- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM "XẢO TIỆN"
Phần cuối Q.517 cho đến phần đầu Q.520, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với nhiều phẩm: 1. "Tập Cận", 2. "Tăng Thượng Mạn" và
3. "Đồng Học" của Hội thứ II nhập lại)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Vì phẩm “Xảo Tiện” của Hội thứ III gồm ba phẩm: 1. Phẩm “Tập Cận”, phần đầu quyển 452 Hội thứ II; 2. Phẩm “Tăng Thượng Mạn” phần sau quyển 452 đến đầu quyển 454, Hội thứ II và 3. Phẩm “Đồng Học”, phần sau Q.454 đến phần đầu Q.455 của Hội thứ II, ĐBN nhập lại. Vì quá dài (hơn 40 trang), nên trong phần tóm lược chúng tôi chia chính văn của phẩm này làm 3 đoạn để dễ đọc và dễ tra cứu:
Tóm lược:
1. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Tập Cận”,
phần đầu Q.452, Hội thứ II, ĐBN)
(Quán không Bất chứng)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, làm sao tập không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa? Làm sao tu để nhập vào không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa? Làm sao tập bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi? Làm sao tu bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi? Làm sao tập các Bồ đề phần pháp khác? Làm sao tu các Bồ đề phần pháp khác?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩn không. Nên quán nhãn xứ cho đến ý xứ không. Nên quán sắc xứ cho đến pháp xứ không. Nên quán nhãn giới cho đến ý giới không. Nên quán sắc giới cho đến pháp giới không. Nên quán nhãn thức giới cho đến ý thức giới không. Nên quán nhãn xúc cho đến ý xúc không. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không. Nên quán địa giới cho đến thức giới không. Nên quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không. Nên quán vô minh cho đến lão tử không. Nên quán bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không. Nên quán nội không cho đến vô tánh tự tánh không không. Nên quán chơn như cho đến bất tư nghì giới không. Nói rộng ra, nên quán tất cả pháp Phật không. Nên quán pháp hữu lậu, vô lậu không. Nên quán pháp thế gian, xuất thế gian không. Nên quán pháp hữu vi, vô vi không. Nên quán quá khứ, vị lai, hiện tại không. Nên quán pháp thiện, bất thiện, vô ký không. Nên quán cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc không.
Thiện Hiện phải biết: Đại Bồ Tát này khi tu quán đây chẳng cho tâm loạn. Nếu tâm chẳng loạn thời chẳng thấy pháp. Nếu chẳng thấy pháp thời chẳng tác chứng. Vì sao? Đại Bồ Tát này khéo học các pháp tự tướng đều không. Không pháp khá tăng không pháp khá giảm, nên đối các pháp chẳng thấy chẳng chứng. Vì sao? Vì đối trong thắng nghĩa đế tất cả pháp năng chứng, sở chứng, xứ chứng, thời chứng và do đây chứng, hoặc tổng hoặc biệt đều bất khả đắc, vì chẳng thể thấy vậy. (Q. 517, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Như Thế Tôn nói, các đại Bồ Tát nên quán pháp không mà chẳng tác chứng, đại Bồ Tát làm sao nên quán pháp không mà chẳng tác chứng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi quán pháp không, trước khởi nghĩ này: Ta nên quán pháp các tướng đều không, chẳng nên tác chứng. Ta vì học nên quán các pháp không, chẳng vì chứng nên quán các pháp không, nay là thời học chẳng phải thời chứng. Đại Bồ Tát này khi chưa vào định phải buộc tâm vào cảnh, lúc đã vào định thì không buộc tâm vào cảnh nữa. Bồ Tát này mặc dầu quán như vậy, nhưng chẳng lùi tất cả Bồ đề phần pháp, chẳng chứng lậu tận. Vì sao? Đại Bồ Tát này trọn nên trí huệ rộng lớn như thế khéo trụ pháp không, và tất cả Bồ đề phần pháp, hằng khởi nghĩ này: Đây là thời học chẳng thời chứng. Đại Bồ Tát này hành Bát Nhã thậm thâm thường khởi nghĩ này: Ta đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đây là thời học chẳng phải thời chứng. Ta đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không đây là thời học chẳng phải thời chứng. Ta đối chơn như cho đến bất tư nghì giới thời đây là thời học chẳng phải thời chứng. Ta đối tất cả pháp Phật: Đây là thời học chẳng phải thời chứng. Ta nay vì học Nhất thiết trí trí nên học quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, đều khiến khéo léo chẳng nên tác chứng. (Q.517, ĐBN)
Thiện Hiện phải biết: Đại Bồ Tát này hành Bát Nhã thậm thâm tập không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa; nên trụ không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa; nên tu không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng. Nên tập bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; nên trụ bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; nên tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng. Nên tập các Bồ đề phần pháp khác; nên trụ các Bồ đề phần pháp khác; nên tu các Bồ đề phần pháp khác, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng.
Thiện Hiện phải biết: Đại Bồ Tát này tuy tập không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; cũng trụ, cũng tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng Độc giác Bồ đề. Tuy tập bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng trụ, cũng tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng Độc giác Bồ đề. Tuy tập các Bồ đề phần pháp khác, cũng trụ, cũng tu các Bồ đề phần pháp khác, mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng Độc giác Bồ đề.
Bởi nhân duyên đây đại Bồ Tát này chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết: Ví như tráng sĩ hình vóc uy nghiêm kẻ thấy vui mừng, đầy đủ thắng thế viên mãn, dòng họ trong sạch. Đối các binh pháp học đến rốt ráo, giỏi cầm khí giới gậy gộc, vững vàng chẳng lay, tất cả kỹ thuật không thứ nào chẳng tuyệt giỏi, được đông người ngưỡng mộ, thảy đều kính phục. Vì sự nghiệp giỏi, nên thi công thì ít mà thu lợi nhiều. Do đây các người cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen không lúc tạm bỏ. Vì có nhân duyên nên phải đem cha mẹ vợ con dòng họ đi tới phương khác, giữa đường trải qua đồng nội hiểm nạn, trong ấy có nhiều ác thú giặc cướp oan gia ẩn núp những việc đáng sợ khá nhiều, bà con lớn nhỏ không ai chẳng kinh hoàng! Người ấy cậy tài giỏi, oai dũng mạnh mẽ, thân ý thư thới, an ủi cha mẹ và các bà con rằng: Chớ có lo sợ, tất không khổ đâu! Người này đem hết tài năng đưa các bà con đến nơi yên ổn, đã khỏi nguy nan vui mừng sung sướng hưởng lạc. Nhưng tráng sĩ kia khi ở giữa đồng nội không có ý gia hại ác thú oán tặc. Vì sao? Vì tự ỷ oai mãnh và tài nghệ nên không sợ gì cả.
Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì thương xót khổ sanh tử các loại hữu tình phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Duyên khắp hữu tình, khởi tâm trụ bốn vô lượng, cùng hành bốn vô lượng, siêng tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật khiến mau viên mãn. Đại Bồ Tát này đối sáu thứ Ba la mật đây ngôi chưa viên mãn, vì muốn tu học Nhất thiết trí trí chẳng chứng lậu tận. Mặc dù trụ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn nhưng chẳng theo thế lực kia mà chuyển, cũng chẳng bị chướng kia cướp dẫn, đối môn giải thoát cũng chẳng tác chứng. Do chẳng chứng nên chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác, tiến tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết: Như chim kim xí bay trong hư không, tự tại quanh lượn lâu chẳng rơi rớt, tuy nương hư không bay lượn mà chẳng chống hư không, cũng chẳng bị hư không làm câu ngại.
Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy đối không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hằng tập trụ tu, mà với trong ấy năng chẳng tác chứng. Do chẳng chứng nên chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác. Tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng Phật pháp. Nếu chưa viên mãn, trọn chẳng nương không, vô tướng, vô nguyện mà chứng lậu tận.
Thiện Hiện phải biết: Ví như tráng phu thông thạo nghề bắn, muốn hiển tài mình, ngửa mặt lên hư không bắn. Muốn làm cho tên giữa không chẳng rơi đất, lại lấy tên sau bắn đuôi tên trước. Bắn mãi như thế qua thời gian lâu tên tên nối nhau chẳng cho rơi xuống. Nếu muốn cho rơi, bèn thôi bắn tên sau, bấy giờ các tên mới rơi gấp xuống.
Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, hành Bát Nhã sâu thẳm được phương tiện khéo léo nhiếp thọ cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu căn lành chưa được thành thục, quyết chẳng giữa đường chứng thật tế. Còn như đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhờ tất cả căn lành được thành thục, thì bấy giờ Bồ Tát mới chứng thật tế và đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Vậy nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm đều nên quán sát kỹ như thế. Như trước đã nói về thật tướng của các pháp, tu Bồ Tát hạnh mà hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.517, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Các đại Bồ Tát rất là hiếm có, năng làm việc khó làm. Tuy thường tu học thật tướng các pháp, tuy thường tu học chơn như, pháp giới, pháp tánh cho đến bất tư nghì giới; tuy thường tu học nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tuy thường tu học khổ tập diệt đạo Thánh đế, tuy thường tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, tuy thường tu học ba môn giải thoát và tất cả các Bồ đề phần pháp khác mà giữa đường chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác, chẳng lui mất Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối với các hữu tình thề chẳng nới bỏ, nghĩa là khởi nguyện này: Nếu các hữu tình chưa được giải thoát sanh lão bệnh tử, ta quyết chẳng bỏ gia hạnh căn lành.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát dùng nguyện lực thù thắng mà nghĩ như vầy: Nếu các hữu tình nào chưa giải thoát, trọn đời ta không lìa bỏ họ. Do phát khởi tâm rộng lớn như vậy nên chắc chắn không bị thối lui, rơi rụng giữa đường. (Q.517, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát luôn nghĩ như vầy: Ta không nên lìa bỏ tất cả hữu tình, quyết làm cho họ được giải thoát. Nhưng các hữu tình hành theo pháp bất chánh, nên vì độ họ mà phải luôn sống trong tịch lặng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Mặc dù luôn sống như vậy nhưng không thủ chứng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, tuy luôn hiện khởi ba môn giải thoát cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng trong thời gian đó không chứng thật tế.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thường ưa thích quán sát chỗ sâu xa ấy, nghĩa là thích quán sát pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, đại Không, Không Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, bản tính Không, tự tướng Không, nhất thiết pháp Không, vô tính Không, vô tính tự tính Không. Cũng ưa thích quán sát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo, và pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện v.v... tự tướng đều là Không.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này làm quán đây rồi, khởi nghĩ như vầy: Các loại hữu tình bởi sức bạn ác khởi tưởng chấp ngã, nói rộng cho đến tưởng chấp kiến giả. Do tưởng chấp đây hành hữu sở đắc, trôi lăn sanh tử, chịu các thứ khổ. Vì dứt tưởng chấp như thế của chúng hữu tình, nên hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình nói pháp thẳm sâu mầu nhiệm, khiến dứt tưởng chấp, lìa khổ sanh tử.
Bấy giờ, tuy các đại Bồ Tát học ba môn giải thoát nhưng không nương vào đây mà chứng thật tế. Vì không chứng thật tế nên không rơi vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Nhờ suy nghĩ như vậy, đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm, thành tựu căn lành, không chứng đắc thật tế.
Mặc dù chưa chứng thật tế nhưng không thối lui làm mất bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng không thối lui làm mất bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Cũng không thối lui làm mất pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng không thối lui làm mất tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng không thối lui làm mất pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng không thối lui làm mất chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, cũng không thối lui làm mất tất cả pháp hay vô lượng vô biên các pháp Phật khác.
Thiện Hiện nên biết! Bấy giờ, đại Bồ Tát ấy thành tựu tất cả Bồ đề pháp phần, cho đến chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các công đức ấy không bao giờ suy giảm. Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm, dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Trong từng sát na, bạch pháp tăng trưởng, các căn nhanh nhẹn, tất cả Thanh văn và Độc giác không thể sánh kịp.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát luôn suy nghĩ: Các loài hữu ngày đêm tâm thường hành ba điên đảo, là: Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về thường. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về lạc. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về ngã. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về tịnh. Vì các hữu tình ấy mà ta hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ Tát hạnh. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nói pháp không điên đảo cho các hữu tình, nghĩa là nói sanh tử không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, chỉ có Niết bàn vi diệu, tịch tĩnh mới đầy đủ các công đức chơn thật của thường, lạc, ngã, tịnh.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy thành tựu niệm này, hành Bát Nhã thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các pháp Phật khác, quyết chẳng chứng vào thắng định chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Khi ấy, đại Bồ Tát ấy học ba môn giải thoát ra vào tự tại nhưng chưa chứng thật tế, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu hành công đức chưa viên mãn hoàn toàn, không chứng thật tế và các công đức khác. Chỉ khi nào đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mới chứng đắc.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này bấy giờ tuy đối các công đức khác tu chưa viên mãn mà đối môn vô nguyện Tam ma địa tu đã viên mãn. (Q.517, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát luôn nghĩ như vầy: Các loài hữu tình luôn luôn có sở đắc. Nghĩa là chấp có ngã cho đến kiến giả. Chấp có sắc uẩn cho đến thức uẩn. Chấp có mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chấp có nhãn xúc cho đến ý xúc. Chấp có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chấp có địa giới cho đến thức giới. Chấp có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chấp có vô minh cho đến lão tử. Chấp có mười thiện nghiệp đạo. Chấp có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chấp có bốn nhiếp pháp. Chấp có các pháp thiện thù thắng khác. Vì các hữu tình, ta nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tu Bồ Tát hạnh. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chỉ dạy các hữu tình đoạn hẳn những kiến chấp của sở đắc ấy. (Q.518, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy thành tựu tâm niệm này rồi, hành Bát Nhã thậm thâm, gìn giữ phương tiện thiện xảo. Nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, thì không bao giờ chứng nhập vào thắng định của chư Phật.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này bấy giờ tuy học ba môn giải thoát vào ra tự tại mà đối thật tế chưa tác chứng ngay, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nếu hành công đức chưa khéo viên mãn, thì chẳng chứng thật tế và các công đức khác. Cho đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mới tác chứng.
Thiện Hiện nên biết! Bấy giờ, đại Bồ Tát mặc dù tu tập chưa viên mãn các công đức khác nhưng đối với ba môn giải thoát đã tu tập được viên mãn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát luôn suy nghĩ: Các loài hữu tình luôn luôn hành các tướng, nghĩa là chấp tướng nam, chấp tướng nữ, chấp tướng sắc, chấp tướng thanh, chấp tướng hương, chấp tướng vị, chấp tướng xúc, chấp tướng pháp, chấp các tướng ngã, tướng pháp khác. Vì các hữu tình này mà ta phải hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ Tát hạnh. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ giáo hóa các hữu tình đoạn trừ hẳn các chấp tướng như vậy.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này trọn nên nghĩ đây, hành Bát Nhã thậm thâm dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng vô biên pháp Phật khác, quyết chẳng chứng vào thắng định chư Phật.
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này bấy giờ tuy học ba môn giải thoát vào ra tự tại mà đối thật tế chưa tác chứng ngay, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nếu hành công đức chưa khéo viên mãn, thì chẳng chứng thật tế và các công đức khác. Cho đến khi được Vô thượng Chánh đẳng giác mới tác chứng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát lúc ấy mặc dù tu chưa viên mãn các công đức khác, nhưng đối với ba môn giải thoát đã tu tập được viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đã khéo tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Đã khéo an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Đã khéo an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Đã khéo an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Đã khéo tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Đã khéo tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Đã khéo tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đã khéo tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Đã khéo tu học các bậc Bồ Tát. Đã khéo tu học Đà la ni, Tam ma địa môn. Đã khéo tu học năm nhãn, sáu thần thông. Đã khéo tu học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đã khéo tu học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Đã khéo tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, và vô lượng vô biên pháp Phật khác. (Q. 518, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy thành tựu trí kiến thù thắng như thế. Nếu đối với sanh tử mà tưởng vui hoặc nói có vui, hoặc chấp an trụ trong ba cõi thì không có việc đó.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát đã tu hành hoàn hảo Bồ đề phần pháp thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử nên hỏi thử: “Nếu đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì làm thế nào để tu hành Bồ đề phần pháp mà không chứng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế? Do không chứng nên chẳng đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, nhưng lại siêng năng tu tập và không chấp vào Bát Nhã thậm thâm?”
Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này khi được hỏi đây, nếu khởi đáp này: "Các đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên chính suy nghĩ không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác vô vi, vô tánh thật tế và tất cả Bồ đề phần pháp khác, cũng nên phương tiện như trước đã nói khéo léo tu học mà chẳng tác chứng". Đại Bồ Tát này đã được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trao cho ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Đại Bồ Tát này đã được khai chỉ ký biệt rõ ràng trụ đại Bồ Tát Bất thối chuyển tu học pháp tướng.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chưa được khai chỉ ký biệt rõ ràng trụ đại Bồ Tát bậc Bất thối chuyển tu học pháp tướng. Phải biết đại Bồ Tát này chưa khéo tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác, chưa vào bậc Bạc địa, giống như Bồ Tát trụ bậc Bất thối chuyển, khai chỉ ký biệt rõ ràng, an trụ tướng Bất thối chuyển.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đã được khai chỉ ký biệt rõ ràng trụ Bồ Tát bậc Bất thối chuyển tu học pháp tướng. Phải biết đại Bồ Tát này đã khéo tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác, đã vào bậc Bạc địa, giống như các Bồ Tát trụ bậc Bất thối chuyển, khai chỉ ký biệt rõ ràng, an trụ tướng Bất thối chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Có đại Bồ Tát nào chưa đắc Bất thối chuyển mà có thể như thật trả lời như thế chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát mặc dù chưa được Bất thối chuyển, nhưng ở đây có thể như thật trả lời. Thiện Hiện! Phải biết đại Bồ Tát này mặc dù chưa được Bất thối chuyển, mà có khả năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác đã được thành thục, giác tuệ bén nhạy, hoặc được nghe hoặc không được nghe nhưng có thể đáp đúng như thật y như bậc đại Bồ Tát ở địa vị Bất thối chuyển.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Có nhiều đại Bồ Tát tu hành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng họ chưa khéo tu tập mà đã an trụ nên ít có thể đáp như thật y như bậc đại Bồ Tát ở địa vị Bất thối chuyển?
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sao? Hiếm có đại Bồ Tát chưa được nhận ký Bất thối chuyển mà có trí tuệ thù thắng như thế. Những người đã được thọ ký thì chắc chắn đều có thể như thật trả lời như vậy.
Thiện Hiện! Nếu ai có thể như thật trả lời, thì nên biết đó là đại Bồ Tát đã gieo trồng căn lành lanh lợi, sáng suốt tuyệt đỉnh, trí tuệ đã tu rất là sâu rộng. Thế gian, trời, người, A tu la v.v... không thể nào dẫn dắt tước đoạt được. Ngược lại, chúng bị phá hoại và chắc chắn đại Bồ Tát ấy đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.518, ĐBN)
2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm "Tăng Thượng Mạn",
phần sau Q .452 đến đầu Q.454, Hội thứ II, ĐBN).
(Tướng Bồ Tát Bất thối chuyển)
Phật bảo Thiện Hiện:
- Lại nữa, này Thiện Hiện! Cho đến trong mộng, đại Bồ Tát ấy cũng chẳng ưa thích khen ngợi pháp của địa vị Thanh văn, Độc giác. Pháp trong ba cõi cũng chẳng ưa thích khen ngợi, mà thường quán các pháp ấy giống như mộng, như tiếng vang, nói rộng cho đến như thành Tầm hương. Tuy quán sát như vậy, nhưng không chứng thật tế, nên biết Bồ Tát ấy có tướng Bất thối chuyển. (Q.518, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu trong mộng, đại Bồ Tát ấy thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có vô lượng trăm ngàn triệu ức chúng cung kính vây quanh thuyết pháp. Sau khi nghe pháp rồi, tất cả đều hiểu rõ ý nghĩa. Được hiểu ý nghĩa nên tinh tấn tu hành pháp tùy pháp hành, nhập vào Tam ma địa mà phát sanh tùy pháp hành. Nên biết Bồ Tát ấy có tướng Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát trong mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được trang nghiêm đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, luôn có ánh sáng một tầm, chiếu rực rỡ mọi nơi, cùng vô lượng chúng vọt lên hư không, hiện đại thần thông thuyết pháp giải thoát, hóa ra nhiều thân đi đến vô lượng cõi Phật phương khác để làm Phật sự. Nên biết Bồ Tát ấy có tướng Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát trong mộng thấy giặc cuồng loạn phá hoại xóm làng, hoặc thấy lửa nổi lên thiêu đốt làng mạc; hoặc thấy sư tử, hổ lang, thú dữ, rắn độc v.v… muốn đến hại; hoặc thấy oan gia muốn đến chặt đầu; hoặc thấy cha mẹ, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc sắp qua đời; hoặc thấy bản thân mình bị lạnh nóng, đói khát và các khổ khác hành hạ v.v…. Thấy những việc đáng sợ như vậy nhưng chẳng kinh hãi, cũng chẳng lo buồn. Sau khi thức dậy, liền suy nghĩ: Ba cõi không thật, đều như mộng. Khi ta đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải nói cho hữu tình biết rằng pháp trong ba cõi đều hư vọng, giống như cảnh trong mộng. Nên biết Bồ Tát ấy có tướng Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát ấy cho đến trong mộng thấy có các hữu tình ở địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, liền suy nghĩ: Ta phải siêng năng tinh tấn tu Bồ Tát hạnh, mau hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật của ta, không có cõi ác và tên địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi thức dậy cũng nghĩ như vậy.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy khi thành Phật, ở cõi Phật nào nhất định không có cảnh ác. Vì sao? Vì các pháp ở trong mộng hoặc khi thức đều không hai, không hai phần. Nên biết Bồ Tát ấy có tướng Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát trong mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v…; hoặc thấy thiêu đốt thành ấp xóm làng, liền phát thệ nguyện: “Nếu tôi được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện lửa lớn này tức thời dập tắt, biến thành mát mẻ”.
Sau khi Bồ Tát phát nguyện, thì trong mộng thấy lửa dập tắt ngay lập tức. Nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu sau khi Bồ Tát này nguyện mà trong mộng thấy lửa chưa dập tắt thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi thức dậy, thấy lửa lớn nổi lên đốt cháy các thành ấp, hoặc thiêu cháy xóm làng, liền nghĩ như vầy: Trong mộng, hoặc khi thức, ta từng thấy mình có các tướng trạng của bậc Bất thối chuyển, nhưng chưa rõ hư thật ra sao. Nếu những điều ta thấy là thật có thì nguyện lửa lớn này tức thời dập tắt, biến thành mát mẻ.
Bồ Tát này đã phát nguyện, chí thành thiết tha như vậy thì bấy giờ lửa dữ liền bị dập tắt. Nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu Bồ Tát này phát lời nguyện chí thành tha thiết như vậy mà lửa dữ vẫn còn thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi thức thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, hoặc thiêu đốt xóm làng, liền nghĩ: Ở trong mộng hoặc khi thức, ta từng thấy mình có các hành động tướng trạng của bậc Bất thối chuyển. Nếu những điều ta thấy chắc chắn là thật có, thì nhất định sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện lửa dữ này tức thời được dập tắt, biến thành mát mẻ. Đại Bồ Tát ấy phát nguyện chí thành tha thiết như vậy, mà khi ấy lửa dữ không tắt, lại cháy từ nhà này lan qua nhà khác; lại cháy từ xóm này lan qua xóm khác. Cứ lần lượt như vậy, lửa kia mới tắt. Đại Bồ Tát ấy tự mình biết rõ chắc chắn đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nhưng nhà, người bị cháy là do hữu tình ấy tạo tác nhiều về nghiệp phá hoại chánh pháp. Do nghiệp ấy nên đầu tiên họ bị đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp chịu quả khổ thích đáng, nay sanh vào cõi người bị các tai ương khác. Hoặc do nghiệp này sẽ đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp bị quả báo khổ thích đáng, nay ở cõi người bị chút ít tai ương. (Q.518, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Căn cứ theo những nhân duyên đã nói ở trên, biết đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Lại có vị thành tựu tướng trạng khác thì biết đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Vì ông, ta sẽ phân biệt giải nói, ông nên lắng nghe suy nghĩ thật kỹ.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Xin Thế Tôn nói cho.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát thấy có người nam hay người nữ bị loài phi nhơn làm mê loạn chịu các khổ não, không thể tránh xa được, liền nghĩ: Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Biết biết ta đã được ý vui thanh tịnh, thọ ký cho ta quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Nếu ta phát sanh tác ý thanh tịnh lâu dài, cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lìa bỏ tác ý của Thanh văn, Độc giác, không lấy tác ý của Thanh văn, Độc giác mà cầu chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì đương lai chắc chắn sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đến tận cùng đời vị lai làm lợi ích an lạc cho các loài hữu tình. Nếu ở mười phương thế giới thật có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói pháp vi diệu làm lợi ích an lạc cho các hữu tình thì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đó không có điều gì không thấy, không việc gì không biết, không vấn đề nào mà không hiểu rõ và không pháp nào mà không chứng, hiện biết thấy những ý vui khác nhau của tất cả hữu tình. Cúi xin chiếu giám lòng thành tha thiết của ta. Nếu ta thật sự có thể tu Bồ Tát hạnh, nhất định đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cứu giúp hữu tình ra khỏi khổ sanh tử, thì nguyện cho người nam hoặc người nữ kia không bị loài phi nhơn quấy nhiễu. Loài phi nhơn nghe lời của ta sẽ bỏ đi.
Khi đại Bồ Tát ấy nói lời như vậy mà loài phi nhơn kia không chịu đi, thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Còn như khi đại Bồ Tát ấy nói vậy mà loài phi nhơn kia chịu đi thì nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát chưa tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Chưa an trụ hoàn hảo về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chưa an trụ hoàn hảo về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chưa an trụ hoàn hảo về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Chưa tu học hoàn hảo về bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chưa tu học hoàn hảo về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chưa tu học hoàn hảo về tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Chưa tu học hoàn hảo về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Chưa tu học hoàn hảo về pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Chưa nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Chưa tu hành đầy đủ tất cả Phật pháp, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bồ Tát. Chưa thoát khỏi ác ma làm não loạn. Chưa hiểu biết rõ về những việc ma. Tự mình không lường căn lành của mình dày hay mỏng. Nên các Bồ Tát này dể bị ác ma lừa gạt.
(Bồ Tát tăng thượng mạn)
Đại Bồ Tát ấy thấy có người nam, người nữ đang bị loài phi nhơn làm mê loạn, chịu nhiều khổ não, không thể tránh xa được, vội vàng nói quyết chắc rằng tôi đã được chư Phật quá khứ thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, nên khiến cho người nam, người nữ kia không bị loài phi nhơn quấy nhiễu. Theo lời tôi nói phi nhơn kia sẽ mau bỏ đi. Sau khi đại Bồ Tát ấy nói lời như vậy thì bấy giờ ác ma muốn lừa gạt, đến đàn áp để xua đuổi phi nhơn bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma vượt trội hơn phi nhơn kia, nên phi nhơn bị ác ma xua đuổi liền bỏ đi. Nếu sau khi nói như vậy, đại Bồ Tát vui mừng khôn xiết, suy nghĩ như vầy: Nay phi nhơn bỏ đi là do oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn nghe theo lời nguyện của ta, liền thả người nam, người nữ kia ra, chứ không phải vì duyên cớ nào khác. (Q. 518, ĐBN)
Đại Bồ Tát ấy không hay biết việc làm của ác ma, nói là do oai lực của chính mình và vui mừng một cách sai lầm, và ỷ vào đó mà khinh khi các đại Bồ Tát khác: “Ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, những lời nguyện của ta phát ra đều không uổng phí. Các ngươi chưa được chư Phật thọ ký, không nên bắt chước ta nói lời chắc chắn như vậy”. Giả sử có cố mong cầu nhưng hoàn toàn rỗng không, không có kết quả. Vì đại Bồ Tát ấy khinh khi chê bai các Bồ Tát khác, ỷ có chút tài năng sai lầm làm sanh trưởng nhiều tăng thượng mạn mà xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không thể nào chứng đắc Nhất thiết trí trí được.
Đại Bồ Tát ấy không có sức phương tiện thiện xảo nên sanh trưởng nhiều tăng thượng mạn, và chê bai, khinh khi các Bồ Tát. Vì vậy, mặc dầu siêng năng tinh tấn nhưng lại rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác. Đại Bồ Tát ấy do phước mỏng, nên làm việc gì hoặc nói lời chắc chắn nào cũng đều là hành động của ma. Đại Bồ Tát ấy không thể gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc chơn thiện tri thức, không thể thỉnh hỏi hành tướng của các Bồ Tát Bất thối chuyển, không thể học hỏi các sự nghiệp của quân ác ma làm. Do đó, bị ma trói buộc càng chặt chẽ hơn. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy từ lâu không tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, cho đến xa lìa phương tiện thiện xảo, nên bị ác ma lừa gạt. Do đó, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên biết rõ ràng về các việc làm của ác ma. (Q.518, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sao đại Bồ Tát không tu hành lâu về bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, cho đến xa lìa phương tiện thiện xảo mà bị ác ma lừa gạt và khuyên các đại Bồ Tát nên biết rõ ràng? Nghĩa là vì bị ác ma lừa gạt mà dùng phương tiện hóa đủ thứ hình tượng, đến chỗ Bồ Tát nói lời như vầy: “Ôi thiện nam tử! Ông biết không, chư Phật quá khứ đã từng thọ ký đại Bồ đề cho ông. Với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ông quyết định sẽ đắc Bất thối chuyển. Tên họ sai khác bảy đời của chính ông, cha mẹ, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc của ông, tôi đều biết rõ. Ông sống vào xóm làng nào, thành ấp nào, nước nào, phương nào, ông sanh trong ngôi sao nào, vua nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào v.v…”
Như vậy, nếu ác ma thấy bẩm tánh của Bồ Tát nhu nhược, các căn chậm chạp thì liền lừa gạt mà thọ ký: “Đời trước ông đã từng thọ căn tánh như vậy rồi”.
Nếu thấy Bẩm tánh Bồ Tát cang cường, các căn lanh lợi thì ác ma lừa gạt, thọ ký: “Đời trước ông đã từng thọ căn tánh như vậy”.
Nếu thấy Bồ Tát ở nơi thanh vắng, thường đi khất thực, hoặc nhận một bữa ăn, hoặc ăn một lần, hoặc ăn một bát, hoặc ở nơi gò mả, hoặc ở nơi đất trống, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc mặc y phấn tảo, hoặc chỉ có ba y, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc dùng phu cụ cũ, hoặc thiểu dục, hoặc hỷ túc, hoặc thích viễn ly, hoặc thích định tịch tịnh, hoặc đủ chánh niệm, hoặc đủ diệu tuệ, hoặc không trọng lợi dưỡng, hoặc không quí tiếng khen, hoặc thích tiết kiệm, chân không thoa dầu, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc lìa bỏ trạo cử, hoặc thích ít nói, hoặc thích lời hòa nhã v.v… Thấy các hạnh của Bồ Tát này rồi, ác ma liền dối gạt mà thọ ký: “Đời trước ông đã từng như vậy. Vì sao? Vì nay ông thành tựu công đức thù thắng như vậy mà thế gian thấy. Như vậy, nhất định đời trước ông cũng có công đức thù thắng như vậy, nên vui mừng chứ không được khinh mình”. (Q.518, ĐBN)
Đại Bồ Tát ấy nghe ác ma này nói công đức tương lai, quá khứ của mình, và nói tên họ sai khác cùng thân thuộc hiện tại của mình, khi nghe khen ngợi những căn lành thù thắng nên vui mừng khôn xiết mà sanh tăng thượng mạn, khinh miệt, chê bai, hủy nhục các đại Bồ Tát khác.
Bấy giờ, ác ma biết Bồ Tát kia do ám độn, sanh tăng thượng mạn mà khinh miệt người khác, lại nói: “Ông nhất định thành tựu công đức thù thắng, quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thọ ký cho ông với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhất định ông sẽ chứng đắc Bất thối chuyển, nên hiện tại có tướng đẹp đẽ như vậy”. Khi ấy, ác ma vì muốn quấy loạn Bồ Tát mà dối gạt, hiện giả làm người xuất gia, hoặc dối gạt hiện làm cử sĩ tại gia hoặc dối gạt hiện làm những hình tướng của cha mẹ, anh em, chị em, thân hữu, Phạm chí, Sư phụ, trời, rồng, Dược xoa, người chẳng phải người v.v... đến chỗ Bồ Tát ấy nói như vầy: “Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã thọ ký đại Bồ đề cho ông, đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ông nhất định sẽ đắc Bất thối chuyển. Vì sao? Vì ông đều có đầy đủ tướng trạng công đức của đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Hãy tôn trọng mình, chứ đừng nghi ngờ gì cả”. Nghe nói vậy, Bồ Tát này tâm tăng thượng mạn càng kiên cố. (Q.518, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Như ta đã nói về các hành động tướng trạng của đại Bồ Tát Bất thối chuyển thật sự chứng đắc, thì đại Bồ Tát ấy thật chẳng có.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy bị ma khống chế, bị ma lừa gạt nên không được tự do. Vì sao? Vì đối với các tướng trạng của hạnh Bồ Tát Bất thối chuyển thì đại Bồ Tát này thật chưa có. Chỉ nghe danh tự và công đức v.v… của mình do ác ma dối gạt nói thì sanh tăng thượng mạn, khinh khi chê bai các Bồ Tát khác. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên giác tri rõ biết về các việc làm của ác ma.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát bị ma khống chế, bị ma làm mê loạn, chỉ nghe danh tự sanh chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát trước kia chưa tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Do nhân duyên này làm cho ma có cơ hội. Đại Bồ Tát ấy không thể hiểu rõ hành tướng của uẩn ma, hành tướng của tử ma, hành tướng của thiên ma, hành tướng của phiền não ma. Do đó, mà làm cho ma tìm được cơ hội. Đại Bồ Tát ấy không thể hiểu rõ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn và vô lượng pháp môn khác. Cũng không hiểu rõ danh tự của các pháp và hữu tình, thật tướng cho là vô tướng. Do đó làm cho ma tìm được cơ hội, dùng phương tiện biến hóa, làm đủ thứ hình tượng nói với đại Bồ Tát như vầy: “Sự tu hành và hạnh nguyện của ông đã viên mãn, sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi thành Phật, ông sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức thù thắng như vậy”. Nghĩa là ác ma kia biết Bồ Tát này ngày đêm cầu nguyện: “Khi ta thành Phật sẽ được danh hiệu công đức như vậy v.v…”, rồi theo sự cầu nguyện ấy mà ác ma thọ ký nói. (Q.518, ĐBN)
Khi ấy, Bồ Tát này lìa bỏ Bát nhã Ba la mật, vì không có phương tiện thiện xảo nên nghe ma nói liền suy nghĩ: Người này thật kỳ lạ thay, đã thọ ký nói ta sẽ được danh hiệu công đức và thành Phật, ứng với điều mong cầu ngày đêm của ta. Do đây nên biết quá khứ chư Phật chắc chắn đã thọ ký đại Bồ đề cho ta. Với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhất định ta sẽ đắc Bất thối chuyển. Khi thành Phật, ta nhất định sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức như vậy.
Đại Bồ Tát ấy bị ma, quyến thuộc của ma, hoặc ác ma khống chế. Các Sa môn v.v... được ác ma thọ ký, nói danh hiệu thành Phật vào đương lai thì lòng kiêu mạn lại tăng lên: “Vào đời vị lai ta nhất định sẽ thành Phật, đạt được danh hiệu công đức như vậy. Các Bồ Tát khác không bằng ta”.
Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói về sự chứng đắc các hành động tướng trạng của đại Bồ Tát Bất thối chuyển thì đại Bồ Tát ấy đều chưa thành tựu, chỉ nghe ma nói hư danh thành Phật mà sanh tâm kiêu mạn, khinh khi chê bai chúng đại Bồ Tát khác. Do có tâm kiêu mạn, khinh khi chê bai chúng đại Bồ Tát khác, nên đại Bồ Tát ấy lìa bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đại Bồ Tát ấy xa lìa Bát Nhã, vì không có phương tiện thiện xảo, vì bỏ bạn lành, nên luôn bị ma khống chế, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy khi được thân này, quay lại chánh niệm, chí thành sám hối, bỏ tâm kiêu mạn, luôn luôn gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc thiện hữu chơn tịnh. Người ấy mặc dù bị luân hồi sanh tử nhưng sau đó nương vào Bát Nhã thậm thâm để tu học thì lần lần sẽ được chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy nếu được thân này mà không đắc chánh niệm, không sám hối, không bỏ tâm kiêu mạn, không thích gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc thiện hữu chơn tịnh thì vị ấy nhất định bị luân hồi trong sanh tử. Sau đó mặc dù có tinh tấn tu các nghiệp nhưng cũng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác.
Ví như Bí sô cầu Thanh văn, nếu phạm một trong bốn trọng tội thì chẳng phải là Sa môn, chẳng phải con dòng họ Thích Ca. Hiện tại vị ấy nhất định không thể đắc quả Dự lưu v.v... Bồ Tát vọng chấp hư danh cũng thế, chỉ nghe ma nói hư danh thành Phật, liền sanh tâm ngã mạn, khinh khi, chê bai các đại Bồ Tát khác, nên biết tội của người này gấp vô lượng lần so với Bí sô phạm bốn trọng tội kia.
Giả sử Bí sô kia bị phạm bốn trọng tội thì tội lỗi của Bồ Tát này hơn cả năm tội vô gián gấp vô lượng. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thật không thành tựu công đức thù thắng, chỉ nghe ác ma nói hư danh thành Phật, rồi tự kiêu mạn, khinh khi Bồ Tát khác, cho nên tội này hơn năm tội vô gián. Do đó, nên biết, đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên biết rõ hoàn toàn những việc vi tế của ma đã dùng danh hiệu v.v… hư dối mà thọ ký như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu hạnh viễn ly, nghĩa là ở ẩn nơi rừng núi, hang trống, đồng trống, ở nơi thanh vắng, ngồi tư duy. Khi ấy, có ác ma đến cung kính khen ngợi công đức về hạnh viễn ly mà nói như vầy: “Lành thay Đại sĩ! Ngài có thể tu hạnh chơn viễn ly như vậy. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều ca ngợi, được trời Đế Thích, chư thiên, thần, tiên cùng nhau bảo vệ, cúng dường tôn trọng. Ngài cứ ở đây, đừng đi nơi khác”. (Q.518, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Ta chẳng khen ngợi các Bồ Tát ở nơi thanh vắng, đồng trống, núi rừng, ngồi tư duy, tu hạnh viễn ly.
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát phải tu những hạnh viễn ly khác hay sao mà Phật không khen ngợi công đức về hạnh viễn ly của vị ở nơi thanh vắng, đồng trống, núi rừng, không dùng ngọa cụ tốt, ngồi tư duy?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nếu ở nơi thanh vắng, núi rừng, đồng trống, hoặc ở nơi thành ấp xóm làng, vương đô huyên náo v.v… thì chỉ có thể xa lìa phiền não nghiệp ác và các tác ý về Thanh văn, Độc giác. Còn ai hành Bát Nhã thâm sâu và tu các công đức thù thắng khác thì đó mới gọi là hạnh chơn viễn ly của Bồ Tát. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khen ngợi, được chư Phật Thế Tôn chỉ dạy, chúng Bồ Tát thường nên tu học. Bất cứ ngày đêm, nên chánh tư duy, tinh tấn tu học pháp viễn ly này. Đó gọi là Bồ Tát tu hạnh viễn ly. Hạnh viễn ly này không xen lẫn tác ý về Thanh văn, Độc giác, không xen tạp tất cả phiền não nghiệp ác, lìa các ồn ào, hoàn toàn được thanh tịnh, khiến các Bồ Tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình không gián đoạn.
Thiện Hiện nên biết! Những người được ác ma khen ngợi ẩn cư nơi núi rừng, đồng trống, thanh vắng, không dùng ngọa cụ tốt, ngồi tư duy. Đó chẳng phải là các Bồ Tát hành hạnh viễn ly chơn chánh. Vì sao? Vì hạnh viễn ly đó còn có huyên náo. Nghĩa là họ còn xen phiền não nghiệp ác, hoặc xen lẫn tác ý Thanh văn, Độc giác. Đối với Bát Nhã thậm thâm không tinh cần tin thọ tu học, không thể viên mãn Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết! Có đại Bồ Tát chỉ thích tu hành pháp hạnh viễn ly mà ma khen ngợi nên có tâm kiêu mạn chẳng thanh tịnh, khinh khi, chê bai các chúng đại Bồ Tát khác. Nghĩa là có chúng đại Bồ Tát mặc dù ở thành ấp, xóm làng, vương đô, nhưng tâm thanh tịnh không xen tạp phiền não nghiệp ác và tác ý Thanh văn, Độc giác, tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Tuy ở nơi ồn náo mà tâm vẫn tịch tĩnh, luôn tinh cần tu tập hạnh chơn viễn ly. Đối với chúng đại Bồ Tát chơn tịnh như vậy, mà vị kia sanh tâm kiêu mạn khinh khi chê bai, mắng chửi. Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy đã xa lìa Bát Nhã, vì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy ở đồng trống một trăm do tuần, nhưng nơi ấy tuyệt đối không có cầm thú hung dữ, rắn độc, giặc cướp, chỉ có quỷ thần, la sát v.v... dạo chơi, cư ngụ trong đó. Người ở nơi thanh vắng kia mặc dù trải qua một năm, năm năm, mười năm, hoặc cho đến trăm ngàn ức năm, hoặc hơn số đó nữa, tu hạnh viễn ly nhưng không biết rõ về hạnh chơn viễn ly. Nghĩa là các chúng đại Bồ Tát tuy ở chỗ ồn ào mà tâm tịch tĩnh, tránh xa các phiền não nghiệp ác và các tác ý Thanh văn, Độc giác, phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát tuy ở mãi nơi đồng trống lại xen tạp tác ý địa vị Thanh văn, Độc giác, rất ưa thích mà chấp trước vào hai địa ấy, nương theo pháp hai địa ấy mà tu hạnh viễn ly, lại sanh tâm đắm chìm vào hạnh này. Người này mặc dù tu hạnh viễn ly nhưng không thuận theo tâm của chư Phật.
Thiện Hiện nên biết! Ta khen ngợi các đại Bồ Tát chơn hạnh viễn ly nhưng các Bồ Tát đó không thành tựu. Trong hạnh chơn viễn ly, Ta không thấy vị ấy có hành tướng tương tợ như vậy. Vì sao? Vì đối với hạnh chơn viễn ly đó, vị ấy không ưa thích, chỉ thích siêng năng tu hạnh viễn ly của Thanh văn, Độc giác.
Thiện Hiện nên biết! Khi đại Bồ Tát ấy tu hạnh không thanh tịnh thì ma đến trên hư không, vui mừng khen ngợi, nói với Đại sĩ: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể siêng năng tu hạnh chơn viễn ly. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khen ngợi. Ông siêng năng tinh tấn tu học hạnh này thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy chấp vào pháp hạnh viễn ly của Nhị thừa, tu tập cho là tối thắng nên khinh khi, chê bai những vị trụ Bồ Tát thừa tuy ở nơi ồn náo nhưng tâm tịch tĩnh, thành tựu thiện pháp. Lại nói với Bí sô: “Vị ấy không thể tu hạnh viễn ly, thân ở nơi ồn náo, tâm không tịch tĩnh, không thành tựu pháp lành”.
Thiện Hiện nên biết! Đối với đại Bồ Tát được Phật khen ngợi, trụ vào hạnh chơn viễn ly thì đại Bồ Tát kia khinh khi, chê bai. Trái lại, đối với các Bồ Tát không được Phật khen ngợi, thì đại Bồ Tát kia lại ngợi khen tán tụng! (Q.518, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! đại Bồ Tát ấy đáng lẽ phải gần gũi cúng dường, cung kính như Thế Tôn, nhưng lại không gần gũi cúng dường, cung kính, mà ngược lại còn sanh tâm khinh miệt.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy đã xa lìa Bát Nhã, vì không có phương tiện thiện xảo, nên vọng sanh các chấp trước. Vì sao? Vì người kia nghĩ như vầy: Điều ta tu học là chơn viễn ly, cho nên được loài phi nhơn khen ngợi hộ niệm. Người ở thành ấp thân tâm tán loạn thì ai sẽ hộ niệm, cung kính khen ngợi. Do đó đại Bồ Tát ấy tâm nhiều kiêu mạn, khinh miệt các chúng đại Bồ Tát khác, nên phiền não nghiệp ác luôn luôn tăng trưởng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này đối với chúng đại Bồ Tát khác là Chiên đà la ô uế. Mặc dù tướng giống đại Bồ Tát nhưng đó là đại tặc trong trời, người, dối gạt người, trời, A tu la v.v... Thân vị ấy mặc pháp y của Sa môn nhưng tâm luôn luôn thích làm việc trộm cướp. Những người nào có tâm hướng đến Bồ Tát thừa thì không nên gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen người ác đó. Vì sao? Vì bọn người này có tâm thượng mạn, bên ngoài giống Bồ Tát nhưng bên trong nhiều phiền não.
Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát thật sự không xả bỏ Nhất thiết trí trí, không bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thâm tâm muốn cầu Nhất thiết trí trí, muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì lợi ích an lạc các hữu tình thì không nên gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen người ác như thế.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nên luôn tinh tấn tu sự nghiệp của mình, nhàm chán xa lìa sanh tử, không chấp vào ba cõi. Đối với bọn người giặc ác Chiên đà la ấy phải luôn luôn phát sanh từ, bi, hỷ, xả với họ mà nghĩ như vầy: Ta không nên gây ra những tội lỗi như những ác ma kia. Giả sử gặp phải thất niệm như hắn thì nên biết rõ để mau trừ diệt.
Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải biết rõ ràng về các việc của ác ma, nên siêng năng tinh tấn tránh xa, diệt trừ những tội lỗi như Bồ Tát kia đã tạo, nên cần cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát ý lạc tăng thượng, muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì thường phải gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bạn lành chơn tịnh. (Q.518, ĐBN)
(Bạn lành chân tịnh)
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những ai gọi là bạn lành chơn tịnh của đại Bồ Tát?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là bạn lành của đại Bồ Tát. Tất cả chúng đại Bồ Tát cũng là bạn lành chơn tịnh của các đại Bồ Tát. Các Thanh văn và thiện sĩ khác có thể vì chúng Bồ Tát tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng những pháp môn tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật để dễ hiểu thì cũng là bạn lành chơn tịnh của đại Bồ Tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện!
Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là những bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Các pháp duyên tánh là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.(1)
Các chi duyên khởi là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Tám giải thoát cho đến mười biến xứ là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Năm loại mắt, sáu phép thần thông là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Như Lai mười lực cho đến 18 Phật bất cộng là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là bạn lành chơn tịnh các Bồ Tát.
Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Chấm dứt tất cả tập khí tương tục là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Tất cả Bồ Tát hạnh là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật là bạn lành chơn tịnh của Bồ Tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là thầy, là đạo sư, là ánh sáng, là đèn, là đuốc, là chiếu sáng, là sự hiểu biết, là giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là chỗ hướng đến, là cha, là mẹ của chúng đại Bồ Tát.
Bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí là bậc thầy, là đạo sư, là ánh sáng, là đèn, là đuốc, là chiếu sáng, là sự hiểu biết, là giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là chỗ hướng đến, là cha, là mẹ của chúng đại Bồ Tát đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục.
Tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng là bậc thầy, là đạo sư, là ánh sáng, là đèn, là đuốc, là chiếu sáng, là sự hiểu biết, là giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là chỗ hướng đến, là cha, là mẹ của chúng đại Bồ Tát.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo, các pháp duyên tánh và chi duyên khởi, pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng là bậc thầy, là đạo sư, là ánh sáng, là đèn, là đuốc, là chiếu sáng, là sự hiểu biết, là giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đến, là cha, là mẹ của chúng đại Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là bậc thầy, là đạo sư, là ánh sáng, là đèn, là đuốc, là chiếu sáng, là sự hiểu biết, là giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đến, là cha, là mẹ. Vì sao? Vì tất cả chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều sanh trưởng từ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. (Q.518, ĐBN)
Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát ý lạc tăng thượng, muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, thì nên học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Đại Bồ Tát ấy đã học bố thí, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Lại phải dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp hóa các hữu tình. Thế nào là bốn? Một là bố thí; hai là ái ngữ; ba là lợi hành; bốn là đồng sự. Do Ta quán nghĩa này nên nói: “Tất cả bố thí Ba la mật nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì là bậc thầy, là người dẫn đường nói rộng cho đến là cha, là mẹ của chúng đại Bồ Tát”.
Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu các đại Bồ Tát muốn đạt sự tu hành không lệ thuộc vào người khác, muốn sống không lệ thuộc vào người khác chỉ dạy, muốn đoạn trừ tất cả sự nghi ngờ của hữu tình, muốn làm viên mãn tất cả hữu tình, muốn trang nghiêm cõi Phật, muốn thành thục hữu tình, thì nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì ở trong Kinh Bát Nhã thâm sâu này, nói rộng cho đến pháp mà đại Bồ Tát nên học, tất cả chúng đại Bồ Tát đều phải siêng năng tinh tấn tu học. (Q.518, ĐBN)
(Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thậm thâm lấy gì làm tướng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Bát Nhã thâm sâu lấy Không làm tướng, lấy vô trước làm tướng, lấy vô tướng làm tướng, lấy tịch tĩnh làm tướng, lấy viễn ly làm tướng. Vì sao? Vì trong Bát Nhã thậm thâm, tướng của các pháp đều bất khả đắc, vô sở hữu. (Q.519, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Vả có nhân duyên khá nói Bát nhã Ba la mật có bao diệu tướng, tất cả các pháp cũng có các diệu tướng như thế ư?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật có bao nhiêu diệu tướng, các pháp khác cũng có các diệu tướng như thế. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm lấy tánh Không làm tướng, pháp khác cũng lấy tánh Không làm tướng. Bát Nhã thậm thâm lấy vô trước làm tướng, pháp khác cũng lấy vô trước làm tướng. Bát Nhã thậm thâm lấy vô tướng làm tướng, pháp khác cũng lấy vô tướng làm tướng. Bát Nhã thậm thâm lấy tịch tĩnh làm tướng, pháp khác cũng lấy tịch tĩnh làm tướng. Bát Nhã thậm thâm lấy viễn ly làm tướng, pháp khác cũng lấy viễn ly làm tướng. Do nhân duyên này mà có thể nói: “Bát Nhã thậm thâm có vi diệu tướng, các pháp khác cũng có vi diệu tướng như thế. Vì tất cả pháp đều tự tánh Không, tự tánh lìa”. (Q.519, ĐBN)
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều tự tánh Không, tự tánh lìa, tức tất cả pháp tất cả pháp không, tất cả pháp tất cả pháp lìa, làm sao hữu tình khá thi thiết có nhiễm có tịnh? Chẳng phải trong pháp tánh Không có nhiễm, có tịnh; cũng chẳng phải pháp ly có nhiễm, có tịnh? Chẳng phải pháp tánh Không có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng phải trong pháp ly có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Chẳng phải trong tánh Không có pháp để đắc, cũng chẳng phải trong tánh ly cũng có pháp để đắc? Chẳng phải trong tánh Không có đại Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng phải trong tánh ly có đại Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Làm sao con hiểu những ý nghĩa sâu xa mà Thế Tôn đã nói?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Hữu tình luôn luôn tâm có ngã, ngã sở, chấp ngã, ngã sở không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch thiện Thệ! Đúng vậy! Hữu tình luôn tâm có ngã, ngã sở và chấp trước ngã, ngã sở.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Hữu tình đã chấp ngã và ngã sở trống không, xa lìa chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Hữu tình chấp trước ngã và ngã sở đều là Không, là viễn ly.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Há chẳng phải các hữu tình do chấp ngã, ngã sở mà bị luân hồi trong sanh tử sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Các loài hữu tình do chấp ngã, ngã sở mà bị luân hồi trong sanh tử.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Như vậy, các loài hữu tình luân hồi trong sanh tử là do có tạp nhiễm, cho nên hữu tình thi thiết có tạp nhiễm. Nếu các hữu tình không có tâm chấp trước vào ngã và ngã sở, thì họ không có tạp nhiễm. Nếu không có tạp nhiễm thì không bị luân hồi trong sanh tử. Vì luân hồi sanh tử bất khả đắc nên biết hữu tình đó xa lìa tạp nhiễm. Do không tạp nhiễm nên có thanh tịnh.
Cho nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tự tánh của tất cả pháp đều Không, tự tánh đều lìa nhưng các hữu tình cũng có thể thi thiết có nhiễm, có tịnh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát có thể tu hành Bát Nhã thậm thâm như vậy và hành tánh của tất cả pháp đều là Không, đều lìa thì Bồ Tát ấy không hành sắc uẩn cho đến thức uẩn. Cũng không hành mười hai xứ cho đến mười tám giới. Không hành nhãn xúc cho đến ý xúc. Không hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không hành địa giới cho đến thức giới. Không hành nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không hành vô minh cho đến lão tử. Không hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Không hành pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Không hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. nói rộng ra, không hành tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì các pháp ấy đều không thể đắc, người hành, pháp được hành, thời hành, chốn hành và do đây hành đều vô sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát có thể hành như vậy thì không bị tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... chinh phục mà ngược lại có thể chinh phục trời người, A tu la v.v…
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát có thể hành như vậy thì không bị Thanh văn, Độc giác chinh phục, ngược lại có thể chinh phục được Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đã được an trụ ngôi vô năng phục, nghĩa là ngôi Bồ Tát ly sanh.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy thường trụ trong tác ý Nhất thiết trí trí nên không ai có thể chinh phục được.
Bạch Thế Tôn! Khi đại Bồ Tát ấy hành như vậy thì được gần Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ các loài hữu tình.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Nếu đại Bồ Tát có thể hành Bát Nhã thậm thâm và tất cả pháp tướng là Không, là viễn ly thì đại Bồ Tát ấy không hành sắc uẩn, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Như vậy, cho đến được gần Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ các loài hữu tình.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm bộ đều được làm người, được làm người rồi phát tâm tu học Bồ Tát hạnh, đều chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ v.v… suốt đời lấy những vật ưa thích của thế gian để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Rồi đem căn lành đã tu tập bình đẳng ban cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhờ nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được phước nhiều không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã thậm thâm này, bày ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và trụ vào tác ý tương ưng với Bát Nhã thậm thâm như vậy. Do nhân duyên ấy mà các thiện nam, thiện nữ v.v… này được công đức nhiều hơn người trước vô lượng, vô số, không thể tính đếm hết.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Như vậy, cho đến giả sử các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều được làm người. Sau khi được làm người lại phát tâm tu học Bồ Tát hạnh. Tất cả đều chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Có thiện nam, thiện nữ v.v… suốt đời đem những thứ ưa thích trong thế gian để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Lại đem căn lành đã được tu tập bình đẳng ban cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này được phước nhiều không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã thậm thâm như vậy, bày ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và trụ trong tác ý tương ưng với Bát Nhã thậm thâm như vậy thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể tính lường được.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm bộ này đồng một lúc đều được làm người. Có thiện nam, thiện nữ v.v… dùng phương tiện giáo hóa hướng dẫn để họ trụ vào mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông, hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc trụ vào quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lại đem căn lành đã giáo hóa ấy bình đẳng ban cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được phước nhiều không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã thậm thâm như vậy, rồi đưa ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để họ dễ hiểu và an trụ vào tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được công đức nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể nào cân lường tính đếm được. (Q.519, ĐBN)
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Như vậy, cho đến giả sử các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đồng một lúc đều được làm người. Có thiện nam, thiện nữ v.v… dùng phương tiện giáo hóa, dẫn dắt để họ an trụ mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, Độc giác Bồ đề, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc đem căn lành đã giáo hóa, bình đẳng ban cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… kia được công đức có nhiều không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu như thế, đưa ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và an trụ tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy đạt được công đức nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể tính lường được.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy nhờ oai lực tinh tấn tăng thượng này mà đạt đến bờ kia, làm phước điền cho hữu tình. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy đối với pháp đã được oai lực tinh tấn tăng thượng, tất cả hữu tình không ai sánh kịp, trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thâm sâu, thấy các hữu tình người nào không lợi ích an lạc thì sanh tâm đại từ. Thấy hữu tình đau khổ thì sanh tâm đại bi. Thấy các hữu tình được lợi ích an lạc thì sanh tâm đại hỷ. Thấy hữu tình lìa tánh lìa tướng thì sanh tâm đại xả. Còn các Thanh văn, Độc giác thì không thể có được như vậy. (Q.519, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy đối với hữu tình phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả một cách bình đẳng nhưng tất cả đều không chấp trước, không giống với dị sanh, Thanh văn, Độc giác theo sở đắc mà sanh tâm chấp trước.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm đạt được ánh sáng lớn. Nghĩa là được ánh sáng của bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy mặc dù chưa chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được Bất thối chuyển, đạt đến bờ bên kia làm phước điền cho hữu tình, đáng nhận của tín thí.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy thường trụ vào tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, cho nên báo ơn thí chủ một cách rốt ráo, cũng có thể gần gũi Nhất thiết trí trí. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát không muốn thọ tất cả vật tín thí của quốc vương, đại thần và các hữu tình khác một cách uổng phí, chỉ muốn cho hữu tình con đường chơn tịnh, muốn làm ánh sáng cho các hữu tình, muốn giải thoát địa ngục ba cõi cho hữu tình, muốn ban pháp nhãn thanh tịnh cho hữu tình thì phải thường trụ vào tác ý tương ưng Bát Nhã thậm thâm.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát thường trụ vào tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, trong lúc ấy không cho các tác ý khác khởi lên.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy luôn luôn tinh tấn trụ vào tác ý tương ưng Bát Nhã không bao giờ lìa bỏ. Ví như có người trước đây chưa từng có ngọc mạc ni quý. Khi có được, ông ta rất vui mừng sung sướng, sau chẳng may đánh mất, nên rất khổ não, luôn luôn than thở, tiếc nuối, không lúc nào quên và luôn suy nghĩ phải tìm cách gì để lấy lại viên ngọc châu ấy. Người kia cứ nghĩ đến viên ngọc châu ấy không sao quên được. Các đại Bồ Tát cũng như vậy, phải thường an trụ vào tác ý tương ưng Bát Nhã thậm thâm. Nếu không trụ vào tác ý tương ưng Bát Nhã thậm thâm, thì bị đánh mất tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tự tánh của tất cả tác ý đều Không, tự tánh của tất cả tác ý đều lìa. Các pháp cũng vậy, trong tự tánh Không, tự tánh lìa của tất cả các pháp, hoặc đại Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, hoặc Nhất thiết trí trí, hoặc các tác ý khác đều bất khả đắc. Vì sao đại Bồ Tát không lìa tác ý tương ưng với Bát nhã Ba la mật, cũng không lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp, tất cả tác ý đều tự tánh Không, tự tánh lìa như vậy, Không và lìa chẳng phải Thanh văn tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Bồ Tát tạo ra, chẳng phải Như Lai tạo ra, cũng chẳng phải các hữu tình khác tạo ra, nhưng tất cả pháp, pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, pháp thường trụ như vậy, nên đại Bồ Tát ấy không lìa bỏ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, cũng lại không lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm, Nhất thiết trí trí và các tác ý tự tánh đều Không, tự tánh đều lìa. Như vậy, Không và lìa đều không tăng không giảm. Nếu thông đạt một cách đúng đắn như vậy thì gọi là bất ly (không lìa).
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Bát Nhã thậm thâm tự tánh đều Không và tự tánh đều lìa, thì làm sao khi đại Bồ Tát tu chứng tánh bình đẳng của Bát nhã Ba la mật liền đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu chứng tánh bình đẳng của Bát nhã Ba la mật, chẳng phải Phật pháp có tăng, có giảm, cũng chẳng phải các pháp, pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có tăng hay giảm. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm chẳng phải một, chẳng phải hai, cũng chẳng phải nhiều.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nghe thuyết Bát Nhã thậm thâm như vậy, mà tâm không kinh, không sợ, không thối lui, cũng không nghi ngờ thì đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thâm sâu đã đạt đến chỗ cứu cánh, an trụ vào địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, và mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thậm thâm có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Lìa Bát Nhã thậm thâm có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy thì Bát Nhã thậm thâm là trống rỗng chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có thể hành Bát Nhã thậm thâm chăng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì lìa Bát Nhã thậm thâm trống rỗng chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có pháp khá được, có thể hành Bát Nhã thậm thâm chăng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tánh Không có thể hành tánh Không được chăng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tánh Không có pháp nào có thể đắc, có thể hành Không đó được chăng?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy thì sắc uẩn cho đến thức uẩn có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy thì mười hai xứ cho đến mười tám giới có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc cho đến ý xúc có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhãn xúc cho đến ý xúc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Địa giới cho đến thức giới có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa địa giới cho đến thức giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô minh cho đến lão tử có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa vô minh cho đến lão tử có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bố thí cho đến Bát Nhã có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Tứ đế cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Tứ đế cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, trống rỗng chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn, trống rỗng chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí trống rỗng chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, trống rỗng chẳng có, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v… có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp như vậy đều không thể hành Bát Nhã, thì các đại Bồ Tát làm sao để hành Bát Nhã thậm thâm?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có pháp nào có thể hành Bát Nhã thậm thâm không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy Bát Nhã thậm thâm là chỗ sở hành đại Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Pháp mà ngươi không thấy là pháp có thể đắc không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Pháp không thể đắc là có sanh không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Thật tánh của các pháp mà ngươi thấy là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Nếu đại Bồ Tát thành tựu Vô sanh pháp nhẫn ấy thì được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy đối với Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... vô lượng, vô biên công đức thù thắng, thì gọi là hành giả tinh tấn như thật. Nếu có thể tu hành tinh tấn như thế mà chẳng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Nhất thiết tướng trí, đại trí, diệu trí thì không có việc ấy. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn rồi, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối pháp đã được không lui không giảm. (Q.519, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát có lấy vô sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát có lấy sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát có lấy sanh, vô sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát có lấy tánh chẳng phải sanh, chẳng phải vô sanh của tất cả các pháp để được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy thì làm sao các đại Bồ Tát được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Ngươi thấy có pháp nào được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không! Con không thấy pháp nào được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, cũng không thấy pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có người chứng, pháp được chứng, thời chứng, nơi chứng và do đây chứng, vì tất cả đều bất khả đắc.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Thiện Hiện nên biết! Khi các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp vô sở đắc, không nghĩ: Ta có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Dùng pháp ấy đối với thời như vậy, nơi như vậy, ta chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm không còn phân biệt. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm lìa phân biệt. Nếu có phân biệt thì chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. (Q.519, ĐBN)
3. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Đồng Học”,
phần sau Q.454 đến phần đầu Q.455, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu thẳm khó thấy khó giác, không thể nghĩ tầm, vượt cảnh nghĩ tầm, nhiệm mầu sâu kín, kẻ trí sáng suốt chứng được, vì lìa tướng phân biệt vậy. Nếu các hữu tình đối Kinh điển Bát Nhã thậm thâm đây thường ưa lóng nghe, thọ trì đọc tụng, thông lanh rốt ráo, suy nghĩ đúng lý, y giáo tu hành, vì người chính nói, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng xen các tâm và tâm sở khác, phải biết các loại hữu tình như thế quyết định trọn nên vô lượng căn lành, mới có thể đối trong ấy năng thành xong mọi việc! (Q.519, ĐBN)
Phật dạy trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Này Kiều Thi Ca! Đối với Kinh điển Bát Nhã thậm thâm này, các loài hữu tình thường lóng nghe, thọ trì đọc tụng, thông lanh rốt ráo, suy nghĩ đúng lý, y giáo tu hành, vì người chính nói, cho đến chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, thì nên biết các loài hữu tình như thế quyết định thành tựu vô lượng căn lành, cho đến ở trong đây sẽ hoàn tất mọi việc.
Kiều Thi Ca! Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm bộ này, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu vô lượng công đức của mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, nếu có thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Kinh điển Bát Nhã thậm thâm này thường ưa lóng nghe, thọ trì đọc tụng, thông lanh rốt ráo, suy nghĩ đúng lý, y giáo tu hành, vì người chính nói, thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… đó đạt được công đức so với phước đức trước hơn trăm lần, ngàn lần, cho đến bội cực số lần.
Khi ấy, trong hội có một Bí sô nói với trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với Kinh điển Bát Nhã thậm thâm này nhiếp tâm không tán loạn, thường thích lóng nghe, thọ trì đọc tụng, thông lanh rốt ráo, suy nghĩ đúng lý, y giáo tu hành, vì người chính nói, cho đến chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này đạt được công đức hơn tất cả hữu tình trong châu Thiệm bộ, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới đã thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v...
Khi ấy, trời Đế Thích nói với Bí sô:
- Thiện nam, thiện nữ v.v… ấy khi mới phát tâm nhất niệm tương ưng với Nhất thiết tướng trí, công đức đạt được hơn tất cả hữu tình trong châu Nam Thiệm bộ, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v... gấp trăm ngàn lần, huống gì đối với Kinh điển Bát Nhã thậm thâm này mà nhiếp tâm không tán loạn, thường thích lóng nghe, thọ trì đọc tụng, thông lanh rốt ráo, suy nghĩ đúng lý, y giáo tu hành, vì người chính nói, cho đến chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, công đức đạt được không thể nào so sánh được. (Q.520, DBN)
Trí tuệ công đức của thiện nam, thiện nữ v.v… này không những hơn tất cả loài hữu tình trong châu Nam Thiệm bộ, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới đã thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự v.v... mà còn vượt hơn tất cả công đức của tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… ấy mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.
Bí sô nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ v.v… đó không những vượt hơn tất cả công đức của tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... mà còn vượt hơn tất cả công đức của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… đó mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.
Bí sô nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ v.v… đó không những vượt hơn tất cả công đức của tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, mà còn vượt hơn tất cả công đức của đại Bồ Tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, tu hành bố thí cho đến tịnh lự Ba la mật. An trụ vào pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế: khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tu hành quán thuận nghịch mười hai nhân duyên. Thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, tu Bồ Tát hạnh và tất cả công đức của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… đó mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi vui cho hữu tình vô cùng tận.
Bí sô nên biết! Các thiện nam, thiện nữ v.v… đó công đức trí tuệ vượt hơn tất cả công đức tất cả đại Bồ Tát xa lìa phương tiện thiện xảo tu hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… ấy mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi vui cho hữu tình vô cùng tận.
Lại nữa, này Bí sô! Nên biết thiện nam, thiện nữ v.v… đó tức là đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát theo lời nói mà tu hành Bát Nhã thậm thâm, vì có phương tiện thiện xảo, nên không bị tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... và các Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn khác chinh phục. Vị này có thể kế thừa hạt giống Nhất thiết trí trí, không bao giờ đoạn tuyệt, không xa lìa chư Phật, Bồ Tát, bạn lành chơn tịnh, không bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ đề, chiến thắng tất cả quyến thuộc ma quân, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu vớt các loài hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để đạt được Niết bàn rốt ráo thường lạc.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát theo lời nói mà tu hành Bát Nhã thậm thâm, vì có phương tiện thiện xảo, thường học pháp mà chúng đại Bồ Tát nên học, không học pháp của Thanh văn và Độc giác.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm, vì có phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của đại Bồ Tát.
Bấy giờ, trời Tứ đại thiên vương thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ Tát ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và cùng nói như vầy: "Lành thay, Đại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, không theo học pháp của Thanh văn và Độc giác. Nếu học như vậy, sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ đề, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giống như trước đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã nhận bốn bình bát do Tứ thiên vương cúng dường, thì bấy giờ ông cũng sẽ được nhận. Như xưa kia Tứ đại thiên vương hộ đời đã dâng cúng bốn bình bát, nay tôi cũng dâng cúng.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát hành Bát Nhã thâm sâu dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát. Thiên Đế chúng tôi đều thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ Tát ấy để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và cùng nhau nói như vầy: “Lành thay, Đại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, không theo học pháp của Thanh văn và Độc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau an tọa tòa Bồ đề, có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân vi diệu, độ chúng hữu tình”.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát.
Kế đến, Diệu Thời Phận Thiên tử, Diệu Biến Hóa Thiên tử, Diệu Tự Tại Thiên tử đều thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ Tát ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, tất cả đều nói: “Lành thay, Đại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, không theo học pháp của Thanh văn và Độc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ đề, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ chúng hữu tình”.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát. (Q.520, DBN)
Rồi đến, Đại phạm thiên vương chủ cõi Kham Nhẫn thống lãnh chúng Phạm thiên đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nói như vầy: “Lành thay, Đại sĩ! Ông hãy siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, không theo học pháp của Thanh văn và Độc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ đề, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tôi sẽ đi đến dưới cội Bồ đề ân cần khuyến thỉnh ông chuyển pháp luân, làm lợi vui cho vô số loài hữu tình”.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát.
Kế đến, Trời Cực quang tịnh cho đến trời Sắc cứu cánh thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nói lời như trên.
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng đại Bồ Tát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, các chúng đại Bồ Tát cùng các trời, rồng, A tu la v.v... thường theo hộ niệm. Do nhân duyên này mà các đại Bồ Tát ấy không bị hiểm nạn ở thế gian, nguy ách về thân, buồn khổ về tâm. Tất cả các bệnh phát sanh do bốn đại chống trái nhau, nghĩa là bệnh về mắt, bệnh về tai, bệnh về mũi, bệnh về lưỡi, bệnh về thân, các bệnh chi tiết khác. Như vậy, tổng cộng là bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh ở trong thân vĩnh viễn không phát sanh, chỉ trừ nghiệp phải trả nhưng cũng được chuyển nặng thành nhẹ. (Q.520, DBN)
Bí sô nên biết! Đại Bồ Tát theo lời nói mà tu hành Bát Nhã thậm thâm, dùng phương tiện thiện xảo, đạt được những công đức đời hiện tại như vậy, đời sau công đức càng tăng vô lượng, vô biên.
Bấy giờ, A Nan Đà thầm nghĩ: “Nay trời Đế Thích dùng biện tài của mình mà khen ngợi nói công đức lợi ích thù thắng của Bát Nhã thậm thâm như thế, đó là nhờ sức oai thần của Như Lai”.
Biết tâm niệm của A Nan Đà, trời Đế Thích thưa:
- Thưa Đại đức! Tôi khen ngợi công đức lợi ích thù thắng của Bát Nhã thậm thâm đều nhờ sức oai thần của Như Lai.
Khi ấy, Phật bảo A Nan Đà:
- Đúng vậy! Trời Đế Thích khen ngợi công đức lợi ích thù thắng của Bát Nhã thậm thâm, ông nên biết đều nhờ thần lực của Như Lai chứ chẳng phải biện tài của vị ấy. Vì sao? Vì công đức thù thắng của Bát Nhã thậm thâm nhất định chẳng phải công đức mà tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v… khen ngợi.
Khánh Hỷ nên biết! Khi đại Bồ Tát siêng năng học tư duy, tu hành Bát nhã Ba la mật như thế, thì tất cả ác ma trong Tam thiên đại thiên đều sanh nghi ngờ, và nghĩ như vầy: Đại Bồ Tát này đã chứng thật tế, trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề hay là hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, cứu độ các hữu tình?
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Khi đại Bồ Tát không lìa Bát Nhã thậm thâm như thế, thì các ác ma rất lo sợ, thân tâm run rẩy, đau đớn như trúng phải tên độc.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Khi đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, các ác ma đến chỗ vị ấy hóa hiện ra nhiều thứ gây sợ hãi, nào là dao, kiếm, thú dữ, rắn độc, lửa dữ phát lên tứ phía, muốn cho Bồ Tát ấy kinh hãi đến loạn tâm, làm thối chuyển tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.520, DBN)
Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, đều bị ác ma nhiễu loạn, hay là có vị bị nhiễu loạn, hoặc có vị không bị.
Phật dạy:
- Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm có vị bị nhiễu loạn, có vị không.
Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những đại Bồ Tát nào khi hành Bát Nhã thậm thâm bị các ác ma nhiễu loạn? Những vị đại Bồ Tát không bị ác ma nhiễu loạn?
Phật dạy:
- Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát đời trước nghe Bát Nhã thậm thâm này tâm không tin lại chê bai, hủy báng thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã thậm thâm bị ác ma nhiễu loạn. Nếu đại Bồ Tát đời trước nghe Bát Nhã mà tin hiểu, ca ngợi, không phỉ báng thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ Tát đời trước nghe Bát Nhã thậm thâm này mà nghi ngờ, do dự là hữu hay vô, là thật hay ngụy thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã thậm thâm liền bị ác ma nhiễu loạn. Nếu đại Bồ Tát đời trước nghe Bát Nhã này mà tâm hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin là chắc chắn thật có, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã này không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát xa lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế, nên không nghe Bát Nhã thậm thâm này. Vì do không nghe nên không hiểu rõ, không hiểu rõ nên không thể tu tập, không thể tu tập nên không thể thỉnh hỏi, không thỉnh hỏi nên không thực hành theo lời nói, không thực hành theo lời nói nên không thể chứng đắc Bát Nhã thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu đại Bồ Tát gần gũi bạn lành, không lệ thuộc vào bạn ác, được nghe Bát Nhã thậm thâm như thế, nhờ được nghe nên liền hiểu rõ. Do hiểu rõ nên có thể tu tập. Nhờ tu tập nên có thể thỉnh hỏi. Nhờ thỉnh hỏi nên làm đúng như lời dạy. Nhờ làm đúng như lời dạy nên có thể chứng đắc Bát Nhã thậm thâm thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã thậm thâm không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát xa lìa Bát Nhã, hủy báng chê bai chơn diệu pháp. Khi ấy, ác ma liền nghĩ: Bồ Tát này là bạn của ta. Do vị ấy hủy báng chê bai chơn diệu pháp, liền có các thiện nam thiện nữ v.v… trụ Bồ Tát thừa hủy báng chê bai chơn diệu pháp. Nhờ vậy, mà lời nguyện của ta sẽ viên mãn, dù các thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa v.v… đó giả sử siêng năng tinh tấn tu các pháp lành nhưng cũng rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác và cũng làm cho người khác bị rơi như vậy, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu đại Bồ Tát gần gũi Bát Nhã, khen ngợi tin thọ chơn diệu pháp, cũng làm cho vô lượng thiện nam thiện nữ v.v… trụ Bồ Tát thừa khen ngợi tin thọ chơn diệu pháp. Do đó mà ác ma sầu khổ lo sợ. Các thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa v.v… này, giả sử tinh tấn siêng năng tu các pháp lành, nhất định cũng không làm cho người khác rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, mà chắc chắn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn. (Q.520, DBN)
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Đại Bồ Tát nào khi nghe thuyết Kinh Bát Nhã thâm sâu, nói như vầy: Ý nghĩa của Bát nhã Ba la mật sâu xa khó thấy, khó giác, thì làm sao giảng nói, nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên chép, lưu bố Kinh điển này được. Ta còn không thể đắc cội nguồn của nó, huống chi những người trí cạn phước mỏng? Lúc ấy có vô lượng thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ Tát thừa nghe lời nói của người kia như vậy nên tâm sợ hãi, liền thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu đại Bồ Tát nào khi nghe thuyết Kinh Bát Nhã thậm thâm, liền nói như vầy: “Bát nhã Ba la mật này ý nghĩa thậm thâm, khó thấy, khó giác, nếu không giảng nói, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, ghi chép, lưu bố mà có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì chắc chắn không có điều đó. Khi ấy có vô lượng thiện nam tử v.v… trụ Bồ Tát thừa nghe lời nói của vị ấy như vậy, vui mừng khôn xiết, liền thích nghe, thọ trì, đọc tụng Kinh điển Bát Nhã thậm thâm, hoàn toàn thông hiểu, tư duy đúng lý, tinh tấn tu hành, giảng nói cho người khác, ghi chép, lưu bố, cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn. (Q.520, DBN)
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát ỷ mình có công đức căn lành, khinh thường chúng Bồ Tát khác, nói như vầy: “Ta có thể tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, còn các người không thể. Ta có thể an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Ta có thể an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, còn các người không thể. Nói rộng ra, Ta có thể tu hành tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, còn các người không thể”.
Bấy giờ, ác ma vui mừng nói: “Bồ Tát này là bạn bè của ta, luân hồi trong sanh tử không biết khi nào ra khỏi”, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu đại Bồ Tát chẳng ỷ mình có công đức căn lành khinh khi các đại Bồ Tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng không chấp trước vào tướng của các pháp lành ấy, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát nào tự ỷ tên họ nổi tiếng của mình nên khinh miệt các Bồ Tát khác, thường khen tài đức mình, chê bai lỗi người, thật sự không có các hành tướng trạng đại Bồ Tát Bất thối chuyển mà nói rằng thật có, nên sanh các phiền não, tự khen mình chê bai người khác: “Các người không có tên tuổi của một Bồ Tát, chỉ riêng ta là Bồ Tát nổi tiếng”. Do tăng thượng mạn mà khinh miệt chê bai các Bồ Tát khác. Khi ấy, ác ma liền nghĩ: Đại Bồ Tát này làm cho quốc độ, cung điện của ta đông đảo, càng làm tăng trưởng địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Khi ấy, ác ma giúp đỡ thần lực cho vị ấy, khiến vị ấy oai thế biện tài càng tăng trưởng. Do đó, có nhiều người tin theo lời nói của vị ấy. Vì nhờ sự giúp đỡ ấy nên giống với bọn ác kiến. Đồng với bọn ác kiến rồi, theo họ học tà đạo. Học tà đạo rồi, phiền não bừng cháy. Vì tâm điên đảo nên tạo ra thân, khẩu, ý nghiệp, tất cả đều chịu lấy quả khổ suy tổn. Do nguyên nhân này mà làm cho địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ càng tăng trưởng, làm cho quốc độ, cung điện của ma sung mãn thêm. Do đó, ác ma vui mừng khôn xiết, tự do làm theo ý của mình, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu đại Bồ Tát không ỷ mình có tên tuổi hư dối, không khinh miệt các Bồ Tát khác tu thiện. Đối với các công đức lìa tăng thượng mạn, thường không khen mình cũng không chê người, có thể biết rõ ràng các việc ác của ma, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa, hủy báng, khinh khi, chê bai nhau. Khi thấy việc này, ác ma liền suy nghĩ: Các Bồ Tát này đã xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, gần gũi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Vì sao? Vì khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau thì chẳng phải là đạo Bồ đề, chỉ là đường hiểm ác của địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi suy nghĩ, ác ma vui mừng làm cho oai thế Bồ Tát này lớn mạnh, khiến cho vô lượng người tăng trưởng thêm nghiệp ác, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn. (Q.520, DBN)
Nếu đại Bồ Tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa không khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau, còn dùng phương tiện giáo hóa dẫn dắt họ hướng đến Đại thừa, hoặc khuyên họ tu theo pháp lành của mình, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát cùng thiện nam thiện nữ v.v… cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khinh khi, đấu tranh, phỉ báng lẫn nhau. Bấy giờ, thấy việc này rồi, ác ma liền nghĩ: Hai Bồ Tát này đều xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, gần gũi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Vì sao? Vì khinh khi, đấu tranh phỉ báng nhau đó chẳng phải là đạo Bồ đề, chỉ là đường hiểm nạn của địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi nghĩ như vậy, ác ma vui mừng khôn xiết, làm cho hai vị ấy tăng thêm oai thế, khiến cả hai đấu tranh không ngừng, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn.
Nếu đại Bồ Tát cùng với thiện nam thiện nữ v.v… cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau, mà lại dạy bảo cho nhau tu các pháp lành để mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã không bị ác ma nhiễu loạn.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát chưa được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, mà đối với Bồ Tát đã được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển có tâm tổn hại, khinh miệt, mắng chửi, hủy báng. Đại Bồ Tát ấy dù phát sanh bao nhiêu tâm niệm như vậy cũng không được lợi ích, ngược lại bị mất đi bao nhiêu hạnh thù thắng đã từng tu tập. Trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy tránh xa bạn lành, trở lại chịu bao nhiêu sự trói buộc trong sanh tử. Nếu không xả tâm đại Bồ đề, trải qua bao nhiêu kiếp số đội mặc áo giáp thệ nguyện, siêng năng tu thắng hạnh, không bao giờ gián đoạn, thì sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui. (Q.520, DBN)
Khi ấy, Khánh Hỷ liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tâm mà đại Bồ Tát ấy đã tạo ra nên bị tội khổ trong sanh tử, phải trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy. Nhưng trong thời gian đó cũng có người được ra khỏi? Thắng hạnh mà đại Bồ Tát ấy đã bị thối lui, cần phải trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy, đội mặc áo giáp thệ nguyện, siêng năng tinh tấn không bao giờ gián đoạn, sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui. Trong thời gian đó cũng có người được lợi ích như cũ.
Phật dạy:
- Khánh Hỷ! Vì Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn mà Ta nói có người hết tội thì được trở lại đầy đủ pháp thiện.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát chưa được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, đối với các Bồ Tát đã được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển có tâm làm tổn hại, đấu tranh, khinh khi, mắng nhiếc, phỉ báng, sau đó không thấy xấu hổ, cứ nghĩ điều ác mãi trong lòng, không như pháp phát lồ sám hối tội lỗi. Thì Ta nói những hạng người ấy ở trong thời gian ấy không được hết tội lỗi để bù đắp lợi ích lại như cũ, phải bị luân hồi trong sanh tử, trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ đề, trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy mang đội áo giáp thệ nguyện, siêng năng tinh tấn tu thắng hạnh không bao giờ gián đoạn, sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui.
Nếu đại Bồ Tát chưa được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, đối với các đại Bồ Tát đã được thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển, mà có lòng sát hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng chửi, phỉ báng. Về sau thấy xấu hổ nên không còn trói buộc vào việc ác, liền có thể như pháp phát lồ sám hối, nghĩ như vầy: Ta nay đã được thân người khó được này, sao lại tạo ra những tội lỗi như vậy để làm mất đi thiện lợi lớn. Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Tại sao trong đó lại làm những việc suy tổn. Ta nên cung kính tất cả hữu tình như nô tỳ thờ chủ, tại sao lại sanh tâm kiêu mạn, hủy nhục, khinh khi. (Q.520, DBN)
Ta nên nhẫn nhục chịu tất cả hữu tình đánh đập quở trách, sao lại dùng thân ngữ bạo ác để trả thù lại.
Ta nên hòa giải với tất cả hữu tình để kính yêu nhau, sao lại buông ra lời nói ác tranh cãi nhau.
Ta nên nhẫn nhục chịu sự giẫm đạp của tất cả hữu tình, giống như đường đi, cũng như cầu cống, vì sao ta lại nhục mạ họ.
Ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì cứu vớt hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để được Niết bàn hoàn toàn an lạc, sao ta muốn họ phải khổ.
Ta nay cho đến tận đời vị lai nên như câm, như ngọng, như đui, như điếc đối với các hữu tình không phân biệt. Dẫu có bị xử trảm, chặt đầu, chân, tay, móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa thân thể ra từng phần cũng không bao giờ có niệm ác với họ. Nếu ta nghĩ ác về họ thì đã phá hoại làm mất đi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm chướng ngại sở cầu Nhất thiết trí trí, không thể nào làm lợi ích an lạc cho các hữu tình.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát ấy, như Ta nói cũng được hết tội trở lại lợi ích như cũ, không cần trải qua kiếp số luân hồi trong sanh tử. Ác ma không thể nào nhiễu loạn người ấy được, vị ấy mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Các đại Bồ Tát không nên giao thiệp với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa. Giả sử có giao thiệp thì không nên sống chung. Nếu sống chung thì không nên bàn luận nghĩa lý với họ. Vì sao? Vì nếu cùng họ bàn luận nghĩa lý thì sẽ sanh tâm sân giận v.v... hoặc lại phát ra lời hung ác. Nhưng các đại Bồ Tát đối với loài hữu tình không nên có tâm sân giận v.v... cũng không nên phát ra lời hung ác. Giả sử bị chặt đầu, tay chân, thân thể cũng không nên sân giận, ác ngôn. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát nên nghĩ như vầy: Ta cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì cứu vớt hữu tình bị các khổ trong sanh tử để được hoàn toàn lợi ích an lạc. Vì sao ta lại làm việc ác với họ.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với các loài hữu tình, đại Bồ Tát sanh tâm sân giận, phát lời hung ác thì làm chướng ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng là làm hư hoại vô biên pháp lành của Bồ Tát. Cho nên, chúng đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì không nên sân giận đối với các hữu tình, cũng không nên phát lời hung ác với họ. (Q.520, DBN)
Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm thế nào ở chung với đại Bồ Tát?
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Các đại Bồ Tát cùng đại Bồ Tát sống chung, hãy xem nhau như Thế Tôn. Vì sao? Nếu đại Bồ Tát cùng đại Bồ Tát trên dưới xem nhau nên nghĩ như vầy: Họ là chơn thiện tri thức của chúng ta, là bạn của ta cùng nhau đi chung một thuyền. Chúng ta và họ, thời gian học, học xứ và pháp được học đều không khác nhau:
Nếu người kia học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thì ta cũng phải học.
Nếu người kia học pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không thì ta cũng phải học.
Nếu người kia học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì thì ta cũng phải học.
Nói rộng ra, nếu người kia học tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thì ta cũng phải học.
Lại nghĩ như vầy: Vì ta mà đại Bồ Tát kia nói đạo Bồ đề tức là bạn lành của ta, cũng là bậc đạo sư của ta. Nếu đại Bồ Tát kia vướng vào ý nghĩ tạp loạn, xa lìa tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì ta sẽ không cùng học với họ. Nếu đại Bồ Tát kia gạt bỏ tác ý tạp loạn, không xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, thì ta sẽ cùng học với họ.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát có thể học như vậy, thì sẽ mau được viên mãn tư lương Bồ đề. Lúc học như vậy, Bồ Tát được gọi là đồng học bình đẳng với các vị đại Bồ Tát đã thành đạt đạo nghiệp. (Q.520, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). “Các pháp duyên tánh cũng là bạn lành chơn tịnh các Bồ Tát”.
Nguyên văn chữ Hán là trong hoavouu.com là:
諸chư 法pháp 緣duyên 性tánh 亦diệc 是thị 菩Bồ 薩Tát 真chân 淨tịnh 善thiện 友hữu 。
Trong hầu hết các bản dịch hiện lưu hành trong các websites Phật học đều giữ y nguyên văn cụm từ "緣duyên 性tánh", nghĩa là không dịch gì cả . Có lẽ ý muốn nói đến bốn duyên theo Duy Thức Học: 1. Nhân duyên, 2. Đẳng vô gián duyên, 3. Sở duyên duyên và 4. Tăng thượng duyên.
Sơ giải:
Như trong phần gợi ý có nói phẩm “Xảo Tiện” của Hội thứ III gồm ba phẩm: “Tập Cận”, “Tăng Thượng Mạn” và “Đồng Học” của Hội thứ II nhập lại. Nhưng Hội thứ II, chúng tôi không có chiết giải, chỉ thích nghĩa và ghi các phẩm tương đương để Quý vị nếu cần thì có thể quay lại tham khảo mà thôi.
Phẩm “Xảo Tiện” này của Hội thứ III cũng tương đương với ba phẩm:“Khéo Học”, “Đoạn Phân Biệt” và “Học Phương Tiện Xảo” của Hội thứ I nhập lại. Hội thứ I thích nghĩa và lược giải đầy đủ nhất, nên Quý vị quay lại đọc tụng so chiếu tốt nhất.
Thường chúng tôi lấy Hội thứ II làm chuẩn, vì Hội thứ II ngắn gọn dễ hiểu chỉ có điều bất tiện là Hội thứ II không có thích nghĩa và chiết giải cặn kẽ như Hội thứ I. Tuy nhiên, để bổ khuyết điểm này, trên đầu mỗi phẩm của Hội thứ II, chúng tôi có ghi chú các phẩm tương đương của Hội thứ I. Quý vị đọc lại Hội thứ II sẽ phăng ra Hội thứ I không có gì khó cả.
Giáo nghĩa của 5 Hội đầu của ĐBN giống nhau, chỉ khác là giải rộng hay tóm gọn mà thôi. Không có gì đáng “phì cười” bằng cùng một thứ rượu mà khi nói ngon khi nói dở đến 6 lần. Đó là lý do tại sao chúng tôi không muốn trùng tuyên, vì sợ Quý vị mệt mỏi đâm ra chán nản?
Từ Hội thứ II cho đến Hội thứ VI Quý vị đọc đi đọc lại chính văn cho nhuần nhuyễn, nhớ hết các giáo pháp cốt tủy thì đến Hội thứ VII trở đi Quý vị sẽ nắm vững Đại-Bát-Nhã hơn. Đó là dịp để tự mình đào sâu giáo lý Bát Nhã mà phát triển tuệ.
Sở dĩ, Phật thuyết Kinh này 6 lần (ở 6 pháp hội khác nhau) là vì Phật xiển dương kinh này tại các địa điểm khác nhau cho các đối tượng khác nhau. Nên chúng ta không có gì ngạc nhiên tại sao cùng đề tài mà Phật thuyết đến 6 lần. Nhưng chính nhờ lý do đó mà chúng ta có dịp trì tụng và ghi nhớ các giáo lý vi diệu của Kinh này. Đó không phải là việc làm thừa thãi, vô bổ mà trái lại giúp ích chúng ta hơn bao giờ hết trong việc thọ trì nhất là Bát nhã Ba la mật, một trong các loại Kinh điển được xem là khó thâm nhập vào bậc nhất!
---o0o---