Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Phẩm “Tham Hành”

08/01/202107:46(Xem: 7674)
17. Phẩm “Tham Hành”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-523

 

XVII. PHẨM “THAM HÀNH”

Phần cuối Q.562 cho đến phần đầu Q.563, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

(Nghĩa xứ Bát Nhã)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay, Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này thành tựu công đức lớn như thế. Thế Tôn có thể trải kiếp số như cát sông Hằng, thuyết các hành tướng trạng Bất thối chuyển, cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm, làm cho các Bồ Tát an trụ trong đó, tu Bồ đề hạnh mau được viên mãn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ngươi nay có thể hỏi việc như thế. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho ngươi.

Thiện Hiện nên biết! Nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết bàn, là pháp nghĩa hiển hiện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm, hay là tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả các pháp khác cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là sâu thẳm.

Thiện Hiện! Thế nào là sắc cho đến thức cũng gọi là sâu thẳm? Nghĩa là chơn như sâu xa nên sắc cho đến thức cũng gọi là sâu thẳm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu chỗ không sắc gọi sắc sâu thẳm, nói rộng cho đến chỗ không thức gọi thức sâu thẳm.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Đó là Phương tiện mầu nhiệm ngăn khiển năm uẩn, hiển bày Niết bàn.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nếu các Bồ Tát thường quán sát kỹ nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm như thế thì nghĩ: Ta nên y như Bát Nhã sâu thẳm đã chỉ dạy mà an trú. Ta nay nên như Bát nhã Ba la mật đã giảng thuyết mà học. Các Bồ Tát này do thường nương tựa nghĩa xứ tương ưng Bát Nhã như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành dù chỉ trong một ngày số phước đức đạt được cũng vô lượng, vô biên.

Thiện Hiện nên biết! Các Bồ Tát này nương theo nghĩa xứ tương ưng Bát Nhã sâu thẳm như thế, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành thì tùy theo đó mà có thể giải thoát bao nhiêu tội lỗi thường làm trở ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thế nên Bồ Tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát Nhã, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, không lười nhác thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(So lường công đức của người thọ trì Bát Nhã với

người tu học nhưng xa lìa Bát Nhã)

 

Thiện Hiện nên biết! Nếu các Bồ Tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát Nhã sâu thẳm, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành trải qua một ngày một đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng của các Bồ Tát lìa Bát Nhã sâu thẳm vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nương nghĩa xứ tương ưng Bát Nhã, quán sát kỹ, tinh tấn tu hành, trải qua 1 ngày 1 đêm thì công đức đạt được, hơn công đức bố thí của các Bồ Tát xa lìa Bát Nhã trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, đem các đồ cúng dường bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nương Bát nhã Ba la mật đã nói mà an trú, trải qua một ngày một đêm siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, thì công đức đạt được, hơn công đức đạt được của các Bồ Tát lìa Bát nhã Ba la mật trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng, siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nương Bát Nhã sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày một đêm đem pháp vi diệu bố thí cho các loài hữu tình thì công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ Tát lìa Bát Nhã sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nương Bát Nhã sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày một đêm tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp và các căn lành khác, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ Tát lìa Bát Nhã sâu xa, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp và các căn lành khác vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nương Bát Nhã sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày một đêm tu các pháp tài thí, pháp thí, ở chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, công đức đạt được hơn công đức đạt được của các Bồ Tát lìa Bát Nhã, trải qua số đại kiếp như cát sông Hằng tu các pháp tài thí, pháp thí, an trú chỗ vắng vẻ, buộc niệm tư duy các pháp phước nghiệp tu trước kia, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vô lượng, vô biên.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát nương Bát Nhã sâu xa đã nói mà an trú, trải qua một ngày một đêm duyên khắp công đức thiện căn của ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì công đức đạt được của các Bồ Tát này hơn công đức đạt được của các Bồ Tát lìa Bát Nhã sâu xa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng duyên khắp thiện căn công đức ba đời chư Phật và các đệ tử, hoà hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề vô lượng, vô biên.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Lai thường thuyết: Chư hành đều là do phân biệt tạo ra, đều chẳng phải thật có, thì vì nhơn duyên gì các Bồ Tát này đạt được công đức vô lượng, vô biên?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát ấy hành Bát Nhã sâu thẳm cũng thường quán sát thiện sự đã làm là Không, vô sở hữu, hư dối chẳng thật. Như thật quan sát thiện sự đã làm là không, vô sở hữu như vậy, thì chẳng lìa Bát Nhã sâu thẳm. Nếu chẳng lìa Bát nhã Ba la mật sâu thẳm như vậy, thì chỗ được công đức vô lượng vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa vô lượng, vô biên, có gì sai khác?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nói vô lượng là ở trong đó lượng của nó dứt hẳn. Nói vô biên là số đó không thể đếm(1).

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có nhơn duyên nào, sắc cho đến thức cũng vô lượng, vô biên chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Cũng có nhơn duyên sắc cho đến thức vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên nào, sắc cho đến thức vô lượng, vô biên?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vì sắc cho đến thức đều tánh Không, nên vô lượng, vô biên.

 

(Tất cả pháp chẳng pháp nào chẳng không)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức Không, hay tất cả pháp đều Không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ta nói tất cả các pháp, không pháp nào chẳng đều Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:       

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là nói về pháp nào?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Vô lượng, vô biên là nói về không, vô tướng, vô nguyện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có phải chỉ là không, vô tướng, vô nguyện; hay là còn có nghĩa gì khác nữa?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Ta đâu chẳng nói: Tất cả pháp đều là Không?

Thiện Hiện thưa:

- Như Lai thường nói: Tất cả pháp đều Không.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Không, tức là vô tận, không tức vô lượng, không tức vô biên, không tức các nghĩa. Vậy nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn dù có các thứ lời nói sai khác mà nghĩa không khác.

Thiện Hiện nên biết! Lý không của các pháp hoàn toàn không thể nói. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô tác, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói chẳng phải có, hoặc nói là tịch tịnh, hoặc nói là lìa nhiễm, hoặc nói là Niết bàn... Vô lượng pháp môn như thế, nghĩa chơn thật chẳng khác, đều là Như Lai phương tiện diễn thuyết. (Q. 562, ĐBN)

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật tánh của các pháp phương tiện thiện xảo đều chẳng thể nói, nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ ra. Như con hiểu nghĩa Phật dạy: Thật tánh các pháp đều không thể nói.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Vì tánh tất cả pháp đều rốt ráo Không, không ai có thể tuyên nói về rốt ráo Không ấy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa bất khả thuyết có tăng, có giảm chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa bất khả thuyết không tăng, không giảm thì đúng ra bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng không tăng, không giảm. Nếu sáu pháp Ba la mật này cũng không tăng, không giảm thì Bồ Tát vì lẽ gì dùng Ba la mật không tăng, không giảm cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Nếu sáu pháp Ba la mật của các Bồ Tát tăng giảm thì chẳng thể gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Nghĩa bất khả thuyết của Bát nhã Ba la mật hoàn toàn không thêm bớt, nhưng các Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu thẳm chẳng nghĩ sáu pháp Ba la mật này có tăng, có giảm, mà nghĩ: Chỉ có danh, tướng; nghĩa là bố thí cho đến Bát Nhã. Các Bồ Tát này tu hành bố thí cho đến Bát Nhã đem sáu pháp này tác ý tương ưng và nương vào đó phát khởi tâm và căn lành, bình đẳng ban cho các hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của Phật nhiệm mầu sâu xa mà phát khởi hồi hướng. Do hồi hướng này, tăng thêm thế lực phương tiện thiện xảo, có thể chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Thế nào là quả vị Vô Thượng Bồ đề?)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp nào được gọi là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các pháp như, gọi đó là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp như tánh không tăng, không giảm nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không tăng giảm. Nếu các Bồ Tát thường an trụ tác ý tương ưng với tánh như như thế, thì gần quả vị Vô Thượng Bồ đề. Như vậy, này Thiện Hiện! Nghĩa bất khả thuyết mặc dù không thêm không bớt mà không thối thất tác ý tánh như. Bát Nhã mặc dù không tăng, không giảm mà không thối thất sở cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề. Nếu các Bồ Tát an trú tác ý tánh như như thế, tu hành 6 pháp Ba la mật, liền gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này là tâm đầu phát sanh có thể gần Bồ đề; hay là tâm sau phát sanh có thể gần Bồ đề? Nếu tâm đầu phát sanh gần Bồ đề thì khi tâm đầu phát sanh, tâm sau chưa sanh. Như thế, không có nghĩa hòa hiệp. Nếu tâm sau phát sanh, có thể gần Bồ đề thì khi tâm sau phát sanh, tâm đầu đã diệt mất, cũng không có nghĩa hòa hiệp. Như vậy, tâm, tâm sở trước sau tới lui gạn tìm không có nghĩa hòa hiệp. Như thế thì làm sao có thể chứa nhóm được căn lành? Nếu các căn lành chẳng thể chứa nhóm, thì làm sao Bồ Tát có thể gần Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Như khi đốt đèn thì ngọn lửa đầu đốt cháy tim đèn, hay ngọn lửa sau đốt cháy tim đèn?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như ý con hiểu thì chẳng phải ngọn lửa đầu có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa đầu. Chẳng phải ngọn lửa sau có thể đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa sau.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Tim đèn có cháy chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế gian hiện thấy cái tim đèn thật có cháy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ Tát cũng như thế. Chẳng phải tâm đầu phát sanh được gần Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm đầu. Chẳng phải tâm sau phát sanh được gần Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm sau, mà các Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa phương tiện thiện xảo làm cho các căn lành tăng trưởng viên mãn nên được gần Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Duyên khởi như thế, lý thú sâu xa. Chẳng phải ngay các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ Tát có thể gần Bồ đề. Chẳng phải lìa các tâm phát sanh trước sau mà các Bồ Tát có thể gần Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Nếu tâm diệt rồi thì có sanh không?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn, không. Tâm đó đã diệt thì không thể sanh lại.

- Ý ngươi thế nào? Nếu tâm đã sanh thì pháp có diệt không?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Nếu tâm đã sanh thì nhất định có pháp diệt.

- Ý ngươi thế nào? Pháp có diệt, tâm chẳng phải diệt chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải. Pháp có diệt, tâm nhất định sẽ diệt.

- Ý ngươi thế nào? Pháp không diệt, tâm có thể sanh chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không diệt, tâm chẳng có nghĩa sanh.

- Ý ngươi thế nào? Pháp không sanh, tâm có thể diệt chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng được. Pháp không sanh, tâm không có nghĩa diệt.

- Ý ngươi thế nào? Pháp không sanh diệt, tâm có thể sanh diệt chăng?

- Bạch Thế Tôn, không. Pháp không sanh diệt, tâm không có nghĩa sanh diệt.

- Ý ngươi thế nào? Nếu pháp đã diệt rồi, diệt nữa được chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp diệt rồi thì chẳng thể diệt nữa.

- Ý ngươi thế nào? Nếu pháp sanh rồi, sanh nữa được chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng được. Nếu pháp sanh rồi, chẳng thể sanh nữa.

- Ý ngươi thế nào? Thật tánh các pháp có sanh diệt không?

- Bạch Thế Tôn, thật tánh các pháp không sanh, không diệt.

- Ý ngươi thế nào? Tâm an trú là tâm như chăng?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Tâm an trú như thế là tâm như.

- Nếu tâm trụ như như, tâm này là như như thật tế tánh thường trụ chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải. Tâm này chẳng như như thật tế tánh ấy thường trụ.

- Ý ngươi thế nào? Có phải như các pháp rất sâu xa chăng?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như thế. Các pháp như rất là sâu xa.

- Ý ngươi thế nào? Có phải chính như là tâm chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ngươi thế nào? Có phải lìa như có tâm chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ngươi thế nào? Có phải tâm tức là như chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ngươi thế nào? Có phải lìa tâm có như chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ngươi thế nào? Có phải như có thể thấy như chăng?

- Bạch Thế Tôn, chẳng phải.

- Ý ngươi thế nào? Ông thấy có thật như không?

- Bạch Thế Tôn, không.

- Ý ngươi thế nào? Nếu các Bồ Tát luôn hành như thế, có phải là hành Bát Nhã sâu xa không?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Nếu các Bồ Tát thường hành như thế thì chính là hành sâu Bát nhã Ba la mật.

 

Quyển thứ 563 

    

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát hành như thế là hành chỗ nào?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát hành như thế thì hoàn toàn không chỗ hành. Vì sao? Vì các pháp hành đều chẳng động chuyển vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa là hành nghĩa đế nào?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa là hành Thắng nghĩa đế.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Nếu các Bồ Tát hành Thắng nghĩa đế thì đối với Thắng nghĩa đế là thủ tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Các Bồ Tát này đối với Thắng nghĩa đế tuy chẳng thủ tướng mà hành tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Các Bồ Tát này đối với tướng Thắng nghĩa đế đã chẳng hành tướng thì hoại tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Các Bồ Tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại tướng thì khiển tướng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn, không!

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các Bồ Tát này đối với Thắng nghĩa đế nếu chẳng hoại, chẳng khiển thì làm sao có thể dứt được chấp thủ tướng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này chẳng nghĩ: Ta dứt tưởng tướng hoại, tướng khiển; cũng chưa tu học đạo dứt tưởng. Nếu các Bồ Tát tinh tấn tu hành đạo dứt tưởng mà chưa đầy đủ Phật pháp, thì đúng ra phải rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Các Bồ Tát này phương tiện thiện xảo nên mặc dù đối với các tướng và tưởng chấp thủ tướng biết là rất lỗi lầm, nhưng chẳng hoại, khiển để mau dứt tưởng này, chứng tướng không. Vì sao? Vì chưa viên mãn tất cả pháp Phật vậy. (Q.563, ĐBN)

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy!

Khi ấy, Xá lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát trong giấc mộng tu hành ba môn giải thoát thì đối với Bát Nhã sâu xa có lợi ích chăng? Nếu khi các Bồ Tát thức, tu hành ba môn giải thoát, đối với Bát Nhã đã có lợi ích thì trong giấc mộng họ tu cũng có lợi ích. Vì sao? Vì Phật dạy: Mộng, thức không sai khác vậy.

Thiện Hiện thưa:

- Nếu khi các Bồ Tát thức, tu hành Bát Nhã sâu thẳm, đã được gọi là an trụ Bát Nhã sâu thẳm, thì các Bồ Tát này trong giấc mộng, tu hành Bát Nhã cũng được gọi là an trụ ba môn giải thoát sâu thẳm. Đối với Bát Nhã cũng có lợi ích như thế; hoặc mộng, hoặc thức, nghĩa không sai khác.

 

(Cần có sở duyên nghĩ nghiệp mới sanh)

 

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trong giấc mộng tạo nghiệp có thành tội không?

Phật dạy:

- Các pháp chẳng thật như mộng, nên sự tạo ra các nghiệp ở trong mộng cũng không thành tội; cần phải đến lúc thức dậy, nhớ tưởng phân biệt mới thành.

Thiện Hiện thưa:

- Nếu các hữu tình trong giấc mộng thấy giết hại sinh mạng, đến khi thức dậy nhớ tưởng phân biệt, rất vui mừng, thì sự tạo nghiệp của người đó chẳng thành ư?

Xá lợi Tử thưa:

- Không có sở duyên, hoặc nghĩ, hoặc buộc lòng tin, nghiệp chẳng thể sanh; cần phải có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới phát sanh. Nghiệp suy nghĩ trong giấc mộng duyên đâu mà sanh?

Thiện Hiện thưa:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy. Hoặc trong mộng, hoặc lúc thức, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh. Cần phải có sở duyên suy nghĩ, nghiệp mới sanh. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì cần phải đối với các tướng thấy nghe, hiểu biết, có tác động của sự hiểu biết, do đó mới phát sanh nhiễm hoặc tịnh. Nếu không có các tướng: Thấy, nghe, hiểu biết thì không có tác dụng của sự hiểu biết, cũng không nhiễm tịnh. Do đó nên biết, hoặc trong mộng, hoặc lúc thức có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp mới sanh. Nếu không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh.

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Phật thuyết sở duyên đều lìa tự tánh. Như thế thì làm sao có thể nói có sở duyên suy nghĩ nghiệp mới phát sanh, không có sở duyên suy nghĩ thì nghiệp chẳng sanh?

Thiện hiện đáp:

- Mặc dù các nghiệp suy nghĩ và sở duyên đều lìa tự tánh, nhưng do tự tâm chấp thủ tướng phân biệt, nên thế tục đặt bày nói là có sở duyên phát sanh các nghiệp suy nghĩ, chẳng phải sở duyên này lìa tâm riêng có.

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát trong giấc mộng làm việc bố thí. Bố thí xong, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các Bồ Tát này có phải là thật đem bố thí hồi hướng Bồ đề Vô thượng Phật chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bồ Tát Từ Thị từ lâu đã được thọ ký đắc đại Bồ đề, nên có thể thưa hỏi, nhất định Ngài sẽ đáp.

Xá lợi Tử theo lời Thiện Hiện, cung kính thưa hỏi Bồ Tát Từ Thị.

Bấy giờ, Bồ Tát Từ Thị bảo Xá lợi Tử:

- Những gì gọi là Bồ Tát Từ Thị mà bảo có thể đáp lời tôn giả hỏi?

Là sắc chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức chăng? Là sắc không chăng? Là thọ, tưởng, hành, thức không chăng? Vả lại, sắc chẳng phải là Bồ Tát Từ Thị, nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là Bồ Tát Từ Thị nên cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi.

Sắc không, chẳng phải Bồ Tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời tôn giả hỏi. Thọ, tưởng, hành, thức không chẳng phải Bồ Tát Từ Thị, cũng chẳng thể đáp lời Tôn giả hỏi. Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào có thể gọi là Bồ Tát Từ Thị, cũng hoàn toàn chẳng thấy có pháp năng đáp, có pháp sở đáp, nơi chốn đáp, thời gian đáp và do đây đáp.

Tôi hoàn toàn chẳng thấy có pháp thọ ký, có pháp được thọ ký, nơi chốn thọ ký, thời gian thọ ký và do đây thọ ký. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì bản tánh tất cả pháp đều Không. Suy tầm rốt ráo chẳng thể đắc vậy.

Xá lợi Tử hỏi Từ Thị:

- Pháp mà Nhân giả đã nói có phải là như chỗ đã chứng chăng?

Từ Thị đáp:

- Pháp tôi nói chẳng phải như chỗ đã chứng. Vì sao? Vì pháp tôi đã chứng chẳng thể nói vậy.

Xá lợi Tử nghĩ: Bồ Tát Từ trí tuệ sâu xa, từ lâu tu hành Bát Nhã sâu thẳm mới có thể nói như thế.

Khi ấy, Thế Tôn biết ý nghĩ của Xá lợi Tử, liền bảo:

- Ý ngươi thế nào? Ngươi do pháp này thành A la hán thì có thể thấy pháp này giảng giải chăng?

Xá lợi Tử bạch:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thể.

Phật dạy:

- Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, pháp tánh đã chứng cũng như thế, chẳng thể tuyên thuyết. Các Bồ Tát này phương tiện thiện xảo, chẳng nghĩ: Ta do pháp này đã được thọ ký, đang được thọ ký, sẽ được thọ ký đại Bồ đề. Chẳng nghĩ: Ta do pháp này sẽ chứng Bồ đề. Các Bồ Tát có thể hành như thế là hành Bát Nhã, đối với việc đắc Bồ đề cũng không sợ hãi, quyết định tự biết: Ta sẽ chứng, nên các Bồ Tát này hành Bát Nhã, nghe pháp sâu thẳm chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng chìm đắm.

Các Bồ Tát này nếu ở nơi đồng hoang, chỗ có thú dữ cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, thường nghĩ: Các thú dữ v.v... muốn ăn nuốt thân ta, ta sẽ bố thí giúp cho chúng được no đủ. Nhờ căn lành này khiến cho bố thí Ba la mật của ta mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả bàng sanh, ngạ quỉ.

Các Bồ Tát này ở đồng hoang, chỗ có giặc ác cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này muốn lợi ích các hữu tình nên có thể xả bỏ tất cả sở hữu trong ngoài, ưa tu các việc lành, đối với thân mạng, tài sản không chút luyến tiếc, thường nghĩ: Nếu các hữu tình đến tranh giành, cướp đoạt các của cải của ta, hoặc do như thế mà hại thân mạng của ta thì ta chẳng hận họ. Nhờ nhân duyên này làm cho ta an nhẫn Ba la mật mau được viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả oán tặc cướp hại. Do cõi Phật của ta rất thanh tịnh nên cũng không có các thứ xấu ác.

Nếu các Bồ Tát này ở đồng hoang, chỗ không có nước cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tuyên thuyết diệu pháp Vô thượng, dứt bệnh khát ái của các hữu tình. Giả sử ta do cơn khát này bức ngặt mà chết, đối với các loài hữu tình quyết chẳng rời bỏ ý đại bi, bố thí cho họ nước diệu pháp. Kỳ lạ thay! Hữu tình này bạc phước nên ở chỗ thiếu có nước như thế. Ta sẽ siêng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả đồng hoang v.v... thiếu nước, cháy khát như thế. Ta sẽ phương tiện khuyên các hữu tình tu nghiệp thắng phước, tùy theo ở chỗ nào đều làm cho đầy đủ nước tám công đức.

Các Bồ Tát này ở chỗ đói kém cũng không sợ hãi, nghĩ: Ta sẽ tinh tấn nghiêm tịnh cõi Phật. Khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trong cõi Phật của ta không có tất cả sự đói kém như thế. Các loài hữu tình đầy đủ sự vui sướng, tùy ý cần dùng gì, nghĩ đến liền có ngay, như chư thiên nghĩ gì liền được. Ta sẽ phát khởi tinh tấn bền vững, làm cho nguyện ước của các hữu tình được đầy đủ. Tất cả thời gian, nơi chốn, tất cả hữu tình đối với tất cả của cải không thiếu thốn. Nếu các Bồ Tát không lo sợ việc này thì nhất định chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Các Bồ Tát này khi gặp bệnh dịch cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này thường tư duy kỹ: Không có pháp gọi là bệnh, cũng không có người bệnh, tất cả đều Không, chẳng nên sợ hãi. Ta sẽ siêng năng tu chánh hạnh như thế. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, trong cõi Phật của ta các loài hữu tình v.v... không có ba thứ bệnh, tinh tấn tu hành pháp lành thù thắng như Phật đã dạy, thường không lười biếng bỏ bê.

Các Bồ Tát này nếu nghĩ muốn được Bồ đề phải trải qua thời gian lâu dài mới chứng đắc, tuy vậy cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì kiếp số tuy có vô lượng, nhưng trong một niệm nhớ nghĩ phân biệt chứa nhóm là tựu thành. Thế nên Bồ Tát chẳng nên ở trong đó khởi tưởng lâu xa mà sanh sợ hãi. Vì sao? Vì số kiếp giới hạn trước, giới hạn sau dài ngắn đều trong một sát na tương ưng với tâm vậy. Bồ Tát đối với những việc đáng sợ như thế, luôn tư duy kỹ, chẳng sanh sợ hãi, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Thích nghĩa:

(1). Phẩm “Thâm Áo” của Kinh MHBNBLMĐ, trả lời câu hỏi của Tu Bồ đề : “Vô số cùng vô lượng với vô biên có gì khác nhau?” Phật bảo: “Vô số là nói chẳng ở trong số những pháp hữu vi hoặc vô vi. Vô lượng là nói chẳng lường được hoặc là quá khứ hoặc là vị lai hoặc là hiện tại. Vô biên là nói các pháp không có bờ mé”.

 

Sơ giải:

 

1. Câu nói quan trọng của Phật trong phẩm này là:

“Nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết bàn, là pháp nghĩa hiển hiện”.

 

2. Câu nói thứ hai của Phật không kém phần quan trọng là:

“- Ta nói tất cả các pháp, không pháp nào chẳng đều Không”. Không này là không, vô tướng, vô tác cũng là vô lượng, vô biên. Vô lượng là ở trong đó không có hạn lượng có thể đo lường được. Nói là vô biên là không thể tính đếm được.

- “Không, tức là vô tận, không tức vô lượng, không tức vô biên, không tức các nghĩa. Vậy nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn dù có các thứ lời nói sai khác mà nghĩa không khác.

Thiện Hiện nên biết! Lý không của các pháp hoàn toàn không thể nói. Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, hoặc nói vô biên, hoặc nói là không, hoặc nói là vô tướng, hoặc nói là vô nguyện, hoặc nói là vô tác, hoặc nói là vô sanh, hoặc nói là vô diệt, hoặc nói chẳng phải có, hoặc nói là tịch tịnh, hoặc nói là lìa nhiễm, hoặc nói là Niết bàn... Vô lượng pháp môn như thế, nghĩa chơn thật chẳng khác, đều là Như Lai phương tiện diễn thuyết”.

Không này là Tánh Không của các pháp. Nó chính là nguyên lý chỉ đạo của Bát Nhã.

 

3. Câu thứ ba Phật bảo:

“Vì tánh tất cả pháp đều rốt ráo Không, không ai có thể tuyên nói cái rốt ráo Không ấy. Vì thật tánh các pháp đều không thể nói”.

Vì sao? Vì cái không này rộng lớn bao trùm tất cả như hư không làm sao biết khắp mà có thể diễn nói cho người.

 

4. Câu thứ tư Phật bảo:

“Các pháp như, gọi đó là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Khi thấy các pháp là không tức đạt được chân như thật tướng của các pháp. Thật tướng đó là Như, như như thường tại nên nói không hai không khác. Các pháp như vậy bởi vì nó như vậy, chẳng lúc nào chẳng như. Và người biết như vậy nên gọi là Như Lai. Như này chỉ có Như Lai với Như Lai biết, không ai có thể thấu triệt được như này.

Các pháp không cũng không thể tuyên thuyết mà các pháp như cũng chẳng thể nói. Nhưng một khi tri giác được không hay chơn như này thì giác ngộ.

Đây là một phẩm quá hay nhưng lại thuyết cùng một lúc nhiều giáo lý khác nhau. Nếu tự mình nhớ nghĩ những gì đã học trước đây rồi tự chiết giải lấy không do dự thắc mắc thì có thể nói là hiểu được 5 Hội đầu của Đại Bát Nhã. Chỉ cần nắm được đại cương các giáo lý của năm Hội đầu, rồi tiếp tục phăn dần qua nhiều năm tháng tụng đọc thọ trì thì có thể tháo gỡ tất cả các gút mắt của toàn bộ ĐBN, nhưng phải có thời gian! Tôi nhớ rõ tác giả tên Giang Vị Nông, người chiết giải kinh “Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật”, một quyển kinh nhỏ (quyển 577 trong ĐBN) thọ trì đọc tụng kinh này hơn 40 năm mà vẫn còn tiếp tục. Nếu tập trung cao độ như vậy trong nhiều năm tháng, chắc chắn sớm muộn gì cũng sẽ thành tựu thôi.

Muốn  đạt được trạng thái này thì chính hành giả Bát Nhã với Bát nhã Ba la mật chỉ là một, nghĩa là Bát Nhã chính là xương tủy máu mũ của chính ông. Ông là Bát Nhã và Bát Nhã là ông. Kết luận này hết sức quan trọng đối với người thọ trì Bát nhã Ba la mật: Bao lâu hành giả Bát Nhã còn thấy Bát Nhã ở ngoài mình, tình trạng năng sở chưa được hợp nhất thì ngày ấy Bát Nhã đến rồi đi… chẳng khác nào ông khách lạ và ngày ấy hành giả Bát Nhã vẫn còn ngỡ ngàng xa lạ đối với Bát nhã Ba la mật. Bát Nhã phải là một Bát Nhã sống, biết đi đứng nằm ngồi, khi tình trạng chủ khách hợp nhất. Bằng không Bát Nhã chỉ là đống giấy lộn nằm trên bàn thờ, rồi một ngày nào đó khi ta qua thế giới khác, con cái sẽ đem nó ra tái tạo(recycle) hết./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com