời hoặc xứ chứng, hãy chẳng thấy không, huống sẽ thấy có. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này thường khởi nghĩ đây: Các pháp đều lấy vô tánh làm tánh. Vô tánh như thế, chẳng Phật làm ra, chẳng Bồ Tát làm, chẳng Độc giác làm, chẳng Thanh văn làm, cũng chẳng ai làm. Vì tất cả pháp đều không tác giả, viễn ly tác giả.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Như vậy, há chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp là viễn ly sao?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Pháp tánh của tất cả pháp là viễn ly.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp viễn ly pháp tánh thì vì sao pháp viễn ly có thể biết pháp viễn ly là có hoặc không? Pháp có chẳng lẽ năng biết pháp không, pháp không chẳng lẽ năng biết pháp có. Pháp có chẳng lẽ năng biết pháp có, pháp không chẳng lẽ năng biết pháp không?

Bạch Thế Tôn! Như vậy tất cả pháp đều lấy vô tri làm tánh. Làm sao đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu đối trong các pháp chỉ rõ các thứ? Nghĩa là sắc thọ tưởng hành thức hoặc có hoặc không. Mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc có hoặc không. Nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc có hoặc không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc có hoặc không. Địa giới cho đến thức giới hoặc có hoặc không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên hoặc có hoặc không. Vô minh cho đến lão tử hoặc có hoặc không. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật hoặc có hoặc không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc có hoặc không. Chơn như cho đến bất tư nghì giới hoặc có hoặc không. Tứ đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo hoặc có hoặc không. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ hoặc có hoặc không. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc có hoặc không. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa(Tam thừa cộng thập vị) hoặc có hoặc không. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa (Bồ Tát Thập địa) hoặc có hoặc không. Tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn hoặc có hoặc không. Năm nhãn, sáu thần thông hoặc có hoặc không. Như lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc có hoặc không. Ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo hoặc có hoặc không. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả hoặc có hoặc không. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc có hoặc không. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề hoặc có hoặc không. Tất cả Bồ Tát hạnh hoặc có hoặc không. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc có hoặc không. Nhất thiết trí trí hoặc có hoặc không. Hữu vi giới, vô vi giới hoặc có hoặc không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, theo thế tục nên chỉ rõ các pháp hoặc có hoặc không, chẳng theo thắng nghĩa.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Thế tục, thắng nghĩa có khác nhau không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Chẳng phải ngoài thế tục riêng có thắng nghĩa. Vì sao? Thế tục như tức là thắng nghĩa. Các loại hữu tình điên đảo vọng chấp đối với “như” đây chẳng biết chẳng thấy. Các đại Bồ Tát vì nhiêu ích hữu tình, nên theo tướng thế tục hiển bày các pháp hoặc có hoặc không, chẳng theo thắng nghĩa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đối với các pháp như uẩn xứ giới... vô số hữu tình phát sanh ý tưởng thật có hoặc thật không, không biết rõ các pháp chẳng có, chẳng không. Để nhiêu ích hữu tình, các đại Bồ Tát hiển bày uẩn xứ giới… hoặc có, hoặc không, giúp cho các hữu tình nhờ đó thấu rõ các pháp như uẩn xứ giới... chẳng có chẳng không, chứ chẳng phải muốn làm cho họ chấp tướng thật có, thật không.

Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên siêng tinh tấn lìa chấp có không, mới có khả năng hành Bát Nhã thẳm sâu.

 

Thích nghĩa:

(1). Phước báo: Dịch giả dịch là quả báo, nhưng từ “quả báo”có tính cách tiêu cực, có thể bị hiểu lầm là quả xấu, nên chúng tôi dùng từ phước báo, như phước báo tưởng thưởng là kết quả do tu thiện mà được hưởng cảnh giàu sang, phú quý người trời v.v…

(2). Nhiêu ích (饒益): Hàm ý ban pháp đem lại lợi ích cho người.

(3). Người thấy các pháp như (chơn như của các pháp) như thế, không khứ không lai, nên được gọi là Như Lai. Nên Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 71, “Đạo Thụ”, quyển 85, nói:

“Vì Bồ Tát được pháp “như” nên gọi là Như Lai, Sắc … dẫn đến hữu vi tánh, vô vi tánh đều là “như”, chẳng có sai khác. Bồ Tát học “pháp như” mà được Nhất thiết chủng trí nên nói là như Phật, chẳng có sai khác. Phật là như, Bồ Tát cũng là như, hết thảy pháp đều là như; chẳng có pháp nào mà chẳng vào trong “như” vậy”.

(4). Để giải thích điều này chúng ta có thể nói “tất cả pháp đều do hòa hợp mà có, không có pháp nào không do hòa hợp cả. Nếu pháp không có hòa hợp thì pháp ấy lấy vô tánh làm tự tánh”. Kinh MHBNBLMĐ diễn đạt dễ hiểu hơn. “Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Các pháp do nhân duyên hòa hợp sanh, nên ở nơi pháp chẳng có tự tánh; mà pháp chẳng có tự tánh tức là “vô pháp”. Bởi vậy nên Bồ Tát biết hết thảy các pháp đều là vô tánh. Vì sao? Vì hết thảy pháp đều là tánh không vậy”.

Kinh ĐBN nói nếu pháp không có tự tánh thì phải lấy “vô tánh làm tự tánh, trong khi Kinh MHBNBLMĐ “pháp chẳng có tự tánh tức là “vô pháp”).

 

Sơ giải:

 

Có nhiều phẩm nói về tiến trình đi đến giác ngộ, nhưng phẩm “Thọ Dụ” hay “Dụ Cây” này nêu 2 tiến trình tiến đến Giác ngộ và phục vụ chúng sanh đáng chú ý sau đây::

 

1. Nói về các pháp như (hay chơn như của tất cả pháp). Các pháp như vậy là như vậy, bất hư vọng, chẳng lúc nào chẳng như và người thấy như vậy được gọi là Như Lai. Đây có thể xem như một định nghĩa nhỏ về pháp như. Nhưng cái diệu dụng của pháp như không thể nghĩ bàn. Không có bài pháp nào nói về cái diệu dụng này như phẩm “Thọ Dụ” ở đây.

 Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- “Bạch Thế Tôn! Phải biết các đại Bồ Tát như Phật. Vì sao? Vì nương tựa vào Bồ Tát bèn dứt được 3 cõi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng dứt được nghèo túng thấp hèn trong 3 cõi?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Các Bồ Tát nên biết như Phật. Thế gian nếu không có Bồ Tát sẽ không có Như Lai ba đời, cũng không có Độc giác và chúng Thanh văn. Cũng không dứt được địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và các nghèo túng thấp hèn cùng các khổ khác.

Vậy nên, Thiện Hiện! Ngươi nói chúng đại Bồ Tát y như Đức Phật, thật chính xác.

Lại nữa, Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ Tát tức là Như Lai. Vì sao? Thiện Hiện! Vì do “như đây” thi thiết Như Lai, tức do như đây thi thiết Độc giác, cũng do như đây thi thiết Thanh văn, cũng do như đây thi thiết sắc thọ tưởng hành thức. Cũng do như đây thi thiết  tất cả Hiền Thánh. Cũng do như đây thi thiết nhãn xứ cho đến ý xứ. Cũng do như đây thi thiết nhãn giới cho đến ý giới v.v... Cũng do như đây thi thiết nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng do như đây thi thiết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng do như đây thi thiết địa giới cho đến thức giới. Cũng do như đây thi thiết nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng do như đây thi thiết vô minh cho đến lão tử. Cũng do như đây thi thiết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng do như đây thi thiết nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không. Nói rộng ra, cũng do như đây thi thiết tất cả pháp Phật. Cũng do như đây thi thiết hữu vi giới cho đến vô vi giới. Cũng do như đây thi thiết tất cả pháp. Cũng do như đây thi thiết tất cả hữu tình. Cũng do như đây thi thiết tất cả đại Bồ Tát.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Như Lai như, hoặc Độc giác như, hoặc Thanh văn như, hoặc tất cả Hiền Thánh như, hoặc sắc như cùng tất cả pháp như, hoặc tất cả hữu tình như, hoặc tất cả Bồ Tát như, các như như thế đều không khác. Do vì không khác nên gọi là như. Các đại Bồ Tát tu học viên mãn như này liền có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Do đã chứng đắc Nhất thiết trí trí nên được gọi là Như Lai. Do đó, nên biết các đại Bồ Tát tức là Như Lai. Vì tất cả các pháp, tất cả hữu tình đều lấy như làm định lượng”.

 

Câu nói quan trọng là “vì tất cả pháp không khác nên gọi là như. Khi các đại Bồ Tát tu học viên mãn và nhập được “pháp như” này thì chứng được Nhất thiết trí trí nên gọi là Như Lai. Vì vậy, tất cả pháp tất cả hữu tình đều lấy như làm biểu tượng cho sự chứng đắc Nhất thiết trí trí hay quả vị Vô Thượng Bồ đề. Kinh cũng nhiều lần bảo pháp như là Vô Thượng Bồ đề. Vậy, mới thấy tầm đặc biệt của pháp này trong việc tu Phật và chứng ngộ.

 

Phật bảo tiếp:

“Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát nên học Bát Nhã thẳm sâu. Nếu học Bát Nhã thẳm sâu thời học được tất cả pháp như. Nếu tất cả pháp như, thời đối tất cả pháp tự tại, thời biết được tất cả căn thắng liệt của hữu tình. Nếu biết được tất cả căn thắng liệt của hữu tình, thời năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình. Nếu năng biết đủ tất cả thắng giải sai khác của hữu tình, thời biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả. Nếu biết tất cả hữu tình tự nghiệp thọ quả, thời nguyện trí viên mãn. Nếu nguyện trí viên mãn, thời năng tịnh tu diệu trí ba đời. Nếu năng tịnh tu diệu trí ba đời, thời năng viên mãn Nhất thiết trí trí.

Nếu năng viên mãn Nhất thiết trí trí, thời năng hành Bồ Tát hạnh không trái. Nếu năng hành Bồ Tát hạnh không trái thời năng thường đem tài thí, pháp thí nhiêu ích hữu tình. Nếu năng thường đem tài thí, pháp thí nhiêu ích hữu tình, thời năng như thật thành thục hữu tình. Nếu năng như thật thành thục hữu tình, thời năng như thật nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu năng như thật nghiêm tịnh cõi Phật, thời năng chứng được Nhất thiết trí trí. Nếu năng chứng được Nhất thiết trí trí, thời năng như thật quay xe diệu pháp, thời năng an lập hữu tình nơi đạo Tam thừa. Nếu năng an lập hữu tình nơi đạo Tam thừa, thời năng khiến hữu tình vào cõi Vô dư y Niết bàn”.

Đây là qui trình diễn dịch theo qui thức luận thường tục, một diễn trình tu hành Bát nhã Ba la mật để thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ rất thiết thực hay nhất do Phật chứng và truyền đạt lại cho người. Vậy, học Bát nhã Ba la mật để vào được “pháp như”, theo qui trình diễn dịch trên, rồi an lập hữu tình nơi đạo Tam thừa thì có thể đưa hữu tình vào Vô dư y Niết Bàn.

 

2. Các pháp đều không có tự tánh, nên lấy vô tánh làm tự tánh. Vì tất pháp đều do duyên hợp, không có tự thể, không tự sanh nên nói là không có tự tánh. Bởi lý do đó nên Phật thuyết rằng: Bất cứ pháp nào không có tự tánh thì lấy vô tánh làm tự tánh. Không có tự tánh, không có chủ thể riêng nên cũng nói là không.

 

Phẩm “Lần Hồi”, quyển 465, Hội thứ II, Đại Bát Nhã, ngài Huyền Trang dịch. Phật Bảo:

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, đạt tất cả pháp, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Do nhân duyên đây, phải biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả pháp vô tánh làm tánh, hiện đẳng giác rồi, gọi danh là Phật, đối tất cả pháp và các cảnh giới được tự tại chuyển?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Như vậy, như vậy. Tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, khi xưa Ta tu đạo Bồ Tát, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật không trái ngược. Nhờ đấy lìa pháp dục ác bất thiện, lìa sanh vui mừng, vào sơ tĩnh lự trụ đầy đủ. Như vậy cho đến dứt vui dứt khổ, hết mừng lo, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, vào tĩnh lự thứ tư trụ đầy đủ. Ta lúc bấy giờ, đối các tĩnh lự và nhánh tĩnh lự tuy khéo lấy tướng mà không sở chấp; đối các tĩnh lự và nhánh tĩnh lự chẳng sanh say đắm; đối các tĩnh lự và nhánh tĩnh lự đều vô sở đắc. Ta lúc bấy giờ đối bốn tĩnh lự hành tướng thanh tịnh, không sở phân biệt. Ta lúc bấy giờ đối các tĩnh lự và nhánh tĩnh lự tuy khéo thuần thục, mà chẳng thọ sở đắc quả báo, chỉ nương tĩnh lự khiến tâm dẫn phát thần cảnh, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, thiên nhãn trí thông. Đối với thần thông đây tuy khéo lấy tướng mà không sở chấp, cũng chẳng say đắm; đối các thông cảnh đều vô sở đắc, cũng chẳng phân biệt, như hư không mà trụ.

Ta lúc bấy giờ, quán tất cả pháp bình đẳng, lấy vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nghĩa là như thật biết: Đây khổ thánh đế, đây tập thánh đế, đây diệt thánh đế, đây đạo thánh đế đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vô tướng như thế cũng vô sở hữu. Do đây trọn nên Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng được vô lượng vô số công đức vi diệu bất khả tư nghì, mới đem Phật diệu trí an lập hữu tình ba nhóm sai khác là nhóm chánh tánh định, nhóm tà tánh định và nhóm bất định. An lập ba nhóm riêng biệt như thế rồi, tùy nhóm sở ưng phương tiện hóa đạo khiến được lợi ích an vui thù thắng.

Tiến trình thứ hai để chứng Vô Thượng Bồ đề là Phật lấy vô tánh làm tự tánh để chứng Vô Thượng Bồ đề.

Cả hai pháp tu của phẩm “Thọ Dụ” hay “Dụ Cây” này: một là “pháp như”, hai là lấy “vô tánh làm tự tánh” đều đưa đến chứng ngộ Thánh quả và đạt Nhất thiết trí trí. Đó là hoa, là quả của phẩm “Thọ Dụ” này. Như vậy, mới biết vào điện để lễ Phật có rất nhiều ngõ.

 

Nói tóm lại, pháp như cũng là không, các pháp không có tự tánh lấy vô tánh làm tự tánh cũng không, tất cả đều không hết. Vì vậy, Phật khuyên chúng sanh: “Hành Bát nhã Ba la mật quán tất cả các pháp hãy chẳng đắc không, huống sẽ đắc có”. Đó là ý nghĩa của phần cuối phẩm “Thọ Dụ”.

Giáo pháp này xiển dương xuyên suốt khắp 16 pháp hội. Nhưng riêng phẩm này với lối diễn đạt đặc biệt chúng ta hiểu được tầm quan trọng của hai pháp môn này để tiến tu mà không sợ lỗi lầm./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567