Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Phẩm “Rải Hoa” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

15/08/202009:32(Xem: 7544)
27. Phẩm “Rải Hoa” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.27.Rải Hoa - HL

 

PHẨM “RẢI HOA”.

Phần cuối Q. 426 đến phần đầu Q. 427, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Rải Hoa”, cuối Q. 84 và phẩm “Học Bát Nhã”,

đầu Q. 85, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le






 

Tóm lược:

 

1. Thế nào là học nơi Không là học Không?

Bấy giờ, Thiên Đế Thích và Bốn trời đại vương chúng trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, cho đến trời Sắc cứu cánh đều khởi nghĩ này: Nay Tôn giả Thiện Hiện nhờ oai lực Phật vì tất cả hữu tình ban trận mưa pháp. Chúng ta nên hóa ra hoa trời diệu hương, phụng rải cúng dường đức Thích Ca Như Lai, các chúng Bồ Tát, Bí sô Tăng và Tôn giả Thiện Hiện, cũng rải cúng dường Bát nhã Ba la mật thậm thâm, há chẳng tốt lắm sao?

Khi ấy, Thiên Đế Thích và các thiên chúng khởi nghĩ này rồi, liền hóa hiện hoa trời vi diệu, phụng rải Thích Ca Như Lai, chúng Bồ Tát, cùng Bí sô Tăng, cụ thọ Thiện Hiện và Bát nhã Ba la mật thẳm sâu cúng dường. Lúc này ở Tam thiên đại thiên thế giới Phật đây đầy rẫy các hoa, nh thần lực Phật, tất cả hoa này biến thành đài hoa trang nghiêm đẹp lạ ở giữa hư không, lượn ngang Tam thiên đại thiên thế giới.

Bấy giờ, Thiện Hiện thấy việc đây rồi liền khởi nghĩ rằng: Hoa của chư thiên đã rải chưa từng thấy. Hoa này mầu nhiệm, quyết định chẳng phải do cỏ cây đất nước sinh ra, chắc là chư thiên vì muốn cúng dường nên từ tâm hóa ra.

Khi ấy, Thiên Đế Thích biết tâm niệm Thiện Hiện nên nói với Thiện Hiện rằng:

- Hoa đã rải đây, thật chẳng phải cỏ cây đất nước sinh ra, cũng chẳng phải từ tâm hóa ra được, chỉ là do biến hiện.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Ngươi nói hoa đây thật chẳng phải cỏ cây đất nước sinh ra, cũng chẳng từ tâm hóa ra. Đã chẳng phải là sanh pháp thời chẳng gọi là hoa.

Khi ấy, Thiên Đế Thích bạch Thiện Hiện rằng:

- Thưa Đại đức! Chỉ hoa này chẳng sanh hay các pháp khác cũng như thế?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Chẳng những hoa này chẳng sanh, mà các pháp cũng nghĩa vô sanh. Tại sao bảo như vậy? Kiều Thi Ca! Sắc cũng chẳng sanh, đây đã chẳng sanh thời chẳng phải sắc. Thọ tưởng hành thức cũng chẳng sanh, đã chẳng sanh thời chẳng phải thọ tưởng hành thức. Nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp; nhãn thức cho đến ý thức; nhãn xúc cho đến ý xúc; nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ cũng lại như thế.

Kiều Thi Ca! Bố thí Ba la mật cũng chẳng sanh, nếu đã chẳng sanh thời chẳng phải bố thí Ba la mật. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật cũng chẳng sanh, nếu đã chẳng sanh thời chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không; bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều cũng như thế.

 

(Để giải thích đoạn Kinh này, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 29, “Tán Hoa”, tập 3, quyển 55, giải thích rằng:

Ngài Tu Bồ Đề nói: Nếu hoa này chẳng sanh thì chẳng thể gọi là hoa được. Do vậy nên biết, ở trong “vô pháp”, ngài chẳng phân biệt có hoa hay chẳng có hoa.

Nghe xong, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã được tâm thuần thục, nên hỏi ngài Tu Bồ Đề rằng: Chỉ có hoa này là chẳng sanh, hay các pháp cũng đều là chẳng sanh cả?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Một pháp vô sanh thì hết thảy các pháp cũng đều vô sanh cả. Nếu người tu hành ở chung một pháp mà chẳng được minh liễu, thì ở nơi hết thảy các pháp cũng đều chẳng minh liễu.

Nên biết, nếu 5 ấm là vô sanh thì chẳng có thể gọi là 5 ấm,… dẫn đến nhất thiết chủng trí vô sanh thì chẳng gọi là nhất thiết chủng trí. 5 ấm do nhân duyên hòa hợp sanh, chỉ là giả danh, chẳng có định tướng. Thật tướng của 5 ấm là như pháp tánh thật tế, là vô tướng vậy.

 

--o0o--

 

Ở nơi “thế tục đế”, do tùy thuận chúng sanh tâm, mà lập ra danh tự để phân biệt các pháp tướng riêng khác. Thế nhưng ở nơi “Đệ nhất nghĩa đế” thì chẳng có phân biệt bỉ, thử (bên kia, bên này) nên vô tránh (chẳng có tranh cạnh) vậy. Từ sắc,… dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng đều là như vậy, chẳng có gì phân biệt cả. Do vì ngã không và chúng sanh không, nên người thuyết pháp, người nghe pháp, người hiểu pháp, người biết pháp đều là “không” cả. Bởi vậy nên quả Tu Đà Hoàn…. dẫn đến Phật đều là giả danh, giả thi thiết cả”.

Pháp không sanh thì không phải là sắc. Tất cả pháp khác kể cả Vô Thượng Bồ đề cũng đều như vậy. Giáo pháp “vô sanh-vô diệt” đã được xiển dương nhiều lần. Đó là Chân đế hay còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế).

 

Khi ấy, Thiên Đế Thích thầm nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trí huệ sâu sắc, chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh.

Phật biết điều thầm nghĩ ấy bèn bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca như ông đã nghĩ. Cụ thọ Thiện Hiện trí huệ sâu sắc, chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh.

Thiên Đế Thích liền bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Thiện Hiện đối những pháp nào chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh?

Phật bảo:

- Kiều Thi Ca! Sắc chỉ là giả danh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh của sắc. Thọ tưởng hành thức chỉ là giả danh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh của thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì pháp tánh sắc, thọ, tưởng… không trái không thuận, nên những điều Thiện Hiện đã thuyết cũng không trái không thuận. Đối với nhãn cho đến ý; sắc cho đến pháp; nhãn thức cho đến ý thức; nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ cũng lại như thế.

Kiều Thi Ca! Bố thí Ba la mật chỉ là giả danh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh của bố thí Ba la mật. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật chỉ là giả danh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh l, Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì bố thí Ba la mật cùng pháp tánh không trái không thuận, nên Thiện Hiện đã thuyết cũng không trái không thuận. Với nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy cho đến quả Dự lưu, quả A la hán, Độc giác Bồ đề, cho đến Vô Thượng Bồ đề, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng lại như thế. (Tất cả pháp kể cả pháp Phật đều giả danh)

Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện biện thuyết như thế chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Như vậy, như vậy. Như Phật đã thuyết, các pháp sở hữu không hoại giả danh. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát biết tất cả pháp chỉ là giả danh rồi, nên học Bát nhã Ba la mật. Các Bồ Tát khi học như thế, chẳng học nơi sắc. Chẳng học nơi thọ tưởng hành thức. Vì sao? Kiều Thi Ca! Bồ Tát này chẳng thấy sắc khá học. Chẳng thấy thọ tưởng hành thức khá học. Nên đối nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ cũng lại như thế.

Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát khi học như thế chẳng học nơi bố thí Ba la mật; chẳng học nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Kiều Thi Ca! Bồ Tát này chẳng thấy bố thí Ba la mật khá học; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật khá học. Nên đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy từ quả Dự lưu, cho đến quả A la hán, Độc giác Bồ đề, đến Vô Thượng Bồ đề, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng lại như thế. (Chẳng nên học tất cả pháp kể cả pháp Phật)

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Các Bồ Tát vì nhân duyên nào nên chẳng thấy sắc, cho đến chẳng thấy Nhất thiết tướng trí?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Này Kiều Thi Ca! Sắc, sắc không, cho đến Nhất thiết tướng trí, Nhất thiết tướng trí không. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát bởi nhân duyên đây, chẳng thấy sắc cho đến Nhất thiết tướng trí. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát chẳng thấy sắc, nên chẳng học nơi sắc. Cho đến chẳng thấy Nhất thiết tướng trí, nên chẳng học nơi Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì sắc không chẳng thể thấy sắc không, cho đến Nhất thiết tướng trí không chẳng thể thấy Nhất thiết tướng trí không; sắc không cũng chẳng thể học nơi sắc không, cho đến Nhất thiết tướng trí không cũng chẳng thể học nơi Nhất thiết tướng trí không. (Q. 426, ĐBN)

Này Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát chẳng học nơi không, tức Bồ Tát này học nơi không. Vì sao? Vì vô nhị vậy. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát chẳng học nơi sắc không, tức là học nơi sắc không, vì vô nhị vậy. Cho đến chẳng học nơi Nhất thiết tướng trí không, tức là học nơi Nhất thiết tướng trí không, vì vô nhị vậy. Này Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát đem vô nhị làm phương tiện học nơi sắc không, cho đến đem vô nhị làm phương tiện học nơi Nhất thiết tướng trí không, tức Bồ Tát này thường đem vô nhị làm phương tiện học bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật. Thường đem vô nhị làm phương tiện học nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Thường đem vô nhị làm phương tiện học bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy cho đến thường đem vô nhị làm phương tiện học quả Dự lưu cho đến quả A la hán. Thường đem vô nhị làm phương tiện học Độc giác Bồ đề cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thường đem vô nhị làm phương tiện học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát thường đem vô nhị làm phương tiện học bố thí Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí thời Bồ Tát này thường đem vô nhị làm phương tiện học vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì.

Này Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát thường học được vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì thời Bồ Tát này chẳng vì sắc tăng nên học, cũng chẳng vì sắc giảm nên học. Cho đến chẳng vì Nhất thiết tướng trí tăng nên học, cũng chẳng vì Nhất thiết tướng trí giảm nên học. Nếu Bồ Tát chẳng vì sắc tăng nên học, cũng chẳng vì sắc giảm nên học. Cho đến chẳng vì Nhất thiết tướng trí tăng nên học, cũng chẳng vì Nhất thiết tướng trí giảm nên học, thời Bồ Tát này chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì hoại diệt sắc nên học. Cho đến chẳng vì nhiếp thọ Nhất thiết tướng trí nên học, cũng chẳng vì hoại diệt Nhất thiết tướng trí nên học.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì nhân duyên gì nên các Bồ Tát chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì nhiếp thọ Nhất thiết tướng trí nên học, cũng chẳng vì hoại diệt Nhất thiết tướng trí nên học?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các Bồ Tát chẳng thấy có sắc là khá nhiếp thọ và khá hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ sắc và hoại diệt. Cho đến chẳng thấy có Nhất thiết tướng trí là khá nhiếp thọ và khá hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ Nhất thiết tướng trí và hoại diệt. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc thảy pháp hoặc năng hoặc sở trong ngoài đều không vậy. Nếu Bồ Tát đối tất cả pháp chẳng thấy là khá nhiếp thọ và khá hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ và hoại diệt mà học Bát Nhã thì Bồ Tát này có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Các Bồ Tát học Bát Nhã như thế có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí ư?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát học Bát Nhã như thế có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí. Đối tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ, chẳng vì hoại diệt làm phương tiện vậy.

Xá Lợi Tử lại hỏi:

- Nếu Bồ Tát đối tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ, chẳng vì hoại diệt làm phương tiện, làm sao có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí được?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã, chẳng thấy sắc hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tăng hoặc giảm. Cho đến chẳng thấy Nhất thiết tướng trí hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tăng hoặc giảm. Vì sao? Vì sắc cho đến Nhất thiết tướng trí tự tánh đều vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối tất cả pháp chẳng thấy hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tăng hoặc giảm; đem vô sở học, vô sở thành xong làm phương tiện vậy, mà học Bát nhã Ba la mật, thời có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí.

 

2. Phải cầu sở hành của Bát Nhã ở trong sở thuyết của Thiện Hiện?

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng:

- Thưa Đại đức! Sở hành Bát Nhã của các Bồ Tát phải cầu ở đâu?

Xá Lợi Tử đáp:

- Kiều Thi Ca! Sở hành Bát Nhã của các Bồ Tát phải cầu trong sở thuyết của Thiện Hiện.

 

3. Thế nào là chỗ nương?

 

Khi ấy, Thiên Đế Thích thưa Thiện Hiện rằng:

- Do thần lực Đại Đức làm chỗ nương(1), nên khiến Xá Lợi Tử khởi nói như vậy ư?

Thiện Hiện bảo rằng:

- Kiều Thi Ca! Chẳng phải thần lực tôi làm chỗ nương khiến Xá Lợi Tử khởi nói như thế.

Thiên Đế Thích hỏi:

- Vậy là do thần lực ai làm chỗ nương?

Thiện Hiện trả lời:

- Chính là do thần lực Phật làm chỗ nương?

Thiên Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Các pháp đều không chỗ nương, tại sao có thể nói được là do thần lực Phật làm chỗ nương?

Thiện Hiện bảo rằng:

- Này Kiều Thi Ca! Như vậy, như ngươi đã nói! Tất cả pháp không chỗ nương. Vậy nên Như Lai chẳng phải chỗ nương, cũng chẳng phải không chỗ nương. Nhưng vì tùy thuận thế tục thi thiết nói là chỗ nương.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa không chỗ nương thì có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa không chỗ nương thì có thể đắc Như Lai như. Chẳng phải lìa không chỗ nương thì có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong không chỗ nương, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc không chỗ nương. Chẳng phải trong không chỗ nương thì có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai, không chỗ nương có thể đắc chơn như; chẳng phải trong không chỗ nương có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai, không chỗ nương có thể đắc pháp tánh.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa sắc, có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức, có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa sắc như, có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức như, có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa sắc pháp tánh, có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức pháp tánh, có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa sắc, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức, có thể đắc Như Lai như. Chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức có thể đắc Như Lai pháp tánh. Chẳng phải lìa sắc như, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức như, có thể đắc Như Lai như. Chẳng phải lìa sắc pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải lìa thọ tưởng hành thức pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong sắc, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc sắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc thọ tưởng hành thức. Chẳng phải trong sắc như, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc sắc như. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức như, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc thọ tưởng hành thức như. Chẳng phải trong sắc pháp tánh, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc sắc pháp tánh. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức pháp tánh, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc thọ tưởng hành thức pháp tánh. Chẳng phải trong sắc, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc sắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức, có thể đắc Như Lai như, chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc thọ tưởng hành thức. Chẳng phải trong sắc, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc sắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc thọ tưởng hành thức. Chẳng phải trong sắc như, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc sắc như. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức như, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc thọ tưởng hành thức như. Chẳng phải trong sắc pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc sắc pháp tánh. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc thọ tưởng hành thức pháp tánh.

Này Kiều Thi Ca! Cho đến chẳng phải lìa Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa Nhất thiết trí như, có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Đạo tướng trí như, Nhất thiết tướng trí như, có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa Nhất thiết trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai. Chẳng phải lìa Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai như. Chẳng phải lìa Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai pháp tánh. Chẳng phải lìa Nhất thiết trí như, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như, có thể đắc Như Lai như. Chẳng phải lìa Nhất thiết trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc Nhất thiết trí. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như lai, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải trong Nhất thiết trí như, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc Nhất thiết trí như. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như. Chẳng phải trong Nhất thiết trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc Nhất thiết trí pháp tánh. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong Như Lai, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh. Chẳng phải trong Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc Nhất thiết trí. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải trong Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc Nhất thiết trí. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải trong Nhất thiết trí như, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc Nhất thiết trí như. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như, có thể đắc Như Lai như; chẳng phải trong Như Lai như, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như. Chẳng phải trong Nhất thiết trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc Nhất thiết trí pháp tánh. Chẳng phải trong Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh, có thể đắc Như Lai pháp tánh; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, có thể đắc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh.

 

4. Tương ưng hay chẳng tương ưng?

 

Này Kiều Thi Ca! Như Lai đối với sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai đối sắc như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai đối sắc pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như đối sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như đối sắc như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh đối sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh đối sắc pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.

Này Kiều Thi Ca! Như Lai lìa sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa sắc như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa sắc pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như lìa sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như lìa sắc như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh lìa sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh lìa sắc pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, lìa thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.

Này Kiều Thi Ca! Như vậy cho đến Như Lai đối Nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai đối Nhất thiết trí như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai đối Nhất thiết trí pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như đối Nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như đối Nhất thiết trí như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh đối Nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh đối Nhất thiết trí pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.

Này Kiều Thi Ca! Như Lai lìa Nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa Nhất thiết trí như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa Nhất thiết trí pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như lìa Nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai như lìa Nhất thiết trí như chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh lìa Nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai pháp tánh lìa Nhất thiết trí pháp tánh chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng; lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí pháp tánh cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.

Này Kiều Thi Ca! Xá Lợi Tử đã nói là đối tất cả pháp chẳng tức, chẳng ly, chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Thần lực Như Lai làm chỗ y chỉ(2), đem vô y chỉ làm y chỉ vậy.

 

Thích nghĩa:

(1). Chỗ nương: Dịch từ chữ y chỉ hay y trì.

(2). Y chỉ: (依止): Y () là nương dựa, Chỉ () là dừng lại, ở yên. Y chỉ là chỗ để cho người ta nương dựa và yên ở đó, tức là bậc có đủ phước đức và trí huệ, đủ sức dìu dắt người khác, như Phật là bậc Y chỉ của tất cả chúng sanh. (Rộng mở Tâm Hồn)

(1). Tương ưng: Ràng buộc với nhau, hiện hữu cùng nhau.

 

Sơ giải:

 

Phẩm này thuyết bốn vấn đề:

1. Thế nào là học nơi Không hay Tánh không Bát Nhã?

2. Phải cầu sở hành Bát Nhã ở đâu?

3. Tất cả pháp có chỗ nương hay không có chỗ nương?

4. Tất cả pháp tương ưng hay chẳng tương ưng?

 

1. Vấn đề thứ nhất:

(Thế nào là học nơi Không hay Tánh không Bát Nhã?

 

Kinh nói rằng: “Nếu Bồ Tát chẳng học nơi không, tức Bồ Tát này học nơi không. Vì sao? Vì vô nhị vậy. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát chẳng học nơi sắc không, tức là học nơi sắc không, vì vô nhị vậy. Cho đến chẳng học nơi Nhất thiết tướng trí không, tức là học nơi Nhất thiết tướng trí không, vì vô nhị vậy. Này Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát đem vô nhị làm phương tiện học nơi sắc không, cho đến đem vô nhị làm phương tiện học nơi Nhất thiết tướng trí không, tức Bồ Tát này thường đem vô nhị làm phương tiện học bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật v.v… Nếu Bồ Tát thường đem vô nhị làm phương tiện học bố thí Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí thời Bồ Tát này thường đem vô nhị làm phương tiện học vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì”.

Thật là trái lẽ quá phải không: “Bồ Tát chẳng học nơi không, tức Bồ Tát này học nơi không?” Kinh hỏi: “Vì sao? Và tự trả lời: Vì vô nhị vậy”. Học pháp có lấy có bỏ, có nhiễm có tịnh, có tăng có giảm… là nhị pháp. Nhị pháp là pháp sanh diệt đổi dời thì làm sao chứng quả? Kinh giải thích: Nếu Bồ Tát thường đem vô nhị làm phương tiện học bố thí Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí thời Bồ Tát này thường đem vô nhị làm phương tiện học được vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì”.

 

Kinh thuyết tiếp:

“Nếu Bồ Tát thường học được vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì thời Bồ Tát này chẳng vì sắc tăng nên học, cũng chẳng vì sắc giảm nên học. Cho đến chẳng vì Nhất thiết tướng trí tăng nên học, cũng chẳng vì Nhất thiết tướng trí giảm nên học. Nếu Bồ Tát chẳng vì sắc tăng nên học, cũng chẳng vì sắc giảm nên học. Cho đến chẳng vì Nhất thiết tướng trí tăng nên học, cũng chẳng vì Nhất thiết tướng trí giảm nên học, thời Bồ Tát này chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì hoại diệt sắc nên học. Cho đến chẳng vì nhiếp thọ Nhất thiết tướng trí nên học, cũng chẳng vì hoại diệt Nhất thiết tướng trí nên học”.

Có sanh diệt đổi dời là có động chuyển thì tâm không còn như như bất động nữa. Học pháp Phật thì vẫn phải học, không học làm sao liễu đạo. Nhưng phải lấy vô sở học, vô sở đắc, bất nhị làm phương tiên thì mới có cơ hội. Vậy muốn học tất cả pháp Phật thì phải như ảo nhân thính pháp mà học!

 

2. Vấn đề thứ hai:

(Phải cầu sở hành Bát Nhã ở đâu?)

 

Có một điểm cần phải nêu ra mà cả hai Pháp hội đều không giải thích trực tiếp câu hỏi này của Thiên Đế Thích:

Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng:

- Thưa Đại đức! Sở hành Bát Nhã của các Bồ Tát phải cầu ở đâu?

Xá Lợi Tử đáp:

- Kiều Thi Ca! Sở hành Bát nBa la mật của các Bồ Tát phải cầu trong sở thuyết của Thiện Hiện”.

Đó là câu trả lời, nhưng câu trả lời không được trọn vẹn, không làm hài mãn người thọ trì Bát Nhã! Vì sao? Vì Kinh không giải thích thẳng “sở thuyết của Thiện Hiện là gì mà chỉ nói lên sự tương ưng hay không tương ưng, lìa hay không lìa, tăng hay giảm, chỗ nương hay không chỗ nương giữa các pháp mà thôi”.

Chúng tôi tạm thay lời Xá Lợi Tử giải thích ngắn gọn như sau: Sở thuyết của Thiện Hiện là Không. Nếu hành được như vậy thì mau viên mãn Nhất thiết trí trí. Tại sao? Vì tất cả những gì mà Thiện Hiện thuyết cho các Bồ Tát hay tất cả chư Thiên mười phương thế giới là Tánh Không, sở trường của Thiện Hiện. Người được xem là “giải Không bậc nhất thời bấy giờ” cũng là vị đã đắc “Vô tránh Tam muội”. Cứ theo lời dạy của Thiện Hiện mà hành thì đạt sở hành, sở nguyện tức bước qua khỏi “Không môn” mà qua được bờ kia. Vì không cũng là chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế. Không cũng gọi là “Không môn” trong Tam giải thoát môn Không, Vô tướng, Vô tác.

Vì vậy, Xá Lợi Tử mới bảo kiều Thi Ca: “Sở hành Bát nBa la mật của các Bồ Tát phải cầu trong sở thuyết của Thiện Hiện”, mà sở thuyết của Thiện Hiện là Không. Đó là câu trả lời trực tiếp.

 

Đại Trí Độ Luận cũng giải thích rằng:

Phật ở trong cả 6 thời, thường dùng Phật nhãn để quán tâm chúng sanh, thường dùng trí huệ Bát Nhã thuyết về vô thường, khổ, không, vô ngã, thường phân biệt rõ về biệt tướng và tổng tướng của các pháp, thường thuyết về các nhân duyên sanh pháp, nhằm dạy chúng sanh nhận rõ các pháp đều chẳng có ai làm ra (vô chủ tác), chẳng có ai thọ (vô thọ giải), chẳng có ai biết (vô tri giả), chẳng có ai thấy (vô kiến giả), lại thường thuyết các pháp đều là vô chủ tác, vô thọ giả, vô tri giả, vô kiến giả, đều là rốt ráo không, đều là rốt ráo bất khả đắc, là đã thâm nhập được vào Bát Nhã Ba La Mật rồi”. Nên Phật bảo Thiện Hiện dạy bảo trao truyền giáo pháp này.

“Ngài Tu Bồ Đề thay Phật, đã thuyết Bát Nhã Ba La Mật tại pháp hội, lời thuyết giảng của ngài được Phật chứng minh, khiến chư Thiên Tử đến nghe pháp đều hoan hỷ tín thọ.

Do vậy mà ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã thay mặt chư Thiên, nêu lên các câu hỏi, để được các ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề giải rõ thêm.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn tự nghĩ: Chẳng biết Bát Nhã Ba La Mật tướng là như thế nào?

Biết được tâm niệm của vị Đế Thích, ngài Xá Lợi Phất nói: Ngài Tu Bồ Đề thường nhập “pháp không”, thường thuyết “pháp không”, chỗ ngài thuyết ra là “không”, dẫn đến “pháp không” đó cũng là không”.

Vì vậy phải nương nơi chỗ ngài Tu Bồ Đề thuyết mà cầu Bát Nhã Ba La Mật trong “pháp không” này.

 

3. Vấn đề thứ ba:

(Tất cả pháp có chỗ nương hay không có chỗ nương?)

 

Kinh nói: “Tất cả pháp không chỗ nương. Vậy nên Như Lai chẳng phải chỗ nương, cũng chẳng phải không chỗ nương. Nhưng vì tùy thuận thế tục thi thiết nói là chỗ nương”.

Như Lai là “như tướng”, chẳng khứ chẳng lai, bất khả đắc, chỉ là giả danh, gọi là Như Lai. Tất cả pháp đều không, trong “không” thì Như Lai bất khả đắc, mà ly “không” Như Lai cũng bất khả đắc. Vậy, trong không hay lìa không Như Lai không phải là chỗ nương, nhưng tùy theo thế tục mà nói là chỗ nương.

Vì vậy, Kinh kết luận: “Chẳng phải trong không hay lìa không chỗ nương thì có thể đắc Như Lai”.

Trong không hay lìa không tất cả pháp đều vô sở hữu bất khả đắc, thì lấy chỗ nào làm chỗ nương chỗ trụ để đắc Như Lai? Cũng như vậy, nên Kinh nói: “Chẳng phải trong sắc hay lìa sắc, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong hay lìa thọ tưởng hành thức, có thể đắc Như Lai. Cho đến chẳng phải trong hay lìa Nhất thiết trí, có thể đắc Như Lai; chẳng phải trong hay lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, có thể đắc Như Lai”.

Chẳng nương chẳng trụ mới gọi là chân trụ. Tu mà còn nương nhờ trông cậy, chẳng khác nào như dây leo nương dậu, như chim nương cành thì biết tới bao giờ mới đến được bến bờ mong muốn. Đối với Bát Nhã không chỗ nương mới là chỗ nương, cũng vậy vô sở trụ mới là chỗ trụ.

 

4. Vấn đề thứ tư:

(Tất cả pháp tương ưng hay chẳng tương ưng?)

 

“Như Lai đối với sắc hoặc lìa sắc chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối thọ tưởng hành thức hay lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Cho đến Như Lai đối Nhất thiết trí hay lìa nhất thiết trí chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hay lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng”.

Vì sao? Vì ngũ ấm là pháp sanh diệt đổi dời, do nhân duyên hòa hợp mới có, nhưng không thật có, vì không có tự tánh, bản tánh không, nên nói là không. Còn Như Lai cũng chỉ là danh tự, danh tự cũng chỉ giả thi thiết. Hai pháp như vậy đều bất khả đắc. Kinh nói không có pháp nào dù nhỏ nhiệm bằng đầu mảy lông mà có tự tánh hòa hiệp. Vì vậy, nên nói Như Lai đối với sắc hay lìa sắc chẳng tương ưng hay chẳng phải chẳng tương ưng.

 

Còn đối với “pháp như” hay “như tướng” thì như thế nào? Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ chín “Tập Tan”(Hợp và Tan), tập 3, quyển 42, nói  “… Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật biết rõ như như tướng là không, chẳng nên trú. Ly không chẳng có như như tướng. Vì như như tướng tức là không, và không tức là như như tướng”.

Vậy, Như Lai đối với pháp như, pháp tánh chẳng tương ưng cũng chẳng phải tương ưng như nói đã ở trên.

Do đó, Thiện Hiện bảo:

“Này Kiều Thi Ca! Xá Lợi Tử đã nói là đối tất cả pháp chẳng tức, chẳng ly, chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Thần lực Như Lai làm chỗ y chỉ, đem vô y chỉ làm y chỉ vậy.

Tất cả pháp đều trì độn vô tri, nên chẳng tức chẳng ly, chẳng tương ưng hay chẳng tương ưng. Chỉ có con người đối với pháp sanh động niệm, nên tâm hành sai khác mà bị trói buộc./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567