- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM "THẤY BẤT ĐỘNG"
Bắt đầu Q.521 cho đến hết Q.522, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương với ba phẩm “Không Phân Biệt”, phẩm “Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố”, và
phẩm “Thật Ngữ”, Hội thứ II, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phẩm “Thấy Bất Động” của Hội thứ III tương đối dài, vì phẩm này tương đương với ba phẩm của Hội thứ II nhập lại:
1. Phẩm “Không Phân Biệt”, phần giữa quyển 456, Hội thứ II;
2. Phẩm “Kiến Cố, Chẳng Kiên Cố”, cuối quyển 456 đến đầu quyển 457, Hội thứ II; và
3. Phẩm “Thật Ngữ”, phần sau quyển 457 đến phần đầu quyển 458, Hội thứ II, ĐBN.
Chánh văn trong phần tóm lược sau đây cũng chia làm 3 đoạn để dễ đọc, dễ tham cứu.
Tóm lược:
1. Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Không Phân Biệt”,
phần giữa quyển 456, Hội thứ II, ĐBN.
Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ như vầy:
- Nếu đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, còn vượt trên tất cả hữu tình, huống gì đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình nghe nói danh tự Nhất thiết trí trí, tin hiểu một cách sâu sắc, còn được thiện lợi trong cõi người và được sống trường thọ trong thế gian, huống gì phát tâm hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc nghe Bát Nhã thậm thâm. Nếu các hữu tình có thể phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà nghe Kinh Bát Nhã, công đức đạt được của các hữu tình này đều thích đáng, thế gian trời, người, A tu la v.v... đều không thể sánh kịp.
Biết được tâm niệm của trời Đế Thích, Thế Tôn nói:
- Đúng vậy! Đúng như điều ngươi đã nghĩ!
Khi ấy, trời Đế Thích rất vui mừng, liền lấy hương hoa thượng diệu ở cõi trời rải cúng dường Như Lai và các Bồ Tát. Rải hoa cúng dường xong, trời Đế Thích nguyện: “Nếu các thiện nam thiện nữ v.v… Bồ Tát thừa cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì ta đem công đức căn lành đã gieo trồng làm cho những sở nguyện của vị ấy mau thành tựu, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, khiến cho Vô thượng Phật pháp mà vị ấy đã cầu mau được viên mãn, khiến cho pháp tự nhiên của vị ấy đã cầu mau được viên mãn, khiến cho pháp vô lậu chơn chánh mà vị ấy đã cầu mau được viên mãn, khiến cho tất cả pháp mà vị ấy muốn nghe đều được như ý. Nếu ai cầu Thanh văn, Độc giác thừa cũng khiến cho sở nguyện mau được viên mãn”. Nguyện như vậy xong, Thiên Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thiện nam thiện nữ v.v… Bồ Tát thừa đã phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, con không bao giờ sanh một tâm niệm nào khác làm cho vị ấy thối chuyển tâm đại Bồ đề, con cũng không sanh một tâm niệm nào khác để làm cho các Bồ Tát nhàm chán xa lìa quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mà rơi trở lại địa vị Thanh văn, Độc giác. (Q.521, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà thâm tâm đã ưa thích, thì con nguyện cho tâm vị ấy càng tinh tấn để mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nguyện cho đại Bồ Tát ấy thấy được các khổ trong sanh tử, vì muốn làm lợi lạc cho thế gian, trời, người, A tu la v.v... mà phát những đại nguyện kiên cố: “Ta tự mình vượt qua biển lớn sanh tử, và tinh tấn cố gắng độ người chưa độ. Ta đã tự giải thoát ra khỏi sự trói buộc sanh tử, và sẽ siêng năng tinh tấn giải thoát cho người chưa giải thoát. Đối với những sự sợ hãi trong sanh tử, ta đã được an ổn, và cũng sẽ siêng năng tinh tấn đem lại an ổn cho người chưa an ổn. Ta đã chứng Niết bàn rốt ráo, và cũng siêng năng tinh tấn khuyến khích người chưa chứng cùng chứng”.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… đối với công đức của Bồ Tát mới phát tâm mà thâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Đối với công đức của Bồ Tát phát tâm lâu mà thâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Đối với công đức của Bồ Tát Bất thối chuyển mà thâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức? Đối với công đức của Bồ Tát còn bị ràng buộc trong một đời mà thâm tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức?
Phật bảo trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Bốn đại châu giới có thể lường, những phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.
Này Kiều Thi Ca! Tiểu thiên thế giới có thể lường được, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.
Này Kiều Thi Ca! Trung thiên thế giới hay Tam thiên đại thiên thế giới có thể lường được, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được.
Này Kiều Thi Ca! Giả sử Tam thiên đại thiên thế giới hợp lại thành một biển, có người lấy một sợi tóc chẻ ra làm một trăm phần, đem đầu của phần nhỏ nhúng vào biển, có thể đếm biết có bao nhiêu giọt nước, nhưng phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… này không thể lường biết được. Vì sao? Vì phước đức phát sanh từ tâm tùy hỷ của thiện nam, thiện nữ v.v… ấy vô bờ bến.
Khi ấy, Tứ Thiên Vương bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đối với công đức thù thắng của các Bồ Tát, nếu các hữu tình không tùy hỷ, thì nên biết người ấy bị ma khống chế, bị ma làm mê loạn, là bè đảng của ma, là ma ở cõi trời chết sanh vào nơi đây. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát cầu đạt quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ Tát hạnh, nếu có ai phát tâm đối với công đức của vị ấy mà sanh lòng tùy hỷ sâu sắc thì những người ấy có thể phá hoại tất cả quyến thuộc cung điện quân ma.
Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình thâm tâm kính mến Phật, Pháp, Tăng bảo, dù sanh ra nơi nào cũng muốn thường thấy Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, thì đối với công đức căn lành của chúng đại Bồ Tát nên tùy hỷ sâu sắc. Sau khi tùy hỷ rồi, hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng không nên có tưởng hai hay không hai. Nếu có thể làm được như vậy thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích cho hữu tình và phá tan quân ma.
Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã đã nói! Này Kiều Thi Ca! Đối với công đức căn lành của đại Bồ Tát, nếu các hữu tình thâm tâm tùy hỷ, hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các hữu tình ấy mau viên mãn Bồ Tát hạnh, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với công đức căn lành đại Bồ Tát, nếu các hữu tình thâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các hữu tình ấy đầy đủ đại oai lực, luôn phụng thờ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và thiện tri thức, luôn nghe Kinh điển Bát Nhã thậm thâm và biết rõ ý nghĩa của Kinh. Các hữu tình này thành tựu công đức căn lành của sự tùy hỷ hồi hướng như vậy, nên sanh ra nơi nào cũng thường được tất cả trời, người, A tu la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, không thấy sắc xấu, không nghe tiếng đục, không ngửi mùi hôi, không nếm vị dở, không cảm giác xúc chạm khó chịu, không nghĩ pháp ác, không bao giờ xa lìa chư Phật Thế Tôn. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, luôn gần gũi chư Phật để gieo trồng các căn lành, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì các hữu tình ấy đối với vô lượng công đức căn lành của Bồ Tát mới phát tâm mà thâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với vô lượng công đức căn lành của các Bồ Tát đã trụ vào sơ địa cho đến thập địa mà thâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với vô lượng công đức căn lành của các Bồ Tát còn sanh lại một đời mà thâm tâm tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nhờ nhân duyên này nên các căn lành của các hữu tình ấy càng tăng trưởng, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đã chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi, có thể thật sự làm lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đến tận đời vị lai, để họ trụ vào cảnh giới Vô dư Niết bàn.
Cho nên, này Kiều Thi Ca! Những thiện nam tử v.v… trụ Bồ Tát thừa, đối với công đức căn lành của Bồ Tát mới phát tâm, đối với công đức căn lành của Bồ Tát phát tâm đã lâu, đối với công đức căn lành của Bồ Tát Bất thối chuyển, đối với công đức căn lành của các Bồ Tát còn sanh trở lại một đời, đều nên tùy hỷ hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi sanh tùy hỷ và hồi hướng thì không nên chấp trước. Chấp trước tức lìa tâm tùy hỷ hồi hướng, lìa tâm tu hành. Nếu không chấp trước và tùy hỷ hồi hướng như vậy tức là tu hành Bồ Tát hạnh, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, độ tất cả trời, người, A tu la v.v... giúp họ thoát khỏi sanh tử đắc Vô dư y Niết bàn.
(Tâm như huyễn làm sao chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói, các pháp như huyễn làm sao đại Bồ Tát đem tâm như huyễn năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi có thấy tâm như huyễn của đại Bồ Tát chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không! Con chẳng thấy huyễn cũng chẳng thấy có tâm như huyễn.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, thì ngươi có thấy tâm ấy có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Con trọn chẳng thấy có chỗ không huyễn, không tâm như huyễn, lại có tâm này năng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, ngươi thấy có pháp ấy năng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Con trọn chẳng thấy có chỗ lìa huyễn, lìa tâm như huyễn, lại có pháp ấy năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Con không thấy hoặc nơi tâm, hoặc ngoài tâm, có thể nói có pháp nào là hữu hay vô bởi vì tất cả pháp đều tất cánh viễn ly (1). Nếu tất cả các pháp tất cánh viễn ly, thì chẳng thể thi thiết pháp này là hữu, hay vô. Nếu pháp chẳng thể thi thiết là hữu là vô thì không thể nói là có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, bởi vì chẳng phải pháp vô sở hữu có thể chứng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều vô sở hữu và không thể nắm bắt, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Bát Nhã, cho đến bố thí Ba la mật là tất cánh viễn ly, pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không là tất cánh viễn ly, chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là tất cánh viễn ly; Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là tất cánh viễn ly; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là tất cánh viễn ly; tất cả Bồ Tát hạnh là tất cánh viễn ly, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật là tất cánh viễn ly; Nhất thiết trí trí là tất cánh viễn ly. (Q.521, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Nếu là pháp tất cánh viễn ly thì không nên tu cũng không nên khiển, cũng không thể dẫn phát. Bát Nhã thậm thâm cũng tất cánh viễn ly vì vậy cũng không thể dẫn phát.
Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thậm thâm đã tất cánh viễn ly thì vì sao lại nói: Các vị đại Bồ Tát dựa vào Bát Nhã để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng tất cánh viễn ly, thì vì sao pháp viễn ly lại có thể chứng đắc pháp viễn ly? Vì vậy, đúng ra không nên nói Bát nhã Ba la mật chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Lành thay! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói. Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật tất cánh viễn ly, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí cũng tất cánh viễn ly.
Thiện Hiện nên biết! Vì Bát nhã Ba la mật tất cánh viễn ly, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí cũng tất cánh viễn ly nên có thể nói đại Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng tất cánh viễn ly.
Thiện Hiện nên biết! Nếu Bát nhã Ba la mật chẳng phải tất cánh viễn ly thì chẳng phải Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến nếu Nhất thiết trí trí chẳng phải tất cánh viễn ly thì chẳng phải Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện nên biết! Vì Bát nhã Ba la mật tất cánh viễn ly nên được gọi Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến vì Nhất thiết trí trí tất cánh viễn ly nên được gọi Nhất thiết trí trí.
Cho nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đều y vào Bát Nhã thậm thâm mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Mặc dù không xa lìa pháp mà có thể đắc pháp xa lìa, nhưng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều y vào Bát Nhã thậm thâm. Cho nên, chúng đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nên siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát sở hành nghĩa thú rất là thẳm sâu?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Sở hành của các đại Bồ Tát sở hành nghĩa thú rất là thẳm sâu. Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát năng làm việc khó, mặc dù hành nghĩa thú thẳm sâu như thế, mà đối pháp Thanh văn bậc Độc giác thường chẳng tác chứng.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Như con hiểu nghĩa Phật đã nói, các đại Bồ Tát chỗ làm chẳng khó, chẳng nên nói Bồ Tát năng làm việc khó. Vì sao? Các đại Bồ Tát sở chứng nghĩa thú trọn bất khả đắc, năng chứng Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc, pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng cũng bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát quán tất cả pháp đã bất khả đắc, có nghĩa thú nào khá làm sở chứng, có Bát Nhã nào khá làm năng chứng, lại có những gì mà thi thiết được pháp chứng, kẻ chứng, chỗ chứng, thời chứng. Đã vậy vì sao khá chấp do đây chứng được Thanh văn hay Độc giác. Thanh văn, Độc giác còn không thể chứng nói chi đến việc chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Nếu hành như thế đấy gọi Bồ Tát hành vô sở đắc. Nếu các đại Bồ Tát có thể hành hạnh vô sở đắc như vậy thì không bị cản trở mê muội đối với tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nghe lời như thế tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng buồn hối, chẳng kinh chẳng sợ là hành Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này khi hành như thế chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành, chẳng thấy Bát Nhã là sở hành, chẳng thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là sở chứng, cũng lại chẳng thấy xứ thời chứng v.v…
Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát ấy tu hành Bát Nhã thậm thâm không nghĩ như vầy: Ta xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ví như hư không, không nghĩ như vầy: Ta cách vật này gần hay xa. Vì sao? Vì hư không không di động, cũng không sai biệt, không phân biệt. Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, hành Bát Nhã thậm thâm không nghĩ như vầy: Ta xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần gũi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm không phân biệt các pháp.
(Bát Nhã không phân biệt các pháp)
Bạch Thế Tôn! Giống như người huyễn do huyễn sư biến hoá không nghĩ: Vật huyễn, và khán giả cách mình gần hay xa. Vì sao? Vì người huyễn không thể phân biệt vậy. Các Bồ Tát cũng lại như thế, hành Bát Nhã thậm thâm chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn và bậc Độc giác, ta gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm đối tất cả pháp không phân biệt vậy.
Bạch Thế Tôn! Như bóng hiện trong gương chẳng khởi nghĩ này: Ta cách gương gần, cách các vật khác xa. Vì sao? Vì bóng sở hiện không phân biệt vậy. Các Bồ Tát cũng lại như thế, hành Bát Nhã thậm thâm chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn và bậc Độc giác, ta gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm đối tất cả pháp không phân biệt vậy.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, không thương, không ghét. Vì sao? Vì tự tánh của Bát Nhã và tất cả pháp thương ghét bất khả đắc. Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả pháp không thương, không ghét. Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã cũng vậy, đối với tất cả pháp không thương, không ghét. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ Tát và Bát Nhã thậm thâm đều đoạn trừ thương ghét.
Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đoạn trừ hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt, các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm cũng như vậy, chiến thắng đoạn trừ tất cả vọng tưởng phân biệt. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ Tát và Bát Nhã thậm thâm không phân biệt các pháp.
Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các đại Bồ Tát Bát Nhã cũng vậy, không nghĩ: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp thì chư Phật, Bồ Tát, Bát Nhã không phân biệt. (Q.521, ĐBN)
Như người do Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa ra, không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì người do chư Phật biến hóa không phân biệt. Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thâm sâu cũng vậy, không nghĩ như vầy: Ta cách xa địa vị Thanh văn, Độc giác, ta gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm không phân biệt các pháp.
Bạch Thế Tôn! Giống như vì muốn làm việc gì, chư Phật biến hóa tạo hóa nhân để khiến làm việc ấy, người được hóa ra đó không nghĩ: Ta có thể làm được công việc như vậy. Vì sao? Vì những người được biến hóa ra không có phân biệt, Bát Nhã cũng như vậy, do có việc cần làm nên siêng năng tu tập, sau khi đã tu tập, tuy có thể thành tựu nhưng không có phân biệt. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm vốn không phân biệt.
Bạch Thế Tôn! Giống như người thợ khéo và các học trò của ông, vì có việc cần làm nên họ tạo ra các vật như người nữ hoặc nam, hoặc voi, hoặc ngựa v.v... Tuy các vật này được làm ra nhưng chúng không có sự phân biệt. Vì sao? Vì pháp ấy là máy móc vốn không phân biệt. Bát Nhã cũng như vậy, do có việc phải làm nên mới được tạo lập, tuy đã hoàn thành nhưng hoàn toàn không phân biệt việc làm và lời nói. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm vốn là pháp không phân biệt.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:
- Đối với tất cả pháp chỉ riêng Bát nhã Ba la mật không có sự phân biệt, hay là tịnh lự v.v… năm Ba la mật đối với tất cả pháp cũng không phân biệt?
Thiện Hiện trả lời:
- Không những Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp không phân biệt, mà tịnh lự v.v... năm Ba la mật đối với tất cả pháp cũng không phân biệt.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Sáu pháp Ba la mật đối với tất cả pháp không phân biệt, còn sắc uẩn cho đến thức uẩn đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; mười hai xứ cho đến mười tám giới đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; địa giới cho đến thức giới đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; vô minh cho đến lão tử đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật đối với tất cả pháp cũng không phân biệt; cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi đối với tất cả pháp cũng không phân biệt hay sao?
Thiện Hiện trả lời:
- Không những sáu pháp Ba la mật đối với tất cả pháp không phân biệt, mà sắc cho đến cảnh giới vô vi đối với tất cả pháp cũng không phân biệt. Vì sao? Vì tánh tướng của tất cả pháp đều là không, không phân biệt.
Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Nếu tất cả pháp đều không phân biệt, vậy sao có sự khác nhau giữa năm đường sanh tử? Sao có sự khác nhau của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát và Như Lai?
Thiện Hiện trả lời:
- Vì hữu tình phiền não điên đảo mà tạo ra các nghiệp thuộc về thân, khẩu, ý, do đó nên chiêu cảm lấy quả báo. Dục là nghiệp căn bản tạo ra quả dị thục, rồi căn cứ vào đó mà có sự khác nhau giữa năm đường: trời, người, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Lại hỏi:
- Sao lại có sự sai khác giữa các Thánh vị như quả Dự lưu v.v…?
- Này Xá Lợi Tử! Vì không phân biệt nên thi thiết Dự lưu và quả Dự lưu. Vì không phân biệt nên thi thiết Nhất lai và quả Nhất lai. Vì không phân biệt nên thi thiết Bất hoàn và quả Bất hoàn. Vì không phân biệt nên thi thiết A la hán và quả A la hán. Vì không phân biệt nên thi thiết Độc giác và quả Độc giác. Vì không phân biệt nên thi thiết đại Bồ Tát và Bồ Tát hạnh. Vì không phân biệt nên thi thiết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.521, ĐBN)
Này Xá Lợi Tử! Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên thi thiết có. Vị lai Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên thi thiết có. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại mười phương thế giới chư Phật cũng không phân biệt, đoạn trừ phân biệt nên thi thiết có.
Này Xá Lợi Tử! Do đó mà biết các pháp đều không phân biệt. Do không phân biệt nên chơn như, pháp giới nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì lấy làm định lượng vậy.
Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát nên hành Bát Nhã thậm thâm không phân biệt như vậy.
Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát có thể hành Bát Nhã không phân biệt như vậy thì có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh, và có thể luôn làm lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
2. Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố”,
cuối quyển 456 đến đầu quyển 457, Hội thứ II, ĐBN.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:
- Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm là hành pháp bền chắc hay hành pháp không bền chắc?
Thiện Hiện trả lời:
- Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm là hành pháp không bền chắc, chẳng hành pháp bền chắc. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật là pháp không bền chắc. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không là pháp không bền chắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là pháp không bền chắc. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là pháp không bền chắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là pháp không bền chắc. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là pháp không bền chắc. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là pháp không bền chắc. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ là pháp không bền chắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa là pháp không bền chắc. Pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa là pháp không bền chắc. Năm loại mắt, sáu phép thần thông là pháp không bền chắc. Như Lai Mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là pháp không bền chắc. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả là pháp không bền chắc. Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là pháp không bền chắc. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là pháp không bền chắc. Nhất thiết trí, Đạo tướng, Nhất thiết tướng trí là pháp không bền chắc. (Q.521, ĐBN) (Nghĩa là tất cả pháp Phật là pháp không bền chắc).
Vì sao? Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm đối Bát nhã Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí hãy chẳng thấy có pháp chẳng bền chắc khá được, huống thấy có pháp bền chắc khá được.
Bấy giờ, có vô lượng Thiên tử ở Dục giới và Sắc giới đều nghĩ như vầy: Thiện nam, thiện nữ v.v… nào phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thuận theo những ý nghĩa trong Bát Nhã thậm thâm đã nói mà thực hành thì không chứng thật tế, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... Nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy rất là hiếm có, làm việc khó làm, cần phải kính lễ vị ấy.
Biết tâm niệm của các Thiên tử, Thiện Hiện liền nói:
- Thiện nam, thiện nữ v.v… ấy chẳng chứng thật tế, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, thì chẳng phải là hiếm có, cũng chưa gọi là khó. Nếu các đại Bồ Tát biết tất cả pháp và các hữu tình đều bất khả đắc nhưng phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng, vô số hữu tình, giúp họ nhập vào cảnh giới Vô dư Niết bàn, thì đại Bồ Tát đó mới là rất hiếm có, làm việc khó làm.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát mặc dù biết hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, nhưng phát tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc áo giáp tinh tấn, vì muốn điều phục các hữu tình giống như muốn điều phục hư không. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hư không lìa, nên biết tất cả hữu tình cũng lìa. Vì hư không là Không, nên biết tất cả hữu tình cũng Không. Vì hư không không bền chắc, nên biết tất cả hữu tình cũng không bền chắc. Vì hư không vô sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng vô sở hữu. Do nhân duyên này, đại Bồ Tát ấy mới là rất hiếm có, có thể làm việc khó làm.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát ấy mặc áo giáp đại nguyện, vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, giống như có người mặc áo giáp chiến đấu với hư không.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát mặc áo giáp đại nguyện ấy, vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và áo giáp đại nguyện ấy đều bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình lìa, nên biết áo giáp đại nguyện này cũng lìa. Vì hữu tình Không, nên biết áo giáp đại nguyện cũng Không. Vì hữu tình không bền chắc, nên biết áo giáp đại nguyện cũng không bền chắc. Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết áo giáp đại nguyện cũng vô sở hữu.
Thiên tử nên biết! Việc đại Bồ Tát ấy điều phục làm lợi ích cho các hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình lìa, nên biết việc điều phục làm lợi ích này cũng lìa. Vì hữu tình Không, nên biết việc điều phục làm lợi ích cũng đều Không. Vì hữu tình không bền chắc, nên biết việc điều phục làm lợi ích cũng không bền chắc. Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết việc điều phục làm lợi ích cũng vô sở hữu.
Thiên tử nên biết! Các đại Bồ Tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình lìa, nên biết các đại Bồ Tát cũng lìa. Vì hữu tình Không, nên biết các đại Bồ Tát cũng Không. Vì hữu tình không bền chắc, nên biết các đại Bồ Tát cũng không bền chắc. Vì hữu tình vô sở hữu, nên biết các đại Bồ Tát cũng vô sở hữu. (Q.521, ĐBN)
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát nào nghe nói như vậy mà không buồn lo, sợ sệt, thối lui, thì nên biết đại Bồ Tát này có thể hành Bát Nhã thậm thâm. Vì sao?
Này các Thiên tử! Vì sắc uẩn cho đến thức uẩn lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì mười hai xứ cho đến mười tám giới lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì địa giới cho đến thức giới lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì nhân duyên cho đến tăng thượng duyên lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì vô minh cho đến lão tử lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì lìa nên hữu tình cũng lìa. Nói rộng ra, vì tất cả pháp Phật từ Tứ đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lìa nên hữu tình cũng lìa. Vì Nhất thiết trí trí lìa nên hữu tình cũng lìa. (Q.521, ĐBN)
Thiên tử nên biết! Vì sắc uẩn lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến vì thức uẩn lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng cho đến vì sắc uẩn lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì thức uẩn lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì mười hai xứ lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến mười tám giới lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng vì mười hai xứ lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì mười tám giới lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì địa giới lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến vì thức giới lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng cho đến vì địa giới lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì thức giới lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì vô minh lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến vì lão tử lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng cho đến vì vô minh lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì lão tử lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì bố thí Ba la mật lìa nên pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng lìa, cho đến vì Bát nhã Ba la mật lìa nên pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng lìa. Nói rộng cho đến vì bố thí Ba la mật lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì Bát nhã Ba la mật lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì pháp nội Không lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến vì pháp vô tính tự tính Không lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng cho đến vì pháp nội Không lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì pháp vô tính tự tính Không lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì chơn như lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến vì cảnh giới bất tư nghì lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng cho đến vì chơn như lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, cho đến vì cảnh giới bất tư nghì lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Vì tất cả pháp Phật từ Tứ đế lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa, cho đến quả vị Vô Thương Chánh Đẳng Bồ đề lìa nên sáu pháp Ba la mật cũng lìa. Nói rộng cho đến vì Tứ đế lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa, vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lìa nên Nhất thiết trí trí cũng lìa.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát nào khi nghe nói các pháp đều lìa như vậy mà tâm họ không kinh ngạc, không sợ sệt, không lo lắng, không hối hận, không thối lui thì nên biết đại Bồ Tát ấy có thể hành Bát Nhã thậm thâm. (Q.521, ĐBN)
Bấy giờ, Thế Tôn hỏi Thiện Hiện:
- Vì lý do gì mà đối với Bát Nhã thậm thâm, tâm các đại Bồ Tát không thối lui?
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều là viễn ly, đều tịch tĩnh, đều không sanh diệt, đều không có tánh tướng. Cho nên đối với Bát Nhã thậm thâm, tâm các đại Bồ Tát không thối lui.
Bạch Thế Tôn! Do những nhân duyên như vậy, mà tâm các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã thậm thâm không thối lui. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, các đại Bồ Tát hay thối lui, bị thối lui, chỗ thối lui, thời thối lui, người thối lui, do đây thối lui đều bất khả đắc. Vì tất cả pháp đều bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nghe nói như vậy tâm không thối lui cũng không kinh ngạc, sợ sệt, lo lắng, hối hận thì nên biết đại Bồ Tát ấy có thể hành Bát Nhã thậm thâm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy quán thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, không kiến lập, hay thối lui, bị thối lui, chỗ thối lui, thời thối lui, người thối lui, do đây thối lui. Do đó, các đại Bồ Tát nghe nói việc như vậy tâm không thối lui, cũng không kinh ngạc, sợ sệt, lo lắng, hối hận.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm như vậy thì các trời Đế Thích, Đại Phạm, Thiên Vương, chủ thế giới v.v… thường lễ bái, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát có thể hành Bát Nhã thậm thâm như vậy, không những được các trời Đế Thích, Đại Phạm, Thiên Vương, chủ thế giới v.v… cùng nhau lễ bái, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen mà đại Bồ Tát ấy còn hơn thế nữa. Nghĩa là được các vị trời Cực quang tịnh, trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và cả trời, rồng A tu la v.v... khác cùng nhau lễ bái, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Đại Bồ Tát này có thể tu hành Bát Nhã thậm thâm như vậy thì cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương thường cùng nhau hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã như vậy, thì khiến cho bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Nói rộng cho đến khiến cho Nhất thiết trí trí mau được viên mãn.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành Bát Nhã như vậy thường được chư Phật, các Bồ Tát và chư thiên, rồng, A tu la v.v... bảo vệ, nhớ nghĩ, mau viên mãn tất cả công đức. Nên biết đại Bồ Tát này đi chỗ Phật đã đi, cũng chính tu hành hạnh Phật đã hành, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cùng Phật Thế Tôn phải biết không khác.( Q. 521, ĐBN)
Lại nữa, này Thiện Hiện! Tâm của đại Bồ Tát ấy kiên cố hơn kim cương. Giả sử tất cả hữu tình trong hằng hà sa thế giới chư Phật khắp mười phương đều hóa làm ác ma. Mỗi mỗi chúng ma ấy lại hóa ra nhiều ác ma như vậy. Các ác ma này đều có vô số thần lực. Nếu các ác ma này có sử dụng hết thần lực thì cũng không thể nào cản trở đại Bồ Tát ấy hành Bát Nhã thậm thâm được. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, vì biết tất cả pháp đều bất khả đắc. (Q.522, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát thành tựu hai pháp thì tất cả ác ma không thể nào làm cản trở vị ấy tu hành Bát Nhã được. Thế nào là hai? Một là quán sát các pháp đều không; hai là không xả bỏ các loại hữu tình.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát thành tựu hai pháp thì tất cả ác ma không thể làm trở ngại vị ấy tu hành Bát Nhã được. Thế nào là hai? Một là nói được thì phải làm được; hai là thường được chư Phật hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát có thể hành Bát Nhã thậm thâm như vậy, thì các Thiên tử thường đến lễ kính, gần gũi, cúng dường, thăm hỏi, khuyến khích, nói như vầy: “Lành thay, Đại sĩ! Muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải siêng năng trụ vào không, vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Này thiện nam thiện nữ! Nếu siêng năng trụ vào không, vô tướng, vô nguyện, thì có thể làm chỗ nương tựa cho tất cả hữu tình không có chỗ nương tựa, làm chỗ quay về cho kẻ không chỗ quay về, làm người cứu giúp cho kẻ không người cứu giúp, kẻ không đến tới năng làm đến tới, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho người tối tăm, làm tai mắt cho người điếc mù. Vì sao? Này thiện nam thiện nữ! Vì an trụ vào không, vô tướng, vô nguyện như vậy, tức là an trụ vào Bát Nhã thậm thâm. Nếu có thể an trụ vào Bát Nhã thậm thâm thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.522, ĐBN)
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát có thể trụ vào Bát Nhã thậm thâm như vậy, thì được chư Phật hiện tại trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương ở trong đại chúng, tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của đại Bồ Tát ấy, gọi là an trụ vào công đức chơn tịnh Bát Nhã thậm thâm.
Thiện Hiện nên biết! Như Ta ngày nay giảng nói Bát Nhã thậm thâm cho đại chúng, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của các đại Bồ Tát Bửu Tràng, Bồ Tát Thi Khí v.v… và các đại Bồ Tát khác hiện đang ở chỗ Phật Bất Động để tịnh tu phạm hạnh, trụ vào Bát Nhã thậm thâm. Gọi đó là an trụ vào công đức chơn tịnh Bát Nhã. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số thế giới phương Đông hiện đang giảng nói Bát Nhã cho đại chúng. Ở đó cũng có các đại Bồ Tát tịnh tu phạm hạnh, chẳng lìa Bát nhã Ba la mật. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ấy đều ở giữa đại chúng đều tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của đại Bồ Tát ấy. Gọi đó là công đức chơn tịnh chẳng lìa Bát Nhã thậm thâm. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới cũng như vậy.
Thiện Hiện nên biết! Có đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm hành Bát Nhã, lần lần viên mãn đạo Bồ đề, lần lần viên mãn Bát Nhã, cho đến sắp đắc Nhất thiết tướng trí, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới chư Phật khắp mười phương, ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức của đại Bồ Tát ấy. Gọi đó là công đức chơn tịnh tu hành Bát Nhã thậm thâm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy làm những việc khó làm, không làm mất hạt giống của Phật, lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. (Q.522, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những đại Bồ Tát nào được Phật Thế Tôn ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức? Đó là vị Bất thối chuyển hay Thối chuyển?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát trụ vào Bất thối chuyển hành Bát Nhã, được Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức. Lại có đại Bồ Tát mặc dù chưa được thọ ký nhưng tu phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, cũng được chư Phật ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những vị nói ở đây là Bồ Tát nào?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát theo Phật Bất Động làm Bồ Tát lúc nào ở đâu cũng tu và học, đã được an trụ vào ngôi vị Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát ấy được Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.
Lại có đại Bồ Tát theo đại Bồ Tát Bửu Tràng, đại Bồ Tát Thi Khí để tu học. Đại Bồ Tát ấy mặc dù chưa được thọ ký, nhưng siêng năng tinh tấn thực hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, cũng được chư Phật ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát hành Bát Nhã thậm thâm, đối trong tánh vô sanh tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối Bát Nhã thậm thâm tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối tánh rốt ráo không tất cả pháp, tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối tánh vắng lặng tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối tánh đều xa lìa tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối tánh vô sở hữu tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối tánh chẳng tự tại tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Đối tánh chẳng bền chắc tất cả pháp tuy rất tin hiểu mà chưa chứng được Vô sanh pháp nhẫn.
Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát như thế thảy cũng được chư Phật ở giữa đại chúng tự nhiên vui mừng xưng nêu khen ngợi danh tự dòng dõi và công đức.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát được Phật Thế Tôn ở trong đại chúng tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức thì đại Bồ Tát ấy vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, chắc chắn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thậm thâm, được Phật Thế Tôn ở giữa đại chúng, tự nhiên hoan hỷ, tán thán, khen ngợi tên họ và các công đức thì đại Bồ Tát ấy nhất định sẽ an trụ địa vị Bất thối chuyển. Sau khi an trụ vào địa vị ấy rồi thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nghe nói tất cả ý nghĩa của Bát Nhã thậm thâm như vậy mà không nghi ngờ, không mê loạn, chỉ nghĩ như vầy: Như Phật nói Bát Nhã thậm thâm, lý của nó rõ ràng đúng, không có điên đảo. Đại Bồ Tát ấy nhờ có niềm tin thanh tịnh sâu sắc vào Bát Nhã như vậy, lần lần sẽ được ở chỗ Phật Bất Động và các đại Bồ Tát nghe hết Bát Nhã và tin hiểu sâu sắc vào ý nghĩa của Kinh. Sau khi tin hiểu sâu sắc rồi sẽ được trụ vào địa vị Bất thối chuyển. Trụ vào địa vị này rồi, sẽ mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết: Nếu đại Bồ Tát chỉ nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế năng sanh tin hiểu, chẳng sanh phỉ báng, hãy được nhiều căn lành thù thắng, huống năng thọ trì đọc tụng thông suốt, y lý chơn như buộc niệm suy nghĩ, an trụ chơn như tinh siêng tu học. Đại Bồ Tát này mau sẽ an trụ bậc Bất thối chuyển, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi vui tất cả. (Q.522, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật tánh của tất cả pháp đều bất khả đắc, như vậy sao nói các đại Bồ Tát an trụ vào chơn như để tinh tấn tu học, thì sẽ mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như kẻ Phật hóa ra an trụ chơn như tu Bồ Tát hạnh, mau sẽ an trụ bật Bất thối chuyển, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình làm nhiêu ích lớn. Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, an trụ chơn như tu Bồ Tát hạnh, sẽ mau an trụ bậc Bất thối chuyển, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình làm nhiêu ích lớn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Kẻ Như Lai hóa trọn vô sở hữu, lẽ lìa chơn như, trọn bất khả đắc, ai trọn chơn như tu hạnh Bồ Tát, ai sẽ an trụ bật Bất thối chuyển, ai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ai vì hữu tình làm nhiêu ích lớn? Bạch Thế Tôn! Chơn như hãy chẳng khá được, huống chi được có an trụ chơn như tu hạnh Bồ Tát mau sẽ an trụ bậc Bất thối chuyển, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề vì các hữu tình làm nhiêu ích lớn. Đây nếu thật có, chắc không lẽ ấy?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi đã nói. Sự giáo hóa của Như Lai đều vô sở hữu, pháp lìa chơn như lại bất khả đắc thì ai an trụ vào chơn như tu Bồ Tát hạnh? Ai sẽ an trụ vào địa vị Bất thối chuyển? Ai chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Ai làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Này Thiện Hiện! Chơn như còn bất khả đắc thì làm sao có thể an trụ vào chơn như tu Bồ Tát hạnh, để mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Vậy nếu có điều đó thì thật phi lý. Vì sao? Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, lẽ vậy các pháp chẳng lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh nói rộng cho đến bất tư nghì giới. Quyết định không có an trụ chơn như tu Bồ Tát hạnh, mau an trụ bậc Bất thối chuyển, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình làm việc nhiêu ích. Vì sao? Vì các pháp chơn như không sanh không diệt, cũng không trụ khác, có chút phần khá được.
Thiện Hiện! Nếu pháp không sanh, không diệt, cũng không trụ vào chút phần nhỏ khác nào có thể đắc thì ai an trụ vào trong đó để tu Bồ Tát hạnh? Ai sẽ an trụ vào địa vị Bất thối chuyển? Ai chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Ai làm lợi ích lớn cho các hữu tình? Vậy nếu có điều đó thì thật phi lý, chỉ là đối với thế tục giả nói thôi. (Q.522, ĐBN)
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này vi diệu sâu xa rất khó tin hiểu. Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, mặc dù biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vì cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình là việc rất khó làm. Vì sao? Vì quyết định không có an trụ vào chơn như tu Bồ Tát hạnh, mau an trụ vào địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nhưng khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã quán sát tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, đối với pháp tánh sâu xa tâm không thối lui, không nghi ngờ, không sợ hãi, cũng không mê loạn. Những việc như vậy rất là hiếm có. (Q.522, ĐBN)
Thiện Hiện nói với trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Như lời ông nói, các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, quán tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu. Đối với pháp tánh sâu xa, tâm không thối lui, không nghi ngờ, chẳng sợ sệt, cũng không mê loạn. Những việc như vậy rất hiếm có.
Này Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã quán tất cả pháp đều bản tánh không. Ở trong cái không ấy hoàn toàn vô sở hữu, vậy ai thối lui? Ai nghi ngờ? Ai kinh hãi? Ai mê loạn? Cho nên, khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, đối với pháp tánh sâu xa tâm không thối lui, không nghi ngờ, không kinh hãi, không mê loạn, rất là hiếm có.
Trời Đế Thích thưa Thiện Hiện:
- Tôn giả đã nói đều căn cứ vào Không, cho nên những gì nói ra thường không bị chướng ngại. Ví như lấy mũi tên bắn lên hư không, nếu bắn gần hay xa đều không bị chướng ngại. Những gì Tôn giả nói cũng vậy, ở trong đó ai dám làm chướng ngại.
3. Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Thật Ngữ”,
phần sau Q.457 đến phần đầu Q.458, Hội thứ II, ĐBN.
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con nói như vậy, khen như vậy, ghi nhận như vậy là thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với pháp tùy pháp có được ghi nhận là chân chánh không?
Phật dạy trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Ngươi nói như vậy, khen như vậy, ghi nhận như vậy đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với pháp tùy pháp không ghi nhận điên đảo.
Trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Những gì đại đức Thiện Hiện nói đều căn cứ vào pháp không, vô tướng, vô nguyện. Cũng căn cứ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Căn cứ vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Căn cứ vào tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Căn cứ vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Căn cứ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Căn cứ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Căn cứ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Căn cứ vào các địa Bồ Tát. Căn cứ vào tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Căn cứ vào năm loại mắt, sáu phép thần thông. Căn cứ vào Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Căn cứ vào đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Căn cứ vào ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Căn cứ vào pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Căn cứ vào Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Căn cứ vào Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.
Thế Tôn dạy trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện trụ vào pháp Không mà quán bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật còn bất khả đắc huống chi có người hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật có thể đắc. Quán bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo còn bất khả đắc, huống chi có người tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo có thể đắc v.v... nói rộng ra, quán tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quán quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề còn bất khả đắc, huống chi có người năng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thể đắc. Quán pháp vô sanh diệt còn bất khả đắc, huống chi có người chứng pháp vô sanh diệt có thể đắc. Vì sao?
Này Kiều Thi Ca! Vì đối với tất cả pháp, cụ thọ Thiện Hiện đều trụ vào viễn ly, trụ vào tịch tĩnh, trụ vào vô sở hữu, trụ vào vô sở đắc, trụ vào không, trụ vào vô tướng, trụ vào vô nguyện. (Q.522, ĐBN)
Này Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với sự an trụ của tất cả pháp có vô lượng thắng trụ như vậy, so với sự an trụ Bát Nhã sâu xa vi diệu của các đại Bồ Tát trụ thì trăm phần, ngàn phần, cho đến phần nhỏ nhất cũng không bằng một. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì ngoại trừ sự an trụ của chư Phật ra thì sự an trụ vào Bát Nhã thâm diệu của các đại Bồ Tát so với sự an trụ của Thanh văn, Độc giác rất là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng.
Vì vậy nên, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát muốn trụ trên tất cả hữu tình, phải trụ hạnh thâm diệu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát trụ như vậy thì vượt các an trụ Thanh văn bậc Độc giác v.v…, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, có thể mau viên mãn tất cả Phật pháp, dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau, chóng chứng Nhất thiết trí trí, được gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, rốt ráo lợi vui tất cả hữu tình khiến trụ Tam thừa giải thoát cõi người trời.
Lúc ấy, trong chúng hội có vô lượng, vô số cõi trời thứ Ba mươi ba hoan hỷ khôn xiết, đều lấy hương hoa vi diệu của trời dâng rải cúng dường Như Lai và các đệ tử.
Trong chúng hội có tám trăm Bí sô đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, trịch bày y vai hữu, quì gối sát đất, cúi đầu cung kính, chắp tay hướng về Phật, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt không rời. Nhờ thần lực của Phật nên trong lòng bàn tay họ tự nhiên có đầy hương hoa vi diệu. Chúng Bí sô ấy hết sức vui mừng, vì chưa từng thấy. Mọi người lấy hoa ấy dâng lên cúng dường Phật và các Bồ Tát. Rải hoa xong, họ cùng phát nguyện: “Chúng con đem sức căn lành thù thắng này, nguyện luôn an trụ vào sự hành trụ vi diệu của Bát Nhã thậm thâm mà Thanh văn, Độc giác không thể trụ được và mau hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác”. (Q. 522, ĐBN)
Khi ấy, biết chúng Bí sô vui vẻ thanh tịnh, nhất định không thối chuyển, Như Lai liền mỉm cười. Theo thông lệ của Phật khi mỉm cười, từ miệng phóng ra những loại ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, xanh biếc, xanh lục, vàng, bạc, pha lê chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Ánh sáng ấy thu trở lại vòng quanh thân Phật, quay ba vòng rồi nhập vào đỉnh Phật.
Thấy điềm lành này, A Nan đà quá vui mừng liền đứng dậy lễ Phật, chắp tay thưa:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười như vậy? Chư Phật mỉm cười đều có nhân duyên. Cúi xin đức Như Lai thương xót nói cho.
Phật dạy:
- A Nan đà! Các Bí sô này vào đời tương lai trong kiếp Tinh Dụ đều được thành Phật cùng tên là Tán Hoa, có đầy đủ mười hiệu. Tuổi thọ, quốc độ, đệ tử Bí sô của các vị Phật ấy tất cả đều như nhau. Chư Như Lai ấy đều sống một ngàn tuổi, khi đản sanh, khi xuất gia và sau khi thành Phật ở chỗ nào, dù ngày hay đêm cũng thường mưa hương hoa vi diệu năm màu. Do đó mà Ta mỉm cười.
Cho nên, này Khánh Hỷ! Đại Bồ Tát muốn được trụ vào sự an trụ tối thắng thì phải học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn được trụ vào sự an trụ của Như Lai thì nên học Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đời trước từ trong cõi người qua đời, sanh trở lại nơi đây, hoặc từ cõi trời Đổ sử đa sanh vào nhơn gian đây. Đời trước người ấy ở trong cõi người, hay ở trên trời, do từng nghe rộng Bát Nhã thậm thâm, nên đời này có thể siêng năng tu học Bát Nhã.
Khánh Hỷ nên biết! Như Lai hiện thấy thiện nam, thiện nữ v.v... nào siêng năng tu học Bát Nhã, đối với thân mạng, của cải không tiếc nuối, thì biết vị ấy chắc chắn là đại Bồ Tát.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Thiện nam, thiện nữ v.v... ưa thích nghe Bát Nhã. Nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng nói khai thị, truyền trao, dạy bảo cho thiện nam thiện nữ Bồ Tát thừa thì nên biết người đó là đại Bồ Tát, ở quá khứ đã từng gần gũi Như Lai nghe nói Bát Nhã thậm thâm như vậy. Nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, cũng giảng nói khai thị, truyền trao, dạy bảo Bát Nhã cho người khác, nên đời này có thể thành tựu mọi việc.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... đó đã từng gieo trồng các căn lành với vô lượng Phật quá khứ, nên đời này có thể làm mọi việc. Thiện nam, thiện nữ v.v... nên nghĩ như vầy: Đời trước ta không nghe Thanh văn, Độc giác nói Bát Nhã như vậy, nhất định là nghe chư Phật nói Bát Nhã thậm thâm ấy. Đời trước ta không gần gũi cúng dường trồng các căn lành đối với Thanh văn, Độc giác, nhất định là ta gần gũi cúng dường trồng các căn lành đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Do nhân duyên này, nên nay được nghe Bát Nhã này, ưa thích, thọ trì, đọc tụng thông suốt, tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, giảng nói cho các hữu tình không mệt mỏi. (Q.522, ĐBN)
Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào ưa thích nghe Bát Nhã, nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, đối với pháp, nghĩa, văn, ý của Kinh đều thông suốt rõ ràng, tùy thuận theo đó mà tu hành thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy được thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào nghe nói tất cả ý nghĩa của Bát Nhã tin hiểu, không hủy báng, không làm trở ngại, phá hoại thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo trồng nhiều căn lành với chư Phật, cũng được vô lượng bạn lành hộ trì.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... đã gieo trồng các căn lành vào ruộng phước thù thắng của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuy có thể đắc quả Thanh văn, Độc giác, nhưng chỉ muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì cần phải thông đạt ý nghĩa của Bát Nhã không chướng ngại, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành tất cả Bồ Tát địa. Tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoàn toàn viên mãn. (Q.522, ĐBN)
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát có thể thông đạt ý nghĩa thậm thâm của Bát nhã Ba la mật một cách không chướng ngại, tu hành bố thí Ba la mật nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí để viên mãn hoàn toàn mà đại Bồ Tát ấy không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chỉ trụ vào địa vị Thanh văn, Độc giác thì nhất định không có điều đó. Cho nên, chúng đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên thông đạt hoàn toàn ý nghĩa sâu xa của Bát Nhã một cách không chướng ngại, tu hành bố thí Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí hoàn toàn viên mãn.
Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta đem Kinh điển Bát Nhã thâm sâu giao phó cho ngươi, ngươi nên thọ trì đúng đắn, đọc tụng thông suốt đừng để quên mất.
Khánh Hỷ nên biết! Ngoài Kinh điển Bát Nhã thâm sâu, nếu thọ trì Kinh điển khác, dầu có quên mất pháp Ta nói ra thì tội ấy còn nhẹ. Nhưng đối với Kinh điển Bát Nhã không thọ trì cẩn thận, cho đến quên mất một câu thì tội ấy rất nặng.
Khánh Hỷ nên biết! Đối với Kinh điển Bát Nhã dù thọ trì chỉ một câu cẩn thận không quên mất thì đạt được phước vô lượng. Còn như đối với Kinh điển Bát Nhã không thọ trì cẩn thận, thậm chí quên mất chỉ một câu thì bị tội rất nặng bằng lượng phước ở trên.
Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta đem Kinh điển Bát nhã Ba la mật ân cần giao phó cho ngươi, ngươi hãy thọ trì đúng đắn, đọc tụng thông suốt, tư duy đúng lý, giảng nói cho người khác, phân biệt khai thị, để họ thọ trì hiểu rõ hoàn toàn ý nghĩa của Kinh văn.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát Nhã thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, giảng nói cho người khác, phân biệt khai thị chỉ dạy để họ hiểu rõ, thì cũng như thọ trì gìn giữ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng.
Khánh Hỷ nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v... có tâm ân cần thanh tịnh, hiện đang ở chỗ Ta muốn đem những thứ vòng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen không giải đãi, mệt mỏi, đối với Bát Nhã chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, giảng nói cho người khác, phân biệt chỉ dạy để họ hiểu rõ, hoặc biên chép, trang nghiêm nhiều vật báu, luôn dùng tràng hoa thượng diệu cho đến đèn sáng cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen không ngừng nghỉ. Này Khánh Hỷ! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nào cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Bát Nhã như vậy thì hiện tại đã cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen Ta và ba đời chư Phật khắp mười phương.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v... nghe Bát Nhã có tâm ân cần thanh tịnh, cung kính ưa thích, tức là ân cần thanh tịnh, cung kính ưa thích quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng. Này Khánh Hỷ! Nếu ngươi yêu thích Ta, không lìa bỏ Ta thì cũng nên yêu thích và không lìa bỏ Kinh điển Bát Nhã, cho đến một câu cũng đừng để quên mất.
Này Khánh Hỷ! Ta nói nhân duyên giao phó Kinh điển Bát Nhã như vậy, mặc dù trải qua trăm ngàn đại kiếp cũng không cùng tận, giống như Ta đã là Đại sư của các ngươi, nên biết Bát Nhã cũng là Đại sư của các ngươi. Các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng Ta thì cũng nên cung kính, tôn trọng Bát Nhã.
Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô lượng phương tiện thiện xảo giao phó Kinh điển Bát Nhã này cho ngươi, ngươi nên thọ trì đừng để quên mất. Nay trước trời, người, A tu la v.v... vô lượng đại chúng, Ta đem Bát Nhã này giao phó cho ngươi, ngươi hãy thọ trì đúng đắn đừng để quên mất.
Này Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật cho ngươi biết: Người nào có lòng tin tịch tịnh, muốn không bỏ Phật, không bỏ Pháp, không bỏ Tăng, không muốn lìa bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật ba đời đã chứng thì nhất định không nên lìa bỏ Bát Nhã thậm thâm. Như vậy, gọi là pháp mà chư Phật truyền trao, dạy bảo cho các đệ tử.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... ưa thích lắng nghe Bát Nhã thậm thâm, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, dùng vô lượng pháp môn để giảng nói cho người, phân biệt khai thị, trình bày kiến lập để họ hiểu rõ mà tinh tấn tu hành thì thiện nam, thiện nữ v.v... ấy mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, gần viên mãn Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Nhất thiết trí trí đều nương vào Bát Nhã thậm thâm này mà sanh.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều nương vào Bát Nhã thậm thâm này mà sanh ra quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Cho nên, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải siêng năng tinh tấn tu học Bát Nhã thậm thâm. Vì sao? Vì Bát Nhã thâm sâu là mẹ của các đại Bồ Tát, sanh ra các đại Bồ Tát.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát siêng học sáu pháp Ba la mật thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật đây lại giao phó cho ngươi, ngươi nên thọ trì đúng đắn đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật là kho Pháp bảo vô lượng của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Phật pháp từ đây sanh ra.
Khánh Hỷ nên biết! Pháp giải thoát mà chư Phật Thế Tôn ba đời nói ra đều lưu xuất từ vô lượng Pháp tạng của sáu pháp Ba la mật ấy.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật Thế Tôn ba đời khắp mười phương cũng đều nương vào vô lượng Pháp tạng của sáu pháp Ba la mật mà siêng năng tinh tấn tu học, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Khánh Hỷ nên biết! Đệ tử Thanh văn chư Phật Thế Tôn ba đời khắp mười phương đều nương vào vô tận Pháp tạng của sáu pháp Ba la mật mà siêng năng tinh tấn tu học, đã, đang và sẽ nhập vào Vô dư y Niết bàn. (Q.522, ĐBN)
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Giả sử ngươi vì hàng Thanh văn thừa nói pháp Thanh văn, nhờ pháp này mà tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều đắc quả A la hán, thì vẫn chưa vì Ta mà làm việc đáng làm của người Phật tử. Nếu ngươi vì hàng Bồ Tát thừa mà giảng nói pháp tương ưng một câu Bát Nhã thậm thâm, mới gọi là vì Ta làm việc nên làm của người Phật tử. Đối với việc này, Ta sanh lòng tùy hỷ sâu sắc hơn là việc ngươi giáo hóa tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều đắc quả A la hán. Lại nữa Khánh Hỷ! Giả sử tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới nhờ năng lực giáo hóa của người khác cùng một lúc đều được làm người, đồng thời chứng đắc quả A la hán thì đối với tất cả nghiệp phước đức do sự bố thí, trì giới, và tu tập của các A la hán ấy thì ý ngươi thế nào, nghiệp phước đức ấy nhiều không?
Khánh Hỷ thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Phước đức nghiệp sự của vị ấy vô lượng, vô biên.
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Nếu có Thanh văn nào giảng nói pháp tương ưng với sáu Ba la mật cho Bồ Tát thì phước đức đạt được trong một ngày đêm nhiều hơn phước người kia.
Khánh Hỷ nên biết! Gác một ngày đêm qua một bên, chỉ còn một ngày. Gác một ngày qua một bên chỉ còn nửa ngày, gác nửa ngày qua một bên chỉ còn một giờ, gác một giờ qua một bên chỉ thời gian như khoảng bữa ăn, gác khoảng chừng bữa ăn qua một bên chỉ còn chốc lát, gác chốc lát qua một bên chỉ còn một thoáng, gác một thoáng qua một bên chỉ còn lại một khảy móng tay, người Thanh văn ấy có thể giảng nói pháp tương ưng với Bát Nhã cho Bồ Tát, phước đức đạt được nhiều hơn trước. Vì sao? Vì phước đức của vị Thanh văn này đạt được vượt qua các căn lành của tất cả Thanh văn, Độc giác.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát giảng nói pháp Thanh văn thừa cho hàng Thanh văn, giả sử tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới nhờ pháp này mà đều được chứng đắc quả A la hán, đều đầy đủ tất cả công đức thù thắng. Ý ngươi thế nào? Đại Bồ Tát ấy nhờ nhân duyên này được phước đức nhiều không?
Khánh Hỷ thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều! Đại Bồ Tát ấy đạt được phước đức vô lượng, vô biên.
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Nếu đại Bồ Tát vì các thiện nam tử giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã cho Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Vô thượng thừa trong một ngày đêm, thì đạt được phước đức nhiều hơn trước.
Khánh Hỷ nên biết! Gác một ngày đêm qua một bên, chỉ trải qua một ngày v.v… chỉ còn lại bằng khoảng khảy móng tay, đại Bồ Tát ấy có thể giảng nói pháp tương ưng Bát Nhã cho thiện nam tử… ba thừa, đạt được phước đức nhiều hơn trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì pháp thí tương ưng Bát Nhã thậm thâm vượt hơn tất cả pháp thí tương ưng với Thanh văn, Độc giác và các căn lành của ba thừa. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy tự cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng lấy pháp tương ưng Đại thừa thị hiện, chỉ dạy, khuyến khích, khen ngợi. Các chúng sanh khác đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được đắc Bất thối chuyển.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát ấy tự tu sáu pháp Ba la mật, cũng dạy người khác tu sáu pháp Ba la mật. Nói rộng, cho đến tự tu Nhất thiết trí trí, cũng dạy người khác tu Nhất thiết trí trí. Do đó, mà căn lành được tăng trưởng. Đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nếu có sự thối chuyển thì không có điều đó. (Q.522, ĐBN)
Bấy giờ, có bốn chúng vây quanh, Thế Tôn ca ngợi Bát Nhã thậm thâm, và giao cho A Nan đà thọ trì rồi, lại ở trước hội chúng tất cả trời, rồng, A tu la, càn thát bà, Ngài hiện sức thần thông khiến chúng đều thấy Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có đại chúng Thanh văn, Bồ Tát vây quanh, đang giảng nói diệu pháp cho hội Hải Dụ, và thấy tướng trang nghiêm thanh tịnh của cõi ấy. Thanh văn Tăng ở đó đều là A la hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, giống như ngựa khôn được điều phục, và như rồng lớn. Việc cần làm đã làm xong, việc thành tựu đã thành tựu rồi, quăng bỏ các gánh nặng, chứng đắc tự lợi, không còn các kiết sử, chánh tri giải thoát, chí tâm tự tại, cứu cánh đệ nhất. Tất cả Bồ Tát Tăng ở đó đều nổi tiếng đã đắc Đà la ni và biện tài vô ngại, thành tựu vô lượng công đức thù thắng. Phật thâu thần lực lại làm cho trời, rồng, A tu la, càn thát bà trong chúng hội này không thấy Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Bồ Tát, Thanh văn cùng đại chúng khác, và tướng trang nghiêm thanh tịnh của cõi Phật ấy. Chúng hội Phật ấy và cõi trang nghiêm thanh tịnh chẳng phải đối tượng của nhãn căn ở cõi này. Vì sao? Vì Phật thâu thần thông, nên đối với cảnh xa không có phương tiện để thấy. (Q.522, ĐBN)
Khi ấy, Phật dạy A Nan đà:
- Ngươi còn thấy chúng hội và quốc độ của Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nữa không?
A Nan đà thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con chẳng thấy nữa, vì đó chẳng phải là sở hành của nhãn căn cõi đây.
Phật dạy cụ thọ A Nan đà:
- Như chúng hội, quốc độ của Như Lai kia chẳng phải là cảnh giới sở hành của nhãn căn cõi đây. Nên biết các pháp cũng như vậy, chẳng phải cảnh giới sở hành của nhãn căn.
Khánh Hỷ nên biết! Pháp không hành pháp, pháp không thấy pháp, pháp không biết pháp, pháp không chứng pháp.
Khánh Hỷ phải biết: Tất cả pháp tánh không kẻ năng chứng, không kẻ năng kiến, không kẻ năng tri, không kẻ năng chứng, không động không tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như hư không, không có tác dụng, vì năng lấy bị lấy tánh viễn ly vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, vì năng sở nghĩ bàn tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp đều như huyễn như mộng..., nhiều duyên hòa hợp giả có. Vì tất cả pháp không kẻ tác thọ, vọng hiện như có, nhưng không bền chắc vậy.
Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào có thể hành như vậy, thấy như vậy, biết như vậy, chứng như vậy đó là người thực hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước tướng của các pháp này.
Khánh Hỷ nên biết! Khi đại Bồ Tát hành như vậy đó là học Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát muốn đạt được tất cả Ba la mật, mau chóng viên mãn tất cả pháp đến cứu cánh bờ bên kia thì nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì học pháp này đối với các sự học là tối thắng, là tôn quí, là vi diệu, là vô thượng, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, làm chỗ nương tựa cứu giúp cho ai không có chỗ nương tựa. Chư Phật Thế Tôn chấp nhận khen ngợi người tu học Bát nhã Ba la mật.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật, Bồ Tát học như vậy, đã trụ trong học này có thể dùng một ngón tay phải, hoặc một ngón chân phải nâng lấy Tam thiên đại thiên thế giới quăng phương khác, hoặc đem về chỗ cũ, mà hữu tình trong đó không hay biết, không tổn hại, không sợ sệt. Vì sao? Vì oai lực công đức của Bát Nhã thậm thâm không thể nghĩ bàn. Chư Phật và các Bồ Tát ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều học Bát nhã Ba la mật này, đối với quá khứ, hiện tại, vị lai và pháp vô vi tất cả đều đạt được trí kiến vô ngại.
Cho nên, này Khánh Hỷ! Ta nói đối với tất cả sự học thì học Bát Nhã thậm thâm này rất là tối thắng, rất là tôn quí, là rất vi diệu, rất là vô thượng.
Khánh Hỷ nên biết! Người nào muốn giữ lấy số lượng giới hạn Bát Nhã thậm thâm, thì giống như người ngu si muốn giữ lấy số lượng giới hạn hư không. Vì sao? Vì công đức của Bát Nhã thậm thâm là vô lượng, không giới hạn.
Khánh Hỷ nên biết! Ta không bao giờ nói công đức thù thắng của Bát Nhã thậm thâm bằng những danh từ v.v… có số lượng, có giới hạn. Vì sao? Vì danh từ, câu, chữ là pháp có số lượng, còn công đức thù thắng của Bát Nhã thậm thâm là pháp chẳng có hạn lượng. Chẳng phải danh từ v.v… mà có thể lường được công đức lợi ích của Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng phải công đức lợi ích thù thắng của Bát nhã Ba la mật mà có thể dùng danh từ để tính lường được. (Q.522, ĐBN)
Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nói Bát Nhã thậm thâm là vô lượng?
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Tánh của Bát Nhã thậm thâm là vô tận, vì tánh viễn ly, tánh tịch tĩnh, như thật tế, như hư không, nên nói là vô lượng.
Khánh Hỷ nên biết! Chư Phật ba đời đều học Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn viên mãn, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, giảng nói khai thị cho các hữu tình, nhưng Bát nhã Ba la mật này luôn luôn không diệt tận. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm giống như hư không, không cùng tận. Người nào muốn Bát Nhã cùng tận là muốn ngằn mé của hư không cùng tận.
Khánh Hỷ nên biết! Bố thí cùng năm Ba la mật khác nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí đều không thể tận, chẳng phải đều đã tận, đang tận và sẽ tận. Vì sao? Vì những pháp không sanh, không diệt, cũng không trụ, không đổi dời thì làm sao có thể nói là có tận.
Bấy giờ, từ miệng Như Lai hiện ra tướng lưỡi rộng dài che khắp cả mặt. Hiện tướng lưỡi rồi thâu trở lại và nói với Khánh Hỷ:
- Ý ngươi thế nào? Ở thế gian, người có tướng lưỡi như vậy có nói lời hư dối không?
Khánh Hỷ thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không!
Phật dạy:
- Này Khánh Hỷ! Từ nay trở đi ngươi nên nói rõ Bát Nhã thậm thâm như vậy cho bốn chúng, hãy phân biệt khai thị, giảng giải trình bày thế nào để họ dễ hiểu.
Khánh Hỷ nên biết! Trong Mật tạng Bát Nhã thậm thâm này có nói rộng tất cả Bồ đề phần pháp và tướng của các pháp. Cho nên tất cả thiện nam v.v… cầu Thanh văn thừa, cầu Độc giác thừa, cầu Vô thượng thừa đều phải y vào pháp môn của Bát Nhã thậm thâm đã nói, siêng năng tu học, đừng nhàm chán, mỏi mệt. Nếu ai thường tinh tấn tu học như vậy thì sẽ mau chứng đắc ý nghĩa mà mình cầu.
Lại nữa, này Khánh Hỷ! Bát Nhã thậm thâm có thể nhập vào tất cả pháp môn, có thể nhập vào tất cả văn tự, có thể nhập vào pháp môn Đà la ni. Các đại Bồ Tát đối với pháp môn Đà la ni phải siêng năng tinh tấn tu học. Nếu đại Bồ Tát thọ trì pháp môn Đà la ni như vậy thì mau chứng đắc tất cả biện tài, các hiểu biết vô ngại.
Khánh Hỷ nên biết! Bát Nhã thậm thâm chính là kho Pháp bảo vô tận của chư Phật Thế Tôn đời quá khứ, vị lai, hiện tại, nó giữ gìn tất cả Phật pháp vi diệu. Cho nên, nay Ta phân biệt nói rõ ràng cho ngươi. Bát Nhã thậm thâm này nếu có người nào thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, thì đó là thọ trì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của ba đời chư Phật đã đắc.
Khánh Hỷ nên biết! Ta nói Bát Nhã thậm thâm như vậy là đôi chân kiên cố của người có thể đi đến đạo Bồ đề, cũng là Đại đà la ni tất cả Vô thượng Phật pháp. Các ngươi nếu thường thọ trì Bát nhã Ba la mật thậm thâm Đà la ni như thế ấy thời là tổng trì tất cả Phật pháp, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. (Q.522, ĐBN)
Thích nghĩa:
(1). Tất cánh viễn ly: Rốt ráo xa lìa.
Sơ giải:
Đây là một phẩm tập hợp nhiều phẩm, nhiều giáo pháp khác biệt, rất khó chiết giải tổng hợp một cách suôn sẻ được. Vì vậy, chúng tôi mới chia phẩm này làm ba đoạn, mỗi đoạn có phẩm tựa tương đương, để quý vị dễ tra cứu đối chiếu. Cứ theo sự chia đoạn và phẩm tương đương thì Quý vị có thể tìm ra giải đáp cho phẩm “Thấy Bất Động” của Hội thứ III.
Cứ phăn ra phẩm tương đương với Hội thứ III thì có thể tìm thấy phẩm tương tương của Hội thứ II. Nếu tìm thấy phẩm tương đương của Hội thứ II, thì có thể tìm thấy phẩm tương đương của Hội thứ I. Tất cả chỉ dẫn trên đều rất cần thiết cho việc so chiếu, truy tầm. Đọc thích nghĩa và chiết giải của các phẩm tương đương của Hội thứ I thì có thể giải quyết các thắc mắc của phẩm “Thấy Bất Động” của Hội thứ III này.