- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
IV. PHẦN BỐN, HỘI THỨ IV.
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
I. PHẨM “DIỆU HẠNH”
Từ quyển 538 cho đến phần đầu quyển 539, Hội thứ IV, TBBN(1).
Gợi ý:
Mở đầu phẩm này của Hội thứ IV, không ồn ào, náo nhiệt so với các phẩm “Duyên Khởi” của các Hội trước. Kinh đi thẳng vào giáo lý. Nhưng thay vì như các Hội trước, mỗi phẩm chỉ thuyết về một vài đề tài chính mà thôi. Hội thứ IV cùng một lúc thuyết nhiều đề tài với các giáo lý khác nhau như phẩm “Diệu Hạnh” này cùng một lúc thuyết hơn bốn đề tài chính như: 1. Học và tu Bát Nhã, 2. Hành Tướng, 3. Các pháp không trói không mở, 4. Các pháp không sanh (vô sanh).
Công việc chiết giải cũng không có gì trở ngại miễn thuận theo đề tài đã nêu ra của Hội này để thích nghĩa và luận giải là được. Tuy nhiên, hơi dài dòng, có thể làm quý vị mệt mỏi khi phải đọc một lúc vừa chính văn, vừa thích nghĩa, vừa luận giải. Việc hấp thụ trở nên khó khăn nếu không nắm được tổng quát toàn ý Kinh. Muốn thoải mái và dễ thọ trì xin quý vị thong thả thưởng thức!
Tóm lược:
Quyển thứ 538
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ở núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Bí sô một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc A la hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, được tự tại hoàn toàn, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, như ngựa khôn đã được luyện tập thành thục, cũng như rồng chúa. Việc đáng làm đã làm, đã viên mãn việc cần viên mãn, bỏ được gánh nặng, đạt được lợi mình, chấm dứt các lậu, chánh tri giải thoát, đạt được tự tại, rốt ráo đệ nhất. Trừ A nan còn là bậc hữu học. Cụ thọ Thiện Hiện liền làm thượng thủ.
Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:
- Bằng biện tài của mình nên vì chúng đại Bồ Tát, ngươi hãy giảng thuyết, chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa, dạy bảo giáo giới làm cho các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật mau được rốt ráo.
Khi đó, Xá Lợi Tử suy nghĩ: Hôm nay Thiện Hiện dùng biện tài giảng thuyết, chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho chúng đại Bồ Tát, hay nhờ sức oai thần của Như Lai?
Nhờ oai thần của Phật, cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm của Xá Lợi Tử, liền bảo cụ thọ Xá Lợi Tử:
- Đệ tử của Phật nào dám thuyết giảng chỉ bày, tất cả đều là nhờ oai thần của Phật. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì trước tiên, Phật thuyết giảng chỉ bày pháp yếu cho người khác, người ấy y theo lời Phật dạy, tinh tấn tu học, chứng đắc thật tánh các pháp, sau đó lại thuyết giảng chỉ bày cho người khác. Nếu không trái ngược pháp tánh đều là nhờ oai thần của Phật gia bị. Do đó, sự chứng đắc ấy đồng với pháp tánh, nên nay tôi sẽ thuyết giảng chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho chúng đại Bồ Tát và dạy bảo, giáo giới đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa, làm cho họ mau được rốt ráo, đều nhờ Phật lực, chẳng phải do biện tài của mình làm đuợc việc đó.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ngài dạy con thuyết giảng chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho các đại Bồ Tát và dạy bảo giáo giới họ đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa mau được rốt ráo. Bạch Thế Tôn! Gọi là Bồ Tát, vậy với nghĩa gì mà gọi là Bồ Tát? Bạch Thế Tôn! Con không thấy có pháp nào gọi là Bồ Tát, cũng không thấy có pháp nào gọi là Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Con đối với Bồ Tát và pháp của Bồ Tát chẳng thấy, chẳng đắc; đối với Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thấy, chẳng đắc, thì làm sao con có thể thuyết giảng chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho các đại Bồ Tát.
(Thế nào là tu hành Bát Nhã mau được rốt ráo?)
Bạch Thế Tôn! Vậy con dùng Bát nhã Ba la mật sâu xa nào để giảng dạy cho các đại Bồ Tát để họ đối với Bát nhã Ba la mật mau được rốt ráo?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào nghe những lời như vậy tâm không đắm trước, cũng không thối lui, không kinh sợ, đúng như Bát nhã Ba la mật sâu xa đã nói mà an trụ, tu hành sâu Bát nhã Ba la mật cho được hoàn toàn, thì đó chính là dạy bảo giáo giới chúng đại Bồ Tát, làm cho đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa mau được rốt ráo, cũng gọi là thuyết giảng chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho họ.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào tu hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học như thế, nghĩa là không chấp trước Bồ đề tâm. Vì sao? Vì tâm chẳng phải bản tánh của tâm, bản tánh vốn tịnh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Có phi tâm và tánh của tâm không?
Thiện Hiện hỏi lại Xá Lợi Tử:
- Tánh của tâm phi tâm, hoặc có hoặc không, có thể nắm bắt được không?
Xá Lợi Tử đáp:
- Này Thiện Hiện! Không được.
Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử:
- Tánh của tâm phi tâm hoặc có hoặc không còn không thể được, tại sao lại hỏi có phi tâm là tánh của tâm, có phải vậy không?
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Những gì gọi là tâm chẳng phải tánh của tâm?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu không biến hoại, cũng không phân biệt, thì đây gọi là tâm chẳng phải là tánh của tâm(2).
Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện:
- Lành thay! Đúng như lời ông nói. Đức Phật nói Nhân giả trụ định Vô tránh là bậc đệ nhất, đúng như bậc Thánh nói: Đại Bồ Tát nào nghe lời này tâm không đắm trước, cũng không thối lui, không kinh sợ, nên biết đó là đối với sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tâm không thối chuyển.
Đại Bồ Tát nào quán sát tâm chẳng phải là tánh của tâm như vậy thì nên biết đó là không xa lìa Bát nhã Ba la mật sâu xa. Các thiện nam, thiện nữ v.v… nào siêng năng tinh tấn tu học các địa vị của Thanh văn, Độc giác, hoặc Bồ Tát thì nên đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tu học, dùng phương tiện thiện xảo, làm cho sự tu hành mau được rốt ráo. Vì sao? Vì ở trong Kinh Bát nhã Ba la mật sâu xa bao gồm tất cả các pháp nên tu học. Đại Bồ Tát nào cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn tu hành Bồ Tát hạnh một cách chơn chánh, muốn thành tựu đầy đủ phương tiện thiện xảo của Phật pháp, thì nên đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, thông suốt hoàn toàn, như lời dạy mà tu hành. Vì sao? Vì trong Kinh Bát nhã Ba la mật sâu xa này bao gồm tất cả pháp mà các đại Bồ Tát cần nên tu học. Đại Bồ Tát nào có thể đối với Kinh này siêng năng tu học, sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất cả sự mong cầu đều được đầy đủ.
(Thế nào là Bồ Tát chỉ có giả danh?)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con quán Bồ Tát chỉ có giả danh, chẳng biết, chẳng đắc, không thấy thật sự (không thật) và quán Bát nhã Ba la mật cũng chỉ có giả danh, chẳng biết, chẳng đắc, không thật. Vậy sẽ vì các đại Bồ Tát nào mà thuyết giảng chỉ bày? Dùng Bát nhã Ba la mật sâu xa nào dạy bảo giáo giới các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật nào mau được rốt ráo?
Bạch Thế Tôn! Con quán Bồ Tát và Bát nhã Ba la mật sâu xa này chỉ có giả danh, chẳng biết, chẳng đắc, không thật, nhưng trong ấy nói có Bồ Tát và Bát nhã Ba la mật sâu xa nên con nghi ngờ.
Bạch Thế Tôn! Tên Bát nhã Ba la mật sâu xa và Bồ Tát đều không quyết định, cũng không chỗ trụ. Vì sao? Vì hai tên như vậy đều vô sở hữu. Pháp vô sở hữu không định và không trụ. Đại Bồ Tát nào nghe nói Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy, tâm không đắm trước, cũng chẳng thối lui, không kinh sợ, thâm tâm tin hiểu, thì nên biết đại Bồ Tát này đã an trụ vào Bát nhã Ba la mật luôn không xa lìa, đem vô sở trụ làm phương tiện, an trụ vào địa vị Bồ Tát không thối chuyển.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát nào tu hành Bát nhã Ba la mật không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì nếu trụ vào sắc thì hành theo sắc, chẳng hành Bát nhã Ba la mật. Nếu trụ thọ, tưởng, hành, thức thì cũng hành theo thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải làm theo hành mới có thể thâu nhiếp Bát nhã Ba la mật. Nếu không thu nhiếp Bát nhã Ba la mật thì đối với Bát nhã Ba la mật chẳng tu tập được. Nếu đối với Bát nhã Ba la mật chẳng tu tập được, thì đối với Bát Nhã không thể viên mãn. Nếu đối với Bát Nhã không thể viên mãn thì không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu đối với Nhất thiết trí trí không thể chứng đắc thì không thể nhiếp hộ hữu tình.
Vì vậy, chẳng nên nhiếp thọ các sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc đối với Bát nhã Ba la mật không thể nhiếp thọ; thọ, tưởng, hành, thức đối với Bát nhã Ba la mật cũng không thể nhiếp thọ. Vì sắc không thể nhiếp thọ nên chẳng phải sắc; vì thọ, tưởng, hành, thức cũng không thể nhiếp thọ nên chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Vì nếu Bát nhã Ba la mật sâu xa không thể nhiếp thọ thì chẳng phải Bát nhã Ba la mật.
(Tu ly tướng)
Các đại Bồ Tát nên hành sâu Bát nhã Ba la mật như vậy. Nếu hành sâu Bát nhã Ba la mật như vậy thì đây gọi là Bồ Tát ở trong Tam ma địa Nhất thiết pháp vô thọ (định không nhiếp thọ tất cả pháp), là pháp rộng lớn, tròn đầy, vô cùng tận, quyết định không đồng với tất cả Thanh văn, Độc giác, cũng không nhiếp thọ Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải do chấp tướng mà tu đắc. Tất cả chấp đều phiền não. Người nào chấp tướng tu đắc Nhất thiết trí trí thì Phạm chí Thắng Quân đối với Nhất thiết trí trí không nên tin hiểu. Phạm chí Thắng Quân này tuy do sức tin hiểu hướng về Phật pháp, gọi là tùy tín hành nên có thể đem chút phần trí quán tất cả pháp tánh Không, ngộ nhập Nhất thiết trí trí. Đã ngộ nhập rồi, không chấp tướng sắc, cũng không chấp tướng thọ, tưởng, hành, thức. Không đem tâm ưa muốn để quán sát trí này, không đem nội sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán sát trí này, không đem ngoại sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán sát trí này, cũng không đem nội ngoại sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán sát trí này, cũng không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán sát trí này.
Phạm chí Thắng Quân dùng các môn ly tướng như vậy đối với Nhất thiết trí trí sanh tâm tin hiểu, đối với tất cả pháp đều không đắm trước.
Phạm chí dùng môn ly tướng như vậy đối với Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối với tất cả pháp đều không chấp tướng, cũng không suy nghĩ các pháp vô tướng.
Như vậy, Phạm chí này do sức thắng giải, đối với tất cả pháp không chấp, không xả, không đắc, không chứng. Bấy giờ, Phạm chí tự tin hiểu, cho đến Niết bàn cũng không chấp trước, lấy chơn pháp tánh làm định lượng.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật sâu xa của đại Bồ Tát này đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức chẳng nhiếp thọ. Tuy đối với các pháp không nhiếp thọ, nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt và mười tám pháp Phật bất cộng thì nhất định không ở nửa chừng mà nhập Niết bàn. Nên biết Bát nhã Ba la mật sâu xa của các đại Bồ Tát như vậy, tuy không chấp trước mà vẫn thành tựu các sự nghiệp thù thắng.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật nên quán sát như vầy: Bát Nhã là gì? Vì sao gọi là Bát Nhã? Bát Nhã như vậy làm được việc gì?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật nên quán sát như vậy. Nếu pháp vô sở hữu, bất khả đắc, thì đây là Bát nhã Ba la mật. Trong vô sở hữu gạn hỏi cái gì?
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào đối với việc như vậy, khi quán sát kỹ, tâm không đắm trước, cũng không thối lui, không kinh sợ thì đó là không lìa Bát nhã Ba la mật sâu xa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu sắc lìa tự tánh sắc; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát nhã Ba la mật lìa tự tánh Bát nhã Ba la mật, Nhất thiết trí trí lìa tự tánh Nhất thiết trí trí thì do duyên gì để biết các đại Bồ Tát không lìa Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá Lợi Tử! Các sắc lìa tự tánh sắc; thọ, tưởng, hành, thức lìa tự tánh thọ, tưởng, hành, thức; Bát nhã Ba la mật lìa tự tánh Bát nhã Ba la mật; Nhất thiết trí trí lìa tự tánh Nhất thiết trí trí; tự tướng Bát nhã Ba la mật cũng lìa tự tướng; tự tánh Bát nhã Ba la mật cũng lìa tự tánh; tướng cũng lìa tự tánh, tự tánh cũng lìa tướng; tự tướng cũng lìa tướng; tự tánh cũng lìa tự tánh; năng tướng cũng lìa sở tướng; sở tướng cũng lìa năng tướng; năng tướng cũng lìa năng tướng; sở tướng cũng lìa sở tướng. Nếu Đại Bồ Tát nào có thể như thật biết được nghĩa như thế thì thường không xa lìa Bát nhã Ba la mật sâu xa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đại Bồ Tát nào theo đây tu học thì có mau được thành tựu được Nhất thiết trí trí chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào theo đây tu học thì sẽ mau thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì đại Bồ Tát này biết tất cả pháp không sanh diệt.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào có thể hành sâu Bát nhã Ba la mật như vậy thì sẽ tiến gần Nhất thiết trí trí.
(Hành tướng?)
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát nào hành sắc là hành tướng; hoặc hành sắc tướng là hành tướng; hoặc hành sắc tướng vô tướng là hành tướng; hoặc hành sắc sanh là hành tướng; hoặc hành sắc diệt là hành tướng; hoặc hành sắc hoại là hành tướng; hoặc hành sắc Không là hành tướng.
Nếu bảo ta có thể hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát có sở hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát có thể đắc là hành tướng.
Nếu hành thọ, tưởng, hành, thức là hành tướng; hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức tướng là hành tướng; hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức tướng vô tướng là hành tướng; hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức sanh là hành tướng; hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức diệt là hành tướng; hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức hoại là hành tướng; hoặc hành thọ, tưởng, hành, thức Không là hành tướng.
Nếu nói ta có thể hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát nên có sở hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát nên có sở đắc là hành tướng.
Nếu suy nghĩ: Ai có thể hành như vậy là tu Bát nhã Ba la mật, như vậy là hành tướng. Nên biết, Bồ Tát này không có phương tiện thiện xảo, tuy có thực hành nhưng chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Các đại Bồ Tát phải hành thế nào mới gọi là hành Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện đáp:
- Các đại Bồ Tát nào không hành sắc, không hành sắc tướng, không hành sắc tướng vô tướng, không hành sắc sanh, không hành sắc diệt, không hành sắc hoại, không hành sắc Không thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. Các đại Bồ Tát nào không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành thọ, tưởng, hành, thức tướng; không hành thọ, tưởng, hành, thức tướng vô tướng; không hành thọ, tưởng, hành, thức sanh; không hành thọ, tưởng, hành, thức diệt; không hành thọ, tưởng, hành, thức hoại; không hành thọ, tưởng, hành, thức không thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát nào không chấp ở hành, không chấp chẳng hành, không chấp cũng hành cũng chẳng hành, không chấp chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thể chấp thủ, không thể tùy hành, không thể nắm giữ, xa lìa tánh tướng.
Để giải thích thế nào là không hành, phẩm thứ hai, nói về “Phụng Bát”, tập 2, quyển 35, Đại Trí Độ Luân nói:
“Lại nữa, Bát nhã Ba la mật là pháp rốt ráo “không”, nên Bồ Tát chẳng thấy có mình thật hành Bát nhã Ba la mật nữa”.
“Hỏi: Nếu chẳng thấy, chẳng hành thì Bồ Tát cũng như phàm phu. Như vậy Bồ Tát làm thế nào để có thể vào được Bát Nhã Ba la mật?
Đáp: Chẳng phải như vậy. Bồ Tát đã hành thâm Bát nhã Ba la mật, thâm nhập pháp “không”, nên nói là chẳng thấy chẳng hành vậy.
Đối với một vị quốc vương, nếu chỉ được một vật nhỏ thì chưa có thể gọi là được của. Cũng như vậy, đối với Bồ Tát nếu hành Bát nhã Ba la mật mà còn ít trí huệ, còn vướng mắc kiết sử, thì chưa có thể gọi là hành Bát nhã Ba la mật được. Phật là vị pháp vương, dạy cho các Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật. Nhưng nếu Bồ Tát chỉ hành được một phần nhỏ, thì cũng chưa có thể gọi là hành Bát nhã Ba la mật được.
Lại nữa, người hành Bát nhã Ba la mật chẳng sanh kiêu mạn, chẳng có tự nói là mình có hành Bát nhã Ba la mật. Vì nếu nói có hành Bát nhã Ba la mật thì còn chấp tướng. Người hành Bát nhã Ba la mật cũng chẳng tự nói là mình chẳng hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì nếu nói chẳng có hành Bát nhã Ba la mật thì sanh tâm giải đãi. Như vậy, là còn vướng mắc vào 2 chấp CÓ và KHÔNG (hữu và vô).
Người thật sự hành Bát nhã Ba la mật thì phải là người hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng thấy là mình có hành Bát nhã Ba la mật, lại cũng chẳng thấy là mình chẳng có hành Bát nhã Ba la mật. Được như vậy là phá được cả hai chấp CÓ và KHÔNG, là được giải thoát.
Lại nữa, chẳng thấy mình có hành Bát nhã Ba la mật là dứt các hý luận, chẳng thấy mình chẳng hành Bát nhã Ba la mật là dứt tâm giải đãi. Ví như người cỡi ngựa mà thấy ngựa chạy quá mau thì phải kềm lại, thấy ngựa chạy quá chậm thì thúc ngựa chạy mau hơn. Như vậy là còn trụ chấp nơi tốc độ của con ngựa. Cũng như vậy, người hành Bát nhã Ba la mật mà còn có phân biệt là mình có hành hay mình chẳng có hành là còn trụ chấp nơi tướng, là chưa được giải thoát.
Lại nữa, Phật dạy các pháp do duyên sanh mà có danh, có nghĩa vậy. Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là tự tánh “không”, Bồ Tát cũng chỉ là danh pháp, Bồ Đề cũng chỉ là danh pháp, Bát nhã Ba la mật cũng chỉ là danh pháp. Tất cả đều là “không”, đều là bất khả đắc.
KHÔNG nói ra đây, có nghĩa là danh cũng “không”, pháp cũng “không”.
KHÔNG nói ra đây có nghĩa là chẳng có một pháp nào được dựng lập, từ các pháp thô sắc nhẫn đến pháp “không” vậy.
Tuy nhiên, “không” cũng chẳng có ly sắc. Vì sao? Vì nhằm phá sắc mà nói “không”. Cũng như vậy, “không” cũng chẳng có ly thọ, tưởng, hành, thức. Tất cả 5 ấm đều “không”.
--o0o--
Trước đây nói “chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát, chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật...” Nay nói chẳng thấy luôn các nhân duyên tạo lập ra các danh tự Bồ Tát, Bồ Đề, Bát nhã Ba la mật... Bởi vậy nên nói là rốt ráo “không”.
--o0o--
Trong quá trình thật hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát trải qua hai giai đoạn:
- Khi chưa thành tựu, thì rõ biết thật tướng các pháp đều là “không”, là bất khả đắc, là vô sanh.
- Khi đã thành tựu thì rõ biết tánh của các pháp cũng tức là tánh của Bồ Đề, của Niết bàn”.
Khi biết hai đặc tánh các pháp đều bất khả đắc, là vô sanh và là Bồ đề của Niết bàn, nên nói là không còn hành nữa”.
Đó gọi là các đại Bồ Tát dùng tam ma địa Nhất thiết pháp vô thọ, rộng lớn, không ngăn ngại, vô cùng tận, mà tất cả Thanh văn, Độc giác cũng không bì kịp. Đại Bồ Tát nào an trụ trong định này thì sẽ mau chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện nhờ thần lực của Phật, nên bảo Đại đức Xá Lợi Tử:
- Đại Bồ Tát nào an trụ trong định này thì ở đời quá khứ, hiện tại sẽ được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký. Các đại Bồ Tát này tuy trụ trong định nhưng không thấy có định, cũng không chấp danh tự của định, cũng chẳng nghĩ ta ở trong định này đã, đang và sẽ thật sự nhập định. Cũng chẳng nghĩ chỉ có ta mới có thể nhập định này, chẳng phải những người khác có thể tư duy phân biệt được như thế. Nhờ oai lực của định này nên tất cả (các tư duy phân biệt) đều không phát sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đại Bồ Tát nào nhờ trụ định này, ở đời quá khứ, hiện tại được chư Phật Thế Tôn thọ ký thì đại Bồ Tát này có thể chỉ rõ định như vậy không?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá Lợi Tử! Không. Vì sao? Vì thiện nam tử này đối với định này sẽ không hiểu, không tưởng.
Xá lợi Tử hỏi:
- Cụ thọ nói các thiện nam tử kia đối với định này sẽ không hiểu, không tưởng sao?
Thiện Hiện đáp:
- Nhất định là các thiện nam tử kia đối với định như vậy không hiểu, không tưởng. Vì sao? Vì các định như vậy đều vô sở hữu, nên thiện nam tử kia đối với định như vậy không hiểu, không tưởng. Các định như vậy đối với tất cả pháp cũng không hiểu, không tưởng. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu.
Khi đó, Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Đúng như lời ông nói. Vì vậy, Ta nói ông là bậc thứ nhất trụ định Vô tránh. Ông nhờ thần lực của Như Lai gia bị nên nói được lời này.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát muốn học Bát nhã Ba la mật nên học như vậy. Vì sao? Vì đại Bồ Tát nào học như vậy mới gọi là học Bát nhã Ba la mật sâu xa một cách chơn chánh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào có thể đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa học được như vậy thì có gọi là học một cách chơn chánh phải chăng?
Phật dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào có thể đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa học được như vậy thì gọi là học một cách chơn chánh, vì đem vô sở đắc làm phương tiện.
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào có thể học như vậy thì có đem vô sở đắc làm phương tiện phải chăng?
Phật dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào khi học như vậy thì đối với tất cả pháp, đem vô sở đắc làm phương tiện.
Xá Lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi học như vậy, các đại Bồ Tát chẳng học với pháp nào?
Phật dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát biết không có pháp cũng không có cái được học, đó là tu học. Vì sao? Vì tất cả pháp kia đều không có, nhưng hàng dị sanh ngu muội phân biệt, đeo bám các pháp đó.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không có thì nay sao lại có?
Phật dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Các pháp không có nhưng nay lại có. Nhưng hàng dị sanh không biết là không có nên nói là vô minh. Vì cố chấp nên khởi tâm phân biệt, do phân biệt nên rơi vào nhị biên. Cứ vòng quanh như thế đối với tất cả các pháp, phân biệt đủ loại, khởi các tướng sở đắc. Chúng phân biệt rồi thì dựa vào nhị biên mà chấp trước. Vì thế phân biệt các pháp quá khứ, phân biệt các pháp vị lai, phân biệt các pháp hiện tại. Do phân biệt nên đeo bám danh sắc.
Này Xá Lợi Tử, các dị sanh không hiểu các pháp không có tánh nên khởi phân biệt, Đối với đạo Như Thật không thể biết rõ cũng không thể thấy. Do không biết không thấy, nên không ra khỏi ba cõi. Đối với các pháp Thật tế, không thể an trú cũng không sanh tín, vì thế rơi vào số dị sanh ngu muội đó.
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi học như thế các đại Bồ Tát học Nhất thiết trí trí không?
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Khi học như thế, các đại Bồ Tát cũng không cầu học Nhất thiết trí trí. Nhưng khi học như vậy, các đại Bồ Tát dù không đạt sở học nhưng vẫn gọi là học Nhất thiết trí trí một cách chơn chánh, liền được tiến gần Nhất thiết trí trí, mau được thành tựu Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Giả sử có người nào đến hỏi như vầy: Nếu các người huyễn có tu học thì họ có thể tiến đến Nhất thiết trí trí và mau thành tựu Nhất thiết trí trí không? Khi con được hỏi như vậy phải đáp thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta hỏi lại ông, tùy ý ông đáp. Ý ông thế nào? Huyễn cùng với sắc có khác nhau không? Huyễn cùng với thọ, tưởng, hành, thức có khác nhau không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Huyễn không khác sắc, sắc không khác huyễn. Huyễn tức là sắc, sắc tức là huyễn. Huyễn không khác thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức không khác huyễn. Huyễn tức là thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là huyễn.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Năm thủ uẩn có phải là Bồ Tát không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nên biết năm thủ uẩn là người huyễn. Vì sao? Nói sắc như huyễn, thọ tưởng hành thức cũng như huyễn. Sắc thọ tưởng hành thức chính là sáu căn năm uẩn. Vì vậy, đại Bồ Tát cũng như huyễn. Nếu muốn tu học Bát Nhã cũng như người huyễn mà học, thì được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào mới học Đại thừa, nghe thuyết như thế thì tâm có kinh sợ thối lui không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào mới học Đại thừa, gần gũi bạn ác, nghe thuyết như thế thì tâm liền kinh sợ thối lui. Còn nếu được gần gũi bạn lành, dù nghe thuyết lời này nhưng chẳng kinh sợ, cũng chẳng thối lui.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hạng người nào gọi là bạn ác của Bồ Tát?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bạn ác của các đại Bồ Tát là dạy bảo giáo giới chúng đại Bồ Tát làm cho xa lìa bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, làm cho xa lìa sự mong cầu Nhất thiết trí trí, làm cho học theo chấp tướng sách vở của thế tục, học theo Kinh pháp của Thanh văn, Độc giác. Lại không nói việc ma, lỗi ma, làm cho sự tu học không thành tựu được. Đó gọi là bạn ác của Bồ Tát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hạng người nào gọi là bạn lành của Bồ Tát?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Bạn lành của các đại Bồ Tát là dạy bảo giáo giới chúng đại Bồ Tát làm cho tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, làm cho tu học sự mong cầu Nhất thiết trí trí, xa lìa sự chấp tướng sách vở của thế tục, xa lìa Kinh pháp của Thanh văn, Độc giác. Hay nói việc ma, lỗi ma, làm cho họ hiểu biết dùng phương tiện chấp dứt (việc ma) để việc tu học mau được thành tựu. Đó gọi là bạn lành của Bồ Tát hướng dẫn đến Đại thừa, trang nghiêm bằng đại thệ nguyện.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Gọi là đại Bồ Tát, vậy nghĩa của Bồ Tát là như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Học tất cả pháp không bị dính mắc, không bị chướng ngại, hiểu biết tất cả pháp không bị dính mắc, không bị chướng ngại; cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích cho hữu tình là nghĩa của Bồ Tát.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát do duyên nào gọi là Ma ha tát?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì các đại Bồ Tát ở trong chúng đại hữu tình là bậc thượng thủ, nên gọi là Ma ha tát.
Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con muốn đem biện tài nói về Bồ Tát, do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát. Cúi xin Thế Tôn hứa cho.
Phật dạy:
- Này Xá lợi Tử! Nay thật đúng lúc, tùy ý ông nói.
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do các đại Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình mà giảng thuyết pháp yếu, làm cho đoạn trừ ngã kiến, hữu tình kiến, mạng giả kiến, Bổ đặc già la kiến, hữu kiến, vô hữu kiến, đoạn kiến, thường kiến, thân kiến và tất cả các loại kiến chấp khác, nương nghĩa này nên gọi là Ma ha tát.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con muốn đem biện tài nói về Bồ Tát, do nghĩa đó nên gọi là Ma ha tát. Cúi xin Thế Tôn hứa cho.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nay thật đúng lúc, tùy ý ông nói.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do các đại Bồ Tát vì muốn chứng được Nhất thiết trí trí nên phát tâm Bồ đề và tâm vô lậu, tâm vô đẳng đẳng, tâm không cùng với Thanh văn, Độc giác v.v… đối với tâm như thế đều không chấp trước, do nghĩa đó gọi là Ma ha tát.
Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí là chơn vô lậu, không đọa ba cõi. Tâm cầu Nhất thiết trí trí là chơn vô lậu, không đọa ba cõi. Đối với tâm như thế không nên chấp trước. Vì vậy, nên gọi là Bồ Tát Ma ha tát.
Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Do nhân duyên nào đối với tâm như thế không chấp trước?
Thiện Hiện đáp:
- Các tâm như vậy không tâm tánh nên không chấp trước.
Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tâm ấy có phải là phi tâm tánh không?
Thiện Hiện hỏi lại Xá lợi Tử:
- Phi tâm tánh này hoặc có hoặc không có thể đắc không?
Xá lợi Tử đáp:
- Này Thiện Hiện! Không!
Thiện Hiện trả lời:
- Phi tâm tánh này hoặc có, hoặc không cũng bất khả đắc. Vậy tại sao ông lại hỏi tâm ấy có phi tâm tánh không?
Khi đó, Xá lợi Tử khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Hay thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Phật nói Nhân giả trụ định Vô tránh là bậc nhất. Thật đúng như lời bậc Thánh nói.
Khi ấy, Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con muốn đem biện tài nói về Bồ Tát, do nghĩa này nên gọi là Ma ha tát. Cúi xin Thế Tôn cho phép.
Phật dạy:
- Này Mãn Từ Tử! Nay thật đúng lúc, tùy ý ông nói.
Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do các đại Bồ Tát vì sự lợi ích cho tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại công đức, phát tâm Đại thừa, nương nơi Đại thừa nên gọi là Ma ha tát.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo lời Ngài dạy, các đại Bồ Tát mặc áo giáp đại công đức. Vậy đến mức độ nào nói là các đại Bồ Tát mặc áo giáp đại công đức?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát suy nghĩ: Ta nên độ thoát vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho thể nhập Vô dư y bát Niết bàn, mặc dù độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình như thế đều thể nhập cõi Vô dư y bát Niết bàn, nhưng không thấy pháp và các hữu tình được Niết bàn. Vì sao? Vì pháp tánh của các pháp là như vậy. Vì như nhà ảo thuật, hay học trò của ông ta ở ngã tư đường hóa ra vô số người, tàn hại lẫn nhau. Ý ông thế nào? Trong đó có thật sự tàn hại lẫn nhau đến nổi làm chết, bị thương không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, dù độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình như vậy thể nhập vào Vô dư y bát Niết bàn, nhưng không có pháp và các hữu tình được Niết bàn. Các đại Bồ Tát nào nghe việc như vậy mà không kinh sợ, cũng không thối lui, thì nên biết đại Bồ Tát này mặc giáp bị đại công đức.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như theo con hiểu nghĩa Phật dạy, các đại Bồ Tát không mặc giáp bị đại công đức, nên biết đó là mặc giáp bị đại công đức.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Các đại Bồ Tát không mặc giáp bị đại công đức, nên biết đó là mặc giáp bị đại công đức. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí không tạo tác, tất cả hữu tình cũng không tạo tác. Các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho hữu tình nên mặc giáp bị đại công đức.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào mà Nhất thiết trí trí không tạo tác, tất cả hữu tình cũng không tạo tác? Các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho hữu tình ấy nên mặc giáp bị đại công đức?
(Ngũ uẩn không trói không mở)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì các tác giả đều bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo, chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải tạo, chẳng phải không tạo, chẳng phải tác, chẳng phải không tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều bất khả đắc.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật dạy, sắc cho đến thức không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì sắc không trói, không mở; thọ, tưởng, hành, thức cũng không trói, không mở. Sắc như không trói, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như cũng không trói, không mở.
Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tôn giả nói: Sắc không trói, không mở; thọ, tưởng, hành, thức cũng không trói, không mở. Sắc như không trói, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như cũng không trói, không mở?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy!
Mãn Từ Tử hỏi:
- Vậy có sắc nào là không trói, không mở; có thọ, tưởng, hành, thức nào là không trói, không mở. Có sắc như nào không trói, không mở; có thọ, tưởng, hành, thức như nào không trói, không mở?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi nói: Sắc như huyễn sĩ, không trói không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức như huyễn sĩ, cũng không trói không mở. Nói sắc như như huyễn sĩ, không trói không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức như như huyễn sĩ, cũng không trói không mở. Vì sao? Vì sắc như cho đến thức như kia đều vô sở hữu nên không trói không mở, xa lìa nên không trói không mở, vắng lặng nên không trói không mở, vô tướng nên không trói không mở, vô tác nên không trói không mở, vô sanh diệt nên không trói không mở, vô nhiễm tịnh nên không trói không mở.
Đây gọi là Bồ Tát Ma ha tát hướng đến Đại thừa mặc giáp bị công đức.
Khi đó, Mãn Từ Tử nghe nói như vậy im lặng, vui mừng, tin thọ.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát mặc áo giáp công đức, hướng đến Đại thừa, nương vào Đại thừa, vậy thế nào gọi là Đại thừa? Đến đâu mới nói hướng đến Đại thừa? Đại thừa từ đâu ra và trụ vào chỗ nào? Đại thừa do trụ vào đâu? Ai nương nơi Đại thừa này mà có đi ra?
(Thế nào là Đại thừa?)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại thừa nghĩa là khái niệm vô lượng, vô số, vô biên công đức hợp thành. Như lời ông hỏi: Đến đâu mới nói hướng đến Đại thừa? Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát nào siêng năng tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, từ địa vị Bồ Tát này đến địa vị Bồ Tát khác, đến đây mới gọi là hướng đến Đại thừa. Kế đến ông hỏi: Đại thừa từ chỗ nào ra và trụ vào chỗ nào? Thiện Hiện nên biết: Đại thừa như thế từ trong ba cõi mà ra và trụ vào Nhất thiết trí trí. Nếu dùng không hai làm phương tiện thì không ra, không trụ.
Câu hỏi kế tiếp: Đại thừa như thế là trụ vào đâu? Thiện Hiện nên biết: Đại thừa như thế hoàn toàn không chỗ trụ. Vì tất cả pháp đều không chỗ trụ nên Đại thừa này trụ nơi không chỗ trụ.
Câu hỏi cuối cùng của ông: Ai nương vào Đại thừa này mà ra? Thiện Hiện nên biết: Không có ai nương vào Đại thừa này mà ra cả. Vì sao? Vì thừa được nương hoặc người nương nơi thừa do đây, vì đây, hoặc nơi, hoặc thời đều vô sở hữu, đều bất khả đắc. Do tất cả pháp đều vô sở hữu, bất khả đắc nên trong đó, pháp nào nương vào pháp nào mà ra, trụ vào chỗ nào mà nói có người nương?
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại thừa có nghĩa là người nào nương vào ấy sẽ vượt tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v… rất tôn quí, thù thắng. Đại thừa như thế sánh bằng hư không.
Ví như hư không có thể dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Đại thừa cũng vậy, có thể dung nạp vô lượng, vô số, vô biên hữu tình.
Lại như hư không, không đến, không đi, không trụ, không thấy. Đại thừa cũng vậy, không đến, không đi, không trụ, không thấy.
Lại như hư không, phía trước, sau, giữa đều không có. Đại thừa cũng vậy, phía trước, sau, giữa cũng không có.
Đại thừa như thế rất tôn quí, thù thắng, sánh bằng hư không, dung nạp được tất cả, không động, không trụ, trong ba đời bình đẳng, vượt khỏi ba đời nên gọi là Đại thừa.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Hay thay! Đúng như lời ông nói. Đại thừa của Bồ Tát đầy đủ vô biên công đức như thế.
Khi ấy, Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trước kia Ngài đã dạy Đại đức Thiện Hiện giảng thuyết, chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho chúng đại Bồ Tát, nhưng nay vì sao Ngài lại nói Đại thừa?
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Từ trước đến nay con đã nói các nghĩa của Đại thừa đều thuận với Bát nhã Ba la mật, không trái nghịch.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Từ trước đến nay ông đã nói các nghĩa của Đại thừa đều thuận với Bát nhã Ba la mật, không trái nghịch. Vì sao? Vì tất cả thiện pháp đều tóm thâu vào Bát nhã Ba la mật sâu xa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đoạn trước, đoạn sau, đoạn giữa của các đại Bồ Tát không thể có được. Vì sao? Vì sắc vô biên nên đại Bồ Tát cũng vô biên. Thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên đại Bồ Tát cũng vô biên.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Sắc tức là đại Bồ Tát vô sở hữu, bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức tức là đại Bồ Tát vô sở hữu, bất khả đắc. Sắc lìa đại Bồ Tát vô sở hữu, bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức lìa đại Bồ Tát vô sở hữu, bất khả đắc.
Như vậy, bạch Thế Tôn! Con đối với tất cả pháp, đem tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời tìm đại Bồ Tát đều không thể thấy, không thể được. Tìm Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể thấy, không thể được. Tìm Nhất thiết trí trí cũng không thể thấy, không thể được. Vậy thì làm sao con có thể dạy bảo, giáo giới các đại Bồ Tát, làm cho họ đối với Bát nhã Ba la mật mau được rốt ráo, nghĩa là chứng được Nhất thiết trí trí?
(Thế nào là giả danh?)
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát chỉ có giả danh, đều không có tự tánh. Như nói ngã v.v… hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, đều không có tự tánh. Các pháp cũng vậy, hoàn toàn không sanh, chỉ có giả danh, đều không có tự tánh.
Trong đây hoàn toàn không sanh là thế nào? Nếu hoàn toàn không sanh thì chẳng gọi là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức hoàn toàn không sanh là thế nào? Nếu hoàn toàn không sanh thì chẳng gọi là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn! Sắc là đại Bồ Tát bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức là đại Bồ Tát bất khả đắc. Bất khả đắc này cũng bất khả đắc nốt. Con đối với tất cả pháp như thế, đem tất cả loại, tất cả nơi, tất cả thời tìm đại Bồ Tát đều không thể thấy thì sẽ dùng những pháp nào để dạy, dùng những pháp nào để tu? Ở những chỗ nào, lúc nào và sẽ chứng những pháp nào?
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn chỉ có giả danh, tất cả Bồ Tát chỉ có giả danh, Bát nhã Ba la mật chỉ có giả danh. Như nói ngã v.v… hoàn toàn chẳng sanh, chỉ có giả danh, đều không tự tánh. Các pháp cũng vậy, chỉ có giả danh, đều không tự tánh.
Sắc không thể chấp thọ, cũng không thể sanh là thế nào? Thọ, tưởng, hành, thức không thể chấp thọ, cũng không thể sanh là thế nào? Tự tánh các pháp không thể chấp thọ, cũng không thể sanh. Nếu pháp không tự tánh cũng không thể sanh, pháp không sanh đây cũng không thể sanh thì làm sao con có thể đem Bát nhã Ba la mật hoàn toàn chẳng sanh này mà dạy bảo, giáo giới cho các đại Bồ Tát hoàn toàn chẳng sanh, làm cho họ được cứu cánh?
Bạch Thế Tôn! Lìa pháp chẳng sanh sẽ không có pháp nào khác, cũng không có đại Bồ Tát có thể hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào nghe nói như thế, tâm không đắm trước, cũng không thối lui, không kinh sợ, thì nên biết đại Bồ Tát này có thể tu hành được Bát nhã Ba la mật sâu xa. Vì sao? Vì khi đại Bồ Tát tu hành được Bát nhã Ba la mật sâu xa, quán sát các pháp, lúc ấy Đại Bồ Tát đối với tất cả sắc đều không sở đắc, không thọ, không chấp thủ, không trụ, không dính mắc, cũng không đặt ra có sắc; đối với tất cả thọ, tưởng, hành, thức đều không sở đắc, không thọ, không chấp, không trụ, không dính mắc, cũng không đặt ra có thọ, tưởng, hành, thức.
Đại Bồ Tát này khi hành Bát nhã Ba la mật không thấy sắc, cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tánh của sắc là không, vô sanh, vô diệt; tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, vô sanh, vô diệt.
Bạch Thế Tôn! Sắc không sanh, không diệt tức chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt tức chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức cùng với không sanh, không diệt không hai, không khác. Vì sao? Vì pháp không sanh, không diệt không một, không hai, không nhiều, không khác. Vì vậy nên sắc cho đến thức không sanh, không diệt tức chẳng phải là sắc cho đến thức.
Bạch Thế Tôn! Sắc không hai tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức không hai tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn! Sắc nhập pháp số không hai; thọ, tưởng, hành, thức nhập pháp số không hai. Nếu nói sắc tức là nói pháp không hai; nếu nói thọ, tưởng, hành, thức tức là nói pháp không hai.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Theo tôi lãnh thọ ý nghĩa Tôn giả nói: Ngã và hữu tình hoàn toàn chẳng sanh, sắc cho đến thức hoàn toàn chẳng sanh, chư Phật và Bồ Tát hoàn toàn chẳng sanh. Nếu như vậy thì do duyên gì mà đại Bồ Tát độ vô lượng, vô số hữu tình tu rất nhiều trăm ngàn khổ hạnh khó hành, chịu đủ vô lượng đại khổ khó nhẫn?
Thiện Hiện đáp:
- Này Xá Lợi Tử! Chẳng phải tôi ở trong không sanh kia thấy có đại Bồ Tát độ vô lượng, vô số hữu tình tu trăm ngàn khổ hạnh khó hành, chịu đủ vô lượng đại khổ khó nhẫn. Nhưng các đại Bồ Tát tuy vì hữu tình tu vô lượng thứ khổ hạnh khó làm, nhưng ở trong ấy không tưởng khổ hạnh. Vì sao? Vì nếu đối với khổ hạnh, tưởng có khổ hạnh thì nhất định không thể làm lợi ích cho vô lượng, vô số hữu tình được.
Chúng đại Bồ Tát đem vô sở đắc làm phương tiện: Đối với các hạnh khổ nên tưởng hạnh vui; đối với hạnh khó làm tưởng dễ làm; đối với các hữu tình tưởng như cha mẹ, anh em, vợ con hay thân của mình. Vì độ thoát họ nên phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó chính là làm nhiều điều lợi ích cho vô lượng, vô biên hữu tình.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát đối với tất cả hữu tình tưởng như cha mẹ, anh em, vợ con hay người thân của mình rồi, suy nghĩ như vầy: Ta nên độ thoát tất cả hữu tình, làm cho họ xa lìa các khổ sanh tử nên làm nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, thà bỏ thân mình nhưng không bỏ họ. Nhưng đối với sự khổ và hạnh khổ của hữu tình không vọng tưởng có sự khổ và hạnh khổ của họ.
Lại suy nghĩ: Ta nên độ thoát tất cả hữu tình, làm cho họ xa lìa vô biên các khổ lớn. Giả sử chém chặt thân ta ra làm trăm ngàn mảnh cũng quyết không thối chuyển. Nhưng ở trong ấy không tưởng hạnh khổ khó làm.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát nên suy nghĩ: Như ta đối với tự tánh của tất cả pháp, đem tất cả loại, tất cả chỗ, tất cả thời v.v… tìm cũng không thấy được. Các pháp trong ngoài cũng lại như vậy, đều vô sở hữu, đều bất khả đắc.
Nếu trụ vào tưởng này thì không thấy có hạnh khổ khó làm. Do đó, có thể vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà tu rất nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, làm những việc lợi ích lớn lao.
Quyển thứ 539
(Thế nào là pháp vô sanh?)
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Các Bồ Tát này thật sự vô sanh chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Các Bồ Tát này đều thật sự vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Chỉ có Bồ Tát là thật sự vô sanh, hay pháp của Bồ Tát cũng thật sự vô sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Pháp của Bồ Tát cũng thật sự vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Chỉ có pháp của Bồ Tát thật sự vô sanh, hay Nhất thiết trí trí cũng thật sự vô sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Nhất thiết trí trí cũng thật sự vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Chỉ Nhất thiết trí trí thật sự vô sanh, hay pháp Nhất thiết trí trí cũng thật sự vô sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Pháp Nhất thiết trí trí cũng thật sự vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Chỉ có Nhất thiết trí trí thật sự vô sanh, hay kẻ phàm phu cũng thật sự vô sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Các loại phàm phu cũng thật sự vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Chỉ có loại phàm phu thật sự vô sanh hay pháp của loại phàm phu cũng thật sự vô sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Các pháp của phàm phu cũng thật sự vô sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu các Bồ Tát đều thật sự vô sanh, pháp của các Bồ Tát cũng thật sự vô sanh; Nhất thiết trí trí thật sự vô sanh, pháp Nhất thiết trí trí cũng thật sự vô sanh; các loại phàm phu thật sự vô sanh, pháp của các loại phàm phu cũng thật sự vô sanh. Như vậy thì làm sao đại Bồ Tát có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí? Không lẽ pháp vô sanh lại chứng pháp vô sanh sao?
Thiện Hiện đáp:
- Ý tôi không nói trong pháp vô sanh có chứng đắc, có hiện quán. Vì sao? Vì các pháp vô sanh đều bất khả đắc.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Vậy cho rằng pháp sanh chứng pháp sanh, hay pháp vô sanh chứng pháp vô sanh sao?
Thiện Hiện đáp:
- Ý tôi chẳng nói pháp sanh chứng pháp sanh, cũng chẳng nói pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Ý Ngài nói pháp sanh chứng pháp vô sanh, hay nói pháp vô sanh chứng pháp sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Ý tôi chẳng nói pháp sanh chứng pháp vô sanh, cũng chẳng nói pháp vô sanh chứng pháp sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Nếu như vậy thì tất cả đều không đắc, không hiện quán sao?
Thiện Hiện đáp:
- Tuy có đắc, có hiện quán, nhưng không do hai pháp này mà chứng. Chỉ theo lời nói giả lập (thi thiết) của thế gian nên có đắc, có hiện quán. Chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc, có hiện quán.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Ngài nói pháp chưa sanh rồi sanh, hay nói pháp đã sanh rồi sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Ý tôi chẳng nói pháp chưa sanh rồi sanh, cũng chẳng nói pháp đã sanh rồi sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tôn giả đã nói pháp vô sanh, muốn biện thuyết tướng vô sanh sao?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi đã nói pháp vô sanh, cũng chẳng muốn biện thuyết tướng vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Đối với pháp vô sanh nói lời vô sanh, nói vô sanh đây cũng vô sanh sao?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đối với pháp vô sanh nói lời vô sanh, pháp và lời nói đều nghĩa vô sanh, tùy theo thế tục mà nói tướng vô sanh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện:
- Trong những đệ tử thuyết pháp, Ngài là bậc nhất, trừ Phật Thế Tôn không có ai sánh bằng. Vì sao? Vì tùy theo lời gạn hỏi về các pháp môn đều có thể trả lời thông suốt, nhưng đối với pháp tánh vẫn không biến đổi.
Thiện Hiện đáp:
- Đối với tất cả pháp, đệ tử Phật đều không chấp trước. Vì vậy, có thể tùy lời gạn hỏi mà trả lời đều được tự tại vô ngại, đối với pháp tánh vẫn không biến đổi. Vì sao? Vì tất cả pháp không chỗ nương tựa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Tôn giả đã nói pháp yếu thâm sâu như vậy, do oai lực Ba la mật nào mà được biện thuyết ấy?
Thiện Hiện đáp:
- Pháp yếu thâm sâu như vậy đều do oai lực Bát nhã Ba la mật mà được thành biện. Vì sao? Vì tất cả pháp không chỗ nương tựa, đều nhờ Bát nhã Ba la mật nên đạt tất cả pháp không cần nương tựa.
Đại Bồ Tát nào nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như vậy tâm không nghi ngờ, cũng không mê muội, thì nên biết đại Bồ Tát này đã an trụ trong ấy thường không xa lìa, nghĩa là đem vô sở đắc làm phương tiện, thường siêng cứu vớt tất cả hữu tình. Nên biết đại Bồ Tát này đã thành tựu tác ý thù thắng. Đó gọi là tác ý tương ưng với đại bi.
Khi ấy, Xá Lợi Tử bảo Thiện Hiện:
- Đại Bồ Tát nào an trụ như vậy thường không xa lìa thành tựu tác ý tương ưng với đại bi. Như vậy, thì tất cả hữu tình cũng thành đại Bồ Tát hết sao? Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng an trụ và tác ý như vậy, thường không xa lìa Bát nhã Ba la mật sâu xa tác ý đại bi đều có tánh bình đẳng. Vì vậy, các đại Bồ Tát cùng với tất cả hữu tình đều không khác nhau chứ?
Thiện Hiện đáp:
- Hay thay! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, ông đã hiểu đúng ý tôi đã nói, mặc dù vặn hỏi tôi nhưng thật sự giải thích rõ ý tôi nói. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì hữu tình vô tự tánh, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô tự tánh. Hữu tình vô sở hữu, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô sở hữu. Hữu tình xa lìa, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng xa lìa. Hữu tình vắng lặng, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vắng lặng. Hữu tình bất khả đắc, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng bất khả đắc. Hữu tình vô giác tri, nên biết trụ và tác ý như vậy cũng vô giác tri.
Do nhân duyên này, nên các đại Bồ Tát đối với trụ và tác ý như vậy thường không xa lìa, cùng với các hữu tình cũng không khác nhau, vì tất cả pháp và các hữu tình đều hoàn toàn không, không có khác nhau.
Đại Bồ Tát nào có thể biết như vậy thì không bị chướng ngại, thật sự hành sâu Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện:
- Hay thay! Ông đã giảng thuyết, chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho các đại Bồ Tát. Đây đều là do sức oai thần của Như Lai. Nếu người nào muốn giảng thuyết, chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho các đại Bồ Tát thì cũng giảng thuyết, chỉ bày như ông đã giảng thuyết. Đại Bồ Tát nào muốn học Bát nhã Ba la mật đều nên theo lời ông đã nói mà học. Đại Bồ Tát nào học Bát nhã Ba la mật như lời ông nói thì sẽ mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
Vì vậy, chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật này.
Thích nghĩa:
(1). TBBN là viết tắt của “Tiểu Bản Bát Nhã”, bắt đầu từ quyển thứ 538 cho đến hết quyển 555, thuộc Kinh Đại Bát Nhã do Phật thuyết ở Hội thứ IV. Nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại, không có đặt tên, nên chúng tôi tạm gọi là “Tiểu Bản Bát Nhã”. Thường thường khi lược giải một phẩm, trước hết chúng tôi ghi số thứ tự của quyển, kế chúng tôi liệt kê đến Hội và sau cùng là tên Kinh. Thí dụ phẩm “Diệu Hạnh”, bắt đầu từ quyển 538 cho đến đầu quyển 539, Hội thứ IV, ĐBN. Ở đây chúng tôi cũng ghi đầy đủ như vậy. Tuy nhiên, có một điểm thay đổi là thay vì tên Kinh là ĐBN, chúng tôi ghi là TBBN. Xin quý vị lưu ý cho.
(2). Phải giải thích đoạn Kinh này như thế nào:
Nguyên văn chữ Hán là của đoạn Kinh ghi đậm nét, như sau:
“復phục 次thứ. 世Thế 尊Tôn. 若nhược 菩Bồ 薩Tát 摩Ma 訶Ha 薩Tát. 修tu 行hành 般Bát 若Nhã 波Ba 羅La 蜜Mật 多Đa. 應ưng 如như 是thị 學học. 謂vị 不bất 執chấp 著trước. 大đại 菩Bồ 提Đề 心tâm. 所sở 以dĩ 者giả 何hà. 心tâm 非phi 心tâm 性tánh 本bổn 性tánh 淨tịnh 故cố.
時thời. 舍Xá 利Lợi 子Tử 問vấn 善thiện 現hiện 言ngôn.
為vi 有hữu 非phi 心tâm 心tâm 之chi 性tánh 不phủ.
善thiện 現hiện 反phản 問vấn 舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn.
非phi 心tâm 心tâm 性tánh 若nhược 有hữu 若nhược 無vô 為vi 可khả 得đắc 不phủ.
舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn.
不phủ 也dã. 善thiện 現hiện.
善thiện 現hiện 便tiện 謂vị 舍Xá 利Lợi 子Tử 言ngôn.
非phi 心tâm 心tâm 性tánh 若nhược 有hữu 若nhược 無vô 既ký 不bất 可khả 得đắc. 如như 何hà 可khả 問vấn 為vi 有hữu 非phi 心tâm 心tâm 之chi 性tánh 不phủ.
時thời. 舍Xá 利Lợi 子Tử 問vấn 善thiện 現hiện 言ngôn.
何hà 等đẳng 名danh 為vi 心tâm 非phi 心tâm 性tánh.
善thiện 現hiện 答đáp 言ngôn.
若nhược 無vô 變biến 壞hoại 亦diệc 無vô 分phân 別biệt. 是thị 則tắc 名danh 為vi. 心tâm 非phi 心tâm 性tánh”.
1- Việt dịch là:
“Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào tu hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học như thế, nghĩa là không chấp trước Bồ đề tâm. Vì sao? Vì tâm chẳng phải bản tánh của tâm, bản tánh vốn tịnh.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Này Thiện Hiện! Có phi tâm và tánh của tâm không?
Thiện Hiện hỏi lại Xá Lợi Tử:
- Tánh của tâm phi tâm, hoặc có hoặc không, có thể nắm bắt được không?
Xá Lợi Tử đáp:
- Này Thiện Hiện! Không được.
Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử:
- Tánh của tâm phi tâm, hoặc có hoặc không, còn không thể được, tại sao lại hỏi có phi tâm là tánh của tâm, có phải vậy không?
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Những gì gọi là tâm chẳng phải tánh của tâm?
Thiện Hiện đáp:
- Nếu không biến hoại, cũng không phân biệt, thì đây gọi là tâm chẳng phải là tánh của tâm”.
2- Kinh Phật mẫu Phát Sanh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa (gọi tắt là Phật Mẫu Bát Nhã Kinh) nằm trong hệ Bát Nhã, do Thí Hộ dịch từ Phạn sang Hán và Ngài Thích Từ Chiếu dịch từ Hán sang Việt trong phẩm 01, “Biết Rõ Các Hành Tướng” có đoạn kinh tương tự như đoạn kinh này, dịch như sau:
“(…) Lại nữa, Thế Tôn! Bồ Tát Ma ha tát lúc hành Bát nhã Ba la mật quán tưởng Bát Nhã như thế, nên học như thế (học và an trú trong Bát Nhã) nhưng không sanh tâm mình học như thế. Vì sao? Vì cái tâm không phải tâm kia, tánh nó thanh tịnh.
Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Thế nào Tu Bồ Đề! Ngài có cái tâm không phải tâm đó không?
Tu Bồ Đề:
- Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Nếu cái tâm không phải tâm, dù có dù không, thì có thể chứng đắc hay không?
Xá Lợi Tử đáp:
- Không thể! Tu Bồ Đề!
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bảo Xá Lợi Tử:
- Nếu cái tâm không phải tâm, dù có dù không, mà không thể chứng đắc, tại sao nay ông lại hỏi, có cái tâm không phải tâm?
Xá Lợi Tử hỏi:
- Tánh của cái không phải tâm gọi là gì?
Tu Bồ Đề nói:
- Tất cả không hoại, xa lìa phân biệt, chính là cái tâm không phải tâm”.
“Tâm không phải tâm” hay “phi tâm” có thể giải thích chính là “tâm không, vô niệm, vô tâm”. Vì vô tâm, nên không phân biệt, không chấp. Nếu không chấp thì không chướng ngại. Vì không chướng ngại nên mới nói là thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó không dung chứa bất cứ thứ gì, rỗng không trong suốt như hư không.
Các bản kinh khác như “Đạo Hành Kinh”, “Đại Minh Độ” hay “Ma Ha Bát Nhã Sao” v.v... dịch đoạn kinh này rất khó hiểu!
3- Nên phần sau của phẩm 01, “Biết Rõ Các Hành Tướng” nói trên, diễn tả “Vô tâm” dễ hiểu hơn:
“Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Tại sao tâm đó không ngăn ngại, không chấp trước?
Tu Bồ Đề đáp:
- Vì vô tâm nên không có tâm chướng ngại, cũng không có tâm chấp trước.
Xá Lợi Tử hỏi Tu Bồ Đề:
- Nghĩa của tâm đó là gì?
Tu Bồ Đề hỏi lại Xá Lợi Tử:
- Nếu tâm sanh ở hữu ở vô thì tâm ấy có thể đắc không?
Xá Lợi Tử đáp:
- Này Tu Bồ Đề! Không thể!
Tu Bồ Đề trả lời:
- Nếu tâm không sanh ở hữu cũng không ở vô thì cũng bất khả đắc. Vậy tại sao ông lại hỏi đến tâm ấy làm gì?”
Sở dĩ, chúng tôi dài dòng như vậy là vì cách chuyển ngữ ở đây từ Phạn sang Hán, rồi từ Hán sang Việt không được rõ ràng lắm. Bản dịch của Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã” của Thí Hộ có lẽ dễ hiểu hơn. Nên chúng tôi ghi lại, để độc giả có dịp đối chiếu.
Tóm tắt và lược giải:
(phẩm “Diệu Hạnh”)
Đây là 1 phẩm kết hợp nhiều giáo lý khác nhau. Chúng tôi cũng chia ra từng phần, tùy theo từng giáo lý để chiết giải, như phần gợi ý nói trên:
1. Tu hành Bát Nhã:
Phật bảo Thiện Hiện dạy các Bồ Tát học Bát Nhã chóng được rốt ráo. Thiện Hiện đáp lời Phật và đồng thời nói lên quan điểm về cái thấy biết của mình đối với Bồ Tát cũng như Bát nhã Ba la mật:
“Bạch Thế Tôn! Như thế nào thì được gọi là Bồ Tát? Bạch Thế Tôn! Con không thấy có pháp nào gọi là Bồ Tát, cũng không thấy có pháp nào gọi là Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Con đối với Bồ Tát và pháp của Bồ Tát chẳng thấy, chẳng đắc; đối với Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thấy, chẳng đắc, thì làm sao con có thể thuyết giảng chỉ bày Bát Nhã sâu xa cho các Đại Bồ Tát”.
Rồi Thiện Hiện tự mình giải thích cái chẳng thấy chẳng đắc của chính mình:
“Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào nghe những lời như vậy tâm không đắm trước, cũng không thối lui, không kinh sợ, đúng như Bát nhã Ba la mật sâu xa đã nói mà an trụ, tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cho được hoàn hảo, thì đó chính là dạy bảo giáo giới chúng đại Bồ Tát, làm cho đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa mau được rốt ráo, cũng gọi là thuyết giảng chỉ bày Bát nhã Ba la mật sâu xa cho họ. Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào tu hành Bát Nhã sâu xa nên học như thế, nghĩa là không chấp trước tâm đại Bồ đề”.
Bồ Tát không thấy mình là Bồ Tát, không thấy pháp mình tu, không thấy pháp mình chứng và cũng không có cái tâm chấp trước, do đó và vì đó mà được chứng đắc. Cái không thấy, không chứng, không chấp… chính là chỗ phá chấp, nói lên tinh thần vô sở trụ của Bồ Tát. Trụ ở chỗ vô sở trụ là trụ trong Bát Nhã. Trụ như vậy mới có thể tu hành Bát nhã Ba la mật.
Đó chính là “diệu hạnh” của Bồ Tát mà Phật bảo Thiện Hiện nên dạy bảo giáo giới Bát nhã Ba la mật cho chúng Bồ Tát sớm được viên mãn.
Phẩm “Học Quán” quyển 03, Hội thứ I, ĐBN, được coi là thông điệp mở đầu Kinh Đại Bát Nhã cũng nói lên tinh thần vô trụ, vô thủ, vô trước, vô đắc…của Bát Nhã.
- “Này Thiện Hiện! Chẳng lẽ tất cả pháp trước có sau không, chẳng phải bản tánh Không. Nhưng tất cả pháp trước đã chẳng có, sau cũng chẳng không, bản tánh thường Không, không bị sợ hãi, nên mới giáo giới dạy bảo các đại Bồ Tát phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy, làm cho họ biết các pháp bản tánh thường Không, nghe pháp hoàn toàn Không, vui mừng tín thọ.
Phật bảo cụ thọ Xá lợi tử rằng:
Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô trụ làm phương tiện, để an trụ Bát nhã Ba la mật, là vì năng trụ và sở trụ chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô xả mà làm phương tiện, để viên mãn Bố thí Ba la mật, là vì kẻ thí, kẻ cho và của cho đều chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô hộ mà làm phương tiện, để viên mãn Tịnh giới Ba la mật, là vì tướng phạm và không phạm chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô thủ mà làm phương tiện để viên mãn An nhẫn Ba la mật, là vì tướng động và bất động chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô cần mà làm phương tiện, để viên mãn Tinh tiến Ba la mật, là vì thân và tâm siêng hay lười chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô tư làm phương tiện, để viên mãn Tĩnh lự Ba la mật, là vì hữu ý vị hay vô ý vị chẳng khá được. Các Bồ Tát Ma ha tát nên lấy vô trước mà làm phương tiện, để viên mãn Bát nhã Ba la mật, là vì tánh tướng của các pháp chẳng khá được vậy”.
Mở đầu cho cuộc thuyết pháp Bát nhã Ba la mật trường kỳ, tại bốn chỗ khác nhau ròng rã trong 22 năm, Phật nhằm gởi một thông điệp cho toàn cõi Tam thiên đại thiên này rằng: Muốn có đầy đủ các pháp mầu, các thần thông, các biện tài và các công đức thắng diệu và trở thành Vô thượng Bồ đề để cứu khổ cho toàn thể chúng sinh, thì phải học Bát nhã Ba la mật. Nhưng phải lấy vô trụ, vô đắc, vô xả, vô hộ, vô thủ, vô tư, vô trước…làm phương tiện!
2. Hành Tướng:
Đoạn Kinh sau đây nói rõ như thế nào gọi là hành tướng.
“Thiện Hiện bảo Xá lợi Tử:
Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát nào hành sắc là hành tướng; hoặc hành sắc tướng là hành tướng; hoặc hành sắc tướng vô tướng là hành tướng; hoặc hành sắc sanh là hành tướng; hoặc hành sắc diệt là hành tướng; hoặc hành sắc hoại là hành tướng; hoặc hành sắc Không là hành tướng.
Nếu bảo ta có thể hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát có sở hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát có thể đắc là hành tướng.
Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng hành như vậy, là hành tướng.
Nếu nói ta có thể hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát nên có sở hành là hành tướng; hoặc nói ta là Bồ Tát nên có sở đắc là hành tướng”.
Hành có “ngã” dính vào đó không phải là hành, vì đó là chấp tướng. Hành như không hành, hành như vô sự, hành như vô công dụng hạnh mới gọi là hành.
Đoạn Kinh kế tiếp chỉ rõ thế nào là hành Bát Nhã.
“Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Các đại Bồ Tát phải hành thế nào mới gọi là hành Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện đáp:
- Các đại Bồ Tát nào không hành sắc, không hành sắc tướng, không hành vô sắc tướng, không hành sắc sanh, không hành sắc diệt, không hành sắc hoại, không hành sắc Không thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. Các đại Bồ Tát nào không hành thọ, tưởng, hành, thức; không hành thọ, tưởng, hành, thức tướng; không hành thọ, tưởng, hành, thức tướng vô tướng; không hành thọ, tưởng, hành, thức sanh; không hành thọ, tưởng, hành, thức diệt; không hành thọ, tưởng, hành, thức hoại; không hành thọ, tưởng, hành, thức không thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát nào không chấp ở hành, không chấp chẳng hành, không chấp cũng hành cũng chẳng hành, không chấp chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành thì đó là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thể chấp thủ, không thể tùy hành, không thể nắm bắt, xa lìa tánh tướng”.
Tất cả Bồ Tát nào không chấp thủ các pháp như thế mau chứng được quả vị Vô Thượng Bồ đề.
Để thêm ý cho đoạn Kinh trên, phẩm “Phụng Bát” quyển thứ 01, Kinh MHBNBLMĐ Ngài La Thập dịch, cũng có đoạn:
“Xá Lợi Phất bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát phải thực hành Bát nhã Ba la mật thế nào?
- Nầy Xá Lợi Phất! Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát chẳng thấy danh tự Bồ Tát, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng thấy là mình có thực hành Bát Nhã cùng không thực hành Bát Nhã.
Tại sao? Vì Bồ Tát là danh tự, tánh vốn rỗng không. Trong tánh không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; rời lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng có tánh không, tánh không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tại sao vậy? Vì chỉ có danh tự gọi là Bồ đề, chỉ có danh tự gọi là Bồ Tát, chỉ có danh tự gọi là tánh Không.
Tại sao? Vì thật tánh của các pháp vốn là không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh. Đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã như vậy cũng chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, cũng chẳng thấy cấu, chẳng thấy tịnh.
Tại sao? Vì danh tự là những pháp do nhơn duyên hòa hiệp làm thành, chỉ do nhớ tưởng phân biệt giả danh mà nói thôi. Vì thế nên đại Bồ Tát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy tất cả danh tự. Vì chẳng thấy nên chẳng chấp trước”.
Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nên quán sát như thế này: Bồ Tát chỉ có tên gọi, Phật chỉ có tên gọi; Bát nhã Ba la mật chỉ có tên gọi; ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới chỉ có tên gọi;; nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng chỉ có tên gọi; thập nhị duyên khởi, Tứ đế, lục độ, tam thập thất Bồ đề phần cũng chỉ có tên gọi; tam giải thoát môn, các Đà la ni, Tam ma địa cho đến Nhất thiết chủng trí cũng chỉ có tên gọi; pháp thế gian, xuất thế gian, pháp hữu lậu, vô lậu, pháp hữu vi, vô vi v.v... cũng chỉ có tên gọi. Đối với tất cả pháp như thế chẳng thấy có, chẳng thấy không thì không sanh chấp trước.
Phải thực hành Bát Nhã như thế. Đừng chấp danh tự, danh tự là phân biệt giả danh theo thế tục mà nói. Vì chẳng thấy danh tự nên chẳng chấp.
Lại nữa, các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật không những đối với các pháp trên mà còn đối với tất cả các pháp Phật khác đều vô sở đắc, không thọ, không chấp, không thủ, không trụ, không dính mắc… như thế, thì gọi là khéo tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật, sớm chứng Vô Thượng Bồ đề.
3. Các pháp không trói không mở:
Vì thấy biết nên sanh ra động niệm, dính mắc... Vin vào sở duyên thi vi tạo tác rồi tạo nghiệp, nên bị lưu chuyển. Đó chính là trói buộc. Nếu quán tất cả pháp là vô sở hữu, xa lìa, vắng lặng, vô tướng, vô tác, vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh... thì tháo gỡ được mọi hệ lụy thế gian, gọi là giải thoát! Nhưng giải thoát đi đâu? Giải thoát là tháo gỡ trói buộc do chính mình tạo ra và cũng giải thoát cho những chúng sanh khác, nên nói mặc áo giáp công đức tiến đến Đại thừa là vậy.
Phẩm “Áo Giáp Đại Thừa” quyển 51, Hội thứ I và phẩm “Không Buộc Không Mở” quyển 413, Hội thứ II, ĐBN. Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện:
- “Tôn giả nói sắc không buộc, không mở; nói thọ, tưởng, hành, thức... không buộc, không mở chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng như vậy!
Mãn Từ Tử hỏi:
- Những sắc nào được coi là không buộc, không mở? Những thọ, tưởng, hành, thức... nào được coi là không buộc, không mở?
Thiện Hiện đáp:
- Sắc như huyễn là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như huyễn là không buộc, không mở. Sắc như mộng là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như mộng là không buộc, không mở. Sắc như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa đốm giữa hư không, như bóng nắng, như ảo thành, như việc biến hóa là không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là không buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc như huyễn… cho đến tánh của sắc như việc biến hóa vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn… cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như biến hóa vô sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của sắc như huyễn... cho đến tánh của sắc như biến hóa là viễn ly (xa lìa), tịch tịnh (vắng lặng), không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn vô sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ tưởng hành thức như biến hóa là viễn ly, tịch tịnh... vô nhiễm vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc quá khứ không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không buộc, không mở. Sắc vị lai, hiện tại không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vị lai, hiện tại không buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại vô sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là viễn ly, tịch tịnh... vô nhiễm, vô tịnh nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc thiện, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức thiện không buộc, không mở. Sắc bất thiện, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức bất thiện, không buộc, không mở. Sắc vô ký, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vô ký, không buộc, không mở. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký vô sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký, vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là viễn ly, tịch tịnh... vô nhiễm, vô tịnh nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc hữu nhiễm, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm, không buộc, không mở. Sắc vô nhiễm, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức vô nhiễm, không buộc, không mở. Sắc hữu tội vô tội, hữu lậu vô lậu, tạp nhiễm thanh tịnh, thế gian xuất thế gian, không buộc, không mở; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian vô sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là viễn ly cho đến vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên không buộc, không mở; vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức như vậy không buộc, không mở, nên biết như vậy thì mười hai xứ, mười tám giới, tứ Thánh đế, mười tám pháp không, bốn tịnh lự cho đến bốn định vô sắc; bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; pháp môn giải thoát không cho đến pháp môn giải thoát vô nguyện; bố thí cho đến Bát Nhã; năm loại mắt, sáu phép thần thông; Như Lai cho đến Nhất thiết tướng trí; tất cả pháp tương ưng với các pháp đó, lại cũng không buộc, không mở cũng như vậy.
Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát đối với pháp môn không buộc, không mở như vậy, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên biết như thật; đối với với tất cả pháp Phật không buộc, không mở như vậy, nên siêng năng tu học”.
“Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành 6 phép Ba la mật không buộc không mở, thì sẽ chứng đắc, không buộc không mở, vì tất cả pháp vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh đều không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Nên biết, đại Bồ Tát ấy, gọi là người mặc giáp bị Đại thừa không buộc, không mở”.
Đoạn kinh này tuy dài dòng nhưng nêu lên được đối tượng của các pháp trói buộc hay cởi mở. Giải pháp của đoạn kính này đưa ra là “nếu biết tất cả pháp đều vô sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, v.v...” thì không còn hệ lụy hay bị trói buộc nữa, nên có thể tránh được mọi hệ lụy của thế gian.
Phẩm “Giáp Bị Đại Thừa”, quyển 50, Hội thứ I và phẩm “Khó Tin Hiểu” quyển 182, Hội thứ I, ĐBN nói tiếp:
Không những uẩn xứ giới, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, thập nhị nhân duyên, ngũ nhãn, lục thần thông cho đến chơn như không buộc không mở, như sau:
“(…) Bạch Thế Tôn! Chơn như không buộc, không mở; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, pháp định, pháp trụ, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, thật tế, vô vi tánh, không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của chơn như vô sở hữu, nên không buộc, không mở; vì tánh của pháp giới, pháp tánh, cho đến vô vi tánh vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là viễn ly, nên không buộc, không mở; vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi cũng viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc, không mở”.
Kể cả quả vị Giác ngộ tối cao cũng không buộc không mở. Vì sao? Vì tánh của quả vị Giác ngộ tối cao vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao là viễn ly, là không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc, không mở.
…“Bạch Thế Tôn! Nói tóm lại, tất cả pháp đều không buộc, không mở. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của tất cả pháp vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô sanh, nên không buộc, không mở, vì tánh của tất cả pháp là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nhiễm, nên không buộc, không mở, vì tánh của tất cả pháp là vô tịnh, nên không buộc, không mở”.
Nói như vậy là cạn tàu ráo máng rồi. Tự mình buộc, tự mình tháo gỡ. Suốt ngày loanh quanh hết buộc rồi gỡ, tự mình làm rối mình mà không tự biết. Nếu tự biết các pháp là không thì có gì trói buộc được? Nếu không có gì trói buộc thì cần gì phải mở.
Để giải thích thế nào là ngũ uẩn không trói không mở, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 17, “Trang Nghiêm”, tập 3, quyển 46, nói rằng:
“Lại nữa, các pháp đều là vô phược(trói), vô thoát(mở); mà chúng sanh chấp các pháp tướng nên ở nơi khổ xứ khó giải thoát, mới nghĩ rằng: Phật pháp rất khó làm, rất khó được.
Ngài Tu Bồ Đề thấu rõ tâm niệm của chúng sanh nên bạch Phật: Theo nghĩa mà con nghe được Phật nói, thì ngũ ấm là vô phược, vô thoát, là rốt ráo không, là bất khả đắc. Như vậy chẳng có tác giả, nên chẳng có trói buộc (vô phược) chẳng có cởi mở (vô thoát).
Phật dạy: Phàm phu chấp các pháp mà chẳng biết các pháp đều là hư dối, là bất khả đắc, là vô phược, vô thoát. Còn các bậc Thánh, thấy rõ các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô phược, vô thoát. Bồ Tát thấy rõ ngũ ấm cùng các pháp thiện, bất thiện, vô ký trong 3 đời đều là như mộng, như huyễn, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc. Dẫn đến như pháp tánh, thật tế cũng là như vậy.
Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tánh ly, tự tánh tịch diệt, tự tánh bất sanh, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc, nên được vô phược, vô thoát.
Bồ Tát trú nơi Trung Đạo, dẫn dắt chúng sanh thoát ly phiền não, nên nói là vô phược, vô thoát, lại chẳng dùng vô lậu để phá các pháp tướng nên nói là vô thoát.
Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, tịnh Phật độ quốc, dẫn đến được đầy đủ các thần thông, đầy đủ năm nhãn, các đà la ni và các tam muội mà vẫn chẳng rời Phật, an lạc chúng sanh trong tam thừa đạo, mà vẫn vô phược, vô thoát. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh, là rốt ráo không vậy.
Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, với đầy đủ các nhân duyên như vậy, nên được vô phược, vô thoát”.
Như vậy chúng ta rõ ra rằng tại sao ngũ uẩn không trói cũng không mở, bởi vì chạy theo trần cảnh chấp đắm thủ giữ nên bị trói. Nếu biết tất cả pháp là không, là như, vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh…thì không có bất cứ thứ gì trói buộc được nữa. Kinh và luận đều nói như vậy, là quá đủ, không cần nói thêm nữa.
Vì vậy, trong nhà Thiền có câu chuyện như sau: Đạo Tín lúc 18 tuổi đến cầu Tam Tổ là Tăng Xán để học đạo. Tam Tổ hỏi:
- Ngươi đến đây cầu gì?
- Con đến đây cầu giải thoát.
- Ai trói buộc mà ngươi cầu giải thoát?
Đạo Tín trả lời:
- Không ai trói buộc con.
Tổ Tăng Xán lại hỏi:
- Vậy, cầu giải thoát để làm gì?
Câu hỏi nầy có lẽ làm Đạo Tín “tỉnh” ra. Tất cả những trói buộc hay cởi bỏ cũng đều do mình nghĩ tưởng. Cổ đức có câu: “Cuồng tâm chẳng nghĩ, nghĩ tức Bồ đề”. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Tự tâm mà trách tự tâm, chân tâm cũng thành huyễn”. Tất cả những trói buộc đó đều do chính mình tạo ra, tự mình làm rối mình, rồi cũng tự mình nhọc nhằn tìm cách tháo gở.
Nên, Trúc Lâm Đại Đầu Đà trong “Sơn phòng mạn hứng”, ngâm rằng:
“Ai trói buộc mà cầu giải thoát
Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão
Như cũ vân trang một tháp thiền”.
4. Bồ Tát chỉ là giả danh:
Năm uẩn cũng do hòa hợp mà có, 6 tình cũng do hòa hợp mà có. Tất cả pháp không ngoài duyên sanh, không duyên không thành pháp. Nên nói tất cả pháp là không. Bồ Tát cũng do 5 uẩn 6 tình mà ra, 5 uẫn 6 tình là không, nên Bồ Tát cũng không thật có. Nên nói Bồ Tát chỉ là giả danh.
5. Tất cả pháp vô sanh?
Đoạn Kinh trích dẫn ở phẩm “Vô Sanh” quyển 74, Hội thứ I, ĐBN, Cụ thọ Thiện Hiện nói:
- “Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có chư Phật chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, hay muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi thật chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, cũng thật chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Nếu vậy thì nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp vô sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi cũng chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp vô sanh, cũng lại chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Nếu như vậy thì tất cả đều không đắc, không hiện quán sao?
Thiện Hiện đáp:
- Tuy có đắc, có hiện quán nhưng chẳng dùng hai pháp này để chứng. Xá Lợi Tử! Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có đắc, có hiện quán, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc, có hiện quán. Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có Dự lưu, có quả Dự lưu, có Nhất lai, có quả Nhất lai, có Bất hoàn, có quả Bất hoàn, có A la hán, có quả A la hán, có Độc giác, có quả vị Độc giác, có đại Bồ Tát, có quả vị Giác ngộ tối cao chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự lưu cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Nếu tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có đắc, có hiện quán v.v... chứ chẳng phải là thắng nghĩa thì sự sai biệt của sáu loài, cũng tùy theo thế gian đặt bày ra lời nói mà có, chứ chẳng phải là thắng nghĩa chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì ở trong thắng nghĩa, không có nghiệp, không có dị thục, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh.
Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:
- Nay Ngài muốn khiến pháp bất sanh sanh, hay vì muốn khiến pháp đã sanh sanh chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi chẳng muốn khiến pháp bất sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp đã sanh sanh.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Những pháp nào là pháp bất sanh mà Ngài chẳng muốn khiến những pháp ấy sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Xá Lợi Tử! Sắc là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Xá Lợi Tử! 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật là những pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Xá Lợi Tử hỏi:
- Những pháp nào là pháp đã sanh mà Ngài chẳng muốn khiến pháp ấy sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Sắc là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
Xá Lợi Tử! 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật là những pháp đã sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh. Vì sao? Vì tự tánh là không.
(…) Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nay Ngài vì muốn khiến pháp sanh nó sanh, hay vì muốn khiến pháp bất sanh nó sanh?
Thiện Hiện đáp:
- Tôi chẳng muốn khiến pháp sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì pháp sanh cùng với pháp bất sanh, hai pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi vô tướng.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này nên tôi cũng chẳng muốn khiến pháp sanh nó sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp bất sanh nó sanh.
Xá Lợi Tử lại hỏi Thiện Hiện:
- Đối với pháp vô sanh đã nói, Ngài ưa biện thuyết tướng vô sanh chăng?
Thiện Hiện đáp:
- Đối với pháp vô sanh đã nói, tôi cũng chẳng ưa biện thuyết tướng vô sanh. Vì sao? Vì hoặc là pháp vô sanh, hoặc là tướng vô sanh, hoặc là ưa biện thuyết, tất cả pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi vô tướng.
(…) Xá Lợi Tử! Như Lai cũng bất sanh; pháp Như Lai cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả, bản tánh là không.
Xá Lợi Tử! Thân hành bất sanh; ngữ hành, ý hành cũng bất sanh. Vì sao? Vì tất cả bản tánh là không.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất sanh, cũng không có nghĩa là sanh. Xá Lợi Tử! Vì hoặc pháp sở thuyết, hoặc lời năng thuyết, người thuyết, người nghe đều bất sanh”.
Tất cả pháp đều không có tự tánh, bản tánh không, do duyên hợp giả có, không thể tự sanh, nên bảo là vô sanh. Thân hành bất sanh; ngữ hành, ý hành cũng bất sanh. Như Lai cũng bất sanh; pháp Như Lai cũng bất sanh. Nên đối với pháp bất sanh, khởi lên lời nói bất sanh, cũng không có nghĩa là sanh. Vì sao? Vì hoặc pháp sở thuyết, hoặc lời năng thuyết, người thuyết, người nghe đều bất sanh. Vì tất cả pháp đều nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng. Tu vô tướng đây là tu Bát nhã Ba la mật.
Để chứng minh thế nào là Bồ Tát chỉ là giả danh, và tất cả pháp là vô sanh phẩm thứ 37, “Xá Lợi”, tập 3, quyển 59, Đại Trí Độ Luận, giải thích chung như sau:
“Theo như trên đây, thì Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tướng không, nên dùng tánh không để phá các chấp về tự tướng của các pháp.
Ngài Tu Bồ Đề nói: Các pháp do duyên hoà hợp sanh, nên đều là tự tướng không. Do năm ấm hoà hợp mà có Bồ Tát, có Bồ Tát danh tự, có Bồ Tát hành sáu pháp Ba La Mật, có Bồ Tát hành các thiện pháp... Thế nhưng, hết thảy các pháp đều chỉ là giả danh, đều là tự tướng không cả.
Ví như, mắt thấy cảnh, phải hội đủ các duyên hoà hợp như: Nhãn căn duyên sắc trần phải nương vào ánh sáng, phải có đủ khoảng hư không, lại phải có thêm bao nhiêu thứ duyên khác, mới thành tựu được sự thấy. Bởi vậy nên nói “pháp thấy” là rốt ráo không, là như mộng, như huyễn. Dẫn đến hết thảy các pháp cũng đều là như mộng, như huyễn cả.
Lại nữa, nên biết hết thảy pháp đều chẳng phải thường (vô thường), chẳng phải đoạn (vô đoạn). Nói vô thường là nhằm phá chấp thường, còn nói vô đoạn là nhằm phá chấp đoạn.
Chấp “thường còn” và chấp “đoạn diệt” đều là các kiến chấp điên đảo. Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp như vậy, thì vào được “thật tướng môn”, nên Ngài Tu Bồ Đề nói: vô thường tướng là động tướng, là không tướng vậy”.
--o0o--
“Lại nữa, nên biết năm ấm là rốt ráo bất sanh(hay vô sanh), vì tướng sanh là bất khả đắc; dẫn đến năm ấm chẳng phải là tác pháp, vì tác giả là bất khả đắc. Vì sao? Vì sắc là phi sắc, là chẳng phải sắc... dẫn đến thức là phi thức, là chẳng phải thức.
Nơi đây, ngài Tu Bồ Đề muốn nói: Sắc do duyên hoà hợp sanh là tự tướng không, là vô tướng, là pháp vô sanh, vô trú, vô dị, vô diệt. Dẫn đến thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy cả.
Lại nữa, tướng bất sanh chẳng phải là tướng hữu vi nên pháp vô sanh nhiếp về vô vi pháp. Hết thảy các pháp cũng đều rốt ráo bất sanh như vậy cả.
Hỏi: Nếu các pháp là rốt ráo bất sanh thì còn dạy Bát Nhã Ba La Mật cho ai được nữa?
Đáp: Rốt ráo bất sanh chính là thật tướng pháp. Mà thật tướng pháp chính là Bát Nhã Ba La Mật vậy.
Hỏi: Bồ Tát cũng rốt ráo bất sanh. Như vậy làm sao mà giáo hoá Bát Nhã Ba La Mật cho Bồ Tát được?
Đáp: Nếu ly rốt ráo bất sanh mà có Bồ Tát thì mới nói có pháp Bát nhã Ba la mật để giáo hoá cho Bồ Tát. Vì sao? Vì rốt ráo bất sanh, Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát là những pháp chẳng phải hai, chẳng phải khác.
Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao còn dạy cho người hành đạo phải ly rốt ráo bất sanh?
Đáp: Như trên đây đã nói: Nếu Bồ Tát nào nghe nói lời này mà chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ, thì phải biết đó là Bồ Tát Ma Ha Tát đã vào được thật tướng của các pháp. Ở trong đó, Bồ Tát chẳng còn thấy có chúng sanh, chẳng còn thấy ngã, dẫn đến chẳng còn thấy tri giả, kiến giả, chẳng còn thấy có người thuyết pháp, có người nghe pháp, chẳng có thấy có tà thuyết, có chánh thuyết. Vì sao? Vì đã biết rõ hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, khi hội đủ duyên hoà hợp thì có sanh, khi các duyên ly tán thì là diệt. Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là hư vọng, là hư huyễn, là chẳng có định tướng, là bất sanh, bất diệt. Bởi vậy nên dù phải chết cấp thời, dù phải đoạ vào địa ngục, Bồ Tát vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề sanh sợ hãi.
Ví như người nằm mộng thấy bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng, sanh tâm sợ hãi, nhưng khi vừa tỉnh mộng là liền biết rõ cảnh trong mộng chỉ là hư vọng, khiến các nỗi sợ hãi liền tan biến. Cũng như vậy, người tu hành khi còn vọng tâm, còn bị các pháp thế gian trói buộc thì vẫn còn sợ hãi. Nhưng khi đã vào được thật tướng pháp rồi, thì sẽ biết rõ các sự việc diễn biến trong thế gian chỉ là những cảnh mộng dài, tương tục nối tiếp, biết rõ hết thảy các cảnh ở thế gian chỉ là hư vọng, chẳng thật có. Lúc bấy giờ thì chẳng còn sợ hãi nữa.
“Bồ Tát hành thật tướng pháp, tuy thường quán hết thảy chúng sanh, mà vẫn biết chúng sanh là bất khả đắc; tuy thường hành hết thảy pháp, mà vẫn biết rõ các pháp đều là tự tánh không. Vì sao ? Vì dụng tâm vô sở đắc hành các pháp, mới thật là hành Bát Nhã Ba La Mật”.
Cũng vậy các pháp do hòa hợp mà có, tự tướng là không, pháp không không có định tướng, thì làm sao có sanh, nên nói là vô sanh.
Kết luận:
Phẩm “Diệu Hạnh” nói lên đầy đủ giáo lý hạnh quả của Bát Nhã. Nếu hiểu thông suốt phẩm này và các trích dẫn nêu trên thì coi như hiểu thế nào là tu, thế nào là hành, thế nào là chứng Bát Nhã: Tu như vô tu, hành như vô sự, chứng như vô chứng, trụ mà không có chỗ trụ v.v… Hành giả Bát nhã Ba la mật còn tự mình quán tưởng tất cả pháp đều như huyễn, như mộng… Phủi sạch trong ngoài tất cả là phá ngã, là diệt tội mà cũng là thành thục chúng sanh, cũng thanh tịnh Phật độ. Đó là cương lĩnh Bát nhã Ba la mật mà cũng chính là cương lĩnh của Phật đạo.
Lưu ý: Bao nhiêu dẫn chứng trên đủ minh chứng phẩm “Diệu Hạnh” nói riêng và Tiểu Bản Bất Nhã nói chung, là tập hợp và đúc kết nhiều giáo lý của đại phẩm Bát Nhã hoặc ở phẩm này hay ở các phẩm khác. Ở đây có thể nói Tiểu Bản Bát Nhã là bản tóm tắt của Đại phẩm, chẳng có gì mới lạ. Nhờ vậy, chúng ta có dịp ôn lại các giáo lý đã học ở các Hội trên.
Phải nói rằng nếu chúng ta không tụng đọc thọ trì Hội thứ I và Hội thứ II trước khi đọc chánh văn của Hội thứ IV này, chắc chắn chúng ta sẽ rất ngỡ ngàng trở ngại vì tính cách cô động và xúc tích của nó.
Cũng xin lưu ý độc giả, khác với Hội thứ II và thứ III, ở hai pháp hội đó chúng tôi vì tóm lược nên không dám sửa đổi kinh văn. Nhưng đối với Tiểu Bản Bát Nhã này cũng giống như số lớn các tiểu bản khác, các tác giả trong khi dịch thuật, tùy theo sở học cũng như kinh nghiệm tu tập của mình, nên có lối diễn đạt riêng. Do đó về chi tiết và lối hành văn đôi khi có khác biệt giữa các Hội, nhưng đại cương không đi ngoài giáo lý Phật dạy. Cũng vậy, chúng tôi có trích dẫn “pha trộn” một vài đoạn kinh thuộc các tiểu bản khác để bổ khuyết vào Tiểu Bản Bát Nhã mà cách diễn tả của chính tác giả hay của vị làm công việc chuyển ngữ, đôi khi làm cho chúng ta lúng túng. Tuy nhiên, về tổng quát chúng tôi vẫn giữ giềng mối chính theo tinh thần của Đại Bát Nhã. Cái khó của Bát Nhã không phải là ở danh tự diễn đạt, mà cái khó chính là tư tưởng vượt ngoài ngôn ngữ danh tự. Ngôn ngữ danh tự thế tục không thể diễn tả nổi những gì mà Phật chứng.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Mãn Từ Tử tức là Phú Lâu Na, con của một vị Bà la môn giàu có sang trọng trong thành Ca tỳ la vệ, Vị Bà La môn này làm Quốc sư cho Vua Tịnh Phạn. Phú Lâu Na cũng là một trong mười đại đệ tử của Phật có biện tài thuyết pháp không ai bằng trừ Phật./.
---o0o---