- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM “MA HA TÁT”
Quyển 47 đến phần đầu quyển 49, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Kim Cương” quyển thứ 04, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng
Gợi ý:
Phẩm “Ma Ha Tát” của Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch gồm 4 phẩm của Kinh MHBNBLMĐ gộp lại, như sau:
1. Phẩm”Kim Cang”;
2. Phẩm “Đoạn Chư Kiến”;
3. Phẩm “Phú Lâu Na” và
4. Phẩm “Thừa Đại Thừa”.
Vì phẩm “Ma Ha Tát” tương đương với 4 phẩm kể trên của Kinh MHBNBLMĐ, nên để nắm vững phẩm “Ma Ha Tát” của Kinh ĐBN, chúng tôi cũng chia phẩm này làm bốn đoạn như sau:
Tóm lược:
1. Đoạn một:
(Đoạn kinh sau đây tương đương với phẩm “Kim Cang”,
quyển thứ 04, Kinh MHBNBLMĐ)
Tại sao gọi Bồ Tát là Ma Ha Tát? Là Bồ Tát ở trong chúng đại hữu tình, sẽ là thượng thủ, nên gọi là Ma Ha Tát. Nhưng ai được gọi là những đại hữu tình? Đó là bậc trụ chủng tánh thứ tám(1), tánh địa nhơn, bát nhơn, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật. Đó gọi là chúng đại hữu tình, Bồ Tát ở trong chúng đại hữu tình như vậy, nhất định là thượng thủ, nên còn gọi là Ma Ha Tát. Đại Bồ Tát này phát tâm Kim cang dụ(2), quyết chẳng thối hoại. Vì do tâm này, mà ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Nếu đại Bồ Tát sanh tâm thế này: Ta phải mặc giáp mũ kiên cố, ở trong cánh đồng sanh tử mênh mông, đập phá vô lượng oán địch phiền não; ta phải làm khô cạn biển lớn sanh tử sâu rộng; ta phải xả bỏ tất cả gánh nặng về thân mạng, của cải trong ngoài; ta phải đem tâm bình đẳng làm việc lợi ích lớn cho tất cả hữu tình; ta phải dùng pháp ba thừa cứu độ tất cả hữu tình khiến họ nhập Niết bàn; tuy ta phải dùng pháp ba thừa khiến tất cả hữu tình được diệt độ, nhưng thật ra chẳng thấy có hữu tình nào được diệt độ; ta phải hiểu rõ như thật đối với tất cả pháp là vô sanh, vô diệt; ta nên chuyên thuần lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu hành sáu pháp Ba la mật; ta phải tu học tất cả pháp cho thông đạt rốt ráo, biến nhập diệu trí; ta sẽ phải tỏ thấu chư pháp nhất tướng trí môn(3), ta sẽ phải tỏ thấu nhẫn đến chư pháp vô lượng tướng trí môn; ta phải tu học dẫn phát pháp môn tịnh lự vô biên, pháp môn vô sắc vô lượng; ta phải tu học dẫn phát pháp ba mươi bảy Bồ đề phần, ba pháp môn giải thoát, sáu pháp môn đáo bỉ ngạn; ta phải tu học, dẫn phát vô biên pháp môn như năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đây gọi là đại Bồ Tát phát sanh đại tâm chẳng hư hoại như kim cang.
Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trụ trong đại tâm này chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu mạn thì ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Nếu đại Bồ Tát sanh tâm thế này: Trong tất cả loài địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, người, trời, các loài hữu tình nào chịu nhiều khổ não, ta phải chịu thay để họ được an lạc; nếu đại Bồ Tát sanh tâm thế này: Ta phải vì một hữu tình mà trải qua vô lượng trăm ngàn vô số đại kiếp chịu các thống khổ kịch liệt trong các địa ngục, lần lượt như vậy, cứ mỗi hữu tình cho đến tất cả hữu tình, phải trải qua vô lượng trăm ngàn vô số đại kiếp, chịu những thống khổ vô vàn trong các địa ngục; và cũng vì từng hữu tình dùng vô số phương tiện giáo hóa, khiến chứng nhập được Niết bàn; làm việc này rồi, tự trồng căn lành, lại trải qua vô lượng trăm ngàn vô số đại kiếp, hoàn thành tư lương để tu tập Bồ đề, sau đó mới chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Như vậy gọi là tâm Kim cang dụ của đại Bồ Tát.
Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trú trong tâm này, cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu mạn, thì ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Nếu đại Bồ Tát sanh tâm thế này: Từ sơ phát tâm cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ cao tột, trong khoảng thời gian này, ta thề chẳng khởi tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm phẫn (giận), tâm hận (hờn), tâm phú (che dấu), tâm não (buồn buồn), tâm cuống (dối),tâm siểm (bợ đỡ), tâm tật (tật đố, ganh ghét), tâm san (bỏn xẻn), tâm kiêu (kiêu căng), tâm hại (tổn hại) v.v... cũng chẳng khởi tâm hướng đến bậc Thanh văn, Độc giác. Đó chính là tâm thù thắng quảng đại của đại Bồ Tát.
Nếu đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trú trong tâm này cũng chẳng ỷ lại mà sanh kiêu mạn, thì ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Nếu đại Bồ Tát sanh tâm thế này: Ta phải cùng tận đời vị lai, đối với tất cả hữu tình, làm chỗ nương, làm chiếc cầu, làm con thuyền, làm bờ bến, làm hải đảo, cứu giúp, che chở họ, thường chẳng xa lìa. Chính tâm đó gọi là tâm lợi ích an lạc của đại Bồ Tát.
Nếu đại Bồ Tát, lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trú trong tâm này, cũng chẳng tự ỷ lại mà sanh kiêu mạn, thì ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Nếu đại Bồ Tát này, khi tu hành Bát Nhã, thường hay thích pháp, ưa pháp, vui mừng với pháp, hoan hỷ với pháp. Do vì duyên này nên ở trong chúng đại hữu tình nhất định được làm thượng thủ.
Nói là thích pháp, nghĩa là đối với pháp ấy, khởi lên sự ham muốn mong mỏi, tìm cầu; nói là ưa pháp, nghĩa là đối với pháp ấy, khen ngợi công đức; nói là vui mừng với pháp, nghĩa là đối với pháp ấy vui mừng, tin tưởng, thọ trì; nói là hoan hỷ với pháp, nghĩa là đối với pháp ấy hâm mộ và hết lòng tu tập. Vì do tâm này, mà ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Vì đại Bồ Tát này, khi tu hành Bát Nhã, lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trụ trong 18 pháp không, an trú trong bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí... (tất cả các thiện pháp), nên được ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ.
Vì đại Bồ Tát này, khi tu hành Bát Nhã, lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trú trong Tam ma địa Kim cang dụ, lấy vô sở đắc làm phương tiện, an trú trong Tam ma địa vô trước, vô vi, vô nhiễm, giải thoát như hư không, nên ở trong chúng đại hữu tình, nhất định được làm thượng thủ. Vì vậy, nên Bồ Tát được gọi là Ma ha tát.
Thích nghĩa cho đoạn một này:
(1). Chủng tánh thứ tám nằm trong Quyết định chúng hay Quyết định chủng tánh. Tùy theo kinh mà phân loại các chủng tính khác nhau như Kinh Nhân vương Bát Nhã quyển thượng lập thuyết ba chủng tính, tức là Tập chủng tính, Tính chủng tính, Đạo chủng tính, theo thứ tự có thể phối với mười tín tâm, mười trụ tâm và mười kiên tâm trong giai vị tu hành của Bồ Tát Đại thừa. Lại Kinh Bồ Tát Anh lạc bản nghiệp quyển thượng, lập sáu chủng tính là: Tập chủng tính, Tính chủng tính, Đạo chủng tính, Thánh chủng tính, Đẳng giác chủng tính, và Diệu giác chủng tính, theo thứ tự, có thể phối với mười trụ, mười hành, mười hồi hướng, mười địa, Đẳng giác và Diệu giác. Trong đây, trừ tính Diệu giác (tức giai vị Phật), còn năm tính kia gọi chung là năm chủng tính. Ngoài ra, Kinh Đại tập, quyển 8 cũng nêu lên mười chủng tính là: 1- Tính phàm phu. 2- Tính tín hành. 3- Tính pháp hành. 4- Tính tám nhẫn. 5- Tính Tu đà hoàn. 6- Tính Tư đà hàm. 7- Tính A na hàm. 8- Tính A la hán. 9- Tính Bích chi Phật. 10- Tính Phật chủng.
Nếu nói chung về Quyết định chúng, thì có 10 giai vị Ba thừa là: Càn tuệ địa (còn gọi Tịnh quán địa: Nghĩa là địa vị này chỉ có tuệ chứ chưa có định, tương đương với giai vị Tam hiền của Thanh văn và Giai vị của Bồ Tát từ Sơ phát tâm cho đến trước khi được Thuận nhẫn), Tính địa (cũng gọi Chủng tính địa, Chủng địa: Tức địa vị tương đương với giai vị Tứ thiện căn của Thanh văn và giai vị Thuận nhẫn của Bồ Tát, tuy đắm trước thực tướng các pháp, nhưng không sinh tà kiến, đầy đủ trí tuệ và thiền định), Bát nhân địa (cũng gọi Đệ bát địa, Bát địa. Nhân nghĩa là nhẫn. Tương đương với 15 tâm kiến đạo của Thanh văn và vô sinh pháp nhẫn của Bồ Tát), Kiến địa (cũng gọi Cụ kiến địa: Tương đương với quả Tu đà hoàn của Thanh văn và địa vị A bệ bạt trí (bất thoái chuyển của Bồ Tát), Bạc địa (cũng gọi Nhu nhuyến địa, Vi dục địa: Tức giai vị đã đoạn trừ 1 phẩm (tùy theo kinh, có kinh như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, quyển 4 hạ và Ma Ha Chỉ Quán, quyển 6 thượng nói là trừ 6 phẩm) trong 9 phẩm Tư hoặc (phiền não) ở cõi Dục, tức quả Tư đà hàm. Cũng chỉ cho địa vị Bồ Tát đã đoạn trừ các phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí mỏng (bạc), tức địa vị từ A bệ bạt trí trở lên cho đến trước quả Phật), Ly dục địa (cũng gọi Ly tham địa: Tức giai vị Thanh văn đoạn hết phiền não cõi Dục được quả A na hàm và địa vị Bồ Tát lìa dục được 5 thần thông), Dĩ tác địa (cũng gọi Sở tác biện địa, Dĩ biện địa: Tức địa vị Thanh văn được tận trí, vô sinh trí chứng đắc A la hán quả, hoặc Bồ Tát thành tựu Phật địa), Bích chi Phật địa (Duyên giác quán xét 12 nhân duyên mà thành đạo), Bồ Tát địa (Chỉ cho các địa vị từ Càn tuệ địa cho đến Li dục địa đã nói ở trên, hoặc chỉ cho Bồ Tát thập địa từ Hoan hỉ địa cho đến Pháp vân địa), Phật địa (Chỉ cho địa vị hoàn toàn đầy đủ các pháp của chư Phật như Nhất thiết chủng trí...) - Phỏng theo Từ điển Phật Quang.
Lưu ý: Nhưng nếu chỉ đề cập bậc Chủng tánh thứ tám không thôi, thì Kinh ĐBN chỉ liệt kê: Tánh địa nhơn, Bát nhơn, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật. Thích nghĩa trên rất khó nhớ, tuy nhiên đọc đi đọc lại nhiều lần tự nhiên sẽ thuộc. Đó là lý do, tại sao chúng tôi thường lặp lại một số thích nghĩa. Thích nghĩa này đã ghi trong phẩm “Học Quán”, Q.03 đến đầu Q.04, Hội thứ I, ĐBN rồi!
(2). Tâm Kim cang dụ: Tâm cứng chắc như kim cương có nghĩa là không thể lay động, biến đổi, thoái hoại. Tâm này sắc bén, bất hoại như kim cương, có thể cắt đứt tất cả phiền não câu sanh, những lậu hoặc vi tế tương tục. Kinh có giải thích bên dưới, nên không cần phải dài dòng!
(3). Nhất tướng trí (一相智)môn: Trí tuệ chứng ngộ thực tướng các pháp. Luận Đại Trí Độ, quyển 6 (Đại 25, 107 trung) nói: Tướng của các pháp đều là thực tướng, không hề chướng ngại. Dùng phương tiện ấy giáo hóa các đệ tử để thâm nhập Nhất tướng trí, gọi là Nhất tướng trí môn (Từ điển Phật Quang).
Lược giải:
(cho riêng đoạn một)
Ma Ha Tát nói trọn là Ma Ha Tát Đỏa, Hán dịch là đại hữu tình, đại chúng sanh, từ gọi chung chỉ cho bậc Bồ Tát hay Đại sĩ. Ma Ha Tát tức là bậc có nguyện đại, hạnh đại, độ chúng sinh đại, là bậc tối thượng trong thế gian, do chúng sanh, vì chúng sanh, bởi chúng sanh mà xả thân cứu độ, không sợ gian khổ, không hề gian nan quên cả bản thân mình, quên cả thời gian, quên cả kiếp số. Các bậc ấy không bao giờ lui sụt đại bi tâm cho nên gọi là Ma Ha Tát.
Tất cả những gì đem lại tốt đẹp cho đời vượt hơn những chúng đại hữu tình khác nên được gọi là thượng thủ. Vì vậy, Bồ Tát phải có tâm quảng đại thù thắng, tâm lợi ích an lạc cho toàn thể chúng sanh, nghĩa là đối với tất cả hữu tình, làm chỗ quay về, làm chỗ nương, làm chiếc cầu, làm con thuyền, làm bờ bến, làm hòn đảo, cứu giúp che chở họ thường chẳng xa lìa. Cho nên, ở trong đại chúng, nhất định được làm thượng thủ, mới được xưng tán là Ma ha tát.
Sau đây là câu trả lời của Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 13, “Kim Cương”, tập 3, quyển 45, cho câu hỏi: Tại sao gọi Bồ Tát là Ma HaTát?:
“Hỏi: Nghĩa Ma Ha Tát là như thế nào?
Đáp : Ma Ha là đại, là lớn.
Tát Đỏa là chúng sanh.
Bồ Tát Ma Ha Tát là bậc đại Bồ Tát, tối tôn, tối trọng trong chúng sanh, phát tâm rộng lớn nguyện :
- Trên, cầu đạo vô thượng.
- Dưới, hóa độ hết thảy chúng sanh.
--o0o--
Nên biết, chúng sanh có ba hướng đi. Đó là :
- Hạng chúng sanh có chánh định, quyết định vào Niết Bàn.
- Hạng chúng sanh có tà định, quyết định đọa vào ba đường ác.
- Hạng chúng sanh bất định.
Ngoại trừ Phật ra, thì trong các loài chúng sanh, chư vị Bồ Tát Ma Ha Tát là những bậc chánh định tối đại, xếp vào bậc nhất trong Thánh chúng. Thánh chúng nơi đây, bao gồm cả chư Hiền Thánh và chư Đại Bồ Tát thập địa.
Vì Bồ Tát tu thập địa nhiếp trong Thánh tánh, nên Thập địa cũng được gọi là Thánh địa.
Ví như đứa trẻ sanh trong gia định quyền quý, tuy nay còn nhỏ, nhưng quyết định về sau sẽ thành tựu được đại sự nghiệp.
Lại, ví như tu theo Thanh Văn Thừa, vào thời kỳ Kiến Đạo, hành giả lần lượt tu bốn pháp là Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế Đệ Nhất. Do tỉnh ngộ, mà thấy được đạo, vào được Kiến Đạo. Do Kiến Đạo, mà vào được Tu Đạo. Do Tu Đạo, mà được Vô Học Đạo, chứng các quả vị A La Hán, hay quả vị Bích Chi Phật.
Bồ Tát, khi đã được Vô Sanh Pháp Nhẫn, tùy theo Vô Thượng Bồ Đề mà phát tâm, thì gọi là chân phát tâm. Do biết rõ thật tướng các pháp, biết rõ tâm hành của chúng sanh, nên Bồ Tát tận phá được phiền não; lại do thường tùy theo Vô Thượng Bồ Đề, nên Bồ Tát chẳng còn khởi tâm điên đảo. Bồ Tát an trú trong Kim Cang tâm, ra vào sanh tử để cứu độ chúng sanh, mãi cho đến khi được Vô Thượng Bồ Đề, được thành Phật”.
--o0o--
“Bồ Tát Ma Ha Tát, ở trong chúng quyết định làm bậc thượng thủ, nên phát đại tâm thọ các khổ thay cho chúng sanh, mà được tâm bất động, kiên cố như kim cang. Bồ Tát được Kim Cang tâm rồi, chẳng còn bị lay động bởi phiền não, chẳng còn tín thọ ác pháp nữa. Nếu có ác ma đến đòi lấy đầu, tủy, não... Bồ Tát vẫn sẵn sàng cho hết. Nếu có bị mắng nhiếc, bị hành hung,... tâm Bồ Tát cũng vẫn chẳng lay động. Tâm Bồ Tát kiên cố như kim cang nên gọi là Kim Cang tâm.
Phật nói về tướng của Kim Cang tâm, khiến Bồ Tát tự nghĩ rằng: Chẳng phải một tháng, một năm, một đời,... mà đến vô lượng kiếp tu, ta vẫn phải phát đại thệ trang nghiêm pháp thân. Ta nguyện:
1. Trải qua vô lượng kiếp, ta phải ở trong sanh tử, để làm lợi ích cho chúng sanh.
2. Ta phải xả hết thảy các vật quí của nội và ngoại thân ta.
3. Ta phải xem hết thảy chúng sanh bình đẳng; chẳng phân biệt thương ghét, bạn thù.
4. Ta phải ở trong tam thừa đạo để độ chúng sanh vào Phật đạo.
5. Ta phải độ thoát hết thảy chúng sanh như vậy, mà vẫn chẳng thấy có chúng sanh nào được độ thoát cả.
6. Ta phải biết rõ hết thảy các pháp đều bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, và đều bình đẳng tướng.
7. Ta phải đem tâm thanh tịnh, vô nhiễm, mà hành Bát nhã Ba la mật; rồi hồi hướng công đức về Vô Thượng Bồ Đề.
8. Ta phải thông đạt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.
9. Ta phải biết rõ hết thảy các pháp đều là nhất tướng, là vô tướng. Ta phải biết rõ hết thảy các pháp đều là không; phải xa lìa các ức tưởng phân biệt.
10. Ta phải biết rõ nhị tướng,... dẫn đến vô lượng tướng đều bình đẳng, vô phân biệt. Ta phải thông đạt hết thảy các pháp môn, từ hai môn (như: hữu - vô, sanh diệt, sắc - vô sắc), ba môn (như: thiện - ác - vô ký,..) dẫn đến vô lượng môn. Ta phải diệt sạch các phiền não, diệt sạch cả nghiệp quả báo, khiến hết thảy các chướng ngại đều tán hoại.
Như kim cang có công năng phá tan hết thảy các vật, mà bản chất của kim can lại kiên cố, bất hoại; Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ, mà vẫn ở nơi bất khả đắc không, vẫn thường giữa tâm kiên cố, bất động như kim cang.
Nếu Bồ Tát đã phát đại tâm như vậy, mà còn sanh kiêu mạn, thì nghiệp tội sẽ lớn vô cùng. Vì sao? Vì đối với Bồ Tát, thì hết thảy các pháp đều là bất khả đắc. Bồ Tát, ở nơi vô sở đắc, thấy các pháp đều là như mộng, như huyễn, như hóa; chẳng thấy có pháp nào có định tướng cả.
Tâm Bồ Tát kiên cố như kim cang, nên dù vào trong ác đạo, mà vẫn cam chịu các khổ, miễn sao độ thoát chúng sanh ra khỏi các ác đạo, để rồi dạy họ tu tập các thiện pháp, dẫn dắt họ vào Niết Bàn an lạc. Bồ Tát cứu độ các chúng sanh như vậy, rồi vì chúng sanh mà tu tập các công đức, dù trải qua vô lượng kiếp cũng chẳng hề thối tâm mãi cho đến khi thành tựu quả Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Tát nguyện thay chúng sanh chịu khổ, nên dù phải trải qua vô lượng kiếp trong các nẻo đường sanh tử, mà tâm Bồ Tát chẳng hề thối thất; gánh vác cả ba nghìn thế giới, mà tâm vẫn chẳng lay động.
Tâm Bồ Tát kiên cố bất động như vậy, nên gọi là Kim Cang tâm.
Bồ Tát ở trong chúng sanh mà vẫn giữ tâm bình đẳng, chẳng sanh dục nhiễm. Vì sao? Vì nếu mống tâm thương ghét, phân biệt, thiên vị, thì liền bị giặc ái phá hoại tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là gốc của Phật đạo vậy.
Lại nữa, Bồ Tát thường hành từ bi tâm, nên chẳng có sân tâm. Lại thường quán hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, mà tự tánh vốn là không, nên chẳng sanh si tâm; lại thường ái niệm chúng sanh, nên chẳng sanh não tâm; lại thường chẳng xả chúng sanh, thường tôn quí Phật đạo, nên chẳng sanh Nhị Thừa tâm.
Hỏi: Nói tâm kiên cố như kim cang là đủ rồi. Như vậy còn nói tâm bất động làm gì nữa?
Đáp: Tâm kiên cố cũng có thể nhiều, ít, tăng, giảm. Cây lớn còn có thể bị gió lay động; nếu tâm Bồ Tát chưa thật sự kiên cố, thì vẫn có thể bị các nội ngoại duyên làm chao động. Vì sao ? Vì hễ còn có tà kiến, còn có nghi kiến,... thì tâm vẫn còn bị chao động. Bởi vậy nên phải có thật trí huệ, mới có thể được tâm kiên cố, bất động được vậy.
Lại nữa, Bồ Tát, vì lợi ích chúng sanh, thường chẳng xả chúng sanh nên thường được tâm an lạc. Trú trong tâm ấy, mà Bồ Tát chẳng chấp tâm ấy. Vì sao? Vì đối với Bồ Tát, thì lạc pháp là hơn hết. Thế nhưng chẳng phải vì vậy, mà phá hoại các pháp tướng, nên Bồ Tát chẳng thấy có pháp để chấp, chẳng thấy có pháp để thọ. Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, biết rõ vô sở đắc là tướng Niết Bàn. Bồ Tát thường tín thọ ba giải thoát môn, nên thường được lạc pháp.
Lại nữa, Bồ Tát an trú trong thập bát không, chẳng tùy ý hành, nên chẳng khởi sanh nghiệp tội; an trú trong tứ niệm xứ,... dẫn đến thập bát bất cộng pháp, diệt các phiền não, tu tập các thiện pháp, nên thường ở trong đại chúng làm bậc thượng thủ Bồ Tát vào Kim Cang tam muội được bình đẳng tâm, được an lạc hạnh, khiến tăng trưởng thiện căng, được đầy đủ trí huệ.
Do có đầy đủ các lực phương tiên như vậy, nên Bồ Tát quyết định ở trong Thánh chúng thường làm bậc thượng thủ.
Bởi các nhân duyên vậy, nên gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát”.
Thiết nghĩ với lời bình giải sâu sắc của bậc chứng ngộ, chúng ta hiểu thế nào là bậc thượng tôn trong nhân thiên được gọi là Bồ Tát Ma ha tát.
2. Đoạn hai:
(Đoạn kinh này là phần phát biểu của Ngài Xá lợi Phất và Tư Bồ Đề: “Tại sao Bồ Tát được gọi là Ma ha tát?”, trích dẫn nguyên văn từ phẩm “Đoạn Chư Kiến”, quyển thứ 04, Kinh MHBNBLMĐ).
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Con cũng muốn nói sở dĩ Bồ Tát được gọi là Ma ha tát”.
Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Ông cứ nói”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Ngã kiến, thọ kiến, mạng kiến, chúng sanh kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến, chúng số kiến, nhơn kiến, tác kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả kiến, kiến giả kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, ấm kiến, nhập kiến, giới kiến, đế kiến, nhơn duyên kiến, niệm xứ kiến, nhẫn đến bất cộng pháp kiến, Phật đạo kiến, thành tựu chúng sanh kiến, tịnh Phật quốc độ kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến.
Vì dứt trừ những kiến chấp trên đây mà vì mọi người thuyết pháp nên Bồ Tát được gọi là Ma ha tát”.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: “Duyên cớ gì mà sắc kiến là vọng kiến(1)? Duyên cớ gì thọ, tưởng, hành, thức kiến nhẫn đến chuyển pháp luân kiến là vọng kiến?”
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, vì không phương tiện nên Bồ Tát ở nơi sắc sanh kiến chấp, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chuyển pháp luân sanh kiến chấp, vì pháp dụng (dùng pháp) có sở đắc vậy.
Nơi đây đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật dùng sức phương tiện mà vì họ thuyết pháp để dứt trừ những vọng kiến, vì pháp dụng vô sở đắc vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề bạch đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Con cũng muốn nói sở dĩ mà Bồ Tát được gọi là Ma ha tát”.
Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Ông cứ nói”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Tâm Vô thượng Bồ đề, tâm vô đẳng đây chẳng cùng chung(2) với tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Tại sao? Vì đây là tâm Nhất thiết trí vô lậu chẳng hệ phược(3). Cũng chẳng chấp trước trong tâm Nhất thiết trí vô lậu chẳng hệ phược đây. Do duyên cớ nầy mà Bồ Tát được gọi là Ma ha tát”.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi: “Những gì là tâm vô đẳng đẳng của đại Bồ Tát chẳng cùng chung với tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật?”
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Đại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm trở đi trọn không thấy một pháp nào có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh, có tăng, có giảm. Nếu đã là pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, thời trong đó không tâm Thanh Văn, không tâm Bích Chi Phật, không tâm Vô thượng Bồ đề, không Phật tâm. Đây gọi là tâm vô đẳng đẳng của đại Bồ Tát chẳng cùng chung với tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Như lời Ngài Tu Bồ Đề nói, trong tâm Nhất thiết trí vô lậu chẳng hệ phược đây cũng chẳng chấp trước.
Này Ngài Tu Bồ Đề! Sắc cũng chẳng chấp trước, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng chấp trước, tứ niệm xứ nhẫn đến bất cộng pháp cũng chẳng chấp trước. Sao Ngài chỉ nói tâm đây chẳng chấp trước?”
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Phải lắm! Sắc nhẫn đến pháp bất cộng cũng chẳng chấp trước”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Tâm phàm phu cũng là vô lậu chẳng hệ phược, vì tánh rỗng không vậy. Tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật, tâm chư Phật cũng là vô lậu chẳng hệ phược, vì tánh rỗng không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Phải lắm!”
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sắc cũng là vô lậu chẳng hệ phược, vì tánh không vậy. Thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến ý xúc, nhơn duyên, sanh thọ cũng là vô lậu chẳng hệ phược, vì tánh không vậy. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng cũng là vô lậu chẳng hệ phược, vì tánh không vậy”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Vâng! Như lời Ngài Xá Lợi Phất đã nói, tâm phàm phu nhẫn đến pháp bất cộng cũng là vô lậu chẳng hệ phược, vì tánh không vậy”.
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Như lời Ngài Tu Bồ Đề đã nói, vì tâm là không nên chẳng chấp trước tâm.
Nầy Tu Bồ Đề! Vì sắc là không nên chẳng chấp trước sắc. Vì thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến ý xúc, sanh thọ là không nên chẳng chấp trước, thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng chấp trước ý xúc, sanh thọ. Vì tứ niệm xứ là không nhẫn đến bất cộng pháp là không nên chẳng chấp trước tứ niệm xứ, nhẫn đến chẳng chấp trước bất cộng pháp”.
Ngài Tu Bồ Đề nói: “Vâng, vì sắc là không nên trong sắc chẳng chấp trước. Nhẫn đến vì bất cộng pháp là không nên trong bất cộng pháp chẳng chấp trước.
Đại Bồ Tát lúc thực hành Bát Nhã dùng tâm Vô thượng Bồ đề, tâm vô đẳng đẳng chẳng cùng chung với tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng chẳng nghĩ nhớ có tâm vô đẳng đẳng này, vì pháp dụng vô sở hữu vậy. Do duyên cớ nầy mà Bồ Tát được gọi là Ma ha tát”. (4)
Thích nghĩa cho đoạn hai này:
(1). Vọng kiến (Phạm là vitatha): Chấp mê một cách phi lý như vọng kiến, vọng thức, vọng tâm, vọng niệm, vọng chấp, vọng tình v.v…
(2). Chẳng cùng chung với: Dịch từ chữ kép bất cộng với…
(3). Hệ phược (cũng gọi kiết phược hay kết phược): Chỉ cho thân tâm của chúng sanh bị các phiền não vọng tưởng hoặc những sự vật của thế giới bên ngoài ràng buộc mà mất tự do, mãi trôi lăn trong dòng sanh tử. Cứ theo kinh Chúng tập trong Trường A hàm, quyển 8, thì có 4 thứ phiền não trói buộc thân tâm của chúng sanh là: Tham dục, sân khuể, giới đạo và ngã kiến. Hệ phược trong phẩm nầy chính là các ngã kiến trói buộc. Đã thích nghĩa rồi!
(4). Đoạn kinh này trong phẩm “Đoạn Chư Kiến” của Kinh MHBNBLMĐ do Ngài La Thập tóm dịch, rất gọn, nên chúng tôi trích dẫn ở đây. Như nhiều lần lưu ý: Kinh MHBNBLMĐ, Phật thuyết ở Hội thứ II do La Thập tóm dịch cũng được gọi là đại bản giống như Kinh ĐBN, chỉ khác ĐBN là Kinh MHBNBLMĐ chỉ tóm lược có một Hội là Hội thứ II, trong khi Kinh ĐBN ghi trọn cả 16 Hội.
Quyển 411, phẩm “Đoạn Chư Kiến”, Kinh ĐBN cũng có tư tưởng tương tự, tuy nhiên diễn tả dài dòng hơn.
Lược giải:
(cho riêng đoạn hai)
Khi trình bày một vấn đề gì, tức là đưa ra quan điểm hay ý kiến, thì ý kiến đó do cái thấy biết, nhận định của chính người đó. Khi nghe thì người đó được cái lợi là biết cả hai kiến: Của mình và của người khác. Ý kiến của mình tuy không nói ra, nhưng nhờ biết ý kiến của người khác, so sánh đối chiếu để tự sửa chữa cải thiện, nên có lợi còn hơn là nói ra đôi khi chỉ làm trò đùa cho kẻ khác. Vậy biết buông bỏ ý kiến của mình thì tiếp thu được cái hiểu biết khác ngoài mình. Nên nói im lặng là vàng. Đó là cái khó.
Nhưng còn khó hơn nữa là bỏ ngoài cả ý kiến của mình và của người khác. Vì tất cả kiến đó chỉ do cóp nhặt, vay mượn từ bên ngoài mà danh từ chuyên môn gọi là hữu sư trí, cái trí phát sanh ra kiến do thâu lượm qua bao nhiêu đời từ trước khi cha mẹ sanh. Chỉ cái kiến phát sanh từ cần tu khổ tập ở giờ phút chứng ngộ, gọi là tri kiến (tri kiến là Phật trí nói theo Kinh Pháp Hoa). Đó là vô sư trí, nó không do ai chỉ dạy, nó xuất sanh từ huệ giác của chính mình, đó chính là gia bảo của nhà mình.
Cái thấy biết bằng thức là cái thấy biết phân hai, chia chẻ nên lúc nào cũng thiên lệch, nghiêng ngả. Thân kiến, biên kiến, kiến thủ… chính nó che mờ trí tuệ tánh giác của chính mình.
Nói chung, tất cả kiến dưới bất cứ hình thức nào dù là Phật đạo kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến… cũng trở thành “bệnh”. Vì vậy, kinh nói “dứt trừ những kiến chấp nầy mà vì mọi người thuyết pháp nên Bồ Tát được gọi là đại Bồ Tát”. Vì đại Bồ Tát là hữu tình giác ngộ. Dứt bỏ văn tự ngôn thuyết, trực nhận bản tâm, không qua trung gian của kiến văn giác tri của người khác. Có kiến là có chấp, nên sanh chướng. Đó là sở tri chướng, nên nói là bệnh. Nó cũng là một thứ phiền não, đi ngược với giải thoát và giác ngộ. Còn đối với Bồ Tát khi giảng thuyết Bát Nhã nói lên ý kiến của mình thì sao?
Theo Bát Nhã là khi Bồ Tát giảng thuyết, không phải các Ngài phát biểu một quan điểm nào đó của riêng mình, mà Kinh cho đó là do tác dụng của Bát Nhã. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã mở đầu bằng nghi vấn về tư cách của Tu Bồ Đề khi Ngài giảng thuyết về Bát Nhã, Tu Bồ Đề xác định rằng không phải tự Ngài có khả năng giảng thuyết về ý nghĩa sâu xa của Bát Nhã, nhưng chính diệu dụng của Bát Nhã là như thế: Người nói là Không, người nghe cũng Không, tất cả đều Không, “giả tỉ có pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng gọi đó là không”.
Sự giải thích này nói lên tánh cách huyền bí của cái gọi là diệu dụng của Bát Nhã mà đôi khi Kinh cũng cho rằng đó là do thần lực của Phật. Điều đó làm cho chúng ta khó nghĩ? Nếu được phép phát biểu thì chúng tôi có thể giải thích rằng một khi Bát Nhã đã thâm nhập vào chính các ông, thì các ông là một Bát Nhã sống, một Bát Nhã bằng xương bằng thịt. Cái gì chính các ông phát biểu đều là do diệu dụng của Bát Nhã phát ra từ trong máu mũ của các ông sau nhiều năm cần cầu tu tập.
Ngôn thuyết biện giải có tính cách bác học đòi hỏi tri thức phân tích, có phần trừu tượng, ý niệm… hơn là trực giác thông qua kinh nghiệm thực chứng của từng cá nhân. Chính Bát Nhã đem đến trực giác thực chứng khi thâm nhập được Bát Nhã Tánh Không. Và khi chứng nhập được Bát Nhã Tánh Không rồi, dĩ nhiên ta sẽ vượt qua thức. Thức chỉ làm được công việc của lý luận so đo phân biện. Không ai cần lý luận hay phân biện để sống. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.
Tri kiến vô kiến tự tức Niết bàn”.
(Trên cái thấy mà lập thêm cái biết là gốc vô minh.
Thấy mà không thấy tức Niết bàn!)
Tâm kinh Bát nhã Ba la mật nói “Vô trí diệc vô đắc”. Vô trí là năng không, vô đắc là sở không. Năng không, sở cũng không. “Quá khứ tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc”. Tâm tức tri giác đều không, vạn pháp cũng không, do nhân duyên sanh, thể của chúng cũng không, trọn chẳng thể nắm bắt được là vô sở đắc. Cái để chứng, chỗ chứng (không gian), thời chứng (thời gian) cũng không thể được. Năng sở đều không, mảy trần chẳng nhiễm, biết như thế là đoạn kiến, nên tâm mới được rỗng không mà được tự tại.
Bích Nham Lục, tắc thứ 94, Niết Bàn kinh kể lại câu chuyện bọn người mù sờ voi rồi mỗi người đưa ra một ý kiến. Có ông Tăng dựa vào đó hỏi Ngưỡng Sơn: “Có người hỏi về thiền về đạo, Hòa Thượng bèn vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ ‘bò’ trong ấy, ý của Hòa Thượng là như thế nào?” Ngưỡng Sơn nói: “Cái đó cũng chỉ là việc làm vớ vẩn mà thôi, nếu như ông hiểu ngay được nó không phải là từ bên ngoài mà đến. Nếu như ông không hiểu ngay được, nhất định là ông không thể hiểu đâu. Tôi thử hỏi ông điều này, các bậc tôn túc chỉ các nơi trên người ông nói cái gì là Phật tính? Ông xem nó là cái có nói hay cái im lặng? Hay là cái không nói mà cũng chẳng im lặng? Hay các ông coi rằng tất cả là nó hay tất cả đều không là nó? Nếu như các ông coi ngôn ngữ là nó thì các ông cũng giống như người mù nắm đuôi con voi. Nếu như các ông coi im lặng là nó thì các ông cũng giống như người mù rờ tai con voi. Nếu như các ông coi không phải ngôn ngữ hay không phải im lặng là nó thì các ông cũng giống như người mù rờ vòi voi. Nếu như các ông coi tất cả là nó thì các ông giống như người mù rờ bốn chân con voi. Nếu như các ông coi tất cả đều không phải là nó thì các ông vứt bỏ con voi mà rơi vào không kiến. Những gì mà những người mù này cảm thấy thì chỉ là cùng một con voi mà họ mô tả khác nhau mà thôi. Nếu như các ông muốn khá hơn thì đừng có rờ voi, đừng nói kiến văn giác tri là nó mà cũng đừng nói là không phải”.
Cũng cùng một con voi mà rờ đuôi thì bảo là cây chổi, rờ tai thì bảo là cây quạt, rờ chân thì bảo là cột đình... Thật nhiều dấu vết đưa đến những nẻo đường sai khác. Chúng ta có thể nói cái thấy riêng rẽ sanh ra kiến chấp cục bộ, quên đi cái tổng thể, chính nó mới là chân. Vì vậy, Ngưỡng Sơn nói tốt hơn hết là “đừng rờ voi, đừng nói kiến văn giác tri là nó mà cũng đừng nói là không phải nó!”
Phật cũng nói ai cũng có “tư kiến” của mình nên không ai chịu nghe ai, không ai tôn trọng ý kiến của người khác. Nên Phật bảo vì vậy mà đạo Phật sau khi Phật nhập diệt có đến 500 bộ phái có khi lên đến 700 bộ phái. Đó là cái tệ hại của kiến chấp.
Trong Kinh sách thường nói “Nhất niệm khởi, thiện ác phân”. Hiện tượng phân tâm ấy Thiền tông gọi là “Tâm thượng sanh tâm” (trên cái tâm nầy lại thêm một cái tâm). Cái tâm sau là niệm hoặc tư tưởng. Đó là cái thừa nên sanh mê mà chịu khổ. Thiền tông hình dung hiện tượng phân hóa ấy bằng hình ảnh một cái đầu ghép trên một cái đầu (đầu thượng trước đầu). Tổ Vân Môn nói cụ thể là: “Đầu thượng trước đầu, tuyết thượng gia sương”.
Vì vậy, trong Kinh Duy Ma Cật, phẩm thứ IX, có tên là “Vào Pháp Môn Không Hai”: Cư sĩ Duy Ma Cật đặt câu hỏi cho 32 vị Bồ Tát đến thăm bệnh mình: “Thế nào là vào pháp môn không hai?” Mỗi vị Bồ Tát tùy theo quan điểm riêng của mình, lần lượt trả lời và mỗi câu trả lời đó được xem như là một định nghĩa nhỏ của pháp môn bất nhị, tuy thâm thúy nhưng không tránh khỏi cục bộ. Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:
- “Chúng tôi ai ai cũng phát biểu rồi, đến lượt Nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?
Ông Duy Ma Cật trên bục giảng im lặng không nói. Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai”.
Ba mươi hai câu trả lời là 32 định nghĩa nhỏ về pháp môn bất nhị này, cũng có thể gọi là 32 pháp môn bất nhị nếu muốn. Còn hơn thế nữa nếu tiếp tục hỏi thì có trùng trùng điệp điệp câu trả lời về pháp môn này. Cuộc đời thường là như vậy, chia chẻ phân hóa bất tận! Nói mãi không cùng, vì vậy mà Ngài Duy Ma Cật lên bục giảng chẳng buồn lên tiếng. Về sau khi nhắc đến sự kiện này các thiền sư thường khen “đó là cái im lặng sấm sét”. Vậy, mới biết im lặng là bài thuốc nhiệm mầu trong tất cả những bài thuốc nhiệm mầu của người nhiếp tâm để có chánh định./.
3. Đoạn ba:
(Đoạn kinh này là lời phát biểu của Ngài Mãn Từ Tử(1),
tương đương với phẩm “Phú Lâu Na”, thuộc quyển thứ 04,
Kinh MHBNBLMĐ)
1- Thế nào là Bồ Tát, vì lợi lạc hữu tình, nên mặc giáp bị đại công đức?(2)
Mãn Từ Tử phát biểu: “Các Bồ Tát, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, mặc giáp bị đại công đức, phát tâm hướng đến Đại thừa, y cứ Đại thừa, nên còn gọi là Ma ha tát”. Đại Bồ Tát tu Bồ Tát đạo chẳng vì một nhóm nhỏ hữu tình mà vì tất cả hữu tình được lợi lạc, nên tu Bồ Tát đạo. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình mà mặc giáp bị đại công đức.
Đại Bồ Tát, khi an trú sáu pháp Ba la mật, khi tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật chẳng vì một nhóm nhỏ hữu tình được lợi lạc, mà chính là vì tất cả hữu tình được lợi lạc, nên tu sáu pháp Ba la mật. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, nên mặc giáp bị đại công đức.
Đại Bồ Tát mặc giáp bị đại công đức, lợi lạc hữu tình, chẳng hạn cuộc, nghĩa là chẳng nghĩ: Ta đã giáo hóa được số hữu tình như vậy khiến chứng đắc hoặc chẳng khiến chứng đắc Vô dư y Niết bàn. Ta đã giáo hóa số hữu tình như vậy, khiến an trú hoặc chẳng khiến được an trú quả vị Giác ngộ tối cao. Nhưng đại Bồ Tát này, đều muốn tất cả hữu tình đều chứng đắc Vô dư y Niết bàn và an trú quả vị Giác ngộ tối cao, nên mặc giáp bị đại công đức như vậy.
Đại Bồ Tát khởi lên ý nghĩ: Ta nên tự viên mãn bố thí Ba la mật, cũng giáo hóa cho tất cả hữu tình, đối với bố thí Ba la mật, tu hành khiến được viên mãn. Ta nên tự viên mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, cũng giáo hóa cho tất cả hữu tình, đối với tịnh giới cho đến Bát Nhã tu hành khiến được viên mãn. Ta nên tự an trú trong tất cả pháp Phật được viên mãn, cũng giáo hóa cho tất cả hữu tình, khiến được an trú trong tất cả pháp Phật được viên mãn.
Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, nên mặc giáp bị đại công đức.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành bố thí Ba la mật, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu bố thí, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, đối với thân mạng v.v... đều không lẫn tiếc. Xá Lợi Tử! Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành bố thí, mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật.
Cũng vậy, nếu Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, đối với hạnh bố thí chẳng khởi ý nghĩ Thanh văn, Độc giác. Như vậy, gọi là Bồ Tát, khi tu hành bố thí, mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành bố thí Ba la mật, đối với pháp bố thí tin tưởng chịu đựng ưa thích, vui vẻ. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành bố thí, mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành bố thí Ba la mật, đối với hạnh bố thí, siêng năng tu hành không dừng nghỉ. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành bố thí, mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành bố thí Ba la mật, đối với hạnh bố thí, nhất tâm hướng về Nhất thiết trí trí, chẳng xen lẫn ý nghĩ Thanh văn, Độc giác. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành bố thí, mặc giáp bị đại công đức tịnh lự Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành bố thí Ba la mật, đối với pháp bố thí, an trú trong tưởng như huyễn, như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa đốm giữa hư không, như trò biến hóa, như ảo thành, không thấy người cho, kẻ nhận, vật cho. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành bố thí, mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Như vậy, các đại Bố tát ấy, khi tu hành bố thí Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức, đầy đủ sáu phép Ba la mật. Đối với cái tướng của sáu phép Ba la mật, chẳng thủ đắc, chẳng đắm trước, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã mặc giáp bị đại công đức.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới Ba la mật, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới, lấy vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng với tất cả hữu tình hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, vì bảo hộ tịnh giới nên đối với các sở hữu, đều không luyến trước. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới, mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật.
Cũng vậy, nếu Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật, đối với hạnh tịnh giới còn chẳng cầu đến Thanh văn, Độc giác, huống là địa vị phàm phu. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới, mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành tịnh giới Ba la mật, đối với pháp tịnh giới tin tưởng, chịu đựng ưa thích, vui vẻ. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới, mặc áo giáp đại công đức an nhẫn Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành tịnh giới Ba la mật, đối với hạnh tịnh giới, siêng năng tu hành không dừng nghỉ. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới, mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành tịnh giới Ba la mật, đối với hạnh tịnh giới, chuyên lấy đại bi làm đầu, với nhị thừa, còn chẳng tác ý xen lẫn, huống là tâm phàm phu. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới, mặc giáp bị đại công đức tịnh lự Ba la mật.
Nếu Bồ Tát khi tu hành hành tịnh giới Ba la mật, đối với pháp tịnh giới, an trú trong tưởng như huyễn, như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa đóm trong hư không, như trò biến hóa, như ảo thành, đối với tịnh giới, chẳng ỷ lại, chẳng chấp trước, đối với việc ác phá giới, chẳng nhàm chán, chẳng chấp thủ, vì thọ trì cùng hủy phạm, bản tánh là không. Như vậy, gọi là các đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh giới, mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Như vậy, các đại Bố tát ấy, khi tu hành tịnh giới Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức, đầy đủ sáu phép Ba la mật. Đối với cái tướng của sáu phép Ba la mật, chẳng thủ đắc, chẳng đắm trước, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã mặc giáp bị đại công đức.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu an nhẫn, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, vì thành tựu an nhẫn mà đối với thân mạng v.v... không có sự luyến trước. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật.
Cũng vậy, các đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, đối với hạnh an nhẫn, chẳng tác ý xen tạp Thanh văn, Độc giác, phàm phu hạ liệt. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, đối với pháp an nhẫn, tin tưởng, chịu đựng ưa thích, vui vẻ. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật.
Lại nữa, các đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, đối với hạnh an nhẫn, siêng năng tu hành chẳng dừng nghỉ. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Lại nữa, các đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, nhiếp tâm vào một duyên tu hạnh an nhẫn, tuy gặp việc khổ mà chẳng đổi duyên khác. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, mặc giáp bị đại công đức tịnh lự Ba la mật.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, đối với pháp an nhẫn, an trú trong tưởng như huyễn, như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa đóm giữa hư không, như trò biến hóa, như thành tầm hương, vì muốn tu tập tất cả Phật pháp, vì muốn thành thục tất cả hữu tình, quán các pháp là không, chẳng chấp oán hại. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành an nhẫn, mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành an nhẫn Ba la mật, đã mặc giáp bị đại công đức đầy đủ sáu phép Ba la mật, nhưng đối với cái tướng của sáu phép Ba la mật, chẳng thủ đắc, chẳng chấp trước, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã mặc giáp bị đại công đức.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu tinh tấn, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, siêng tu các hạnh bố thí khó làm. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn, mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật.
Cũng vậy, các đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, tinh cần hộ trì cấm giới thanh tịnh. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn, mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật.
Lại nữa, các đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, siêng năng tu các hạnh an nhẫn khó làm. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn, mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật Ba la mật.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, nhiệt thành, siêng năng tu khổ hạnh có lợi ích. Như vậy, gọi là đại Bố tát, khi tu hành tinh tấn, mặc áo giáp đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, siêng năng tu các thứ tịnh lự đẳng chí. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn, mặc giáp bị đại công đức tịnh lự Ba la mật.
Lại nữa, các đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, tinh tấn tu hành trí tuệ không thủ trước. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tinh tấn, mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành tinh tấn Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu phép Ba la mật, đối với tướng của sáu phép Ba la mật, chẳng thủ đắc, chẳng chấp trước, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã mặc giáp bị đại công đức.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí mà tu Bát Nhã, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, chẳng thấy người cho, kẻ nhận, vật cho, ba luân thanh tịnh(3) mà hành bố thí. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật.
Cũng vậy, các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy trì giới và phá giới v.v... dùng tâm vô trước mà tu tịnh giới. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh lự, mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật.
Lại nữa, các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy các việc năng nhẫn, sở nhẫn ... dùng không tuệ thù thắng mà tu an nhẫn. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật.
Lại nữa, các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp rốt ráo đều không, dùng tâm đại bi mà hành tinh tấn. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán nhập, trú, xuất định và định cảnh đều rốt ráo không mà tu đẳng chí. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành tịnh lự, mặc giáp bị đại công đức tịnh lự Ba la mật.
Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp, tất cả hữu tình, tất cả Ba la mật, an trú tưởng như huyễn, như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa đốm giữa hư không, như trò biến hóa, như ảo thành mà tu các thứ tuệ không thủ trước. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, mặc giáp bị đại công đức đầy đủ sáu phép Ba la mật, đối với tướng của sáu phép Ba la mật, chẳng thủ đắc, chẳng chấp trước, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã mặc giáp bị đại công đức.
Vì các Bồ Tát do lợi lạc tất cả hữu tình, nên mặc các giáp bị đại công đức như vậy. Cho nên còn gọi là Ma ha tát.
Các đại Bồ Tát nầy được chư Phật mười phương hoan hỉ xưng danh giữa đại chúng ca ngợi rằng: Ở phương đó, trong thế giới đó, có đại Bồ Tát tên như vậy, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình mặc giáp bị đại công đức, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
2- Thế nào gọi là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, mà phát tâm(4) hướng đến Đại thừa?
Lúc thực hành sáu Ba la mật, vì muốn lợi ích hữu tình, đại Bồ Tát xa lìa ái dục cùng những pháp ác bất thiện, ly sanh hỉ lạc hữu giác hữu quán nhập sơ thiền, nhẫn đến xả niệm thanh tịnh nhập tứ thiền. Lại nương thiền, khởi tâm tương ưng với từ, bi, hỷ, xả hành tướng quảng đại, vô nhị, vô lượng, vô oán, vô hại, vô hận, vô não, khéo tu cùng khắp, thắng giải tràn đầy mười phương tận cùng hư không, pháp giới. Nương vào gia hạnh này, lại vượt lên tất cả sắc tưởng, diệt trừ tưởng hữu đối, chẳng tư duy các thứ tưởng, nhập vào vô biên không, an trú trọn vẹn trong không vô biên xứ; vượt lên tất cả không vô biên xứ, nhập vào vô biên thức, an trú trọn vẹn trong thức vô biên xứ; vượt lên tất cả thức vô biên xứ, nhập vào vô sở hữu, an trú trọn vẹn trong vô sở hữu xứ; vượt lên tất cả vô sở hữu xứ, nhập vào phi tưởng, an trú trọn vẹn trong phi phi tưởng xứ. Đại Bồ Tát ấy, lấy vô sở đắc làm phương tiện, phụng trì tịnh lự, vô lượng, vô sắc(5) này, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao. Đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Các đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên trước hết tự an trú tịnh lự, vô lượng, vô sắc như vậy. Đối với các trạng thái hành tướng của nhập, trụ, xuất khéo phân biệt hiểu biết, được tự tại rồi, lại khởi lên ý nghĩ thế này:
- Ta lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và đại bi làm đầu, vì đoạn trừ phiền não của tất cả hữu tình mà nói các tịnh lự vô lượng, vô sắc, phân biệt, khai thị, khiến khéo hiểu rõ. Đó là đại Bồ Tát nương vào tịnh lự Ba la mật, mà tu bố thí, vì muốn lợi lạc các hữu tình, mà phát tâm hướng đến Đại thừa.
- Nếu đại Bồ Tát, khi nói các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, chẳng bị các tâm Thanh văn, Độc giác làm gián tạp, thì đó là đại Bồ Tát, nương vào tịnh lự Ba la mật để tu tịnh giới, vì muốn lợi lạc các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
- Nếu đại Bồ Tát khi nói các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, đối với pháp như vậy, tin tưởng, chịu đựng, ưa thích, thì đó gọi là đại Bồ Tát nương vào tịnh lự Ba la mật mà tu an nhẫn, vì muốn lợi lạc các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
- Nếu đại Bồ Tát khi tu các tịnh lự vô lượng, vô sắc, lấy thiện căn của mình, vì hữu tình mà hồi hướng cầu quả vị Giác ngộ tối cao, đối với các thiện căn siêng tu chẳng dừng nghỉ, thì đó gọi là đại Bồ Tát nương tịnh lự Ba la mật mà tu tinh tấn, vì muốn lợi lạc các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
- Nếu đại Bồ Tát nương các tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà dẫn phát các định đẳng chí, đẳng trì, giải thoát, thắng xứ, biến xứ thù thắng, đối với sự nhập, trụ, xuất đều được tự tại, chẳng đọa vào các bậc Thanh văn, Độc giác. Đó là đại Bồ Tát nương tịnh lự Ba la mật, tu hành tịnh lự, vì muốn lợi lạc hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
- Nếu đại Bồ Tát khi tu hành các tịnh lự, vô lượng, vô sắc, đối với các tịnh lự, vô lượng, vô sắc và các chi tịnh lự, lấy hành tướng vô thường, hành tướng khổ, hành tướng vô ngã, hành tướng không, hành tướng vô tướng, hành tướng vô nguyện, mà như thật quán sát, chẳng xả đại bi, chẳng đọa vào các bậc Thanh văn, Độc giác, thì đó là đại Bồ Tát nương tịnh lự Ba la mật, tu Bát Nhã, vì muốn lợi lạc các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, nương tứ vô lượng, tứ vô sắc định tu sáu pháp Ba la mật để cứu độ chúng sanh, thì có thể nói các đại Bồ Tát ấy vì muốn lợi lạc các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát tu hành đầy đủ 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, tứ nhiếp pháp, năm loại mắt, sáu thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, khởi lên mười tám trí, từ trí không nội cho đến trí không không tánh tự tánh, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, đối với tất cả pháp, khởi trí chẳng phải loạn, chẳng phải định, khởi lên trí chẳng phải thường, chẳng vô thường, trí chẳng vui, chẳng khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay chẳng tịnh, không hay chẳng không, hữu tướng hay vô tướng, hữu nguyện hay vô nguyện, tịch tịnh hay chẳng tịch tịnh, viễn ly hay chẳng viễn ly, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Lại nữa, nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, khởi lên trí chẳng biết pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại hay trí chẳng phải chẳng biết pháp ba đời; trí chẳng biết pháp thiện, phi thiện, vô ký hay cả ba trí; trí chẳng biết pháp Dục giới, Sắc giới, vô sắc giới hay chẳng phải chẳng biết pháp cả ba cõi; trí chẳng biết pháp học, pháp vô học, pháp chẳng phải học, chẳng phải vô học, chẳng phải chẳng biết pháp học, vô học, chẳng phải học, chẳng phải vô học; trí chẳng biết pháp kiến sở đoạn, pháp tu sở đoạn, pháp phi sở đoạn, chẳng phải chẳng biết cả ba trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm trí phương tiện, trí chẳng biết pháp thế gian, trí chẳng biết pháp xuất thế gian, trí chẳng phải chẳng biết pháp thế gian xuất thế gian, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm trí phương tiện, trí chẳng biết pháp sắc, trí chẳng biết pháp vô sắc, trí chẳng phải chẳng biết pháp sắc, vô sắc, trí chẳng biết pháp hữu kiến, trí chẳng biết pháp vô kiến, trí chẳng phải chẳng biết pháp hữu kiến, vô kiến, trí chẳng biết pháp hữu đối, trí chẳng biết pháp vô đối, trí chẳng phải chẳng biết pháp hữu đối, vô đối, trí chẳng biết pháp hữu lậu, trí chẳng biết pháp vô lậu, trí chẳng phải chẳng biết pháp hữu lậu, vô lậu, trí chẳng biết pháp hữu vi, trí chẳng biết pháp vô vi, trí chẳng phải chẳng biết pháp hữu vi, vô vi, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Vì các Bồ Tát, do các phương tiện thiện xảo như vậy, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, phát tâm hướng đến Đại thừa, nên còn gọi là Ma ha tát.
Các đại Bồ Tát nầy được chư Phật mười phương hoan hỉ xưng danh giữa đại chúng ca ngợi rằng: Ở phương đó, trong thế giới đó, có đại Bồ Tát tên như vậy, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình mặc giáp bị đại công đức, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Thích nghĩa cho đoạn ba này:
(1). Mãn Từ tử hay Phú Lâu Na còn gọi là Phú Lâu Na Di đa la ni tử. (Hán dịch: Mãn Từ tử, Mãn Chúc tử, Mãn Nguyện tử. Mãn là tên của Ngài, Từ là họ mẹ; vì lấy họ mẹ nên gọi là Mãn Từ tử. Di đa la là tên tộc của bà mẹ, có nghĩa là chúc, nguyện, vì thế gọi là Mãn Chúc tử, Mãn Nguyện tử): Một trong mười đại đệ tử của đức Phật, người Ca tì la vệ, con vị Quốc sư triều Vua Tịnh phạn, thuộc dòng Bà la môn. Ngài có dung mạo đoan chính, thông minh từ thủa nhỏ, am hiểu các luận Phệ đà, lớn lên Ngài cảm thấy chán thế tục, muốn tìm đường giải thoát, nên đầu Phật xuất gia thụ giới Cụ túc, sau đó chứng được quả A la hán. Ngài có biện tài thuyết pháp không ai bằng trừ Phật. Ngài xin Phật đến xứ Thâu lu na thuyết pháp độ sinh. Người xứ nầy có tiếng là hung bạo, nhưng Ngài hóa độ gần 10 vạn người, sau đó Ngài nhập Niết bàn tại xứ nầy.
(2). Mặc giáp bị đại công đức: Kinh MHBNBLMĐ gọi là “đại thệ trang nghiêm” cũng gọi “hoằng thệ nguyện”: Thệ nguyện rộng lớn bao trùm khắp cả chúng sanh. Nguyện nghĩa của tiếng Phạm là mặc giáp lớn, tức là lập thệ nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh để thành tựu Vô thượng Bồ đề. Cụm từ “đại thệ nguyện trang nghiêm” diễn tả xác nghĩa và dễ hiểu hơn “mặc áo giáp lớn”.
(3). Ba luân thanh tịnh hay Tam luân thanh tịnh: Bố thí mà không thấy mình là người cho (cho mà thấy mình cho tức có chấp, có khoe là còn ngã tướng), không thấy kẻ nhận (phân biệt giàu nghèo, phân biệt thân sơ tức còn thấy tướng), không thấy vật cho (ít nhiều, xấu tốt nghĩa là không chấp tướng). Không thấy ba tướng đó thì tam luân thanh tịnh.
(4). Phát tâm đến Đại thừa: Bản dịch khác dùng từ “phát thú Đại thừa”, Kinh MHBNBLMĐ dùng từ “phát xu Đại thừa”. Xu có nghĩa là xu hướng, hướng về; thú cũng có nghĩa là xu hướng, mục đích, tôn chỉ. Đó là hai từ Hán Việt, có nghĩa tương tự nhau, phát tâm hướng đến Đại thừa, tu sửa nghiệp của mình từ một địa vị đến một địa vị, cho công hạnh vuông tròn để hóa độ chúng sanh.
(5). Tịnh lự, vô lượng, vô sắc: Chỉ cho tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc.
Lược giải:
(cho riêng đoạn ba này)
Đoạn kinh này có hai ý:
1- Ý thứ nhất giải thích Bồ Tát phải làm thế nào để được gọi là đại Bồ Tát, vì lợi lạc hữu tình, nên mặc giáp bị công đức? Muốn thế Bồ Tát phải học tất cả các pháp mầu Phật đạo, kế đó phải tinh luyện thuần thục sáu pháp đáo bỉ ngạn là bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Bồ Tát không những tự mình tu tập mà còn giáo hóa các hữu tình tu tập tất cả pháp môn trên.
Không phải học một môn mà được một môn, một môn đã học thuần thục rồi sẽ hỗ trợ các môn khác. Bố thí là xả bỏ tự kỷ, là phá ngã. Xả bỏ và phá ngã là con đường tốt đưa đến tiết chế tư dục. Một khi tư dục đã được tiết chế, thúc liễm rồi thì dễ tu tịnh giới. Có tịnh giới mới có an nhẫn, có an nhẫn mới có tinh tấn. Nhờ đó mới có thể tịnh tu thiền định để phát triển tuệ. Đó là diễn trình hỗ tương sinh khởi trong sự tu tập nhưng với điều kiện là chẳng nên thủ trước.
Tự mình tu, tự mình chứng đạo thì phải biết mở đạo nhãn cho kẻ khác. Đó chính là đại Bồ Tát mặc giáp bị công đức. Người làm được như vậy mới được gọi là đại Bồ Tát hay Bồ Tát Ma Ha Tát.
2- Ý thứ hai giải thích thế nào gọi là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc hữu tình mà phát tâm hướng đến Đại thừa? “Nếu đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, tu đầy đủ các pháp mầu Phật đạo từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, sáu pháp Ba la mật cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí... để cứu độ chúng sanh, thì có thể nói các đại Bồ Tát ấy vì muốn lợi lạc các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, khởi trí chẳng phải loạn, chẳng phải định, chẳng phải thường, chẳng vô thường, trí chẳng vui, chẳng khổ, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh...; khởi lên trí chẳng biết pháp quá khứ, pháp vị lai, pháp hiện tại hay trí chẳng phải chẳng biết pháp ba đời; trí chẳng biết pháp thiện, phi thiện, vô ký hay cả ba trí; trí chẳng biết pháp Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới...; chẳng biết pháp thế gian xuất thế gian; trí chẳng biết pháp sắc vô sắc; trí chẳng biết pháp hữu kiến vô kiến; trí chẳng biết pháp hữu đối vô đối; trí chẳng biết pháp hữu lậu vô lậu; trí chẳng biết pháp hữu vi vô vi v.v... nghĩa là đừng dùng trí để phân biệt chấp trước, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao, thì đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên phát tâm hướng đến Đại thừa.
Vì các Bồ Tát, do các phương tiện thiện xảo như vậy, muốn lợi lạc tất cả hữu tình, phát tâm hướng đến Đại thừa, nên còn gọi là Ma ha tát”.
Để giải thích hai ý trên Đại Trí Độ Luận phẩm thứ 5, “Phú Lâu Na”, tập 3, quyển 45 cũng chia làm hai phần, luận giải như sau:
1. Tu như thế nào thì được gọi là đại thệ nguyện trang nghiêm?
“Vị chủ tướng muốn chống phá quân giặc, phải chuẩn bị đầy đủ binh lính và khí giới, cũng như vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát muốn đánh phá ma quân, dẹp giặc phiền não phải hành sáu pháp Ba la mật, để tự trang nghiêm.
Bồ Tát trong vô lượng kiếp đã tu tập các công đức trí huệ để làm hành trang vào Phật đạo, nên mới cưỡi cỗ xe Đại Thừa, hành sáu pháp Ba la mật.
Hỏi: Vì sao Thanh Văn và Bích Chi Phật cũng hành đạo, mà lại chẳng được gọi là đại thệ trang nghiêm?
Đáp: Nhị Thừa tâm có hạn lượng, vì còn có chứng, có đắc, lại nặng về phần tự độ, nhẹ về phần tha độ.
Đối với Bồ Tát thì tự độ và tha độ đều bình đẳng như nhau, chẳng có gì phân biệt cả. Bồ Tát Ma Ha Tát tự trang nghiêm bằng cách dùng cỗ xe Đại Thừa đưa hết thảy chúng sanh vào Phật đạo, bình đẳng như nhau. Bồ Tát Ma Ha Tát tự trang nghiêm là để trang nghiêm Phật độ, nên thường hành sáu pháp Ba la mật, và cũng dìu dắt chúng sanh cùng hành sáu pháp Ba la mật
Hỏi: Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm?
Đáp: Vì muốn độ hết thảy chúng sanh, muốn cùng với hết thảy chúng sanh đồng đến Vô Thượng Bồ Đề, nên Bồ Tát Ma Ha Tát tu sáu pháp Ba la mật.
Như ngài Phú Lâu Na nói: Bồ Tát vì hết thảy trí huệ mà tu tập các công đức, để cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát chẳng mong cầu phước báo nhân thiên, mà chỉ phát đại nguyện cùng với hết thảy chúng sanh, đồng đến Niết Bàn an lạc, đồng thành Phật đạo. Như vậy là đại thệ trang nghiêm.
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng tham đắm thần thông, mà chỉ nhất tâm hành Phật đạo, cho nên dù bị người đến mắng nhiếc, đánh đập, hay đến đe dọa giết chết, Bồ Tát vẫn nhẫn thọ, vẫn an nhiên tự tại hành bố thí, nhẫn nhục, cùng các pháp Ba la mật khác. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ các pháp đều là rốt ráo không, nên trước mọi sự đe dọa, áp bức... cũng vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề nao núng. Vì Bồ Tát biết rõ các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, mà tự tánh vốn là không, biết rõ các pháp đều như huyễn, như hóa, nên thường nhất tâm, niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, thường nhập vào các thiền định. Lại vì Bồ Tát cầu nhất thiết chủng trí, nên tu tập đầy đủ sáu pháp Ba la mật, mà chẳng chấp Ba la mật tướng. Như vậy ở nơi một pháp Ba la mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba la mật kia, nên được gọi là đại trang nghiêm.
Trong các kinh có nói nhiều về bố thí Ba la mật, nhưng vì nghĩa lý của Ba la mật này quá thậm thâm, xưa nay ít có ai thấu triệt được, nên nay khai luận để giải rõ hơn về nghĩa lý của bố thí Ba la mật, cũng như về nghĩa lý của năm pháp Ba la mật kia.
Hỏi: Vì sao nói Đàn Ba la mật (bố thí) nhiếp luôn cả năm pháp Ba la mật kia?
Đáp: Nói một pháp Ba la mật nhiếp luôn cả năm pháp Ba la mật kia cũng chẳng có lỗi gì. Vì sao? Vì chẳng phải ở trong một đời mà Bồ Tát có thể hành đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật, mà phải trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng công đức hòa hợp, mới được đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật.
Khi hành một pháp Ba la mật, thì cả năm pháp Ba la mật kia cũng đồng sanh.
Lại nữa, chư Phật trong khắp mười phương, khi thuyết pháp thường lấy bố thí làm cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo.
Trong kinh thường dạy rằng, bố thí và trì giới được phước đức sanh lên cõi trời.
Hỏi: Vì sao nói bố thí là cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo?
Đáp: Vì đem pháp môn bố thí dạy cho chúng sanh, thì từ nhỏ đến lớn, từ sang đến hèn v.v... ai cũng đều có thể tu được cả.
Ví như nói :
- Bố thí cho người ghét mình sẽ làm cho sự oán hận của họ tiêu tan, biến ác thành thiện, biến thù thành bạn.
- Do hành bố thí Ba la mật mà chư Phật có được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, được đầy đủ các công đức.
- Do hành bố thí Ba la mật mà ngài Bồ Tát Bảo Thủ luôn luôn có bảy báu đầy đủ để cấp thí cho chúng sanh.
- v.v...
Nghe nói như vậy chúng sanh hoan hỷ tín thọ, tinh tấn tu bố thí và tu năm độ khác, dẫn vào được đạo Niết Bàn.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói: Bố thí là cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo.
Hỏi: Vì sao ngài Phú Lâu na nói “một pháp Ba la mật nhiếp cả năm pháp Ba la mật kia là đại trang nghiêm?”
Đáp: Nếu hành riêng rẽ từng Ba la mật, thì thế lực rất yếu. Nếu tập hội đủ cả sáu pháp Ba la mật, thì thế lực sẽ tăng lên gấp bội. Ví như khi chưa tập hợp đầy đủ quân sĩ, khí giới, lương thực thì khả năng chiến đấu còn hạn chế. Ngược lại nếu tập hợp đầy đủ quân sĩ, khí giới lương thực, cùng các phương tiện hành quân khác, thì sự chống phá giặc ắt sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều.
Bồ Tát cũng như vậy, do hành đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật, nên có lực phương tiện hùng mạnh phá hết ma quân, dẹp sạch phiền não để thẳng tiến đến Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên hành một pháp Ba la mật, mà nhiếp được cả năm pháp Ba la mật kia mới là đại trang nghiêm vậy.
Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm như vậy, được chư Phật khắp trong mười phương hoan hỷ xưng danh, tán thán rằng: Ở cõi đó, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, thành tựu chúng sanh và tịnh Phật quốc độ”.
2. Sao gọi là phát thú Đại thừa?
Nghĩa là phải học tất cả pháp mầu Phật đạo để thâm nhập Đại thừa mới có thế hóa độ chúng sanh, nên nói là phát thú Đại thừa. Cũng cùng phẩm trên Đại Trí Độ Luận nói rằng:
“Hỏi: Trong sáu pháp Ba la mật, nếu thuyết theo chiều nghịch thì phải thuyết Bát nhã Ba la mật trước, nếu thuyết theo chiều thuận thì phải thuyết Đàn Ba la mật trước. Nay vì sao vừa mở đầu đã thuyết về Thiền Ba la mật?
Đáp: Người đã phát đại thệ trang nghiêm, trước hết phải vào thiền định. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát chưa có lực thiền định thì chưa có thể ly dục tâm. Do còn dục tâm nên chưa có thể hành các Ba la mật khác được, ngoài ra còn rất dễ bị thối tâm. Ngược lại, nếu Bồ Tát vào Thiền Ba la mật mà hành từ tâm, thì từ tâm sẽ được kiên cố, bất động.
Bồ Tát hành từ tâm, nhập vào từ tâm tam muội thì dao chẳng có thể chém được, lửa chẳng có thể thiêu được, v.v... Ngoài ra còn có được nhiều thần thông biến hóa. Bởi vậy nên muốn phát đại thệ trang nghiêm, thì trước hết Bồ Tát phải vào thâm thiền định.
Phật dạy rằng: Chim phải có đầy đủ đôi cánh mới có thể bay xa được.
Cũng như vậy, người tu hành trước hết phải tu Thiền Ba la mật, rồi sau đó mới có thể tinh tấn, dõng mãnh tu các Ba la mật khác được.
Hỏi: Trong tứ thiền đã có nhiều công đức dẫn tu sáu pháp Ba la mật rồi. Nay vì sao còn nói phải tu tứ vô lượng tâm nữa?
Đáp: Bồ Tát Ma Ha Tát khi hành Bồ Tát đạo, dùng tứ vô lượng tâm để duyên các tướng tâm của chúng sanh, nhằm cứu độ họ.
Lại nữa, trong tứ vô lượng tâm có từ bi tâm. Bồ Tát thường dùng từ bi tâm để ban vui cho chúng sanh, và cứu họ thoát khổ.
Hỏi: Bồ Tát trú trong ngũ thần thông cũng làm lợi ích cho chúng sanh. Như vậy vì sao chẳng nói đến?
Đáp: Đại bi là căn bản của Bồ Tát hạnh. Bởi vậy nên nói dùng tứ vô lượng tâm mà hành sáu pháp Ba la mật mới là phát thú Đại Thừa. Vì sao? Vì từ, bi, hỷ, xả dẫn sanh sáu pháp Ba la mật.
--o0o--
Trên đây, các nhân duyên phát thú Đại thừa đã được nêu đầy đủ.
Hỏi: Vì sao phải tu tứ niệm xứ,... dẫn đến phải tu thập bát bất cộng pháp để được Nhất Thiết Chủng Trí (nói gọn là tu các pháp Phật)?
Đáp: Hành pháp có hai nghĩa. Đó là :
- Tín hành.
- Pháp tánh hành.
* Tín hành là quán về tánh vô thường, khổ, không, vô ngã.
* Pháp tánh hành là quán về các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, hoặc chỉ quán vô thường, chỉ quán khổ, chỉ quán không, chỉ quán vô ngã, mà thấu rõ được thật tướng các pháp.
Bồ Tát Ma Ha Tát vì muốn độ hết thảy chúng sanh, nên phải tu học hết thảy các pháp môn.
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát phát Đại Thừa tâm, dùng thập bát không để phá thập bát chướng pháp, rồi lại chuyển thập bát không thành đại trí huệ.
- Dùng trí huệ quán các pháp là thường định, mà chẳng có định tướng. Như vậy là dùng trí huệ quán các pháp chẳng phải định mà cũng chẳng phải loạn.
- Dùng trí huệ quán các pháp chẳng phải thường, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh, nên chẳng rơi về tứ chấp điên đảo “thường, lạc, ngã, tịnh”.
- Dùng trí huệ quán ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, quán ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, đều chẳng phải có, cũng chẳng phải chẳng có. Vì biết rõ ba thời, ba cõi đều là bất khả đắc, nên chẳng rơi vào vô minh, mà được đại trí huệ.
- Dùng trí huệ quán thế gian trí và xuất thế gian trí là chẳng phải trí, cũng chẳng phải chẳng phải trí (phi trí). Vì biết rõ trí và phi trí đều là không, là bất khả đắc cả, nên được rốt ráo thanh tịnh, chẳng trú nơi bất cứ một định tướng nào cả.
--o0o--
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng hành “không”, nhằm phá chấp về đoạn diệt, cũng chẳng hành pháp ái nhằm ly y chỉ.
Bởi vậy nên nói Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng phải hành trí, mà cũng chẳng phải chẳng hành trí (hành phi trí).
Hỏi: Thế nào gọi là phi trí?
Đáp : Xả ly các pháp, mà cũng chẳng y chỉ nơi trí huệ, chẳng khởi tâm phân biệt.
Như vậy là được “quyết định trí”, tức là được “phi trí” vậy.
Tới đây, chúng ta nói xong hai phần của Bồ Tát Ma ha tát: 1. Phát đại thệ nguyện trang nghiêm và 2. Phát thú Đại thừa. Muốn trở thành Bồ Tát Ma ha tát theo quan niêm của Phú Lâu Na, thì Bồ Tát phải hoàn thành yếu tố thứ ba là “thừa Đại thừa”, thì phải học tiếp phẩm “Đại Thừa” sau đây./.
4. Đoạn bốn:
Cuối Q.47 cho đến đầu Q.49, phẩm “Ma Ha Tát”.
(Tương đương với phẩm “Thừa Đại Thừa”, MHBNBLMĐ)
Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Phú Lâu Na: Tại sao, gọi là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình nên “nương” vào(1) Đại thừa?
Phú Lâu Na đáp: Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương bố thí, chẳng thấy bố thí, chẳng thấy pháp bố thí, chẳng thấy có người cho, chẳng thấy có kẻ nhận, chẳng thấy có vật cho, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát nương bố thí Ba la mật.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương tịnh giới, chẳng thấy có tịnh giới, chẳng thấy pháp tịnh giới Ba la mật, chẳng thấy có người trì giới, chẳng thấy có kẻ phạm giới, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát nương tịnh giới Ba la mật.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành như trên, nương an nhẫn, chẳng thấy có an nhẫn, chẳng thấy pháp an nhẫn Ba la mật, chẳng thấy có người nhẫn, chẳng thấy có cảnh để nhẫn, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát nương an nhẫn Ba la mật.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành như trên, nương tinh tấn, chẳng thấy có tinh tấn, chẳng thấy pháp tinh tấn Ba la mật, chẳng thấy có người tinh tấn, chẳng thấy có kẻ giải đãi, chẳng thấy pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát nương tinh tấn Ba la mật.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành như trên, nương tịnh lự, chẳng thấy có tịnh lự, chẳng thấy pháp tịnh lự Ba la mật, chẳng thấy có người tu định, chẳng thấy có kẻ tán loạn, chẳng thấy có cảnh giới định, chẳng thấy có pháp ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát nương tịnh lự Ba la mật.
Nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nương Bát Nhã, chẳng thấy Bát Nhã, chẳng thấy pháp Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy có người tu tuệ, chẳng thấy có kẻ ngu si, chẳng thấy pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng thấy pháp thiện, bất thiện, vô ký, chẳng thấy pháp dục giới, sắc giới, vô sắc giới, chẳng thấy pháp học, vô học, phi học, phi vô học, chẳng thấy pháp kiến sở đoạn, tu sở đoạn, phi sở đoạn, chẳng thấy pháp thế gian, xuất thế gian, chẳng thấy pháp sắc, vô sắc, chẳng thấy pháp hữu kiến vô kiến, chẳng thấy pháp hữu đối vô đối, chẳng thấy pháp hữu lậu vô lậu, chẳng thấy pháp hữu vi vô vi, chẳng thấy pháp bị ngăn trở, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát nương Bát nhã Ba la mật
Xá Lợi Tử! Nên biết, đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi tử! Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tu ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tu trí nội không, trí ngoại không, trí nội ngoại không, trí không không, trí đại không, trí thắng nghĩa không, trí hữu vi không, trí vô vi không, trí tất cánh không, trí vô tế không, trí tản không, trí vô biến dị không, trí bản tánh không, trí tự tướng không, trí cộng tướng không, trí nhất thiết pháp không, trí bất khả đắc không, trí vô tánh không, trí tự tánh không, trí vô tánh tự tánh không, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán sát như thật: Đại Bồ Tát chỉ có giả danh, mượn lời nói để nói, vì Bồ đề(2) và Tát đỏa(3) đều chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, quán sát như thật: Sắc chỉ có giả danh; mười hai xứ,mười tám giới chỉ có giả danh, mượn lời nói để nói, vì sắc, vì mười hai xứ,mười tám giới chẳng thể nắm bắt được, chỉ có giả danh, mượn lời nói để nói; vì mười hai xứ,mười tám giới, tứ thiền tứ định, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao chỉ có giả danh, mượn lời nói để nói, chẳng thể nắm bắt được, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi tử! Nếu đại Bồ Tát, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thường tu hoàn thành thần thông bất thối, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, ở chỗ các đức Phật, nghe và thọ pháp tương ưng Đại thừa; đã nghe và thọ rồi, như lý tư duy, tinh tấn tu học, thì này Xá Lợi Tử, đó là đại Bồ Tát, vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên nương vào Đại thừa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát như vậy, an trú trong bậc bất nhị(4), quán các hữu tình, nên dùng thân nào để được lợi ích, thì liền hiện thọ ngay thân ấy để khiến hữu tình kia được lợi ích. Đại Bồ Tát như vậy, cho đến khi chứng đắc Nhất thiết trí trí, tùy nơi sanh, chẳng lìa Đại thừa.
Nương Đại thừa nầy, đại Bồ Tát được Nhất thiết chủng trí chuyển pháp luân mà Thanh Văn, Bích Chi Phật và Thiên Long bát bộ đến tất cả người thế gian không thể chuyển được. Bấy giờ, chư Phật mười phương đều hoan hỉ xưng danh hiệu để ca ngợi rằng ở phương đó, quốc độ đó có đại Bồ Tát nương Đại thừa được Nhất thiết trí trí chuyển pháp luân.
Đây gọi là đại Bồ Tát nương Đại thừa, cũng còn gọi là Ma ha tát.
Thích nghĩa cho đoạn bốn này:
(1). “Nương vào Đại thừa”, “ngồi Đại thừa”, “cưỡi Đại thừa”: Kinh MHBNBLMĐ do HT Thích Trí Tịnh dịch là “ngồi”. Bản dịch cũ Kinh ĐBN do HT Thích Trí Nghiêm dịch lại dùng từ “cỡi” Đại thừa. Bản dịch mới củ soát bản dịch cũ lại dùng từ “nương” Đại thừa. Ai đọc phẩm nầy đều có thể tạm hiểu ý nghĩa của ba từ “ngồi”, “cỡi” hay “nương”. Các từ này dịch từ chữ Hán là “thừa” (乘), Phạm: Yàna, Hán âm: Diễn na, Hán dịch: Thừa vật, vận tải, vận độ: Chỉ cho vật có khả năng chuyên chở chúng sanh đến bờ bên kia, cũng tức là chỉ cho giáo pháp của đức Phật. Thừa có Đại thừa, Tiểu thừa, Nhất thừa, Nhị thừa, Tam thừa, Ngũ thừa... Giáo pháp chân thực gọi là Chính thừa; giáo pháp phương tiện (tạm thời giả đặt ra để đưa đến giáo pháp chân thực) gọi là Phương tiện thừa. Giáo pháp chuyển Phương tiện thừa thành Tu chính thừa gọi là Cứu tế thừa…Trong ba từ trên, chúng tôi chọn từ “nương”, vì nương vào giáo pháp của chư Phật mà có thể đến bến bờ bên kia.
(2). Bồ đề: Có nghĩa là Đạo, Giác, Trí, Tri. Có phiền não thì không có Bồ đề hay ngược lại: có Bồ đề thì không có phiền não. Đắc Bồ đề thì diệt hết phiền não, chứng Niết bàn. Bồ đề đầy đủ thì thành Như Lai, gọi là Vô Thượng Bồ đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác.
Kinh Bát Nhã định nghĩa Bồ đề như sau: “Bồ đề (Bodhi, giác ngộ) là Không nghĩa (sunyata), là Chân như nghĩa (tathata) là Thật tế nghĩa (dharmata). Thế nhưng, đấy là những danh tướng giả lập, những ngôn thuyết tạm thời. Bồ đề là chân thật giác, là tối thượng diệu. Bồ đề là chân, là thật, là không hư vọng, không biến dị, không bị phá hoại, không phân biệt; Bồ đề là thanh tịnh chân thật, là giác ngộ cùng khắp mà Phật sở hữu. Bồ đề là sự viên mãn căn bản từ đó chư Phật hiện Đẳng chính giác soi thấy hết thảy các pháp, hết thảy chủng tướng; vượt ngoài mọi danh ngôn thế tục tạm thời”. Từ này đã được thích nghĩa rồi, nay lặp lại bổ túc thêm cho rõ nghĩa.
(3). Tát đỏa (Phạm: Sattva. Pàli: Satta) Cũng gọi Tát đa bà, Tát hòa tát, Tát bà tát đỏa. Tát đỏa gồm có các nghĩa: Tồn tại, sinh, thực, chân, thiện, mỹ, hiền... Trong Thành duy thức luận thuật ký quyển 1, phần đầu, Tát đỏa được gọi là hữu tình, nghĩa là có tình có ý; Phật địa kinh luận quyển 2 thì cho Tát đỏa nghĩa là dũng mãnh. Ngoài ra, còn có các nghĩa: Tâm lực, hữu, hữu tướng, hàm thức, chúng sinh... Tát đỏa cũng chỉ cho Bồ Tát, tức gọi đủ là Bồ đề tát đỏa. Trong Mật giáo, Tát đỏa là chỉ cho Kim cương tát đỏa. Ngoài ra, học phái Số luận ở Ấn độ cho rằng Tát đỏa là một trong ba đức mà Tự tính (Phạm: Prakfti) phải có. (Từ điển Phật Quang).
Danh từ Tát đỏa, chúng tôi đã giải thích nhiều lần, nói đại khái là chúng sanh. Mong rằng những giải thích trên bổ túc cho các thích nghĩa trước đây thêm rõ ràng hơn.
(4). Pháp bất nhị (hay bất nhị pháp môn): Pháp môn không hai. Là giáo pháp hiển bày chân lý bình đẳng tuyệt đối, siêu việt hết thảy mọi (tương đối) sai biệt. Trong 84.000 pháp môn, bất nhị pháp môn là tối thượng hơn cả. Giáo pháp nầy được Kinh Duy Ma và Đại Bát Nhã xiển dương nhiều nhất. Chúng tôi đã thích nghĩa nhiều lần: Vì phân biệt vốn là giới xứ tương đối của phàm phu. Có phân biệt là có đối đãi, có đối đãi là có chấp trước, có chấp trước là mắc kẹt ở hai đầu. Để tránh phân biệt chấp trước nên Phật chủ trương pháp bất nhị. Siêu vượt trên có và không, là giới xứ tuyệt đối của Thành giả. Vì vậy, pháp môn bất nhị cùng với “bất phân biệt” được coi như là Chân như. Bồ Tát phải vượt qua bậc Viễn hành địa trở lên mới đạt được tri kiến nầy!
Lược giải:
(cho riêng đoạn bốn này)
Phẩm “Biện Đại Thừa”, quyển 55, Hội thứ I, ĐBN:
Để trả lời câu hỏi của Cụ thọ Thiện Hiện “Ai là người nương vào Đại thừa mà xuất hiện?”
Phật nói: “Hoàn toàn không có ai nương vào Đại thừa ấy mà xuất hiện. Vì sao? Hoặc chỗ để nương và người nương do lẽ nầy, hoặc vì lẽ nầy, mà có chỗ xuất hiện, chỗ đi đến, lúc xuất hiện, lúc đi đến, tất cả điều ấy đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, bất khả đắc, rốt ráo thanh tịnh, thì như vậy tại sao có thể nói là có chỗ để nương, có người nương, có sự xuất hiện, sự đi đến và lúc xuất hiện lúc đi đến?”
Ngã, hữu tình, mạng giả… đến tri giả, kiến giả đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Kẻ tu Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì rốt ráo thanh tịnh. Sắc vô sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ tu Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ tu Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì rốt ráo thanh tịnh. Lục Ba la mật, tứ niệm xứ… đến 18 pháp bất cộng vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; kẻ tu Đại thừa cũng không thể nắm bắt được. Chân như, pháp giới, pháp tánh… cho đến quả vị Vô thượng Bồ đề vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì tất cả pháp vô sở hữu, chẳng phải đã, sẽ nắm bắt hay hiện nắm bắt được. Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh. Kẻ tu Đại thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì rốt ráo thanh tịnh.
Phật Bảo: “Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, tuy quán tất cả pháp đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo thanh tịnh, nên không nương vào Đại thừa mà xuất hiện và đi đến, nhưng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Đại thừa ra khỏi sanh tử ba cõi, đến Nhất thiết chủng trí, lợi ích, an ổn tất cả hữu tình, đến tận cùng đời vị lai, thường không dừng nghỉ”.
Đại Trí Độ Luận, Phẩm thứ 18, “Thừa Đại Thừa”, tập 3, quyển 46, thuyết rằng:
“Bồ Tát từ nơi chúng sanh không(hay nhân không)mà vào được pháp không, nên khi hành bố thí chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật thí và cũng chẳng thấy có người thọ thí. Hành các Ba La Mật khác cũng đều như vậy cả. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
Lại nữa, Bồ Tát dùng tâm chẳng có tạp niệm, ly các phiền não. Chẳng hướng về Nhị Thừa địa, chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí mà tu tứ niệm xứ,... dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp(1), biết rõ hết thảy các pháp ấy đều là rốt ráo thanh tịnh, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
Lại nữa, Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chỉ là danh tự, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
Lại nữa, Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ, đi từ quốc độ này đến quốc độ khác, đem hoa sen bảy báu để cúng dường, tôn kính chư Phật, và để nghe chư Phật thuyết pháp Đại Thừa. Bồ Tát thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ như vậy mà chẳng sanh tưởng về chúng sanh, chẳng sanh tưởng về quốc độ, lại an trú trong “pháp môn bất nhị”, vì chúng sanh mà thọ thân, tùy tâm chúng sanh mà phương tiện thuyết pháp nhằm hóa độ họ. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.
--o0o--
Bồ Tát thừa Đại Thừa nguyện thành Phật, chuyển pháp luân nên được chư Phật khắp mười phương xưng danh và tán thán.
--o0o--
Đại Thừa là rốt ráo thanh tịnh, nên Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa dùng các thần thông để tự trang nghiêm. Trú trong thừa ấy, Bồ Tát Ma Ha Tát một thời biến hóa vô biên thân, đi khắp mười phương, cúng dường chư Phật, như vậy mãi cho đến khi được Nhất Thiết Chủng Trí vẫn chẳng hề ly Đại Thừa, chẳng hề ly chư Phật”.
--o0o--
Lưu ý:
Hầu hết kinh điển Phật học, kể cả Bát nhã Ba la mật, theo lối hành văn và cách thức trình bày khi xưa, thường không có đánh số thứ tự, phân đoạn rõ ràng, nhất là các kinh điển dịch bằng chữ Hán. Để độc giả dễ nắm ý của từng đoạn, chúng tôi đánh dấu theo số Latin hay số thứ tự hoặc mẫu tự alphabet. Đó là hình thức trình bày của hầu hết các học giả hiện đại. Lối trình bày này không làm sai lạc ý Kinh, đôi khi mang lại kết quả tốt.
Nhưng không phải công thức này có thể áp dụng bất cứ lúc nào. Cái hữu ích của phương pháp này là giúp độc giả nắm vững vấn đề hơn. Nhưng đôi khi cũng mang lại nhiều rối rắm. Phần đánh dấu của chúng tôi có tánh cách đại cương, chúng tôi không muốn dẫn quý vị độc giả vào rừng và bảo quý vị “đây là rừng”, trong khi quý vị lại than phiền “chúng tôi không thấy rừng mà chỉ thấy lá và cây”.
Như Kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật”, ghi ở quyển 577, ĐBN không gọi là phẩm mà gọi là phần: “Kim Cương Năng Đoạn” phần, thuộc Hội thứ IX, ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch, không có phân đoạn. Thái tử Chiêu Minh đời Lương, khi đọc kinh này, lãnh hội được nghĩa thú, nên chia kinh làm 32 đoạn, mỗi đoạn lại đặt tên riêng cho phù hợp với ý nghĩa của nó, rất thâm thúy. Nhiều học giả thời bấy giờ cũng như hiện đại rất khen ngợi và phỏng theo đó mà trình bày, giải luận.
Như đã nói ở trên, Kinh Đại Bát Nhã có tới 600 quyển, từ xưa đến nay không có ai có thể làm công việc phân đoạn và đặt tên như Thái tử Chiêu Minh. Tuy nhiên, Kinh tập hợp nhiều đoạn hay nhiều quyển thành phẩm, và mỗi phẩm có đặt tên riêng. Nhìn chung, nếu so sánh mỗi Hội với nhau trong toàn bộ Đại Bát Nhã, chúng ta thấy sự phân đoạn và phẩm cũng khác nhau từ hình thức trình bày cho đến nghĩa thú phẩm tựa so với chính văn mặc dù tư tưởng vẫn là một.
Để tránh ngộ nhận trong việc đọc tụng Đại Bát Nhã Ba La Mật Tổng Luận này, chúng tôi xin Quý vị độc giả đừng quá quan tâm đến việc phân đoạn của chúng tôi. Nó chỉ là những diễn đạt có tánh cách chỉ dẫn, và bất cứ chỉ dẫn nào cũng là kiến. Kiến là thức tức có phân biệt, có phân biệt là có chấp. Ai cũng biết rằng chiết giải Kinh (trình bày, phân tích, giảo luân… ) cũng là động niệm, khó tu. Nhưng không trình bày, phân tích,… thì làm sao truyền đạt hay lưu hành Bát Nhã đây?
Xin trở lại vấn đề: Đọc tụng phần đầu, Hội thứ I xong, đọc đến phần hai, Hội thứ II, quý vị sẽ thấy “dễ chịu” hơn. Vì phần hai, Hội thứ II, rất tổng quát gãy gọn, không có đánh dấu, phân đoạn nhiều, rất “nguyên chất”, Quý vị sẽ nắm được cấu trúc tổng quát của Kinh ĐBN hơn. Vì phần nhất, Hội thứ I như đã nói trên có thể xem như phần triển khai của các Kinh Bát Nhã Ba La Mật như “Đạo Hành Kinh”, “Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh”, “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật”Kinh v.v… đã lưu hành trước khi có Đại Bát Nhã ra đời. Kinh Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch quá dài, quá trùng tụng có thể làm Quý độc giả mệt mỏi./.
---o0o---