- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM "TUYÊN HÓA"
Phần cuối Q.536 đến hết Q.537, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với 5 phẩm: “Chánh Định”, “Phật Pháp”, “Vô Sự”, “Nói Thật” và
“Tánh Không”, bắt đầu Q.477 cho đến hết Q.478, Hội thứ II, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Đây là phẩm cuối cùng của Hội thứ III. Phẩm này cũng như hầu hết các phẩm khác của Hội thứ III gồm 5 phẩm: “Chánh Định”, “Phật Pháp”, “Vô Sự”, “Nói Thật” và “Tánh Không” của Hội thứ II, nhập lại thành một phẩm duy nhất, lấy tên là “Tuyên Hóa”. Vì vậy, chúng tôi cũng theo sự phân chia của Hội thứ II mà trình bày phẩm này thành 5 đoạn, để dễ học, dễ tra cứu:
Tóm lược:
1. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Chánh Định”,
phần đầu quyển 477, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này an trụ trong nhóm chánh định hay bất định?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này đều trụ vào nhóm chánh định.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này trụ vào nhóm chánh định nào? Thanh văn thừa, Độc giác thừa hay Vô thượng thừa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này trụ vào Vô thượng thừa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này trụ vào nhóm chánh định từ lúc: Sơ phát tâm, hoặc ở ngôi vị Bất thối hay ở thân cuối cùng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này lúc mới phát tâm, hoặc ở ngôi vị Bất thối, hay thân cuối cùng đều trụ vào nhóm chánh định tụ của Bồ Tát. (Q. 536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ vào nhóm chánh định này có bị đọa vào đường ác không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát trụ vào nhóm chánh định này thì nhất định không đọa vào đường ác.
Lại bảo Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Người nhập Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác có bị đọa vào đường ác không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không đọa!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, đoạn tận tất cả pháp ác bất thiện. Do nhân duyên này không thể đọa vào các đường ác, không thể sanh vào cõi trời Trường thọ, vì các chỗ ấy các thiện pháp thù thắng không hiện hành.
Nếu đại Bồ Tát này sanh vào nơi biên địa hạ tiện, không có tín căn thì cũng không có lẽ ấy. Vì ở nơi ấy không thể tu hành thiện pháp thù thắng, phần nhiều phát sanh ác kiến, không tin nhân quả, ưa tạo các nghiệp xấu ác, không nghe Tam bảo, không có bốn chúng.
Đại Bồ Tát này cũng không sanh vào nhà tà kiến, vì sanh vào nơi ấy thuờng bị chấp trước các ác kiến, hành ác hạnh, bác bỏ diệu hạnh và phước báo, chẳng tu điều thiện, ưa làm các điều ác, nên các đại Bồ Tát không sanh vào nhà ấy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát lúc mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem ý lạc thù thắng thọ hành mười nghiệp đạo bất thiện, cũng không có lẽ ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này từ lúc mới phát tâm, thành tựu công đức thiện căn như vậy, không sanh vào chỗ ác thì tại sao Thế Tôn mỗi khi vì chúng nói việc bổn sanh của mình nhiều trăm ngàn thứ, ở trong cũng có sanh các chỗ ác, bấy giờ thiện căn ở chỗ nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát không vì nghiệp xấu mà thọ thân chỗ ác, chỉ vì lợi ích an vui các loài hữu tình, do bổn nguyện mà thọ thân này. Vì vậy, chẳng nên dẫn việc đó mà hỏi.
Lại bảo Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các Độc giác, hoặc A la hán dùng phương tiện thiện xảo thù thắng như các chúng đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, thọ thân bàng sanh, khi ấy có thợ săn muốn đến làm hại, Bồ Tát liền sanh tâm từ bi an nhẫn vô thượng, muốn làm cho người kia được lợi ích an vui nên tự xả thân mạng và không làm hại người khác, phải không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Độc giác, A la hán không làm như vậy.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên biết Bồ Tát vì muốn lợi ích an vui các hữu tình, vì lòng đại từ bi mau viên mãn, vì muốn chứng đắc đại Bồ đề, nên tuy chịu thọ thân bàng sanh nhưng không do tội lỗi bàng sanh làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát trụ vào thiện căn nào, vì muốn làm lợi ích an vui cho hữu tình nên thọ thân nơi cảnh giới ác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không có thiện căn nào của chúng đại Bồ Tát mà không viên mãn. Vì chúng đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên phải viên mãn tất cả thiện căn. Nghĩa là chúng đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa diệu Bồ đề, không có thiện căn nào là không viên mãn, do viên mãn hoàn toàn tất cả thiện pháp mới chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu còn một thiện pháp nào chưa viên mãn mà chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì không có lẽ ấy.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi tòa diệu Bồ đề. Trong thời gian ấy thường tu học đầy đủ tất cả thiện pháp. Học rồi, phải đầy đủ Nhất thiết tướng trí, đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí tương tục mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. (Q.536, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao các đại Bồ Tát thực hành các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu mà còn sanh vào đường ác, còn thọ thân bàng sanh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai có thành tựu tất cả Thánh pháp bạch tịnh vô lậu không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai thành tựu tất cả Thánh pháp bạch tịnh vô lậu.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như Lai hóa sanh vào cảnh giới ác, thọ thân bàng sanh vì lợi ích an vui cho hữu tình có phải là làm Phật sự không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai hóa sanh vào cảnh giới ác, thọ thân bàng sanh vì lợi ích an vui cho hữu tình là làm Phật sự.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi Như Lai hóa làm thân bàng sanh là có thật loài bàng sanh chịu khổ không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi Như Lai hóa làm thân bàng sanh, chẳng thật bàng sanh, chẳng chịu khổ.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy thành tựu tất cả các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu nhưng vì thành thục các loài hữu tình, vì lòng bi nguyện thọ thân bàng sanh.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Bậc A la hán đoạn trừ các lậu, có thể hóa làm thân người, tạo ra các sự nghiệp, đem sự nghiệp ấy làm cho người khác an vui không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bậc A la hán đoạn trừ các lậu, làm cho người khác an vui.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy đã thành tựu các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu, nhưng vì lợi ích an vui cho các loài hữu tình, đem lòng bi nguyện thọ thân bàng sanh, làm các Phật sự. Tuy thọ thân ấy nhưng không cùng với chúng chịu các khổ não, cũng không bị tội lỗi kia làm ô uế.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có nhà ảo thuật hay học trò của ông ấy biến hóa ra các thứ như voi, ngựa v.v... làm cho nhiều người trông thấy vui mừng phấn khởi; đối với những thứ ấy có thật là voi, ngựa v.v... không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với những thứ ấy không có thật.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, tuy thành tựu các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu, nhưng vì lợi ích an vui cho các loài hữu tình, đem lòng bi nguyện thọ thân bàng sanh. Tuy thọ thân ấy nhưng không thật có, cũng không bị tội lỗi kia làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát phương tiện thiện xảo rộng lớn như vậy, tuy đủ thành tựu các Thánh pháp bạch tịnh vô lậu, nhưng vì hữu tình dùng lòng bi nguyện phương tiện thiện xảo thọ đủ loại thân, tùy theo sự thích nghi của chúng mà thị hiện làm lợi ích. Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát an trụ vào những pháp nào để làm phương tiện thiện xảo, tuy thọ các loại thân bàng sanh như vậy, nhưng không bị tội lỗi ấy làm ô nhiễm?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát trụ vào Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy để làm phương tiện thiện xảo. Do sức phương tiện thiện xảo này, nên tuy trải qua hằng hà sa thế giới chư Phật khắp mười phương, hiện nhiều thứ thân, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình, nhưng ở trong ấy không sanh tâm đắm nhiễm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đối với tất cả pháp đều vô sở đắc. Do vô sở đắc nên không có người nhiễm, nơi chốn nhiễm và nhân duyên nhiễm. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp đều Không. (Q.536, ĐBN)
(Tánh không và bất khả đắc không)
Thiện Hiện nên biết! Không chẳng thể nhiễm không. Không chẳng thể nhiễm các pháp, cũng không có các pháp năng nhiễm được không. Vì sao? Trong tánh không, không còn bất khả đắc huống chi có các pháp khác có thể nhiễm trước không. Như vậy, gọi là bất khả đắc không. Các đại Bồ Tát an trụ trong đây năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình thường làm nhiêu ích lớn. (Q.536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì chỉ an trụ Bát nhã Ba la mật sâu xa, nên dùng phương tiện thiện xảo như vậy, hay là an trụ vào pháp nào khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Không có pháp nào là không tóm thâu vào Bát nhã Ba la mật sâu xa, sao ông còn đặt câu hỏi ấy?
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật sâu xa tự tánh vốn Không, làm sao cho rằng Bát nhã Ba la mật sâu xa tóm thâu tất cả pháp? Chẳng phải trong pháp Không cho rằng có pháp thu nhiếp hay không thu nhiếp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Há chẳng phải các pháp tự tánh đều Không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không thì trong cái bất không làm sao nhiếp thọ được tất cả pháp.
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, Bát nhã Ba la mật sâu xa tóm thâu tất cả pháp. Nên biết chúng đại Bồ Tát trụ vào Bát nhã Ba la mật sâu xa, nên dùng phương tiện thiện xảo như vậy làm lợi ích an vui cho hữu tình.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ trong tất cả pháp tự tánh đều Không, phát sanh thần thông Ba la mật, an trụ vào thần thông Ba la mật này có thể đến được hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương, cúng dường, cung kính, tôn trọng chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chư Phật thuyết pháp và trồng nhiều căn lành?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy khắp mười phương hằng hà sa số thế giới chư Phật và nhiều chư Phật, cùng nhau thuyết tự tánh không của các pháp. Nhưng chỉ giả danh theo thế tục, thuyết đây là thế giới Phật, chúng Tăng và đây là các pháp. Nhưng danh tự như vậy, do thế tục giả nói, tự tánh cũng không.
Thiện Hiện nên biết! Nếu mười phương cõi và chúng chư Phật cùng nhau thuyết pháp thi thiết danh tự tự tánh chẳng không thì cái không được thuyết đó sẽ thành một phần nhỏ. Vì cái không được thuyết chẳng thành một phần nhỏ, nên tự tánh của tất cả pháp đều là không. Lý của nó tròn đầy, không hai không khác. Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, do quán thấy là không, dùng phương tiện thiện xảo mà phát sanh thần thông Ba la mật. An trụ vào Bát Nhã đó có thể phát sanh Thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trụ tùy niệm và biết lậu tận.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát không xa lìa thần thông Ba la mật, có năng lực tự tại, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, thần thông Ba la mật là đạo Bồ đề, các đại Bồ Tát đều nương vào đạo này cầu đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong lúc đạt đến, tự mình có thể viên mãn tất cả thiện pháp, cũng có thể khuyên người tu các thiện pháp. Dù có làm nhưng đối với việc ấy không đắm trước. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này biết các thiện pháp tự tánh đều Không, chẳng phải tự tánh không mà có chấp trước. Nếu có chấp trước thì có vị ngọt của ái. Do không chấp trước nên không có vị ngọt của ái, vì trong tự tánh không vị ngọt của ái, người hưởng vị, sự hưởng vị và pháp được hưởng vị, ở trong pháp không đều bất khả đắc.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ thần thông Ba la mật, phát sanh thiên nhãn thanh tịnh hơn người. Dùng thiên nhãn này quán tất cả pháp tự tánh đều Không. Vì thấy tất cả pháp tự tánh đều Không, nên chẳng nương theo pháp tướng tạo ra các nghiệp. Tuy vì hữu tình thuyết pháp như vậy, nhưng cũng không đắc tướng các hữu tình và thi thiết kia. Đại Bồ Tát này đem vô sở đắc làm phương tiện phát sanh thần thông thù thắng của Bồ Tát, dùng thần thông này làm tất cả sự nghiệp đáng làm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này dùng thiên nhãn hoàn toàn thanh tịnh hơn người, xem khắp hằng hà sa số thế giới của chư Phật khắp mười phương, xem rồi phát sanh thần cảnh trí thông, qua thế giới khác làm lợi ích cho các loài hữu tình. Hoặc dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật để làm lợi ích. Hoặc dùng ba mươi bảy Bồ đề phần pháp để làm lợi ích. Hoặc dùng tịnh lự, vô lượng, vô sắc để làm lợi ích. Hoặc dùng giải thoát, đẳng trì, đẳng chí để làm lợi ích. Hoặc dùng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện để làm lợi ích. Hoặc dùng các thiện pháp thù thắng khác để làm lợi ích. Hoặc dùng Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và các Phật pháp khác để làm lợi ích.
Đại Bồ Tát này dạo khắp mười phương thế giới, nếu thấy hữu tình nào nhiều bỏn xẻn tham lam thì sanh tâm thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông phải tu bố thí, người nào tham lam, bỏn xẻn sẽ chịu khổ vô cùng. Vì nghèo túng nên không có oai đức, không thể làm lợi ích cho mình, huống là làm lợi ích cho người khác. Vì vậy, nên các ông phải luôn bố thí để an vui cho mình và cũng làm cho người khác được an vui. Đừng vì sự bần cùng mà sát hại lẫn nhau, đó không phải là giải pháp để thoát khỏi khổ trong các đường”.
Nếu thấy hữu tình nào hủy phá tịnh giới thì sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông phải giữ gìn tịnh giới, người nào phá giới chịu khổ nơi đường ác. Người phá giới không có oai đức, không làm lợi ích cho mình, huống là cho người khác. Nhân duyên phá giới đọa vào các đường ác, chịu khổ quả báo đau đớn, không thể chịu đựng nổi, không thể tự cứu mình huống là cứu người khác. Vì vậy, nên các ông phải giữ gìn tịnh giới, không nên chấp chứa tâm phá giới dù chỉ một niệm, huống là lâu dài. Chớ buông lung tâm ý, sau này phải ăn năn”.
Nếu thấy hữu tình nào sân giận nhau, kết oán thù tổn hại nhau, Bồ Tát sanh tâm thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông phải tu an nhẫn, đừng sân giận với nhau, kết oán thì tổn hại nhau. Tâm thù hận như vậy chẳng thuận với thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, hiện đời thọ lấy sự tổn hại. Qua đời sau sẽ bị đọa vào đường ác, chịu khổ vô cùng, khó mong ra khỏi. Vì vậy, nên các ông chẳng nên chấp chứa tâm thù hận, dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu dài. Ngày nay các ông tuần tự duyên nhau, nên sanh lòng từ bi làm việc lợi ích”.
Nếu thấy hữu tình nào giải đãi biếng nhác, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông nên siêng năng tinh tấn, không nên đối với thiện pháp giải đãi, biếng nhác. Những người biếng nhác đối với các thiện pháp và các thắng sự đều không thể thành công được. Do đây, các ông đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy, các ông chẳng nên chấp chứa tâm biếng nhác, dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu dài”.
Nếu thấy hữu tình nào thất niệm, tán loạn, tâm chẳng vắng lặng, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông nên tu tịnh lự, không nên sanh tâm thất niệm, tán loạn. Tâm như vậy chẳng thuận với thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, hiện đời thọ lấy sự tổn suy. Do nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, các ông phải đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy, các ông chẳng nên chấp chứa tâm tương ưng với thất niệm, tán loạn dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu dài”.
Nếu thấy hữu tình nào ngu si ác tuệ, sanh lòng thương xót, thuyết pháp khuyên như vầy: “Hữu tình các ông nên tu thắng tuệ, không nên sanh ác tuệ. Người nào sanh tâm ác tuệ, đối với các cảnh giới thiện còn chẳng đến được, huống là giải thoát. Do nhân duyên ác tuệ này mà các ông phải đọa vào đường ác, chịu khổ vô biên. Vì vậy, các ông chẳng nên chấp chứa tâm tương ưng với ngu si ác tuệ dù chỉ một niệm, huống là nối nhau lâu dài”.
Nếu thấy hữu tình nào nhiều tham dục, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện làm cho họ tu quán bất tịnh. Nếu thấy hữu tình nào nhiều sân giận, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán từ bi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều ngu si sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán duyên khởi. Nếu thấy hữu tình nào nhiều kiêu mạn, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán giới phân biệt. Nếu thấy hữu tình nào nhiều tầm tứ, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ tu quán hơi thở.
Nếu thấy hữu tình nào mất chánh đạo, sanh lòng thương xót, dùng phương tiện khuyên họ trở về với chánh đạo, đó là đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Bồ Tát, đạo Như Lai. Dùng phương tiện thuyết pháp cho họ như vầy: “Điều mà các ông chấp lấy, tự tánh đều Không. Chẳng phải trong pháp không mà có thể chấp lấy. Vì vô sở chấp là tướng không”.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ trong thần thông Ba la mật, mới có thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào xa lìa thần thông Ba la mật, thì không thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Cũng như chim không cánh, không thể tự tại bay lượn giữa hư không, hay bay đến nơi xa tận. Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, nếu không có thần thông Ba la mật, thì không thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp, làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật phát sanh thần thông Ba la mật. Nếu vị nào phát sanh thần thông Ba la mật, thì có thể tự tại giảng thuyết Chánh pháp, tùy ý làm lợi ích an vui cho các loài hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người, xem hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương và xem các loài hữu tình sanh vào thế giới ấy. Quán rồi, phát sanh thần cảnh trí thông, trải qua trong sát na liền đến thế giới ấy, dùng tha tâm trí như thật biết rõ các tâm và tâm sở của các hữu tình kia, tùy theo chỗ thích ứng mà nói pháp cho họ. Nghĩa là nói pháp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc nói bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc nói bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc nói pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc nói tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc nói pháp môn Đà la ni, Tam ma địa. Hoặc nói pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Hoặc nói chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Hoặc nói Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc nói nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc nói các pháp theo duyên sanh ra. Hoặc nói vô minh cho đến lão tử. Hoặc nói các môn uẩn xứ giới. Hoặc nói đạo Thanh văn, hoặc nói đạo Độc giác, hoặc nói đạo Bồ Tát, hoặc nói đạo Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho các hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này dùng thiên nhĩ thanh tịnh hơn người, có thể nghe tất cả tiếng người chẳng phải người. Do thiên nhĩ này nghe được sự thuyết pháp của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương. Nghe rồi thọ trì, tư duy nghĩa lý, tùy pháp đã nghe có thể vì hữu tình mà như thật giảng thuyết. Hoặc nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này biết rõ tâm và tâm sở pháp của các loài hữu tình, tùy theo sự thích ứng mà nói pháp, hoặc là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này dùng tịnh túc trụ tùy niệm trí thông, như thật nhớ rõ đời quá khứ của chư Phật và chúng đệ tử đều sai khác. Nếu các hữu tình nào ưa nghe các việc túc trụ đời quá khứ mà được lợi ích, nên vì giảng thuyết các việc túc trụ. Nhân đó, Bồ Tát dùng phương tiện vì họ mà nói Chánh pháp, hoặc là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này dùng thần cảnh trí thông trong một sát na qua đến hằng hà sa thế giới của chư Phật khắp mười phương, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, trồng các thiện căn với chư Phật, rồi trở về bổn quốc, vì các hữu tình mà nói những việc như ở cõi Phật kia. Nhân đó, Bồ Tát dùng phương tiện vì họ thuyết Chánh pháp. Nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này dùng lậu tận trí thông, tùy chỗ chứng đắc, như thật biết rõ các lậu của hữu tình đã đoạn hay chưa đoạn, cũng như thật biết dùng phương tiện để đoạn trừ các lậu. Vì kẻ chưa đoạn mà giảng thuyết pháp yếu, nghĩa là nói bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết bàn, làm cho hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên phát sanh thần thông Ba la mật. Đại Bồ Tát này tu tập thần thông Ba la mật được viên mãn, nên tùy ý ưa thích để thọ các loại thân, nhưng không bị các khổ, vui, tội lỗi làm ô nhiễm. Như hóa thân Phật, tuy có thể kiến tạo ra những sự nghiệp nhưng không bị khổ, vui, tội lỗi ấy làm tạp nhiễm.
Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật nên dùng du hý thần thông Ba la mật. Nếu dùng du hý thần thông Ba la mật, thì có thể thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, và có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát nào chẳng thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật thì nhất định không thể chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì tư lương Bồ đề của các đại Bồ Tát này chưa viên mãn, nên chắc chắn chẳng thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tư lương Bồ đề của các đại Bồ Tát? Làm thế nào các đại Bồ Tát viên mãn tư lương Bồ đề để có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí? (Q. 536, ĐBN)
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả thiện pháp đều là tư lương Bồ đề của Bồ Tát. Các đại Bồ Tát nào viên mãn tư lương Bồ đề như vậy mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
(Những gì là tất cả thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát,
cũng gọi là Bồ Tát đạo?)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tất cả thiện pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ở trong pháp ấy không còn phân biệt chấp trước, như suy nghĩ: Đây là pháp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, do đây, vì đây mà tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ba sự phân biệt chấp trước đều không. Vì biết tất cả pháp tự tánh đều Không. Do đây pháp tu sáu pháp Ba la mật như bố thí v.v... có thể tự lợi, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình ra khỏi sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ Tát, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Vì chúng đại Bồ Tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều hành đạo này, nên đã, đang và sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; cũng làm cho hữu tình đã, đang và sẽ được thoát ra biển lớn sanh tử, được vui Niết bàn.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. An trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ Tứ đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu các bậc Bồ Tát. Tu pháp môn Đà la ni, Tam ma địa. Tu Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Đối trong pháp ấy đều không phân biệt chấp trước, như nghĩ: Đây là bốn tịnh lự, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Do đây, vì đây mà tu bốn tịnh lự, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Ba sự phân biệt chấp trước đều không. Vì biết tất cả pháp tự tánh đều Không, nên do đây tu bốn tịnh lự v.v... có thể tự lợi ích, cũng có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình ra khỏi sanh tử, được vui Niết bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ Tát, cũng gọi là đạo Bồ Tát. Chúng đại Bồ Tát ở đời quá khứ, vị lai, hiện tại hành đạo này nên đã, đang và sẽ được đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng làm cho hữu tình đã, đang và sẽ được thoát ra biển lớn sanh tử, được vui Niết bàn.
Thiện Hiện nên biết! Lại có vô lượng các chúng Bồ Tát sở tu công đức đều gọi thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề của Bồ Tát, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Các đại Bồ Tát nào chuyên tu các thiện pháp thù thắng cho được viên mãn hoàn toàn như thế mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Chủ yếu là chứng đắc Nhất thiết trí trí mới có thể tùy thuận chuyển pháp luân vi diệu, độ các hữu tình thoát khỏi khổ sanh tử, chứng đắc Niết bàn an vui rốt ráo.
(Tất cả thiện pháp đều được liệt kê và thích nghĩa đầy đủ trong phần thứ I Tổng luận)
2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Phật Pháp”,
phần sau quyển 477, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp này là pháp của Bồ Tát thì còn pháp nào gọi là pháp của Phật không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Pháp của Bồ Tát cũng gọi là pháp của Phật. Bởi vì các Bồ Tát đối với tất cả pháp hiểu tất cả tướng. Do đây sẽ chứng được Nhất thiết tướng trí, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí tương tục. Còn chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp chỉ một sát na tương ưng với Bát Nhã liền hiện Đẳng giác rồi, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đó gọi là Bồ Tát khác với chư Phật. Quả vị có khác, pháp tu chẳng khác, nên chẳng thể nói tánh của các pháp có khác.
Như vậy, này Thiện Hiện! Nếu hành vô gián đạo đối với tất cả pháp chưa lìa ám chướng, chưa đến bờ giác, chưa được tự tại, khi chưa đạt được quả thì gọi là Bồ Tát. Còn nếu ở trong đạo giải thoát, hành tất cả pháp đã lìa ám chướng, đã đến bờ giác, đã được tự tại, khi đã được quả thì mới gọi là Phật. Đây gọi là Bồ Tát khác với chư Phật. Do địa vị có khác, nhưng pháp không khác, nên không thể nói tánh của các pháp có khác. (Q. 536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tướng đều Không thì trong Không của tự tướng làm sao có được các loại sai biệt, nói đây là địa ngục, cho đến đây là trời, đây là chủng tánh, nói rộng cho đến đây là Như Lai? Như vậy, đã nói Bổ đặc già la bất khả đắc thì sự tạo nghiệp của họ cũng bất khả đắc. Sự tạo nghiệp đã bất khả đắc, quả dị thục kia cũng bất khả đắc, thì làm sao có được các loại sai khác?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Tất cả pháp tự tướng đều Không, trong tự tướng Không đó Bổ đặc già la đã vô sở hữu thì nghiệp quả dị thục cũng vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có tướng sai biệt. Nhưng các hữu tình đối với tất cả pháp, lý của tự tướng Không chẳng thể biết hết được, nên tạo ra các nghiệp hoặc thiện, hoặc ác, hoặc là vô ký. Do nơi nghiệp thiện tạo ra được tăng trưởng nên sanh trong cõi trời, người. Do nơi ác nghiệp tăng trưởng nên đọa vào ba đường ác. Ở trong nghiệp thiện, do nơi thiền định tạo ra tăng trưởng nên được sanh vào cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc. Do vô lậu nghiệp gia hạnh căn bản có các chủng tánh Hiền Thánh sai khác. Do nhân duyên này, nên có các đại Bồ Tát tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cho đến tu hành Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.
Đại Bồ Tát này đối với Bồ đề phần pháp đã nói đây không gián đoạn, không khuyết, tu hành cho viên mãn. Đã viên mãn rồi liền có thể phát sanh định Kim cương dụ, gần tiến đến Bồ đề, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và làm lợi ích lớn cho các hữu tình thường không hoại diệt. Vì không hoại diệt, nên làm cho các hữu tình giải thoát sanh tử, chứng đắc thanh tịnh Niết bàn thường lạc. (Q.536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật đã chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi, có còn bị các pháp sanh tử đưa đến các cảnh giới khác không?
Phật đáp:
- Không có.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Phật đã chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi, có bị hắc nghiệp, bạch nghiệp, hắc bạch nghiệp, chẳng phải hắc bạch nghiệp không?
Phật đáp:
- Không có.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Phật chẳng bị các cảnh giới sanh tử và nghiệp khác nhau thì làm sao nói đây là địa ngục cho đến trời, người, đây là chủng tánh cho đến phần vị khác nhau của Như Lai?
Phật hỏi Thiện Hiện:
- Các loài hữu tình có biết tự tướng của các pháp là Không chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng biết!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình tự biết tự tướng của các pháp là Không thì các đại Bồ Tát đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng nên cầu chứng đắc, dùng phương tiện thiện xảo độ các hữu tình thoát khỏi đường ác sanh tử. Vì các hữu tình chẳng biết tự tướng các pháp là Không, nên luân hồi trong các nẻo, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, nên Bồ Tát đã nghe chư Phật thuyết tất cả pháp tự tướng là Không rồi, vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dùng phương tiện thiện xảo độ các hữu tình thoát khỏi đường ác sanh tử.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát này thường nghĩ: Chẳng phải tất cả pháp thật có tự tướng như các phàm phu ngu muội đã chấp. Nhưng vì do sức phân biệt điên đảo, nên trong ấy chẳng phải thật có, mà vọng tưởng là thật có. Nghĩa là trong vô ngã vọng tưởng là có ngã, nói rộng cho đến trong không có người thấy vọng tưởng là có người thấy. Lại trong không có sắc vọng tưởng có sắc, trong không có thọ, tưởng, hành, thức vọng tưởng có thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến trong không vô vi vọng tưởng vô vi. Vì sức phân biệt điên đảo như vậy, nên trong chẳng phải thật có vọng tưởng thật có. Hư dối, chấp trước, đảo loạn nơi tâm, tạo nghiệp thiện hay bất thiện nơi thân, khẩu, ý, không thể giải thoát được đường ác sanh tử. Ta phải cứu độ giúp cho họ được giải thoát.
Đại Bồ Tát này nghĩ như vậy rồi, hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng các thiện pháp tóm thâu vào trong ấy, tùy thuận tu hành Bồ Tát hạnh, tuần tự viên mãn tư lương Bồ đề. Tư lương Bồ đề đã được viên mãn, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bồ đề viên mãn rồi, vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, phân biệt, thành lập nghĩa bốn Thánh đế. Nói đây là Thánh đế khổ, đây là Thánh đế khổ tập, đây là Thánh đế khổ diệt, đây là con đường đưa đến Thánh đế khổ diệt. Lại dùng tất cả Bồ đề phần pháp tóm thâu vào trong bốn Thánh đế như vậy, rồi nương vào tất cả Bồ đề phần pháp, thành lập, tạo dựng Phật, Pháp, Tăng bảo. Nhờ Tam bảo này có mặt ở thế gian, nên các loài hữu tình giải thoát sanh tử. Các hữu tình nào không chịu quy hướng Phật, Pháp, Tăng bảo, tạo ra các nghiệp thì phải luân hồi các nẻo, chịu khổ vô cùng. Vì vậy, nên phải quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, cần cầu lợi ích an vui cho mình và người.
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn, hay vì nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn? [Ở đây phân biệt Thánh đế và Thánh trí (khổ tập diệt đạo)]
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng phải nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn; cũng chẳng phải nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo mà các loài hữu tình chứng nhập Niết bàn. (Q. 536, ĐBN)
Này Thiện Hiện! Ta nói tánh bình đẳng của bốn Thánh đế tức là Niết bàn. Như vậy, Niết bàn chẳng phải nhờ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng chẳng nhờ Thánh trí khổ, tập, diệt, đạo. Chỉ nhờ chứng tánh bình đẳng của Bát nhã Ba la mật nên gọi là chứng nhập Niết bàn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tánh bình đẳng của bốn Thánh đế là thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu ở nơi mà không có khổ, tập, diệt, đạo đế; không có khổ, tập, diệt, đạo trí thì gọi là tánh bình đẳng của bốn Thánh đế. Tánh bình đẳng này tức là bốn Thánh đế, là cảnh giới chơn như, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Như Lai dù ra đời hoặc chẳng ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ không hoại diệt, không biến đổi. Như vậy, gọi là tánh bình đẳng của bốn Thánh đế.
Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì muốn hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế đây, nên hành Bát nhã Ba la mật. Nếu có thể hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế này thì gọi là hiểu biết hoàn toàn tất cả Thánh đế, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.536, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì muốn hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế này nên hành Bát nhã Ba la mật? Nếu có thể hiểu rõ tánh bình đẳng của bốn Thánh đế này thì gọi giác ngộ chơn chánh tất cả Thánh đế, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, thẳng đến Bồ Tát Chánh tánh ly sanh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp, không có chút pháp nhỏ nhặt nào mà không thấy như thật. Khi đối với tất cả pháp thấy như thật đều vô sở đắc. Khi đối với tất cả pháp vô sở đắc thì thấy như thật tất cả pháp đều Không. Nghĩa là như thật thấy biết các pháp được thâu nhiếp hay không thâu nhiếp trong bốn đế đều là không. Khi thấy như vậy có thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Do nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, nên trụ trong chủng tánh địa của Bồ Tát. Trụ trong chủng tánh địa của Bồ Tát rồi thì nhất định không bị rơi từ đỉnh cao. Nếu rơi từ cao xuống thì sẽ lui thụt vào địa vị Thanh văn hoặc Độc giác. Đại Bồ Tát này an trụ bậc Bồ Tát chủng tánh phát khởi bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, Bồ Tát này an trụ trong Xa ma tha địa(1) như thế, mới có thể quyết trạch(2) tánh của tất cả pháp và từ đó có thể giác ngộ lý của bốn Thánh đế.
Bấy giờ, Bồ Tát tuy đã biết rõ các khổ nhưng không khởi tâm duyên theo khổ. Tuy đoạn trừ vĩnh viễn tập nhưng không khởi tâm duyên theo tập. Tuy có thể chứng diệt nhưng không khởi tâm duyên theo diệt. Tuy có thể tu đạo nhưng không khởi tâm duyên theo đạo. Chỉ khởi tâm tùy thuận hướng đến Bồ đề, như thật giác biết rõ tướng của các pháp.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào các đại Bồ Tát biết rõ thật tướng của các pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát quán tất cả pháp đều Không. Đây là biết rõ thật tướng của các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát quán tất cả pháp đều Không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát quán tự tướng của tất cả pháp đều Không. Đây là đại Bồ Tát quán tất cả pháp đều Không.
Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát do quán tướng Không Tỳ bát xá na (3), quán các pháp Không, đều không thấy có tự tánh của các pháp, trụ ở trong ấy nên chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Đó là sắc uẩn cho đến thức uẩn đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nói rộng, cho đến tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Vô tánh như vậy chẳng phải chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Độc giác, Bồ Tát, các quả và hướng của Thanh văn làm ra, cũng chẳng phải ai khác làm ra. Chỉ vì hữu tình đối với tất cả pháp chẳng biết, chẳng thấy như thật đều Không. Vì vậy, nên chúng đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo tự mình đã hiểu biết rồi, vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị, làm cho chúng xa lìa sự chấp trước, thoát khổ sanh tử, được nhập Niết bàn, an vui rốt ráo. (Q.537, ĐBN)
Thích nghĩa cho đoạn 2. này:
(1). Xa ma tha: (Phạm: zamatha) nghĩa là ngưng chỉ, tĩnh lặng, hay diệt, một trong bảy tên của Thiền định, là thu nhiếp tâm không để ngoại cảnh làm lay động, xa lìa và đình chỉ tất cả sự tán loạn khiến cho tâm tĩnh lặng.
(2). Quyết trạch (決擇; C: juézé; J: ketchaku): Quyết định và chọn lựa.
(3). Tỳ Bát xá na hay Tỳ bà xá na (Vipasyana - skt): 1- Biện Biệt (Discernment), 2- Quán (Insight), 3- Chánh Kiến (Correct perception, or views). (Từ điển Việt Anh - Thiện Phúc)
3. (Đoạn Kinh nầy tương đương với phẩm “Vô sự”,
phần đầu quyển 478, Hội thứ II, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh. Tự tánh như thế chẳng phải chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Độc giác, Bồ Tát, Thanh văn v.v... làm ra, thì làm sao cho rằng các pháp có khác nhau, nói đây là địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, trời, người v.v… nhiều loại sai khác. Đây là trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ và có phần vị của Tam thừa khác nhau. Do nghiệp như thế nói có địa ngục, do nghiệp như thế nói có bàng sanh, do nghiệp như thế nói có cõi quỷ, do nghiệp như thế nói có cõi người, có châu Thiệm bộ, châu Thắng thân, châu Ngưu hóa, châu Câu lô v.v... các thứ khác nhau, do nghiệp như thế nói có cõi trời, có trời Tứ đại thiên vương cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ các thứ khác nhau, do nghiệp như thế nói có quả Dự lưu cho đến Độc giác, do nghiệp như thế nói có Bồ Tát và các đức Như Lai. (Q.537, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh chắc chắn không tác dụng, làm sao nói do nghiệp này nên sanh vào địa ngục? Như vậy, cho đến do nghiệp này nên sanh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và do nghiệp này mà đắc quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ đề? Do nghiệp này nên nhập vào địa vị Bồ Tát hành Bồ Tát đạo? Do nghiệp này nên có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình?
Phật dạy:
Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Trong pháp vô tánh không thể nói rằng các pháp có khác nhau, không nghiệp, không quả, cũng không tác dụng. Chỉ vì phàm phu ngu muội không hiểu rõ Thánh pháp và Tỳ nại da, nên không như thật biết các pháp đều lấy vô tánh làm tánh, ngu si điên đảo tạo ra các nghiệp, theo nghiệp khác nhau mà thọ các loại thân. Nương theo phẩm loại thân khác nhau như thế nói có địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, người, chư thiên, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vì muốn cứu độ những phàm phu ngu muội điên đảo như thế bị khổ sanh tử nên nói có phần vị khác nhau của Thánh pháp và Tỳ nại da. Nương vào phần vị này nói có quả Dự lưu cho đến Độc giác, Bồ Tát, Như Lai. Nhưng tất cả pháp tánh đều lấy vô tánh làm tự tánh. Trong pháp vô tánh thật không có pháp nào khác, không nghiệp, không quả, cũng không tác dụng, vì pháp vô tánh thường vô tánh vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Như ông đã nói, pháp vô tánh chắc chắn không tác dụng. Như vậy, làm sao nói do nghiệp như thế được quả Dự lưu cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí, được gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình?
Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Có phải sự tu đạo là vô tánh không? Các quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát đạo, Nhất thiết trí trí cũng vô tánh không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Sự tu đạo, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí đều là vô tánh.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Pháp vô tánh có thể đắc pháp vô tánh không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không được!
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vô tánh và đạo, tất cả pháp này đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Phàm phu ngu muội đối với pháp vô tướng hư vọng phân biệt, vọng tưởng là hữu tướng, chấp trước các uẩn, các xứ, các giới; ở trong vô thường vọng sanh tưởng là thường; ở trong các khổ vọng sanh tưởng là vui; ở trong vô ngã vọng sanh tưởng có ngã; ở trong bất tịnh vọng sanh tưởng là tịnh. Ngu si điên đảo đối với pháp vô tánh chấp trước là hữu tánh v.v… Do nhân duyên này, các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, cứu vớt các loài hữu tình như thế xa lìa điên đảo hư vọng phân biệt, dùng phương tiện an lập họ trong pháp vô tướng, giúp họ siêng năng tu học, giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn an vui rốt ráo.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ví như có chút vật nhỏ là chơn thật, chẳng phải hư vọng, kẻ phàm phu ngu muội chấp trước nơi vật ấy rồi tạo ra các nghiệp. Do đó bị luân hồi trong các nẻo, không thể giải thoát khổ sanh tử phải không? Và nếu không có chút vật nhỏ là chơn thật, chẳng phải hư vọng, thì làm sao kẻ phàm phu ngu muội chấp trước nơi vật ấy tạo ra các nghiệp để bị luân hồi trong các nẻo?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Kẻ phàm phu ngu muội đã chấp trước các vật, cho đến không có chút mảy may vật nhỏ nào là chơn thật, chẳng phải hư vọng, vì chấp trước vào đó nên tạo ra các nghiệp. Do nhân duyên này luân hồi trong các nẻo, không thể giải thoát các khổ sanh tử, chỉ vì điên đảo hư vọng chấp trước. Nay Ta vì ngươi mà nói rộng thí dụ, làm rõ nghĩa này để cho dễ hiểu, và những người có trí nhờ thí dụ này nên đối với nghĩa Ta nói sẽ hiểu rõ một cách chính xác.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong mộng thấy người thọ vui năm dục, trong mộng vả có chút phần thật sự khá khiến người kia thọ vui dục lạc chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong mộng thấy người hãy chẳng thật có, huống có thật sự khá khiến người kia trụ ở trong mộng thọ vui năm dục.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong mộng vả có việc các thú chơn thật qua lại trong sanh tử chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong mộng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo ấy có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Vì mộng và thấy pháp đều chẳng thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong gương sáng thảy được thấy các tượng là có thật sự, khá nương gây nghiệp đã thấy hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời, thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong gương sáng thảy được thấy các tượng đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá năng gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong gương sáng thảy các tượng đã hiện, tượng kia vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Tượng đã hiện kia đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong hang núi thảy phát ra tiếng vang, vì có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong các hang núi phát ra tiếng vang chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các tiếng vang cả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Vì tiếng vang các hang núi đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh. (Q.537, ĐBN)
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong nắng nóng hiện tợ có nước thảy vì có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong các nắng nóng sở hiện tợ nước thảy đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nước thảy trong các nắng nóng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Nắng nóng hiện tợ nước thảy đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong các bóng sáng hiện ra sắc tướng là có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong các bóng sáng hiện ra sắc tướng đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các sắc tướng trong bóng sáng vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Sắc tướng bóng sáng đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thầy huyễn biến hóa các quân binh voi ngựa thảy các thứ hình tượng là có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Voi ngựa thảy huyễn đều không thật sự, chỉ gạt trẻ ngu, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Việc huyễn vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Voi ngựa thảy huyễn đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh. (Q.537, ĐBN)
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Những thân mà kẻ biến hóa ra, hóa thân ấy có thật tạo nghiệp, bởi nghiệp đã gây nên đọa địa ngục, hoặc đọa bàng sanh, hoặc đọa cõi quỷ, hoặc sanh trong loài người, hoặc sanh trên trời hưởng các khổ, vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Các thân biến hóa đều không thật sự, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Hóa thân vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Các thân biến hóa đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong thành tầm hương hiện ra vật loại là có thật sự khá nương gây nghiệp, do nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ khổ vui chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Trong thành tầm hương hiện ra vật loại đều không thật sự, làm sao khá nương gây làm các nghiệp, do các nghiệp đã gây hoặc đọa ác thú, hoặc sanh người trời thọ các khổ vui.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Vật loại trong thành tầm hương vả có chơn thật tu đạo, nương tu đạo kia có lìa tạp nhiễm được thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật. Vì sao? Vật loại thành kia đều không thật sự, chẳng năng thi thiết, chẳng sở thi thiết. Tu đạo hãy không, huống nương tu đạo có lìa tạp nhiễm và được thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Vả có các pháp hoặc là hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, chẳng phải như tượng, vang, ánh nắng, bóng sáng, việc huyễn biến hóa, vật loại trong thành tầm hương ấy chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Quyết định không có pháp hoặc là hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, chẳng phải như tượng thảy.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong đây vả có thật kẻ tạp nhiễm, kẻ thanh tịnh chăng?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Trong ấy đều không thật kẻ tạp nhiễm và kẻ thanh tịnh.
Phật bảo:
- Này Thiện Hiện! Như người tạp nhiễm hoặc thanh tịnh thật vô sở hữu. Do nhân duyên này, tạp nhiễm và thanh tịnh cũng chẳng thật có. Vì sao? Vì các loài hữu tình trụ nơi ngã hay ngã sở đều hư vọng phân biệt, cho rằng có người tạp nhiễm và thanh tịnh. Do nhân duyên này cho rằng có tạp nhiễm và có thanh tịnh; chẳng phải thật có người thấy cho rằng có người tạp nhiễm và người thanh tịnh. Như người thật thấy biết không có người tạp nhiễm và người thanh tịnh. Như vậy, sự tạp nhiễm và thanh tịnh cũng không, vì tất cả pháp tự tướng đều Không.
4. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Nói Thật”,
phần giữa quyển 478, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những người thấy thật không nhiễm, không tịnh, những người không thật thấy cũng không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Những người nói thật không nhiễm, không tịnh, những người nói không thật cũng không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Pháp vô tự tánh không nhiễm, không tịnh, pháp có tự tánh cũng không nhiễm, không tịnh. Các pháp vô tự tánh, có tự tánh cũng không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Nếu người thật thấy và người nói thật không nhiễm, không tịnh, người không thật thấy và người không nói thật cũng không nhiễm, không tịnh thì tại sao có khi Thế Tôn lại nói có pháp thanh tịnh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ta nói tánh bình đẳng của tất cả pháp tức là pháp thanh tịnh.
(Thế nào là tánh bình đẳng của các pháp?)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh bình đẳng của tất cả pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các pháp như, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì, Như Lai dù ra đời hoặc không ra đời thì tánh tướng vẫn thường trụ. Đây gọi là tất cả tánh bình đẳng của tất cả pháp. Tánh bình đẳng này gọi là pháp thanh tịnh. Ở đây nương vào thế tục nói là thanh tịnh, chẳng nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế không có phân biệt, cũng không hý luận, dứt tất cả danh tự và ngôn ngữ, nên không thể nói là có nhiễm hoặc có tịnh. (Q.537, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như cảnh mộng, nói rộng cho đến như thành Tầm hương, tuy hiện ra tựa như có nhưng không thật sự, thì làm sao đại Bồ Tát nương vào pháp chẳng thật có, phát tâm đạt đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thệ nguyện: “Ta phải viên mãn sáu pháp Ba la mật. Nói rộng, cho đến ta phải viên mãn ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Ta phải phát sanh vô lượng ánh sáng soi chiếu vô biên thế giới khắp mười phương. Ta phải phát sanh âm thanh vi diệu vô biên thế giới vang khắp mười phương, tùy theo tâm và tâm sở của các hữu tình hiểu rõ các pháp sai khác nhau rồi, vì họ thuyết giảng các pháp môn vi diệu, làm cho họ siêng năng tu học, tùy chỗ thích ứng đều được lợi ích”.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi đã nói các pháp có giống như cảnh trong mộng cho đến như thành Tầm hương không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Nhưng con còn nghi ngờ. Nếu tất cả pháp như mộng cho đến như thành tầm hương đều không thật có, vì sao đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật phát lời chắc thật: “Ta sẽ viên mãn tất cả Phật pháp lợi ích an vui vô lượng hữu tình”. Chẳng phải mộng đã thấy, nói rộng cho đến trong thành tầm hương hiện ra vật loại năng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, huống năng viên mãn. Nói rộng, cho đến ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo cũng nói như thế, chẳng phải mộng đã thấy nói rộng cho đến trong thành tầm hương hiện ra vật loại năng thành tất cả sự nghiệp sở nguyện. Tất cả pháp khác lẽ cũng như thế, đều chẳng phải thật vậy?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Pháp còn chẳng thật có, huống tu hành bố thí cho đến pháp Bát Nhã, huống là có thể viên mãn. Nói rộng, cho đến ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, pháp còn chẳng thật có, huống là thành tựu sở nguyện sự nghiệp, cũng không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Sáu pháp Ba la mật như bố thí, trì giới v.v... và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều chẳng thật có, nên không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết! Tất cả các pháp như vậy đều do tư duy tạo tác. Các pháp do tư duy tạo tác đều không thể chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các pháp như thế đối với đạo Bồ đề tuy có thể phát sanh, nhưng đối với quả ấy chẳng giúp ích được gì. Bởi vì các pháp này không sanh, không diệt, không thật tướng. Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm, tuy phát sanh các thiện pháp thù thắng, đó là tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, nhưng biết tất cả đều như cảnh trong mộng, nói rộng cho đến như thành Tầm hương thật vô sở hữu.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các pháp như thế tuy chẳng thật có, nếu chẳng viên mãn thì nhất định không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, cũng không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nghĩa là nếu đại Bồ Tát chẳng viên sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí thì nhất định không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, cũng không thể chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát này khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, theo sự tu hành an trụ vào tất cả thiện pháp đều như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nghĩa là đại Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, thì có thể như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nếu thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật và cầu chứng đắc nhất Nhiết trí trí thì cũng có thể như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương, cũng như thật biết tâm hành sai khác của các loài hữu tình như mộng cho đến như thành Tầm hương.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp chẳng lấy đó làm có, chẳng lấy đó làm không. Nếu do lấy như thế nên chứng được Nhất thiết trí trí thì cũng biết pháp kia như mộng cho đến như thành Tầm hương, nên chẳng lấy đó làm có, chẳng lấy đó làm không. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí đều chẳng thể lấy được. Pháp thiện, bất thiện cũng chẳng thể lấy được. Pháp hữu ký, vô ký cũng chẳng thể lấy được. Pháp hữu lậu, vô lậu cũng chẳng thể lấy được. Pháp thế gian, xuất thế gian cũng chẳng thể lấy được. Đại Bồ Tát này biết tất cả pháp chẳng thể lấy rồi cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể lấy, đều chẳng thật có, như mộng cho đến như thành Tầm hương. Chẳng thể lấy, chẳng thể chứng được pháp, nhưng các hữu tình đối với pháp như thế chẳng biết, chẳng thấy. Đại Bồ Tát này vì làm lợi ích cho các hữu tình kia, nên cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này từ lúc mới phát tâm, không vì thân mình, không vì việc gì khác, chỉ vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình nên tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Không vì mình, không vì việc gì khác, chỉ vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình mà cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát này khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy những kẻ ngu si ở trong phi ngã tưởng là có ngã, đối với chẳng phải kiến giả tưởng kiến giả. Đại Bồ Tát này thấy việc này rồi sanh lòng thương xót, dùng phương tiện dạy bảo, dẫn dắt làm cho lìa điên đảo, vọng tưởng chấp trước, an trụ trong thế giới vô tướng cam lồ. Trụ trong trường hợp này rồi không còn phát sanh tưởng ngã cho đến tưởng về kiến giả. Bấy giờ, tất cả sự dao động, tán loạn, hý luận, phân biệt không còn hiện hành, tâm được an trụ nơi vắng lặng, đạm bạc, không hý luận.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này do phương tiện hành sâu Bát nhã Ba la mật này, nên tự mình đối với các pháp không chấp trước, cũng có thể dạy người khác đối với tất cả pháp không chấp trước. Đây là nương vào thế tục, chẳng nương vào thắng nghĩa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi Phật chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Phật pháp đã đắc được là nương vào thế tục nói gọi là đắc, hay nương vào thắng nghĩa nói gọi là đắc?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Khi Phật đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, pháp mà Phật chứng là nương vào thế tục mà nói là được, chẳng nương vào thắng nghĩa. Nếu nương vào thắng nghĩa, thì năng đắc sở đắc đều chẳng thể được. Vì sao? Vì nếu bảo người này được pháp như vậy thì bèn có sở đắc. Kẻ có sở đắc thì liền chấp có hai. Kẻ chấp có hai thì chẳng thể được quả, cũng không hiện quán.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu chấp có hai thì không thể đắc quả, cũng không hiện quán. Như vậy, người chấp không hai, có thể đắc quả và hiện quán không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Người nào chấp có hai không thể đắc quả, cũng không hiện quán. Người chấp không hai cũng lại như vậy, do còn có sở chấp. Nếu chẳng chấp hai, chẳng chấp không hai, hoặc chẳng chấp cả hai, thì gọi là đắc quả, cũng gọi hiện quán. Vì sao? Vì chấp tất cả đây kia đều là hý luận. Vì chẳng phải trong tất cả pháp tánh bình đẳng có các hý luận. Nếu lìa hý luận mới được gọi là pháp tánh bình đẳng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, thì trong đây những pháp nào được coi là pháp tánh bình đẳng?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đối với chỗ nào không có hữu tánh, không có vô tánh, cũng không thể nói là tánh bình đẳng, thì như vậy mới gọi là pháp tánh bình đẳng.
Thiện Hiện nên biết! Pháp tánh bình đẳng đã không thể nói, cũng không thể biết, trừ tánh bình đẳng không pháp có thể đắc, lìa tất cả pháp không tánh bình đẳng.
(Đây là giáo lý sâu mầu của Bát nhã Ba la mật cần học cần nhớ).
Thiện Hiện nên biết! Phàm phu hay Thánh giả đều không thể hành pháp tánh bình đẳng, vì đó chẳng phải là cảnh giới của họ.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng há chẳng phải là cảnh sở hành của chư Phật sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả Thánh giả đều không thể hành pháp tánh bình đẳng, cũng không thể chứng, nghĩa là những bậc Dự lưu cho đến Độc giác, hoặc các Bồ Tát, hoặc các Như Lai đều không thể đem pháp tánh bình đẳng làm cảnh giới sở hành. Trong đây tất cả hý luận phân biệt đều không hành.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai đối với các pháp đều được tự tại, vậy tại sao cho rằng pháp tánh bình đẳng chẳng phải là cảnh giới sở hành của Như Lai?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Phật đối với các pháp tuy được tự tại, nếu tánh bình đẳng cùng Phật có khác, thì có thể nói là cảnh giới sở hành của Phật. Nhưng tánh bình đẳng cùng Phật không khác, làm sao có thể nói Phật hành cảnh ấy.
Này Thiện Hiện! Phải biết, nếu pháp tánh bình đẳng của các phàm phu, hoặc pháp tánh bình đẳng của các Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai, tất cả pháp tánh bình đẳng như vậy đều đồng một tướng, chỗ gọi vô tướng. Một tướng bình đẳng đây không hai không khác, nên chẳng thể nói đây là pháp tánh bình đẳng của phàm phu, nói rộng cho đến đây là pháp tánh bình đẳng của Như Lai. Ở trong một pháp tánh bình đẳng này, các tánh bình đẳng đã bất khả đắc. Ở trong tướng của phàm phu và Dự lưu v.v… sai khác cũng bất khả đắc. (Q.537, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tất cả pháp tánh bình đẳng có các tướng sai khác đều bất khả đắc, thì các phàm phu và Dự lưu v.v… pháp và hữu tình cũng không khác nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Ở trong tất cả pháp tánh bình đẳng của phàm phu, Thánh giả, pháp và hữu tình đều không khác nhau.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tất cả pháp tánh bình đẳng của phàm phu, Thánh giả, pháp và hữu tình đều không khác nhau, thì tại sao lại có Tam bảo xuất hiện ở thế gian? Lại có Phật, Pháp, Tăng không khác nhau?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Phật, Pháp, Tăng bảo cùng với tánh bình đẳng có khác nhau không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như theo con hiểu nghĩa Phật nói thì Phật, Pháp, Tăng bảo cùng tánh bình đẳng đều không khác nhau. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng bảo cùng tánh bình đẳng, tất cả như vậy đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Nhưng vì chư Như Lai đối với pháp vô tướng dùng phương tiện thiện xảo thành lập các pháp và hữu tình danh tướng khác nhau, đó là phàm phu và pháp, cho đến đây là Như Lai và pháp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Chư Phật đối với pháp, dùng phương tiện thiện xảo thành lập các pháp và hữu tình danh tướng khác nhau.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu Phật không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giả sử có chứng nhưng nếu không vì hữu tình lập ra các pháp, các loại danh tướng khác nhau, thì làm sao các loài hữu tình có thể tự biết đây là địa ngục, nói rộng cho đến đây là Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức uẩn, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, đây là tất cả tướng diệu nguyện trí, đây là Nhất thiết trí trí, đây là Tam bảo, đây là Tam thừa? Các loài hữu tình đối với danh tướng khác nhau như vậy có thể tự biết được không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không biết! Nếu Phật không vì hữu tình mà lập ra danh tướng khác nhau như vậy thì các loài hữu tình không thể tự biết được.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì vậy nên chư Phật đối với pháp vô tướng dùng phương tiện thiện xảo, tuy vì hữu tình mà lập ra các loại danh tướng khác nhau nhưng ở trong pháp tánh bình đẳng đều không bị rối loạn.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chư Phật đối với pháp tánh bình đẳng đều không dao động, còn phàm phu cho đến Bồ Tát ở trong pháp tánh bình đẳng có bị rối loạn không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng vượt qua tánh bình đẳng vậy. Cũng như tánh bình đẳng, phải biết chơn như nói rộng cho đến bất tư nghì giới cũng lại như thế, các pháp dị sanh và các Thánh giả đối chơn như thảy không khác nhau vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như các hữu tình và các Thánh giả cùng với tánh của tất cả pháp bình đẳng không sai khác. Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Nghĩa là sắc cho đến thức, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nghĩa là tướng sắc uẩn v.v… mỗi khác nên tánh cũng phải khác, nói rộng cho đến tướng hữu vi vô vi mỗi khác nên tánh cũng phải khác
Bạch Thế Tôn! Các pháp như vậy nên tánh khác nhau thì pháp tánh cũng phải khác nhau, như vậy làm sao đối với các pháp, các tướng khác nhau này có thể an lập pháp tánh vào nhất tướng?
Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao không phân biệt pháp và hữu tình có các loại tánh riêng biệt. Nếu chẳng phân biệt pháp và hữu tình có các loại tánh riêng biệt thì thật ra không thể hành sâu Bát nhã Ba la mật. Nếu không thể hành sâu Bát nhã Ba la mật, thì thật ra không thể từ địa vị Bồ Tát này đến địa vị Bồ Tát kia được. Nếu nhất định không thể từ địa vị Bồ Tát này đến địa vị Bồ Tát kia thì không thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu nhất định không thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì không thể vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác. Nếu nhất định không thể vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác thì không thể viên mãn thần thông Ba la mật. Nếu nhất định không thể viên mãn thần thông Ba la mật thì không thể tự tại du hý với các thần thông. Nếu nhất định không thể tự tại du hý với các thần thông thì không thể viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nếu nhất định không thể viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thì không thể từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu nhất định không thể từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thì không thể lắng nghe, thọ trì chánh pháp với chư Phật và trồng các căn lành. Nếu nhất định không thể lắng nghe, thọ trì chánh pháp với chư Phật và trồng các căn lành thì không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Nếu nhất định không thể thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, thì làm sao có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ chúng hữu tình?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Như ngươi đã nói, các phàm phu và các Thánh giả cùng với tất cả pháp tánh bình đẳng không sai khác. Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Đối với các pháp tướng khác nhau, làm sao có thể an lập pháp tánh vào nhất tướng? Khi đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh riêng biệt, cho đến nói rộng như trên.
Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp tánh của các sắc là tánh không chăng? Pháp tánh của các thọ, tưởng, hành, thức là tánh không chăng? Như vậy, cho đến tất cả pháp tánh hữu vi, vô vi là tánh không chăng?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh đều là Không tánh.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ở trong Không tánh, có tướng khác nhau của pháp v.v... có thể đắc không? Đó là tướng khác nhau của sắc uẩn có thể đắc không? Tướng khác nhau của thọ, tưởng, hành, thức uẩn có thể đắc không? Nói rộng, cho đến tướng khác nhau của pháp hữu vi có thể đắc không? Tướng khác nhau của pháp vô vi có thể đắc không?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không đắc! Tất cả tướng khác nhau ở trong Không tánh đều bất khả đắc.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Do vậy nên biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải là phàm phu, cũng chẳng phải lìa phàm phu. Nói rộng, cho đến chẳng phải là chư Phật, cũng chẳng lìa chư Phật. Pháp tánh bình đẳng chẳng phải là sắc uẩn, cũng chẳng lìa sắc uẩn; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức uẩn, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Nói rộng, cho đến chẳng phải là pháp hữu vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi; chẳng phải là pháp vô vi, cũng chẳng lìa pháp vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng là hữu vi hay vô vi?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Pháp tánh bình đẳng chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi. Nhưng lìa pháp hữu vi, pháp vô vi bất khả đắc; lìa pháp vô vi, pháp hữu vi cũng bất khả đắc. (Q. 537, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Trong giới hữu vi, hoặc giới vô vi, hai giới như vậy đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Chư Phật Thế Tôn nương vào thế tục mà nói, chẳng nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải trong thắng nghĩa có được thân hành, ngữ hành, ý hành; nhưng chẳng lìa thân hành, ngữ hành, ý hành mà có được thắng nghĩa. Tức là pháp tánh bình đẳng của pháp hữu vi và pháp vô vi gọi là thắng nghĩa, chẳng phải lìa tất cả hữu vi, vô vi mà có thắng nghĩa sai khác. Vì vậy, nên đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, chẳng rối loạn thắng nghĩa mà hành Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, trong đời vị lai làm lợi ích cho hữu tình.
5. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Tánh Không”,
phần cuối quyển 478, Hội thứ II, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh bình đẳng của các pháp v.v... bản tánh đều Không, bản tánh Không này đối với tất cả pháp đều chẳng phải làm, cũng chẳng phải bị làm, thì đại Bồ Tát khi hành sau Bát nhã Ba la mật làm sao chẳng rối loạn thắng nghĩa, đem bốn nhiếp sự làm lợi ích cho hữu tình?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Tánh bình đẳng của tất cả pháp v.v... bản tánh đều Không. Bản tánh Không này đối với pháp hữu vi đều chẳng phải làm, cũng chẳng phải bị làm, nhưng các đại Bồ Tát có thể vì hữu tình mà đem bốn nhiếp sự làm lợi ích lớn. Các hữu tình nào tự biết các pháp bản tánh đều Không, thì Phật cũng như Bồ Tát không thị hiện thần thông làm việc hy hữu, tức là ở trong các pháp bản tánh Không, tuy không bị rối loạn nhưng làm cho hữu tình xa lìa các hư vọng phân biệt, trụ vào các pháp Không, thoát khổ sanh tử. Nghĩa là làm cho hữu tình xa lìa tưởng ngã, nói rộng cho đến tưởng về người thấy. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng sắc cho đến tưởng thức. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng sắc giới cho đến tưởng pháp giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn thức giới cho đến tưởng ý thức giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tưởng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Cũng làm cho hữu tình xa lìa địa giới cho đến tưởng thức giới. Cũng làm cho hữu tình xa lìa tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên. Cũng làm cho hữu tình xa lìa các pháp theo duyên sanh ra. Cũng làm cho hữu tình xa lìa vô minh cho đến lão tử. Cũng làm cho hữu tình xa lìa pháp hữu lậu, vô lậu. Cũng làm cho hữu tình xa lìa pháp thế gian, xuất thế gian. Cũng làm cho hữu tình xa lìa pháp hữu vi, vô vi. (Q.537, ĐBN)
Làm cho hữu tình xa lìa các tưởng rồi, an trụ vào giới vô vi, giải thoát tất cả sanh, lão, bệnh, tử. Giới vô vi ấy tức là các pháp Không, nương theo thế tục gọi là vô vi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Do cái gì không nên nói các pháp không?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Vì sắc cho đến Nhất thiết trí trí đều tánh Không, nên nói các pháp Không. Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Như thân biến hóa lại hóa làm các việc, đây là sự thật nhưng chẳng phải là không sao?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không thật! Các sự biến hóa ra đều không thật, tất cả đều Không.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Sự biến hóa ra cùng với Không, hai pháp như vậy chẳng hợp, chẳng tan. Hai pháp này đều lấy Không Không cho nên Không, chẳng nên phân biệt là Không, là biến hóa. Vì sao? Vì chẳng phải trong tánh Không có Không, có biến hóa. Hai việc ấy có thể đắc, vì tất cả pháp hoàn toàn là Không.
Lại nữa, Thiện Hiện! Không có sắc nào mà chẳng phải là biến hóa; không có thọ, tưởng, hành, thức nào mà chẳng phải là biến hóa. Các pháp biến hóa này đều không. Đối với các pháp khác, hữu tình cũng phải biết như vậy.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nương vào pháp như vậy lập ra nhiều hạng. Đó gọi là phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều là sự biến hóa, những người được biến hóa này đều là Không. (Q.537, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Uẩn, xứ, giới v.v... các pháp thế gian và các hữu tình có thể đều là sự biến hóa. Bốn niệm trụ v.v... pháp xuất thế gian và các hữu tình cũng là biến hóa sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian v.v... đều là sự biến hóa. Nhưng ở trong ấy có hóa Thanh văn, có hóa Độc giác, có hóa Bồ Tát, có hóa Như Lai, có hóa phiền não, có hóa các nghiệp. Do nhân duyên này, Ta nói tất cả pháp đều như huyễn hóa, bình đẳng không khác nhau.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có sự đoạn quả đó là quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác. Như Lai đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tập khí phiền não cũng đều là sự biến hóa sao?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các pháp như vậy nên cùng hai tướng sanh diệt tương ưng cũng đều là sự biến hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào chẳng phải là biến hóa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu pháp nào chẳng tương ưng với sanh diệt, thì pháp này là chẳng biến hóa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào chẳng tương ưng với sanh diệt?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đó là pháp chẳng dối gạt, tức là Niết bàn. Pháp này chẳng tương ưng với sanh diệt.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Ngài đã dạy: Pháp tánh bình đẳng tất cả đều Không, không có người hoạt động, không hai, cũng không có chút pháp nào chẳng phải tự tánh Không. Vậy thì làm sao có thể nói Niết bàn chẳng biến hóa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói, không có chút pháp nào chẳng phải tự tánh Không. Tự tánh Không này chẳng phải do Thanh văn tạo tác, chẳng phải do Độc giác tạo tác, chẳng phải do Bồ Tát tạo tác, chẳng phải do chư Phật tạo tác, cũng chẳng phải có ai tạo tác. Có Phật hay không Phật, tự tánh vẫn thường Không. Đây tức là Niết bàn. Vì vậy, nên Ta nói Niết bàn chẳng biến hóa, chứ chẳng phải thật có pháp gọi là Niết bàn, có thể nói không sanh, không diệt, không biến hóa.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Hàng Bồ Tát mới học nghe tất cả pháp đều hoàn toàn Không, cho đến Niết bàn cũng đều như biến hóa, sanh lòng sợ hãi, không thể tu thiện pháp, nên Ta vì họ mà nói: Nếu pháp chẳng tương ưng với sanh diệt, thì pháp này chẳng biến hóa, chứ chẳng phải riêng thật có Niết bàn, chẳng Không. (Q.537, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Ngài dùng phương tiện giáo giới dạy bảo cho các đại Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm cho họ biết các pháp bản tánh thường Không, nghe các pháp hoàn toàn Không mà chẳng sanh sợ hãi?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Chẳng lẽ tất cả pháp trước có sau không, chẳng phải bản tánh Không. Nhưng tất cả pháp trước đã chẳng có, sau cũng chẳng không, bản tánh thường Không, không bị sợ hãi, nên mới giáo giới dạy bảo các đại Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như vậy, làm cho họ biết các pháp bản tánh thường Không, nghe pháp hoàn toàn Không, vui mừng tín thọ.
Khi đức Bạc già phạm (Phật) thuyết Kinh này rồi, vô lượng chúng đại Bồ Tát và các Thanh văn, người chẳng phải người v.v... cùng tất cả đại chúng nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tín thọ phụng hành. (Q.537, ĐBN)
Sơ giải:
Như gợi ý trên phẩm cuối cùng của Hội thứ III này cũng như hầu hết các phẩm khác của Hội thứ III gồm 5 phẩm: “Chánh Định”, “Phật Pháp”, “Vô Sự”, “Nói Thật” và “Tánh Không” của Hội thứ II nhập lại thành một phẩm duy nhất, lấy tên là “Tuyên Hóa”. Để giúp độc giả dễ tụng dễ tra cứu chúng tôi cũng chia phẩm này tương đương với năm phẩm của Hội thứ I và Hội thứ II như sau:
1. Phẩm “Chánh Định” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Tịnh Độ Phương Tiện” của Hội thứ I;
2. Phẩm “Phật Pháp” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Vô Tánh Tự Tánh” của Hội thứ I;
3. Phẩm “Vô Sự” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Vô Tánh Tự Tánh” của Hội thứ I;
4. Phẩm “Nói Thật” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Thắng Nghĩa Du Già” của Hội thứ I; và
5. Phẩm “Tánh Không” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Pháp Tánh Vô Động” của Hội thứ I.
Cứ theo chỉ dẫn này Quý vị có thể tìm thấy đầy đủ thích nghĩa và lược giải các giáo lý của phẩm “Tuyên Hóa” này. Chúng tôi rất làm ái ngái là Hội thứ III chẳng có thích nghĩa cũng như không lược giải nhiều. Quý vị cũng biết rồi, vì Hội thứ I và II đã thích nghĩa và lược giải đầy đủ nên không thể trùng tuyên thêm, chỉ sợ Quý vị nhàm chán. Đọc chánh văn Hội thứ III cốt ôn lại các giáo lý của Đại Bát Nhã, đồng thời tự mình suy nghĩ và tập luận giải lấy để thành tựu trí tuệ cho chính mình.
Tụng tới đây là xong ba Hội chúng tôi nghĩ Quý vị có thể thuộc nằm lòng một số giáo lý căn bản rồi. Nếu không nhớ hết thì Hội thứ IV kế tiếp chúng tôi sẽ thích nghĩa và chiết giải tỉ mỉ sẽ bổ túc thêm.
---o0o---
Đến đây chấm dứt phần ba.
(Hội thứ III)
Mở đầu bố cục của Hội thứ III, chúng tôi có viết: “Hội thứ III này còn ngắn hơn hai Hội trước nhiều”. Hội thứ I có cả thảy là 79 phẩm, tổng cộng 400 quyển, chiếm hết 2/3 Kinh Đại Bát Nhã; Hội thứ II có tới 87 phẩm, gồm 78 quyển; trong khi Hội thứ III vỏn vẹn chỉ có 31 phẩm, gói ghém trong 59 quyển. Vì vậy, chúng tôi mới nói Hội thứ III ngắn hơn 2 Hội trên.
Hội thứ I quá dài vì quản diễn trùng tụng quá nhiều, kéo dài đến 400 quyển(trong số 600 quyền ĐBN). Trái lại Hội thứ II chỉ có 78 quyển nhưng số phẩm lại nhiều hơn Hội thứ I. Sở dĩ, như vậy là vì Hội thứ II phân chia giáo lý thành nhiều thể tài riêng biệt, mỗi thể tài có phẩm tựa riêng, thuyết minh chuyên biệt về thể tài ấy mà thôi. Nên số phẩm nhiều hơn Hội thứ I.
Trái với 2 Hội trên, Hội thứ III có rất ít phẩm, là vì Hội thứ III lại gộp nhiều phẩm của Hội I hay Hội thứ II thuyết chung trong một phẩm lớn như đã nói.
Còn về nội dung thì cả ba Hội đều có giáo lý như nhau. Nếu Quý vị không có nhiều thời giờ để nghiền ngẫm thì có thể trì tụng Hội thứ II cũng tạm đủ. Chúng tôi lấy Hội thứ II làm dàn bài hướng dẫn, vì Hội này trình bày các giáo lý rõ ràng và ít trùng tuyên hơn. Đó cũng chính là lý do tại sao Ngài Cuu Ma La Thập chọn Hội thứ II để soạn dịch thành Kinh MHBNBLMĐ và Kinh này cũng được xem là đại bản (hay đại phẩm)và Bồ Tát Long Thọ dùng Hội này để soạn thảo bộ Đại Trí Độ Luận.
Ưu điễm của Hội thứ III là văn từ ngắn gọn dễ hiểu. Chỉ có điều là Hội này nhập các phẩm của Hội thứ I hay Hội thứ II làm một phẩm quá dài, nên đọc tụng thọ trì trở nên khó khăn, mệt mỏi. Vì vậy, chúng tôi phân đoạn tương đương với Hội thứ I hay Hội thứ II để Quý vi dễ đọc, dễ so chiếu và tra cứu mà khỏi phí thời giờ.
Nói đại cương thì cả ba Hội có giáo lý hạnh quả, kỹ thuật tu trì quán chiếu như nhau. Vì vậy, Hội thứ III chúng tôi không có thích nghĩa và lược giải như 2 Hội đầu. Chúng tôi biết Quý vị có thể chán nản khi đọc đến Hội này, và có thể bỏ cuộc nửa chừng?
Từ Hội thứ VII trở đi cho đến hết, các giáo lý trở nên vi diệu, hấp dẫn hơn nhiều. Nói như vậy không phải để khuyến dụ Quý vị. Người tìm Kinh chớ Kinh không tìm người. Học Phật phải kiên nhẫn, siêng năng trì tụng. Có tinh tấn thì mới có thể thâm nhập các giáo lý thậm thâm! Một tư tưởng gia đã nói: “Thiên tài chẳng qua chỉ là một sự tập luyện lâu dài”.
Bây giờ, chúng ta bước sang phần bốn, Hội thứ IV là phần mà chúng tôi chú ý so với các Hội khác. Đa số học giả, các nhà khảo cứu Phật học, hành giả Bát Nhã đều dựa vào phần này để phân tích, chiết giải cũng như tu hành. Phần này rất ngắn gọn, nhưng vẫn thâu tóm được tất cả giáo lý cũng như kỹ thuật tu trì, quán chiếu… dưới danh từ “tiểu bản” hay “tiểu phẩm”. Tuy gọi là “tiểu” nhưng cũng rất đầy đủ, không kém phần thâm thúy như các đại bản hay đại phẩm đã nói trên.
Như nhiều lần lưu ý Hội này do các vị đi trước dịch, nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại thôi, không có đặt tên như các tác phẩm khác. Nên chúng tôi tạm gọi là “Tiểu Bản Bát Nhã”(viết tắt là TBBN) cho dễ nhớ. Chúng tôi nghĩ với lối hành văn ngắn gọn, tỉnh lược và các giáo lý lại vi diệu của Hội thứ IV này có thể mang lại nhiều hứng thú cho Quý vị.
Đến đây chấm dứt Hội thứ III.
---o0o---