- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM "ĐỊA NGỤC"
Phần sau Q.505 cho đến phần đầu Q.506, Hội thứ III, ĐBN.
(Tương đương phẩm cùng tên là “Địa Ngục”, phần cuối Q.434
cho đến hết Q.435, Hội thứ II, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phần đầu của phẩm “Địa Ngục” ca tụng: “Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Phật, Phật tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức là Phật”; “Bát nhã là người sáng mắt, Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí cho đến tĩnh lự vô số vô biên. Như người mù bẩm sanh, không có người mắt sáng dẫn đường, chẳng thể đến gần đường chánh, huống đạt tới đại thành giàu vui”. Và dĩ nhiên những ai tuân hành Bát Nhã một cách khéo léo sẽ làm “ánh sáng cho các hữu tình, làm cho họ có được năm loại mắt hoàn toàn thấy được trung đạo, làm cho kẻ lạc đường không rơi vào nhị biên, khéo phát sanh Nhất thiết trí trí, dứt hẳn tất cả tập khí phiền não tương tục”.
Phần giữa của phẩm “Địa Ngục” thuyết về tội hủy báng Bát Nhã mà bị đọa đại địa ngục.
Phần cuối phẩm này lại thuyết về thanh tịnh.
Như vậy, phẩm này thuyết ba chủ đề khác nhau. Sở dĩ như vậy, là vì Hội thứ III thường ghép nhiều phẩm lại với nhau nên mới có kết cấu không phù hợp với ý nghĩa của phẩm tựa như các Hội trước!
Tóm lược:
(Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Phật)
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu có thể soi sáng, rốt ráo thanh tịnh, đều nên cung kính đảnh lễ, vì là nơi tôn trọng trời, người v.v..., không bị nhiễm đắm, không bị các pháp thế gian làm ô uế được. Xa lìa tất cả sự ngăn che ba cõi, xa lìa phiền não và các kiến chấp u tối. Cho nên là thượng thủ, đứng đầu đối với tất cả Bồ đề phần pháp, rất tối thắng, có thể mang lại an ổn, dứt hẳn tất cả các sự kinh sợ ép ngặt tai hoạnh vậy. Đem ánh sáng cho các hữu tình, làm cho họ được năm loại mắt, hoàn toàn thấy được trung đạo; làm cho kẻ lạc đường không rơi vào nhị biên. Khéo phát sanh Nhất thiết trí trí, dứt hẳn tất cả tập khí phiền não tương tục. Là mẹ của tất cả đại Bồ Tát, vì chỗ tu tất cả Phật pháp của Bồ Tát được phát sanh từ đây. Bất sanh, bất diệt vì tự tướng Không. Thoát hẳn tất cả sanh tử, chẳng thường, chẳng hoại, có thể làm chỗ nương tựa, đem Pháp bảo cho các hữu tình. Thành tựu viên mãn Như Lai mười lực, tất cả luận sự khác đều bị khuất phục. Vận chuyển pháp luân Vô thượng, ba lần chuyển, mười hai hành tướng đạt được tất cả pháp, không ngược, nên hiểu rõ tất cả pháp không điên đảo, tự tánh liễu tri vô tánh, tự tánh Không.
Bạch Thế Tôn! Các loại hữu tình đối Bát nhã Ba la mật đây nên an trụ như thế nào?
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử rằng:
- Các loại hữu tình đối Bát nhã Ba la mật đây nên trụ như Phật. Cúng dường lễ kính, tưởng niệm Bát nhã Ba la mật như cúng dường lễ kính, tưởng niệm Phật Thế Tôn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Phật. Phật tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức là Phật. Vì sao? Chư Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn đều do Bát nhã Ba la mật mà được lưu xuất. Tất cả thế gian mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông cũng do Bát nhã Ba la mật mà được lưu xuất. Tất cả bố thí Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí cũng do Bát nhã Ba la mật mà được lưu xuất. (Q.505, ĐBN)
Khi ấy, Thiên Đế Thích thầm nghĩ rằng: “Không biết vì lý do gì mà nay Xá Lợi Tử hỏi Phật việc này?”
Xá Lợi Tử biết ý nghĩ của Thiên Đế Thích bèn bảo rằng:
- Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát được Bát nhã Ba la mật đây nhiếp thọ, nên phương tiện khéo léo thường đối chư Phật mười phương ba đời từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ, ở thời gian giữa tạo tác công đức hoặc tập họp các căn lành của các Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát hoặc các loại hữu tình, đem vô tướng và vô sở đắc mà làm phương tiện, nhóm hợp cân lường, hiện tiền tùy hỷ. Đã tùy hỷ rồi, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên đây nên hỏi việc này.
(Bát nhã Ba la mật là người sáng mắt)
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát sở học Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí cho đến tĩnh lự vô số vô biên. Như người mù bẩm sanh, không có người mắt sáng dẫn đi, chẳng thể đến gần đường chánh, huống đạt tới đại thành giàu vui. Như vậy, năm Ba la mật trước là những người mù bẩm sanh, nếu không kẻ sáng mắt là Bát nhã Ba la mật dẫn dắt, chẳng thể tới đường chánh Bồ Tát, huống đạt tới thành Nhất thiết trí trí. Kiều Thi Ca! Bố thí cùng năm Ba la mật nhờ Bát Nhã được gọi kẻ có mắt, lại do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ mới gọi đến bờ kia. (Q.505, ĐBN)
Thiên Đế Thích nói:
- Chẳng lẽ phải nhờ các Ba la mật trước thay nhau dẫn đầu, nhiếp thọ năm Ba la mật còn lại khiến đến được bờ kia. Đã vậy, thì tại sao chỉ tán thán Bát nhã Ba la mật là vượt hẳn năm Ba la mật kia?
Xá Lợi Tử nói:
- Thiên chủ! Không phải vậy. Vì sao? Vì chẳng phải nhờ năm Ba la mật trước thay nhau dẫn đầu, nhiếp thọ các Ba la mật còn lại, làm cho đến bờ kia. Mà chính nhờ Bát nhã Ba la mật đủ thế lực phương tiện thiện xảo, nhiếp thọ năm Ba la mật, khiến không bị chấp trước, mau chóng đến bờ kia. Vì vậy, Bát nhã Ba la mật đối với năm loại trước là tối tôn, là tối thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. (Q.505, ĐBN)
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm sao có thể dẫn phát Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật, chẳng vì dẫn phát thọ tưởng hành thức vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng vì dẫn phát Nhất thiết trí vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật; chẳng vì dẫn phát Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Chẳng vì dẫn phát tất cả pháp vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử thưa:
- Vì sao đại Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc cho đến tất cả pháp vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Vì sắc cho đến tất cả pháp không tác không sanh, không đắc không hoại, không tự tánh, nên các đại Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc cho đến tất cả pháp vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:
- Các đại Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế hợp cùng pháp nào?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế chẳng cùng hợp tất cả pháp. Bởi chẳng hợp nên được gọi tên Bát nhã Ba la mật.
Xá Lợi Tử thưa tiếp:
- Như vậy, Bát nhã Ba la mật chẳng hợp cùng tất cả những pháp nào?
Thế Tôn bảo rằng:
- Như vậy, Bát nhã Ba la mật chẳng hợp cùng pháp thiện, chẳng hợp cùng pháp phi thiện, chẳng hợp cùng pháp có tội, chẳng hợp cùng pháp không tội, chẳng hợp cùng pháp hữu lậu, chẳng hợp cùng pháp vô lậu, chẳng hợp cùng pháp hữu vi, chẳng hợp cùng pháp vô vi, chẳng hợp cùng pháp có nhiễm, chẳng hợp cùng pháp không nhiễm, chẳng hợp cùng pháp thế gian, chẳng hợp cùng pháp xuất thế gian, chẳng hợp cùng pháp tạp nhiễm, chẳng hợp cùng pháp thanh tịnh, chẳng hợp cùng pháp sanh tử, chẳng hợp cùng pháp Niết bàn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp vô sở đắc, nên chẳng thể nói hợp cùng chẳng hợp những pháp như thế. (Q.505, ĐBN)
Khi ấy, Thiên Đế Thích bèn thưa Phật rằng:
- Bát Nhã thẳm sâu cũng chẳng hợp cùng Nhất thiết trí chăng?
Phật nói:
- Như vậy, như ngươi đã nói. Bát Nhã thẳm sâu cũng chẳng hợp cùng Nhất thiết trí, bởi vì Bát Nhã cùng Nhất thiết trí đây đều vô sở đắc vậy.
Thiên Đế Thích thưa:
- Bát nhã Ba la mật đối Nhất thiết trí có hợp có đắc hay không hợp không đắc?
Thế Tôn bảo rằng:
- Chẳng phải Bát Nhã thẳm sâu đối Nhất thiết trí như danh như tướng, như sở tạo tác, có hợp có đắc hay không hợp không đắc. Vì sao? Vì do Bát Nhã thẳm sâu đối Nhất thiết trí như danh tướng v.v… không nhận không lấy, không trụ không dứt, không chấp không xả. Hợp đắc như thế mà không hợp đắc. Đối tất cả pháp cũng lại như thế, như danh tướng v.v… không nhận không lấy, không trụ không dứt, không chấp không xả. Hợp đắc như thế mà không hợp đắc.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Rất lạ! Bạch Thiện Thệ! Rất hiếm có! Bát nhã Ba la mật như thế, vì tất cả pháp vô sanh vô diệt, vô tác vô thành, vô đắc vô hoại, vô tự tánh xuất hiện thế gian, mặc dù có hợp đắc mà không hợp đắc. Lý thú như thế thật bất khả tư nghì, duy Phật Thế Tôn mới có thể biết được, nói được mà thôi.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã khởi tưởng như vầy: Bát Nhã thẳm sâu cùng tất cả pháp hoặc hợp chẳng hợp, đại Bồ Tát này như vậy là bỏ, là xa lìa Bát Nhã thẳm sâu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Lại có nhân duyên các đại Bồ Tát bỏ, xa lìa Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là khi Bồ Tát hành Bát Nhã khởi tưởng như vầy: Bát Nhã thẳm sâu không sở hữu, chẳng chơn thật, chẳng bền chắc, chẳng tự tại, đại Bồ Tát này như vậy là bỏ, là xa lìa Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Nếu đại Bồ Tát tát đã tin Bát Nhã, thì chẳng tin pháp nào?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tin Bát Nhã thẳm sâu thời chẳng tin sắc, chẳng tin thọ tưởng hành thức. Nói rộng, cho đến chẳng tin Nhất thiết trí; chẳng tin Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Sao là đại Bồ Tát khi tin Bát Nhã thẳm sâu thời chẳng tin sắc cho đến chẳng tin Nhất thiết tướng trí?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, quán tất cả sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, vì bất khả đắc vậy. Mặc dù tin Bát nhã Ba la mật mà chẳng tin sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tin Bát Nhã thẳm sâu thời chẳng tin sắc, cho đến chẳng tin Nhất thiết tướng trí. (Q.505, ĐBN)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu tức là đại Ba la mật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ngươi duyên ý nào khởi thuyết như vầy: Bát Nhã thẳm sâu tức là đại Ba la mật?
Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì Bát Nhã thẳm sâu đối sắc chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ. Như vậy, cho đến đối Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ, đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ. Đối sắc chẳng làm hợp chẳng làm tan, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm hợp chẳng làm tan. Như vậy, cho đến đối Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm hợp chẳng làm tan, đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm hợp chẳng làm tan. Đối sắc chẳng làm hữu lượng chẳng làm vô lượng, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm hữu lượng chẳng làm vô lượng. Như vậy, đối Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm hữu lượng chẳng làm vô lượng, đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm hữu lượng chẳng làm vô lượng. Đối sắc chẳng làm rộng chẳng làm hẹp, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm rộng chẳng làm hẹp. Như vậy, cho đến đối Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm rộng chẳng làm hẹp, đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm rộng chẳng làm hẹp. Đối sắc chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực. Như vậy, cho đến đối Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực, đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực. Con duyên ý đây nên tác thuyết này: Bát Nhã thẳm sâu tức là đại Ba la mật. (Q.506, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát tân học Đại thừa, nương dựa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát Nhã sâu thẳm đối sắc chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ, chẳng làm hợp chẳng làm tan, chẳng làm hữu lượng chẳng làm vô lượng, chẳng làm rộng chẳng làm hẹp, chẳng làm hữu lực chẳng làm vô lực. Như vậy, cho đến đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm lớn chẳng làm nhỏ, chẳng làm hợp chẳng làm tan v.v… Đại Bồ Tát này, do khởi tưởng đây chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát tân học Đại thừa, nương dựa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật khởi tưởng như vầy: Bát Nhã sâu thẳm đối sắc làm lớn làm nhỏ, làm hợp làm tan, làm hữu lượng làm vô lượng, làm rộng làm hẹp, làm hữu lực làm vô lực. Như vậy, cho đến đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác làm lớn làm nhỏ, làm hợp làm tan, v.v… Đại Bồ Tát này, do khởi tưởng đây chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.
Vì sao? Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khởi tưởng như vầy: Bát Nhã sâu thẳm đối sắc hoặc làm lớn nhỏ chẳng làm lớn nhỏ, hoặc làm hợp tan chẳng làm hợp tan, hoặc làm hữu lượng vô lượng chẳng làm hữu lượng vô lượng, hoặc làm rộng hẹp chẳng làm rộng hẹp, hoặc làm hữu lực vô lực chẳng làm hữu lực vô lực. Như vậy, cho đến đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm lớn nhỏ chẳng làm lớn nhỏ, hoặc làm hợp tan chẳng làm hợp tan, v.v… thì như vậy, tất cả đều chẳng phải quả Đẳng lưu của Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khởi tưởng như vầy: Bát Nhã sâu thẳm đối sắc cho đến đối các Như Lai Ứng Chánh đẳng Giác hoặc làm lớn nhỏ chẳng làm lớn nhỏ, hoặc làm hợp tan chẳng làm hợp tan, hoặc làm hữu lượng vô lượng chẳng làm hữu lượng vô lượng, hoặc làm rộng hẹp chẳng làm rộng hẹp, hoặc làm hữu lực vô lực chẳng làm hữu lực vô lực. Đại Bồ Tát này gọi là “đại hữu sở đắc”, chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Chẳng phải vì tưởng hữu sở đắc năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì hữu tình vô sanh vậy, vì vô tự tánh vậy, vì vô sở hữu vậy, vì không, vì vô tướng, vì vô nguyện vậy, vì xa lìa, vì vắng lặng, vì bất khả đắc, vì bất khả tư nghì, vì vô hoại diệt, vì vô giác tri, vì sức chẳng thành tựu vậy. Phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh, nói rộng cho đến sức chẳng thành tựu vậy. Sắc cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô sanh vậy, vô tự tánh vậy, vô sở hữu vậy, không, vô tướng, vô nguyện, xa lìa, vắng lặng, bất khả đắc, bất khả tư nghì, vô hoại diệt, vô giác tri, sức chẳng thành tựu vậy. Con duyên ý đây nên khởi thuyết này: Bát Nhã sâu thẳm tức là đại Ba la mật. (Q.506, ĐBN)
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu thẳm kẻ có thể tin hiểu được, chết từ chỗ nào sanh đến đây, phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề trải qua thời gian bao lâu, từng gần gũi cúng dường bao nhiêu chư Phật, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đã trải bao nhiêu kiếp, làm sao tin hiểu được nghĩa thú sâu thẳm Bát nhã Ba la mật như thế?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu thẳm kẻ có thể tin hiểu được, là chết từ mười phương cõi ở trong pháp hội chư Phật đã phụng thờ, sanh đến đây. Phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã phải trải qua vô lượng vô số vô biên trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp. Đã từng gần gũi cúng dường vô lượng vô số vô biên bất khả tư nghì, bất khả xưng lượng Phật Thế Tôn. Từ sơ phát tâm thường tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đã phải trải qua vô lượng vô số vô biên, trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp. Nếu đại Bồ Tát đối Bát Nhã sâu thẳm, hoặc thấy hoặc nghe bèn khởi nghĩ này: “Ta nay thấy Phật, nghe Phật thuyết pháp”. Đại Bồ Tát này đem vô tướng, vô nhị, vô sở đắc làm phương tiện, thời năng chính tin hiểu được nghĩa thú sâu thẳm Bát nhã Ba la mật như thế.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Bát Nhã sâu thẳm hãy có kẻ có thể nghe có thể thấy được chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Bát Nhã sâu thẳm thật không kẻ có thể nghe và có thể thấy. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu thẳm thật chẳng phải pháp bị nghe bị thấy vậy. Thiện Hiện phải biết: Sắc không nghe không thấy, vì các pháp trì độn vậy; thọ tưởng hành thức cũng không nghe không thấy, vì các pháp trì độn vậy. Nói rộng cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không nghe không thấy, vì các pháp trì độn vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng không nghe không thấy, vì các pháp trì độn vậy. (Q. 506, ĐBN)
(Hậu quả của sự khinh mạn, hủy báng Bát nhã Ba la mật)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Các đại Bồ Tát đã đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứa nhóm công hạnh bao lâu mới có thể tinh siêng tu học được Bát Nhã sâu thẳm chăng?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đối vấn đề này cần phân biệt giải nói. Thiện Hiện! Phải biết có đại Bồ Tát từ sơ phát tâm tức thường tu học Bát Nhã sâu thẳm; cũng thường tu học tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Đại Bồ Tát này vì có phương tiện khéo léo, nên chẳng hủy báng các pháp, chẳng thấy các pháp có thêm có bớt, thường chẳng xa lìa chánh hạnh tương ưng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, thường chẳng xa lìa chư Phật Bồ Tát, từ một nước Phật đến một nước Phật muốn đem các phẩm vật đồ cúng thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật, Bồ Tát muốn các phẩm vật đồ cúng như thế nào thì sẽ hiện ra như thế đó, cũng thường ở chỗ chư Phật trồng các căn lành khiến mau viên mãn. Tùy chỗ thọ thân chẳng đọa trong bào thai bụng mẹ mà sanh. Tâm thường chẳng cùng phiền não tạp loạn, cũng chẳng khởi tâm Nhị thừa. Thường chẳng xa lìa thần thông thù thắng dạo khắp các nước Phật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ Tát này siêng tu Bát Nhã sâu thẳm.
Lại có các thiện nam, thiện nữ Bồ Tát thừa, mặc dù thường được thấy hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vô lượng Phật, ở chỗ chư Phật và đệ tử Phật cũng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã mà lấy hữu sở đắc làm phương tiện, nên chẳng thể tu học Bát Nhã sâu thẳm cho đến bố thí Ba la mật.
Thiện Hiện phải biết! Các thiện nam, thiện nữ này nghe thuyết Bát Nhã sâu thẳm như thế, tâm sanh khinh mạn, bèn từ tòa đứng dậy bỏ đi. Bọn kia đã khinh mạn Bát Nhã sâu thẳm, tức cũng khinh mạn Phật. Đã bỏ Bát Nhã sâu thẳm như thế, tức cũng bỏ chư Phật. Nay trong chúng đây cũng có loại kia, nghe Ta tuyên nói Bát Nhã sâu thẳm tâm chẳng cung kính bỏ đi. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này đời trước nghe thuyết Bát Nhã sâu thẳm đã từng bỏ đi. Bởi sức thói quen kiếp trước, nay nghe Ta thuyết lại bỏ đi nữa!
Các thiện nam, thiện nữ này đối Bát Nhã sâu thẳm thân ngữ và ý đều chẳng hòa hợp. Bởi đấy gây thêm nghiệp ngu si ác huệ. Bởi gây tạo nghiệp ngu si ác huệ, nên nghe thuyết Bát Nhã sâu thẳm tức liền hủy báng chướng ngại nới bỏ. Bọn kia đã hủy báng chướng ngại nới bỏ Bát Nhã sâu thẳm tức là hủy báng chướng ngại nới bỏ Nhất thiết trí trí chư Phật ba đời. Bọn kia khởi hủy báng chướng ngại nới bỏ Nhất thiết trí trí chư Phật ba đời tức liền gây thêm nghiệp cảm thiếu chánh pháp, đọa đại địa ngục, trải nhiều trăm năm cho đến qua nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm, chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt.
Bọn kia vì trọng tội nên ở thế giới đây, từ một địa ngục lớn đến một địa ngục lớn, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, phải chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt. Nếu thế giới đây khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong khởi, bọn kia nghiệp thiếu pháp vẫn chưa hết nên chết rồi chuyển sanh thế giới phương khác, cùng đồng loại này ở trong đại địa ngục trải nhiều trăm năm cho đến trăm ngàn trăm ức muôn ức năm chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt.
Bọn kia vì trọng tội nên ở thế giới khác từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, lại chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt. Nếu thế giới kia khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong khởi, nghiệp thiếu pháp vẫn chưa hết, nên chết rồi chuyển sanh thế giới khác nữa, cùng đồng loại này giống như đã nói trên. Lần lữa như thế trải khắp các đại địa ngục của các thế giới khác mười phương, chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt. Nếu các thế giới khác mười phương kia khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong khởi, kia nghiệp thiếu pháp vẫn chưa hết, nên chết rồi sanh trở lại trong đại địa ngục thế giới Kham Nhẫn đây, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục cho đến khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, lại chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt. Nếu thế giới đây khi kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong khởi, nghiệp thiếu pháp vẫn chưa hết nên chết rồi sanh lại các thế giới khác, trải khắp các đại địa ngục mười phương, chịu các đại khổ độc hại mãnh liệt. Luân hồi như thế trong vô số kiếp.
Nếu nghiệp thiếu pháp yếu bớt, từ địa ngục ra, đọa thú bàng sanh trải lâu nhiều trăm năm cho đến nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm chịu thân bàng sanh, gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v… Vì tội chưa hết nên ở thế giới đây từ một chỗ hiểm ác đến một chỗ hiểm ác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, lại phải gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v… Nếu khi ba đại nạn phá hoại thế giới đây khởi, nghiệp thiếu pháp như thế chưa hết, chết rồi chuyển sang thế giới phương khác, cùng đồng loại này trong thú bàng sanh trải nhiều trăm năm cho đến lâu nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm, gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v…
Tội chưa hết nên ở thế giới kia từ một chỗ hiểm ác đến một chỗ hiểm ác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, nhưng lại gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v… Nếu khi ba đại nạn phá hại thế giới kia khởi, nghiệp thiếu pháp như thế chưa hết, chết rồi chuyển sang thế giới phương khác cùng đồng loại này trong thú bàng sanh trải nhiều trăm năm cho đến lâu nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm, gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v… Vì tội chưa hết, nên ở thế giới khác từ một chỗ hiểm ác đến một chỗ hiểm ác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi. Cứ như thế lại phải gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v… Lần lữa như thế trải khắp các thế giới khác mười phương chịu thân bàng sanh gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v... Nếu khi ba đại nạn phá hoại các thế giới mười phương kia, nghiệp thiếu pháp như thế chưa hết, chết rồi lại sanh lại trong thú bàng sanh thế giới Kham Nhẫn đây, từ một chỗ hiểm ác cho đến một chỗ hiểm ác, cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, lại phải gặp đủ các khổ tàn hại sợ hãi bức ngặt v.v... Nếu khi ba đại nạn phá hoại thế giới đây khởi, nghiệp thiếu pháp như thế chưa hết, chết rồi lại sanh trở lại các thế giới khác, trải khắp trong thú bàng sanh mười phương, rộng chịu nhiều khổ tuần hoàn như thế trải qua vô số kiếp!
Bọn kia nghiệp thiếu pháp thế mỏng dần, thoát khỏi thú bàng sanh đọa trong loài quỷ đói, trải nhiều trăm năm cho đến lâu nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm chịu đủ các đói khổ ốm yếu tiều tụy khô khát v.v… Vì tội chưa hết, nên ở thế giới này từ một nước quỷ đói đến một nước quỷ đói cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, lại chịu đủ các đói khổ ốm yếu tiều tụy khô khát v.v… Nếu khi ba đại nạn phá hoại thế giới này xảy ra, bọn kia nghiệp thiếu pháp như thế chưa hết, chết rồi chuyển sanh thế giới phương khác cùng đồng loại này trong thú quỷ đói, trải nhiều trăm năm cho đến lâu nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm chịu đủ các đói khổ ốm yếu tiều tụy khô khát v.v…
Vì tội chưa hết nên ở thế giới khác từ một nước quỷ đói đến một nước quỷ đói cho đến kiếp hỏa, kiếp thủy, kiếp phong chưa khởi, lại chịu đủ các đói khổ ốm yếu tiều tụy khô khát v.v… Nếu khi ba đại nạn phá hại thế giới kia xảy ra, nghiệp thiếu pháp như thế chưa hết, chết rồi chuyển sanh các thế giới khác nữa, cùng loại này trong thú quỷ đói trải nhiều trăm năm cho đến lâu nhiều trăm ngàn trăm ức muôn ức năm chịu đủ các đói khổ ốm yếu tiều tụy khô khát, cứ thế xoay dần như đã tả trên v.v…
Bọn kia nghiệp thiếu pháp như thế sắp hết, thoát khỏi cõi quỷ đói sanh đến trong cõi người. Mặc dù được làm người mà thuộc hàng hạ tiện. Nghĩa là hoặc sanh ở nhà mù điếc bẩm sanh, hoặc nhà làm thuê mướn, hoặc nhà gánh thây chết, hoặc nhà hàng thịt, hoặc nhà bắt cá thợ săn, hoặc kẻ mua vui, hoặc nhà tà kiến, hoặc những nhà bỉ ổi uế tạp ác luật nghi, hoặc thọ tấm thân không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không tay, không chân, đui mù điếc ngọng, ung thư hủi lác, phong cuồng điên khùng, tàn tật gù lưng, lùn xấu, cụt tay cụt chân, các căn khuyết thiếu, da đen tiều tụy, ngoa ngôn ngu ngốc không biết gì hết v.v... Có làm việc gì, người đều khinh chê. Hoặc sanh chỗ nào chẳng nghe danh Phật, danh Pháp, danh Tăng, danh Bồ Tát, danh Độc giác. Hoặc lại sanh thế giới u ám hằng không ngày đêm chẳng thấy ánh sáng. Chỗ ở hiểm xấu, uế ác độc hại. Vì sao? Vì nghiệp thiếu pháp gây lắm điều khổ lụy như thế, nên chịu đầy đủ khổ quả không cùng như thế v.v… Phẩm loại quá nhiều khó có thể nói hết. Nếu muốn nói đủ phải mất trọn kiếp! (Q.506, ĐBN)
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tội đã gây do nghiệp cảm thiếu chánh pháp, có giống như năm tội vô gián không?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Nghiệp cảm thiếu chánh pháp rất cực thô trọng chẳng thể đem sánh năm nghiệp vô gián. Nghĩa là bọn người kia nghe thuyết Bát Nhã sâu thẳm tức thì chống nghịch, bài báng hủy chê nói lời như vầy: “Chẳng phải Phật sở thuyết, chẳng pháp chẳng luật, chẳng phải Đại Sư dạy, chúng ta đối pháp đây chẳng nên tin học”. Người báng pháp này tự báng Bát nhã Ba la mật, cũng dạy người báng, tự hoại nơi thân cũng khiến người hoại, tự uống thuốc độc cũng khiến người uống, tự mất quả vui giải thoát sanh trời cũng khiến người mất quả vui, tự đem tấm thân đến lửa địa ngục cũng khiến người đến địa ngục, tự chẳng tin hiểu Bát Nhã sâu thẳm cũng dạy người khác khiến chẳng tin hiểu, tự chìm biển khổ cũng lôi người chìm theo.
Xá Lợi Tử! Ta đối với Bát Nhã sâu thẳm như thế, không muốn cho người phỉ báng Chánh pháp nghe danh tự Bát nhã Ba la mật, huống chi là thuyết cho họ.
Xá Lợi Tử! Người phỉ báng Chánh pháp, Ta không cho các thiện nam v.v… an trụ Bồ Tát thừa nghe danh tự của họ, huống là mắt thấy, hay cùng sống chung. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì các người phỉ báng Bát Nhã sâu thẳm nên biết đó là tên gọi khác của người phá hoại Chánh pháp, đọa vào loài đen tối như ốc sên ô uế. Tự dơ người khác như đống phân thối. Nếu ai tin lời người phá hoại Chánh pháp cũng chịu khổ lớn như đã nói ở trên.
Xá Lợi Tử! Các kẻ phá hoại Bát Nhã sâu thẳm, phải biết loại ấy tức là địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, quyết định sẽ chịu đại khổ cực trọng mãnh liệt không ngằn mé. Vậy nên, kẻ trí chẳng nên hủy báng Bát Nhã sâu thẳm.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng:
- Duyên gì Như Lai chỉ nói kẻ hoại chánh pháp đọa đại địa ngục, bàng sanh, quỷ giới chịu khổ lâu đời như thế mà chẳng nói hình dạng tướng mạo kia?
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Thôi, chẳng nên nói hình tướng kẻ hoại chánh pháp đời sau phải chịu ác thú. Vì sao? Nếu Ta nói đủ hình dạng tướng mạo bọn kia, nó nghe rồi Kinh sợ đến phải mửa máu nóng, chết mất mạng, hoặc khổ gần chết, tâm đau khổ như trúng tên độc, thân khô héo như dây đứt gốc. Bọn kia nghe nói kẻ báng chánh pháp phải chịu khổ thân như thế, tự luống kinh hoàng đến nỗi mất thân mạng. Ta vì thương xót kẻ ấy nên không thuyết.
Xá Lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Phật thuyết hình dạng xấu xí kia, để răn dạy đời sau, để biết phỉ báng Chánh pháp sẽ gặp khổ lớn mà không dám tạo tội.
Phật bảo:
- Xá Lợi Tử! Lời thuyết trên của Ta cũng đủ răn dạy thiện nam tử v.v… ở đời vị lai. Kẻ hủy báng Bát Nhã, tạo nghiệp phá hoại Chánh pháp sẽ rơi vào đại địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, trong tất cả cõi đó, chịu quả khổ lâu dài, đủ tự giữ mình, chẳng dám hủy báng Chánh pháp.
Khi ấy, Xá Lợi Tử liền thưa Phật rằng:
- Ngưỡng mong Thế Tôn, cúi xin Thiện Thệ! Đời sau tự loại các thiện nam tử v.v…, nghe Phật nói trước nghiệp hoại chánh pháp, cầm khổ lâu đời đủ làm minh giới, thà bỏ thân mạng quyết chẳng báng pháp, khiến cho đời sau phải chịu khổ ấy.
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:
- Nếu có các thiện nam tử v.v… thông minh nghe Phật đã thuyết người báng chánh pháp phải ở đời sau chịu trọng khổ lâu dài, nên khéo giữ hộ nghiệp thân ngữ ý, chớ đối chánh pháp bài báng hủy hoại đọa ba ác thú chịu khổ nhiều kiếp, chẳng thấy chư Phật, chẳng nghe chánh pháp, chẳng gặp Tăng bảo, chẳng được sanh ở cõi nước có Phật. Mặc dù sanh thú người mà bị hèn kém bần cùng, xấu xí, khiếm khuyết các căn, nói ra lời gì chẳng ai tin nhận.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Tạo tác tăng trưởng nghiệp cảm thiếu Chánh pháp có phải do nghiệp ác ngữ huân tập không?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng thật là do nghiệp ác ngữ tích tập, tạo tác tăng trưởng nghiệp cảm thiếu Chánh pháp. Ở trong Chánh pháp Tỳ nại da của Ta, sẽ có các người ngu si xuất gia. Người kia tuy gọi Ta là Đại sư, nhưng đối với Bát Nhã sâu thẳm của Ta thuyết lại hủy báng phá hoại. Thiện Hiện! Ông nên biết, nếu hủy báng Bát Nhã thẳm sâu là hủy báng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Nếu hủy báng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật là hủy báng Nhất thiết trí trí của chư Phật ba đời. Nếu hủy báng Nhất thiết trí trí chư Phật ba đời là hủy báng Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Nếu hủy báng Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo thì hủy báng chánh kiến thế gian. Nếu hủy báng chánh kiến thế gian thì sẽ hủy báng bố thí cùng các Ba la mật khác, cho đến Nhất thiết tướng trí. Do tạo các sự việc hủy báng kia liền lãnh chịu vô lượng, vô số, vô biên tội nghiệp. Do lãnh chịu vô lượng, vô số, vô biên tội nghiệp liền lãnh chịu khổ lớn ở tất cả địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ và trong loài người vô lượng vô số vô biên. (Q.506, ĐBN)
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Người ngu si kia do bao nhiêu nhân duyên mà hủy báng Bát Nhã sâu thẳm như vậy?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Do bốn nhân duyên. Một là bị các gió tà ma thổi đến nên mê lầm; hai là đối với pháp sâu xa không tin hiểu nổi; ba là không siêng năng tinh tấn, nên chìm đắm trong năm uẩn, bị sự sai khiến của các ác tri thức; bốn là vì lòng nhiều sân hận, thích làm pháp ác, tự cống cao, khinh chê người khác.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
Bạch Thế Tôn! Các người ngu si chẳng siêng tinh tấn, bị ác tri thức thu nhận, chưa trồng căn lành, đủ các ác hành, đối Phật đã thuyết Bát Nhã sâu thẳm thật khó tin hiểu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói!
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Bát nhã Ba la mật như thế, sâu thẳm đến đâu mà khó tin khó hiểu?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Sắc cho đến thức chẳng buộc chẳng mở. Vì sao? Vì sắc cho đến thức, tánh vô sở hữu, là tự tánh sắc v.v... Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng buộc chẳng mở. Vì sao? Vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tánh vô sở hữu, là tự tánh Nhất thiết trí v.v...
Lại nữa, Thiện Hiện! Khoảng trước, sau, giữa của sắc cho đến thức chẳng buộc chẳng mở. Vì sao? Vì khoảng trước, sau, giữa của sắc cho đến thức, tánh vô sở hữu, là tự tánh khoảng trước, sau, giữa của sắc v.v... Như vậy, cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí khoảng trước, sau, giữa chẳng buộc chẳng mở. Vì sao? Vì khoảng trước, sau, giữa của Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tánh vô sở hữu, là tự tánh khoảng trước, sau, giữa của Nhất thiết trí v.v... (Q.506, ĐBN)
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:
- Kẻ không siêng năng tinh tấn, chưa gieo trồng thiện căn, bị sự sai khiến của bạn ác, tăng trưởng giải đãi, hành động theo lực của ma, tinh tấn yếu ớt, thất niệm sanh ác tuệ nên đối với lời thuyết Bát Nhã sâu thẳm của Phật thật khó tin hiểu.
(Một pháp thanh tịnh mười phương thế giới đều thanh tịnh)
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Vì sao? Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức quả thanh tịnh, quả thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc này thanh tịnh cùng quả thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh tức quả thanh tịnh; quả thanh tịnh tức chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh. Vì sao? Vì chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề này thanh tịnh cùng quả thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh này cùng Bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí thanh tịnh tức Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Vì sao? Vì Nhất thiết tướng trí này thanh tịnh cùng Bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh tức là Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Nhất thiết trí trí thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc thanh tịnh cùng với Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí thanh tịnh tức là Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Nhất thiết trí trí thanh tịnh tức là Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Vì sao? Vì Nhất thiết tướng trí thanh tịnh cùng với Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. (Q. 506, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Bất nhị thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh tức là bất nhị thanh tịnh. Vì sao? Vì bất nhị thanh tịnh cùng với sắc thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Như vậy, cho đến bất nhị thanh tịnh tức là Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Nhất thiết tướng trí thanh tịnh tức là bất nhị thanh tịnh. Vì sao? Vì bất nhị thanh tịnh cùng với Nhất thiết tướng trí thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngã cho đến kiến giả thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh tức ngã cho đến kiến giả thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã cho đến kiến giả này thanh tịnh cùng sắc thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, ngã cho đến kiến giả thanh tịnh tức Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Nhất thiết tướng trí thanh tịnh tức ngã cho đến kiến giả thanh tịnh. Vì sao? Vì ngã cho đến kiến giả này thanh tịnh cùng Nhất thiết tướng trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tham sân si thanh tịnh tức sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh tức tham sân si thanh tịnh. Vì sao? Vì tham sân si này thanh tịnh cùng sắc thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến tham sân si thanh tịnh tức Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Nhất thiết tướng trí thanh tịnh tức tham sân si thanh tịnh. Vì sao? Vì tham sân si này thanh tịnh cùng Nhất thiết tướng trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. (Q.506, ĐBN)
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc thanh tịnh nên thọ thanh tịnh. Thọ thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Vì sao? Vì sắc này thanh tịnh cùng thọ thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Cũng như vậy, thọ thanh tịnh nên tưởng thanh tịnh, tưởng thanh tịnh nên thọ thanh tịnh. Lần lữa cho đến Đạo tướng trí thanh tịnh nên Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Đạo tướng trí thanh tịnh. Vì sao? Vì Đạo tướng trí này thanh tịnh cùng Nhất thiết tướng trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Bát nhã Ba la mật thanh tịnh hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến Bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Bát nhã Ba la mật thanh tịnh, hoặc Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Đạo tướng trí thanh tịnh, Đạo tướng trí thanh tịnh nên Nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, hoặc Đạo tướng trí thanh tịnh, hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, Nhất thiết tướng trí thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật-đa thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Nhất thiết tướng trí thanh tịnh, hoặc Bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc sắc thanh tịnh, hoặc Nhất thiết tướng trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí trí thanh tịnh nên Đạo tướng trí thanh tịnh. Đạo tướng trí thanh tịnh nên Nhất thiết tướng trí thanh tịnh. Vì sao? Hoặc Nhất thiết trí trí thanh tịnh, hoặc Đạo tướng trí thanh tịnh, hoặc Nhất thiết tướng trí thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh, vô vi thanh tịnh nên hữu vi thanh tịnh. Vì sao? Hoặc hữu vi thanh tịnh, hoặc vô vi thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Quá khứ thanh tịnh nên vị lai hiện tại thanh tịnh, vị lai thanh tịnh nên quá khứ hiện tại thanh tịnh. Hiện tại thanh tịnh nên quá khứ vị lai thanh tịnh. Vì sao? Hoặc quá khứ thanh tịnh, hoặc vị lai thanh tịnh, hoặc hiện tại thanh tịnh không hai không hai phần, không phân biệt không đoạn diệt vậy. (Q. 506, ĐBN)
Lưu ý:
Phần nói về thanh tịnh vừa thuyết ở trên nếu xếp vào phẩm “Khen Tịnh” dưới đây có lẽ thuận hơn ở phẩm thuyết về “Điạ Ngục”. Tuy nhiên, chúng tôi không muốn thay đổi cấu trúc của Kinh mà chỉ nêu lên nhận xét như vậy thôi.
Sơ giải:
Ba phần thuyết ở phẩm “Địa Ngục” của Hội thứ III cũng dễ hiểu, đã được Phật thuyết ở hai Hội trước rồi, chúng tôi nghĩ không có gì trở ngại trong việc đọc tụng cũng như thâm hiểu về giáo lý, nên chúng ta có thể bước sang phẩm kế tiếp.
---o0o---