Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Phẩm “Thiên Đế”

01/10/202018:49(Xem: 8567)
04. Phẩm “Thiên Đế”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-463

 

PHẨM “THIÊN ĐẾ”

Phần sau quyển 498 đến phần đầu quyển 500, Hội thứ III.

(Tương đương với ba phẩm của Hội thứ II là:

1. phẩm "Đế Thích", 2. phẩm "Tín Thọ" và 3. phẩm "Rải Hoa")

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Phẩm “Đế Thích” của Hội thứ III này tương đương với ba phẩm của Hội thứ II nhập lại:

1. Phẩm “Đế Thích”, quyển 425 đến phần đầu quyển 426, Hội thứ II. Nói về các Thiên đế với ba câu hỏi: Sao gọi là đại Bồ Tát Bát Nhã thẩm sâu? Vì sao đại Bồ Tát nên trụ Bát Nhã? Vì sao đại Bồ Tát nên học Bát Nhã?

2. Phẩm “Tín Thọ”, giữa quyển 426, Hội thứ II, ĐBN.

3. Phẩm “Rải Hoa”, cuối quyển 426 đến phần đầu quyển 427, Hội thứ II, ĐBN.

Chúng tôi cũng chia phẩm này làm ba phần tương đương với ba phẩm trên để tóm lược và thích nghĩa.

 

 

1. Các Thiên đế với ba câu hỏi: Sao gọi là đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu?

Vì sao đại Bồ Tát nên trụ Bát Nhã? Vì sao Bồ Tát nên học Bát Nhã?

 

Lúc bấy giờ, ở Tam thiên đại thiên thế giới này, tất cả Tứ đại thiên vương và các Thiên đế, cho đến cõi trời Sắc cứu cánh, cùng vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng đồng đến hội hợp. Chư thiên này do các nghiệp thanh tịnh mà chiêu cảm quả dị thục, hào quang nơi thân tuy phát ra rực rỡ, song so với hào quang của Như Lai thường hiện thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cho đến không bằng một phần cực nhỏ. Vì sao? Vì trong các hào quang, hào quang của Phật thường phát ra oai lực rực rỡ, hào quang Ngài là tối tôn, tối thắng, tối cao, tối diệu, không gì có thể sánh bằng, là vô thượng đệ nhất. Hào quang của Phật che lấp hẳn hào quang của chư Thiên, giống như ánh sáng trăng rằm mùa thu, làm lu mờ các tinh tú.

Khi ấy, Thiên Đế Thích thưa Thiện Hiện rằng:

- Nay Tam thiên đại thiên thế giới đây có bốn Đại thiên vương và các Thiên đế, lần lữa cho đến Trời Sắc cứu cánh đều cùng quyến thuộc đồng đến vân tập (hội hợp), muốn nghe Đại đức tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Cúi xin Đại đức thương xót nói cho.

 

Bạch Đại đức! Sao gọi là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật thẳm sâu? Vì sao đại Bồ Tát nên trụ Bát Nhã? Vì sao đại Bồ Tát nên học Bát Nhã?

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Thiên chúng các ngươi đều nên lóng nghe, khéo nghĩ nhớ biết, tôi sẽ nhờ oai thần Phật, thuận ý Như Lai, vì các đại Bồ Tát tuyên nói Bát Nhã, nên trụ nên học.

Kiều Thi Ca! Thiên chúng các ngươi, vị nào chưa phát tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nay nên phát tâm.

Kiều Thi Ca! Nếu những vị nào đã vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác, thì không cần phát tâm đại Bồ đề nữa. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các vị ấy đã chấm dứt dòng sanh tử. Nhưng trong những vị ấy, nếu vị nào phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Vì các bậc Thắng nhân đều nên cầu thắng pháp. Tôi hoàn toàn không ngăn cản thiện phẩm thù thắng của họ. (Q.498, ĐBN)

 

1- Sao gọi là đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu?

 

Kiều Thi Ca! Ngươi hỏi tại sao gọi là đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu, lóng nghe cho kỹ, ta sẽ vì nguơi nói:

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát nào khởi tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc uẩn cho đến thức uẩn, hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc bất tịnh, hoặc Không, hoặc vô tướng, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tĩnh, hoặc viễn ly, hoặc như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên, như ghẻ lở, hoặc nhiệt não, hoặc bức bách, hoặc bại hoại, hoặc mục nát, hoặc biến động, hoặc chóng diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng chán, hoặc tai ương, hoặc ngang trái, hoặc có dịch, hoặc có bệnh truyền nhiễm, hoặc không an ổn, hoặc không đáng tin, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi.

Tư duy 12 xứ cho đến 18 giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Tư duy địa giới cho đến thức giới. Tư duy vô minh cho đến lão tử, cũng lại như vậy.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện tư duy vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử; cho đến tập họp trọn một nhóm khổ lớn (quán thập nhị nhân duyên theo chiều thuận).

Lại đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tư duy vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt; hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử cho đến trọn nhóm khổ lớn khổ cũng diệt (quán thập nhị nhân duyên theo chiều nghịch). Các diệt như thế vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, xa lìa, vô sinh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tác vô vi.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy nội không cho đến vô tánh tự tánh không, vô ngã ngã sở, vô tướng vô nguyện, vắng lặng xa lìa, vô sinh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tác vô vi.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy chơn như cho đến bất tư nghì giới vô ngã ngã sở, vô tướng vô nguyện, vắng lặng xa lìa, vô sinh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tác vô vi.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy đoạn giới cho đến vô vi giới vô ngã ngã sở, vô tướng vô nguyện, vắng lặng xa lìa, vô sinh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tác vô vi.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Tư duy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tư duy bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tư duy tám giải thoát, chín thứ định thứ lớp. Tư duy không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tư duy Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Tư duy Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tư duy năm nhãn, sáu thần thông. Tư duy Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tư duy pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tư duy tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Tư duy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều là vô thường, vô ngã, không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng, xa lìa, biến động, chóng diệt, chẳng thể tin tưởng, vô sinh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tác vô vi. (Q. 498, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới; an trụ đoạn giới cho đến vô vi giới; an trụ khổ Thánh đế cho đến đạo Thánh đế; tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, chín định thứ đệ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; tu hành năm nhãn, sáu thần thông; tu hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; tu hành tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành tất cả Bồ Tát hạnh; tu hành chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu. (Hết Q.498, ĐBN)

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát Nhã mà quán như vầy: Chỉ có các pháp trợ duyên lẫn nhau, thấm nhuần tăng trưởng, lần lượt biến khắp. Trong đó hoàn toàn không có ngã và ngã sở. Như thật quán sát bất khả đắc. (Q.499, ĐBN)

Lại khởi tâm quán: Các đại Bồ Tát dùng sự tu tập thiện căn thù thắng, ban cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tâm tu tập thiện căn không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp; tâm hồi hướng không cùng với tâm tu tập thiện căn hòa hợp. Tâm hồi hướng không cùng với tâm Bồ đề hòa hợp; tâm Bồ đề cũng không cùng với tâm hồi hướng hòa hợp. Tâm tu tập thiện căn đối với tâm hồi hướng, vô sở hữu, bất khả đắc; tâm hồi hướng đối với tâm tu tập thiện căn cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tâm hồi hướng đối với tâm Bồ đề vô sở hữu, bất khả đắc; tâm Bồ đề đối với tâm hồi hướng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Các đại Bồ Tát tuy như thật quán các pháp nhưng đối với các pháp hoàn toàn không thấy gì hết.

Kiều Thi Ca! Đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Bạch Đại đức! Sao là các đại Bồ Tát tâm tu tập thiện căn chẳng hòa hợp cùng tâm hồi hướng, tâm hồi hướng cũng chẳng hòa hợp cùng tâm tu tập thiện căn. Tâm hồi hướng chẳng hòa hợp cùng tâm Bồ đề, tâm Bồ đề cũng chẳng hòa hợp cùng tâm hồi hướng. Tâm tu tập thiện căn ở trong tâm hồi hướng vô sở hữu bất khả đắc, tâm hồi hướng ở trong tâm tu tập thiện căn cũng vô sở hữu bất khả đắc, tâm Bồ đề ở trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát tâm tu tập thiện căn thời phi tâm, tâm hồi hướng, tâm Bồ đề cũng phi tâm. Chẳng lẽ phi tâm năng có sở nhóm, hoặc năng hồi hướng, hoặc sở hồi hướng. Chẳng lẽ phi tâm hồi hướng phi tâm. Tâm chẳng lẽ hồi hướng phi tâm. Phi tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng tâm. Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng tâm. Vì sao? Kiều Thi Ca! Phi tâm tức là bất khả tư nghì. Bất khả tư nghì tức là phi tâm. Hai thứ như thế đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không nghĩa hồi hướng. (Q.499, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Tâm không tự tánh, tâm sở cũng vậy. Tâm và tâm sở đã không tự tánh, nên tâm cũng không có nghĩa hồi hướng tâm.

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát nếu khởi quán như vậy, đấy gọi đại Bồ Tát Bát Nhã thẳm sâu.

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện rằng:

- Hay thay, hay thay! Ngươi nay khéo hay vì các đại Bồ Tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật, cũng hay khuyên các đại Bồ Tát vui mừng, gắng siêng tu học Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng:

- Con đã biết ơn lẽ đâu chẳng trả. Vì sao? Chư Phật và các Đệ tử quá khứ vì các đại Bồ Tát tuyên nói sáu thứ Ba la mật, chỉ dạy dẫn dắt, khen gắng vui mừng, an ủi xây dựng khiến được rốt ráo. Bấy giờ, Thế Tôn cũng học ở trong ấy, nay chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp nhiêu ích chúng con, nên con ngày nay phải theo Phật dạy vì các Bồ Tát tuyên nói sáu thứ Ba la mật, chỉ dạy dẫn dắt, khen gắng vui mừng, an ủi xây dựng, khiến được rốt ráo, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp cùng đời vị lai lợi ích an vui tất cả hữu tình, vậy thời gọi là đền ơn đức kia.

 

2- Đại Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Ngươi hỏi vì sao đại Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật, lóng nghe cho kỹ ta sẽ vì ngươi nói. Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã thẳm sâu nên an trụ chỗ chưa từng an trụ.

 

(Chỗ nên trụ - Trụ không”)

 

Kiều Thi Ca! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, tánh sắc uẩn cho đến thức uẩn không. Các đại Bồ Tát, tánh các đại Bồ Tát không. Hoặc tánh sắc uẩn cho đến thức uẩn không, hoặc tánh các đại Bồ Tát không, tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã thẳm sâu nên trụ như thế.

Kiều Thi Ca! Mười hai xứ cho đến mười tám giới, tánh mười hai xứ cho đến mười tám giới không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, tánh nhãn xúc cho đến ý xúc không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không. Địa giới cho đến thức giới, tánh địa giới cho đến thức giới không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, tánh nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không. Vô minh cho đến lão tử, tánh vô minh cho đến lão tử không. Vô minh diệt cho đến lão tử diệt, tánh vô minh diệt cho đến lão tử diệt không. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tánh bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tánh nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng không. Chơn như cho đến bất tư nghì giới, tánh chơn như cho đến bất tư nghì giới không. Đoạn giới cho đến vô vi giới, tánh đoạn giới cho đến vô vi giới không. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc Không. Tám giải thoát, chín định thứ lớp, tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ Không. Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, tánh Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa Không. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, tánh Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa Không. Năm loại mắt, sáu phép thần thông, tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông Không. Như Lai Mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Không. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả Không. Tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, tánh tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa Không. Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừa, tánh Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừa Không. Dự lưu cho đến Như Lai, tánh Dự lưu cho đến Như Lai Không. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tánh Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí Không. Các đại Bồ Tát, tánh các đại Bồ Tát Không. Hoặc tánh Không của nhãn xứ cho đến Nhất thiết tướng trí, hoặc tánh Không của các đại Bồ Tát, tất cả như vậy đều không hai, không hai phần. (Q.499, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát đối Bát Nhã thẳm sâu nên trụ như vậy.

 

(Chỗ chẳng nên trụ)

 

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ chỗ nào?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ sắc uẩn, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức uẩn. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy. Như vậy, cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí, chẳng nên trụ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ đây là sắc uẩn, chẳng nên trụ đây là thọ tưởng hành thức uẩn. Vì sao? Vì lấy sở đắc làm phương tiện vậy. Như vậy, cho đến chẳng nên trụ đây là Nhất thiết trí, chẳng nên trụ đây là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ sắc uẩn cho đến thức uẩn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy. (Q.499, ĐBN)

Như vậy, cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ quả Dự lưu là vô vi hiển ra. Vì sao? Vì còn lấy hữu sở đắc làm phương tiện vậy. Chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là vô vi hiển ra. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, không nên trụ sắc uẩn cho đến thức uẩn là thường hay vô thường, hoặc vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh, Không, bất Không, hữu tướng, vô tướng, hữu nguyện, vô nguyện, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, viễn ly, bất viễn ly. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện. Như vậy, cho đến không nên trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là thường hay vô thường, hoặc vui, khổ, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh, không, bất không, hữu tướng, vô tướng, hữu nguyện, vô nguyện, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, viễn ly, bất viễn ly. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ Dự lưu là phước điền đáng thọ cúng dường. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện. Không nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai là phước điền đáng nhận sự cúng dường. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ sơ địa. Vì sao? Vì lấy sở đắc làm phương tiện vậy. Cho đến chẳng nên trụ thập địa. Vì sao? Vì lấy sở đắc làm phương tiện vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi bèn khởi nghĩ này: Ta phải viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ta phải viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Ta phải viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Ta phải viên mãn tám giải thoát, chín định thứ đệ. Ta phải viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Ta tu hạnh đã viên mãn rồi, sẽ vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh sẽ trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển. Ta phải viên mãn năm thần thông Bồ Tát. Ta trụ năm thần thông Bồ Tát viên mãn, sẽ dạo vô lượng vô số cõi Phật, lễ kính chiêm ngưỡng vâng thờ cúng dường các chư Phật Thế Tôn, ở chỗ các Phật lóng nghe Chánh pháp, suy nghĩ đúng lý, rộng vì người thuyết. Ta phải nghiêm tịnh cõi nước như mười phương Phật đang trụ, an lập hữu tình. Ta phải hóa làm cõi nước như mười phương Phật đang trụ, an lập hữu tình. Ta phải thành thục các loại hữu tình khiến chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc được Niết Bàn. Ta phải qua vô lượng vô số cõi nước chư Phật gần gũi vâng thờ chư Phật Thế Tôn. Lại đem vô biên hoa hương, chuỗi anh lạc, bảo tràng, phan lọng, kỹ nhạc, đèn sáng, áo mặc, uống ăn và những tư cụ khác cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình khiến đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được chẳng quay lui. Vì sao? Vì nếu có ý tưởng như vậy tức còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong năm nhãn thanh tịnh; chỗ gọi nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong sáu thứ thần thông thù thắng, chỗ gọi thần cảnh trí thông, thiên nhãn trí thông, tha tâm trí thông, túc trụ tùy niệm trí thông, lậu tận trí thông. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong tất cả Tam ma địa môn thù thắng, đối các đẳng trì này tùy tâm muốn dạo đi tự tại. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong tất cả Đà la ni môn thù thắng, đối các tổng trì này làm việc gì đều được tự tại. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo để trang nghiêm thân khiến các hữu tình kẻ thấy vui mừng xem không chán mỏi, được thân lợi vui. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải thành xong Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thông đạt các pháp nhưng không chấp trước, không chướng ngại. Vì sao? Vì nếu có ý tưởng như vậy tức còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy. (Q.499, ĐBN)

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, không nên trụ đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là bậc đệ bát; đây là bậc Dự lưu còn bảy lần sanh trở lại, đây là Gia gia(1), đây là Nhất gian(2), đây là bậc Tề thủ(3) cho đến đoạn tận phiền não thọ mạng mới dứt; đây là pháp Dự lưu quyết định chẳng đọa; đây là Nhất lai chỉ trở lại thế gian này một lần nữa để dứt trừ hết khổ; đây là Bất hoàn hướng, đây là Bất hoàn quả, qua bờ kia mới được vào Niết bàn; đây là A la hán hướng, đây là A la hán quả, quyết vào vô dư Niết bàn hiện tại; đây là Độc giác, đây là Bồ Tát, vượt hơn địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…, an trụ địa vị đại Bồ Tát, tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, hiểu rõ tất cả pháp, tất cả tướng rồi đoạn trừ hẳn tất cả tập khí kiết sử phiền não tương tục, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, được thành đấng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đầy đủ oai lực lớn, rồi chuyển pháp luân vi diệu, làm các Phật sự, độ thoát vô lượng, vô số hữu tình, giúp họ chứng đắc Niết bàn, hoàn toàn an lạc. Vì sao? Vì nếu có ý tưởng như vậy, tức còn lấy sở đắc làm phương tiện. (Q.499, ĐBN)

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải khéo tu bốn thần túc rồi, an trụ đẳng trì thù thắng như thế. Do đẳng trì đây tăng thượng thế lực khiến ta thọ mạng đại kiếp như cát Căng già. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải được hưởng thọ lượng vô biên. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải trọn nên ba mươi hai tướng, mỗi một tướng này trăm phước trang nghiêm, kẻ hữu tình thấy được lợi vui lớn. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải trọn nên tám mươi tùy hảo, mỗi một hảo này có vô số lượng việc thắng sự hiếm có, kẻ hữu tình thấy được lợi ích lớn. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải an trụ một cõi thanh tịnh trang nghiêm, cõi ấy rộng lớn như hằng hà sa thế giới khắp mười phương. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải ngồi yên trên một tòa kim cương, lượng tòa ấy rộng lớn ngang bằng Tam thiên đại thiên thế giới. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta phải ngồi chỗ cội Đại Bồ đề, cội kia cao rộng, các báu trang nghiêm, tỏa ra diệu hương thơm ngát, khiến cho người ngửi thấy mùi hương thì mau chóng diệt trừ tâm tham, sân, si; vô lượng, vô biên thân bệnh cũng được lành. Có kẻ nghe được hương cội Bồ đề đây, lìa tác ý Thanh Văn, Độc giác, quyết định được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Nguyện ta được cõi Phật nghiêm tịnh, cõi ấy thanh tịnh không có các thứ cấu uế. Vì sao? Vì nếu có ý tưởng như vậy tức còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy. (Q.499, ĐBN)

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Nguyện trong cõi Phật thanh tịnh của ta, đều không có tiếng gọi chấp trước 5 uẩn cho đến 12 xứ, 18 giới. Cũng không có tiếng gọi chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng không có tiếng gọi chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng không có tiếng gọi chấp trước địa giới cho đến thức giới. Cũng không có tiếng gọi chấp trước nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Cũng không có tiếng gọi chấp trước vô minh cho đến lão tử. Cũng không có tiếng gọi chấp trước tiếng gọi bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Cũng không có tiếng gọi chấp trước nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng không có tiếng gọi chấp trước chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cũng không có tiếng gọi chấp trước đoạn giới cho đến vô vi giới. Nói rộng ra, cũng không có tiếng gọi chấp trước tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì còn lấy sở đắc làm phương tiện vậy. Vì sao? Vì khi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề giác tất cả pháp đều vô sở hữu, danh tự âm thanh đều bất khả đắc. Khi các đại Bồ Tát trụ Bất thối chuyển cũng thấy các pháp đều vô sở hữu, danh tự âm thanh đều bất khả đắc. (Q.499, ĐBN)

Tất cả chúng Bồ Tát an trú bậc Bất thối chuyển cũng thấy các pháp đều vô sở hữu.  Này Kiều Thi Ca! Đấy là Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật, tùy chỗ nên trụ, không nên trụ tướng.

Này Kiều thi Ca! Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu, tùy theo chỗ nên trụ, không nên trụ tướng, đem vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.

 

Khi ấy, Xá Lợi Tử khởi nghĩ rằng: Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đối tất cả pháp đều chẳng nên trụ, thì vì sao lại trụ Bát Nhã thẳm sâu?

Cụ thọ Thiện Hiện đoán biết ý Xá Lợi Tử bèn bảo Xá Lợi Tử rằng:

- Ý ông nghĩ sao? Tâm các Như Lai trụ chỗ nào?

Xá Lợi Tử nói:

- Tâm các Như Lai đều vô sở trụ. Vì sao? Tâm chư Phật chẳng trụ sắc uẩn cho đến thức uẩn. Chẳng trụ nhãn xứ cho đến ý xứ. Chẳng trụ sắc xứ cho đến pháp xứ. Chẳng trụ nhãn giới cho đến ý giới. Chẳng trụ sắc giới cho đến pháp giới. Chẳng trụ nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chẳng trụ nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng trụ địa giới cho đến thức giới. Chẳng trụ nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chẳng trụ vô minh cho đến lão tử. Chẳng trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Chẳng trụ đoạn giới cho đến vô vi giới. Nói rộng ra, chẳng trụ tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy. Như vậy, Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối tất cả pháp đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. (Q.499, ĐBN)

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử rằng:

- Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã cũng lại như thế, mặc dù trụ Bát Nhã mà đồng với Như Lai đối tất cả pháp tâm vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát Nhã, mặc dù trụ Bát Nhã mà đối sắc uẩn chẳng trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ; đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Như vậy, cho đến đối Nhất thiết trí chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ; đối Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì pháp sắc v.v… không hai tướng vậy.

Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã thẳm sâu, tùy theo tướng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ, dùng vô sở đắc làm phương tiện, nên học như vậy.

Bấy giờ, trong chúng có các thiên tử khởi nghĩ:

- Lời lẽ câu chú của các dược xoa cũng lắm thứ sai khác, tuy ẩn mật mà bọn ta vẫn có thể biết rõ được. Tôn giả Thiện Hiện đối Bát Nhã thẳm sâu, mặc dù đem nhiều thứ lời lẽ chỉ rõ, nhưng bọn chúng ta trọn chẳng hiểu được gì hết!

Cụ thọ Thiện Hiện biết chỗ thầm nghĩ của các thiên tử bèn bảo họ rằng:

- Thiên tử các ngươi đối với lời tôi nói chẳng hiểu được ư? 

Các thiên tử nói:

- Như vậy, như vậy. Chúng tôi đối lời tôn giả đã thuyết về Bát nhã Ba la mật nghĩa thú thẳm sâu trọn không thể hiểu được.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo các thiên tử rằng:

- Tôi từng đối trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu đây chẳng nói một chữ, các ngươi cũng chẳng nghe thời hiểu chỗ nào? Vì sao? Các thiên tử! Trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu, văn tự ngôn thuyết đều xa lìa vậy. Bởi đối trong đây kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều bất khả đắc. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thẳm sâu mầu nhiệm cũng lại như thế. Thiên tử phải biết: Như Phật biến hóa ra một hóa Phật, hóa Phật đây hóa làm bốn chúng đồng đến nhóm hội mà vì thuyết pháp. Ý các ông nghĩ sao? Trong ấy có kẻ năng nói năng nghe năng hiểu chăng?

Các thiên tử nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng thật nghe nói hiểu vậy.

Thiện Hiện bảo rằng:

- Như vậy, thiên tử! Tất cả pháp đều như hóa vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu đây, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử phải biết: Như mộng thấy Phật vì chúng thuyết pháp. Ý các ông nghĩ sao? Trong ấy thật có kẻ năng nói, kẻ năng nghe, kẻ hiểu chăng?

Các thiên tử nói: Thưa Đại đức! Chẳng thật nói nghe hiểu vậy.

Thiện Hiện bảo rằng:

- Như vậy, thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử phải biết: Như có hai người ở trong một hang núi, mỗi người trụ một hướng, khen Phật Pháp Tăng phát tiếng vang cùng lúc. Ý các ông nghĩ sao? Hai tiếng vang đây có thể nghe lẫn nhau, hiểu lẫn nhau chăng?

Các thiên tử nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng nghe hiểu nhau vậy.

Thiện Hiện bảo rằng:

- Như vậy, thiên tử! Tất cả pháp đều như vang vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu đây, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử phải biết: Như huyễn sư, hoặc học trò y ở ngã tư đường, hóa làm bốn chúng và một đức Như Lai vì chúng thuyết pháp. Ý các ông nghĩ sao? Trong ấy có thật kẻ nói kẻ nghe kẻ năng hiểu chăng?

Các thiên tử nói:

- Thưa Đại đức! Chẳng thật nói nghe hiểu vậy.

Thiện Hiện bảo rằng:

- Như vậy, thiên tử! Tất cả pháp đều như trò huyễn. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu đây, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều bất khả đắc. Thiên tử phải biết: Bởi nhân duyên này tôi đối trong nghĩa tuơng ưng Bát Nhã thẳm sâu đây chẳng nói một chữ, các ngươi cũng chẳng nghe thời hiểu chỗ nào?

Khi ấy, các thiên tử lại khởi nghĩ này: Đại đức Thiện Hiện đối trong nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây, dù đã đem nhiều phương tiện nói rõ, muốn khiến dễ hiểu, nhưng nghĩa thú kia thẳm sâu càng thẳm sâu, nhỏ nhiệm nhiệm mầu, khó nổi so lường được!

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm ý của các thiên tử bèn bảo:

- Thiên tử phải biết: Sắc uẩn chẳng thẳm sâu chẳng nhỏ nhiệm, thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng thẳm sâu chẳng nhỏ nhiệm. Vì sao? Các thiên tử! Tự tánh sắc uẩn cho đến tự tánh thức uẩn đều chẳng thẳm sâu chẳng nhỏ nhiệm; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng thẳm sâu chẳng nhỏ nhiệm. Vì sao? Các thiên tử! Tự tánh Nhất thiết trí, tự tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đều chẳng thẳm sâu chẳng nhỏ nhiệm vậy.

Khi ấy, các thiên tử lại khởi nghĩ này: Đại đức Thiện Hiện trong pháp đã nói chẳng thi thiết sắc uẩn, cũng chẳng thi thiết thọ tưởng hành thức uẩn. Vì sao? Vì tánh sắc uẩn cho đến thức uẩn đều bất khả thuyết vậy. Như vậy, cho đến chẳng thi thiết Nhất thiết trí, cũng chẳng thi thiết Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì tánh Nhất thiết trí v.v… đều bất khả thuyết vậy.

Đại đức Thiện Hiện trong pháp đã nói, chẳng thi thiết Dự lưu hướng Dự lưu quả, Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả, Độc giác hướng Độc giác quả, tất cả Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tánh Dự lưu hướng thảy đều bất khả thuyết vậy. Đại đức Thiện Hiện trong pháp  đã nói, cũng chẳng thi thiết văn tự ngữ ngôn. Vì sao? Vì tánh văn tự ngữ ngôn đều bất khả thuyết vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm các thiên tử đã nghĩ bèn bảo: Như vậy, như các ngươi đã nghĩ, sắc uẩn cho đến Vô thượng Bồ đề, văn tự ngữ ngôn đều bất khả thuyết. Vậy nên, đối trong nghĩa tương ưng Bát Nhã thẳm sâu đây không nói không nghe cũng không kẻ hiểu. Do đấy các ngươi đối trong các pháp đã nói nên theo, sâu sắc mà tu, bền chắc mà nhẫn.

Thiên tử phải biết: Có các kẻ muốn chứng, muốn trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cần nương nhẫn đây mới năng chứng trụ được. Như vậy, các thiên tử! Các đại Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến rốt ráo nên trụ không nói, không nghe, không hiểu Bát Nhã thẳm sâu thường siêng tu học, chẳng nên nới bỏ. (Q.499, ĐBN)

 

3- Vì sao đại Bồ Tát nên học Bát Nhã?

 

(Lưu ý: Theo đúng chính văn bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm và bản chữ Hán trong hoavouu.com, thì đoạn Kinh sau đây (đánh số 3-) được ghi ở cuối phẩm “Thiên Đế” của Hội thứ III. Nhưng theo cấu trúc tư tưởng của 2 Hội đầu, thì đoạn Kinh này thuộc phần đầu của phẩm này. Vì Thiên đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện ba câu hỏi: 1- Sao gọi là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật thẳm sâu? 2- Vì sao đại Bồ Tát nên trụ Bát Nhã? và 3- Vì sao đại Bồ Tát nên học Bát Nhã? Cụ thọ Thiện Hiện đã trả lời xong hai câu hỏi đầu. Câu hỏi thứ 3- lại để vào cuối phẩm mới trả lời (nghĩa là đoạn Kinh này thay vì nằm ở quyển 499 lại để vào phần cuối quyển 500). Không biết các nhà dịch thuật trong lúc dịch có làm xáo trộn chính văn hay không? Hay trong khi di chuyển Kinh từ Tây Thiên về Trung quốc Kinh bị xóc xếch mà có sự lộn xộn này chăng? Sau khi nghiên cứu, so chiếu với hai Hội đầu, chúng tôi quyết định sắp xếp lại cho tư tưởng được liên tục. Chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm này!)

 

Khi ấy, Thiện Hiện nói với Đế Thích:

- Kiều Thi ca! Đúng vậy! Đúng như lời Phật thuyết, các pháp hiện hữu đều là giả danh. Kiều Thi ca! Các đại Bồ Tát đã biết tất cả pháp chỉ là giả danh rồi, nên học Bát nhã Ba la mật.

Kiều Thi ca! Khi các đại Bồ Tát học như thế, thì không phải đối với sắc mà học; cũng không phải đối với thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Đại Bồ Tát này không thấy sắc ở trong đó; cũng không thấy thọ, tưởng, hành, thức ở trong đó mà học. Như vậy, cho đến đối với chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nên biết như vậy.

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát khi học như thế, thì chẳng phải đối với sắc mà học, cũng chẳng đối thọ tưởng hành thức học. Vì sao? Đại Bồ Tát này chẳng thấy sắc đáng học, cũng chẳng thấy thọ tưởng hành thức đáng học trong đó. Như vậy, cho đến đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên biết cũng thế.

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Các đại Bồ Tát vì nhân duyên gì chẳng thấy sắc, cũng chẳng thấy thọ tưởng hành thức. Cho đến cũng chẳng thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đáng học trong đó?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Kiều Thi Ca! Sắc, tánh sắc không; thọ tưởng hành thức, tánh thọ tưởng hành thức không cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không.

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát bởi nhân duyên đây, chẳng thấy sắc cho đến thức, cho đến chẳng thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đáng học trong đó. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ sắc không thấy sắc không, chẳng lẽ sắc không học sắc không. Như vậy, cho đến chẳng lẽ Như Lai không thấy Như Lai không, chẳng lẽ Như Lai không học Như Lai không.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát chẳng học không, tức đại Bồ Tát này học không. Vì sao? Vì không hai phần vậy. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát chẳng học sắc không cho đến chẳng học tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không, tức đại Bồ Tát này học sắc không cho đến học tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không. Vì sao? Vì không hai phần vậy.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát đem bất nhị làm phương tiện, học sắc không. Cho đến đem bất nhị làm phương tiện học các Như Lai không. Đại Bồ Tát này có khả năng đem bất nhị mà làm phương tiện học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; học nội không cho đến vô tánh tự tánh không; học chơn như cho đến bất tư nghì giới; học đoạn giới cho đến vô vi giới; học khổ tập diệt đạo Thánh đế, nói rộng ra, học tất cả pháp Phật từ tứ niệm xứ cho đến Nhất thiết tướng trí.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát đem bất nhị làm phương tiện học từ tứ niệm xứ cho đến Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát này có khả năng đem bất nhị làm phương tiện học vô lượng, vô số, vô biên Phật pháp thanh tịnh, bất khả tư nghì.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát đem bất nhị làm phương tiện học vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì, thì đại Bồ Tát này chẳng vì sắc tăng nên học, chẳng vì sắc giảm nên học. Cho đến chẳng vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tăng hay giảm nên học. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì sắc cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không hai phần vậy.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát chẳng vì sắc tăng nên học, cũng vì sắc giảm nên học, cho đến chẳng vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tăng nên học, cũng chẳng vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giảm nên học, thì đại Bồ Tát này chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì diệt hoại sắc nên học. Như vậy, cho đến chẳng vì nhiếp thọ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên học, cũng chẳng vì diệt hoại tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên học. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì nhiếp thọ hay diệt hoại không hai phần vậy.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Các đại Bồ Tát khi học như thế chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì diệt hoại sắc nên học. Cho đến chẳng vì nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên học, cũng chẳng vì diệt hoại tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên học chăng? 

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đúng vậy! Đúng ngươi đã nói! Xá Lợi Tử! Khi các đại Bồ Tát học như vậy, không vì nhiếp thọ sắc mà học, không vì hoại diệt sắc mà học; cho đến không vì nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học, cũng không vì hoại diệt tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác mà học.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Tại sao vậy?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các đại Bồ Tát khi học như thế chẳng thấy có sắc là đáng nhiếp thọ và đáng diệt hoại, cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ và diệt hoại. Cho đến chẳng thấy có tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là đáng nhiếp thọ và đáng diệt hoại, cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và diệt hoại. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì pháp sắc v.v… hoặc năng hoặc sở nội ngoại đều không, bất khả đắc vậy.

Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát chẳng thấy các pháp là đáng nhiếp thọ và đáng diệt hoại, cũng lại chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ và diệt hoại, mà học Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát này mau được thành tựu Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Các đại Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật như thế mau được thành xong Nhất thiết trí trí chăng? 

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi học Bát Nhã như thế mau được thành tựu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này khi học như thế đối tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ chẳng vì diệt hoại làm phương tiện vậy.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nếu đại Bồ Tát khi học như thế đối tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ chẳng vì diệt hoại làm phương tiện, làm sao thành tựu được Nhất thiết trí trí? 

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã chẳng thấy sắc cho đến thức hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc hợp hoặc tan, hoặc tăng hoặc giảm. Cho đến chẳng thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc hợp hoặc tan, hoặc tăng hoặc giảm. Vì sao? Vì sắc cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều vô tự tánh, trọn bất khả đắc. Như vậy, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đối tất cả pháp chẳng thấy sanh diệt cho đến tăng giảm, đem vô sở học, vô sở thành xong mà làm phương tiện tu học Bát Nhã, thời năng thành tựu Nhất thiết trí trí.

 

(Học Bát Nhã phải cầu ở đâu?)

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng:

- Thưa Đại đức! Các đại Bồ Tát muốn học Bát Nhã phải cầu ở đâu?

Xá Lợi Tử nói:

- Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát muốn học Bát Nhã nên cầu ở phẩm “Thiện Hiện” đã nói ở trước (4).

Khi ấy, Thiên Đế Thích bảo Thiện Hiện rằng:

- Có phải nhờ thần lực Tôn giả nên khiến Xá Lợi Tử khởi nói như vậy? 

Thiện Hiện nói:

- Kiều Thi Ca! Chẳng phải nhờ thần lực tôi nên khiến Xá Lợi khởi nói như thế? Chính là nhờ thần lực Phật làm nơi nương tựa nên khiến Xá Lợi Tử mới nói như thế.

Thiên Đế Thích nói:

- Tất cả pháp không nương tựa, làm sao nói được là thần lực Phật làm nương tựa nên khiến Xá Lợi Tử nói như thế.

Thiện Hiện bảo rằng:

- Đúng vậy! Đúng ngươi đã nói! Tất cả pháp không chỗ nương tựa cho nên Như Lai chẳng có thể nương tựa, chẳng làm chỗ nương tựa. Chỉ vì thuận theo pháp thế gian nên nói làm chỗ nương tựa.

Kiều Thi ca! Tức không nương tựa, Như Lai bất khả đắc. Viễn ly không nương tựa, Như Lai bất khả đắc. Không nương tựa, trong chơn như Như lai bất khả đắc. Trong Như Lai, không nương tựa, chơn như bất khả đắc. Không nương tựa, trong pháp tánh Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai, không nương tựa, pháp tánh bất khả đắc.

Kiều Thi ca! Tức sắc Như Lai bất khả đắc. Lìa sắc Như Lai bất khả đắc. Trong sắc, Như Lai như bất khả đắc. Trong Như Lai, sắc như bất khả đắc. Trong sắc pháp tánh, Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai pháp tánh bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai cùng với Nhất thiết tướng trí bất khả đắc. Lìa Nhất thiết tướng trí, Như Lai bất khả đắc. Trong Nhất thiết tướng trí, Như Lai như bất khả đắc. Trong Như Lai, Nhất thiết tướng trí như bất khả đắc. Trong Nhất thiết tướng trí pháp tánh, Như Lai bất khả đắc. Trong Như Lai pháp tánh Nhất thiết tướng trí bất khả đắc. Vì sao?

Kiều Thi ca! Như Lai cùng với sắc chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai lìa sắc chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với sắc như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai lìa sắc như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với sắc pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai lìa sắc pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như vậy, cho đến Như Lai cùng với Nhất thiết tướng trí chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai lìa Nhất thiết tướng trí chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với Nhất thiết tướng trí như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai lìa Nhất thiết tướng trí như chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai cùng với Nhất thiết tướng trí pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan. Như Lai lìa Nhất thiết tướng trí pháp tánh chẳng hợp, chẳng tan.

Kiều Thi Ca! Tôn giả Xá Lợi Tử đã nói là đối tất cả pháp chẳng tức chẳng lìa, chẳng hợp chẳng tan, nhờ thần lực Như Lai mà làm chỗ nương tựa, đem không nương tựa làm nương tựa vậy.

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát học Bát Nhã không nên cầu sắc, không nên xa lìa sắc mà cầu. Như vậy, cho đến không nên cầu Nhất thiết tướng trí, không nên xa lìa Nhất thiết tướng trí mà cầu. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì hoặc sắc, hoặc lìa sắc, cho đến hoặc Nhất thiết tướng trí, hoặc lìa Nhất thiết tướng trí, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc đại Bồ Tát, hoặc cầu tất cả pháp chẳng hợp, chẳng tan như thế, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi là vô tướng. Vì sao? Vì đại Bồ Tát học Bát Nhã là chẳng phải vì sắc, chẳng phải xa lìa sắc. Cho đến chẳng phải vì Nhất thiết tướng trí, chẳng phải xa lìa Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải sắc như, chẳng phải xa lìa sắc như. Cho đến chẳng phải Nhất thiết tướng trí như, chẳng phải xa lìa Nhất thiết tướng trí như. Chẳng phải sắc pháp tánh, chẳng phải xa lìa sắc pháp tánh. Cho đến chẳng phải Nhất thiết tướng trí pháp tánh; chẳng phải xa lìa Nhất thiết tướng trí pháp tánh. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì tất cả pháp như thế đều vô sở hữu, bất khả đắc. Do vô sở hữu, bất khả đắc cho nên đại Bồ Tát học Bát Nhã chẳng phải vì sắc, chẳng phải xa lìa sắc. Cho đến chẳng phải vì Nhất thiết tướng trí, chẳng phải xa lìa Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải sắc như, chẳng phải xa lìa sắc như. Cho đến chẳng phải Nhất thiết tướng trí như, chẳng phải xa lìa Nhất thiết tướng trí như. Chẳng phải sắc pháp tánh, chẳng phải xa lìa sắc pháp tánh. Cho đến chẳng phải Nhất thiết tướng trí pháp tánh, chẳng phải xa lìa Nhất thiết tướng trí pháp tánh.

Khi ấy, Thiên Đế Thích thưa Thiện Hiện rằng:

- Các đại Bồ Tát sở học Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật, là vô lượng Ba la mật, là vô biên Ba la mật. Kẻ Dự lưu học ở trong đây được quả Dự lưu. Kẻ Nhất lai học ở trong đây được quả Nhất lai. Kẻ Bất hoàn học ở trong đây được quả Bất hoàn. Bậc A la hán học ở trong đây được quả A la hán. Bậc Độc giác học ở trong đây được quả Độc giác Bồ đề. Các đại Bồ Tát học ở trong đây thành thục hữu tình nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện trả lời:

- Đúng vậy! Đúng ngươi đã nói! Vì sao? Kiều Thi Ca! Sắc đại nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng đại. Cho đến Nhất thiết tướng trí đại nên các Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng đại. Vì sao? Vì sắc cho đến Nhất thiết tướng trí ngần trước sau giữa đều bất khả đắc, nên nói là đại. Bởi kia đại nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng nói là đại.

Kiều Thi Ca! Sắc vô lượng nên các đại Bồ Tát tát sở học Bát Nhã cũng vô lượng. Cho đến Nhất thiết tướng trí vô lượng, nên các Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô lượng. Vì sao? Vì lượng sắc cho đến Nhất thiết tướng trí bất khả đắc. Lượng giống y như hư không bất khả đắc, sắc cho đến Nhất thiết tướng trí cũng vậy, nên nói vô lượng. Kiều Thi Ca! Hư không vô lượng nên sắc cho đến Nhất thiết tướng trí cũng vô lượng. Sắc thảy vô lượng nên các Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô lượng.

Kiều Thi Ca! Sắc vô biên nên các đại Bồ Tát cũng vô biên. Cho đến Nhất thiết tướng trí vô biên nên các Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên. Vì sao? Vì sắc cho đến Nhất thiết tướng trí hoặc giữa hoặc biên đều bất khả đắc. Y như hư không hoặc giữa hoặc biên đều bất khả đắc. Sắc cho đến Nhất thiết tướng trí cũng vậy, nên nói vô biên. Kiều Thi Ca! Hư không vô biên nên sắc cho đến Nhất thiết tướng trí cũng vô biên. Sắc cho đến Nhất thiết tướng trí vô biên nên các Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Sở duyên vô biên, nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Thiên Đế Thích nói:

- Vì sao sở duyên vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Nhất thiết trí sở duyên vô biên nên các Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Pháp giới sở duyên vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Thiên Đế Thích nói:

- Vì sao pháp giới sở duyên vô biên, nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Pháp giới vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Sở duyên vô biên nên pháp giới cũng vô biên. Pháp giới sở duyên vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Chơn như sở duyên vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Thiên Đế Thích nói:

- Vì sao chơn như sở duyên vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Chơn như vô biên nên sở duyên cũng vô biên. Sở duyên vô biên nên chơn như cũng vô biên. Chơn như sở duyên vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Hữu tình vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên.

Thiên Đế Thích hỏi:

- Vì sao hữu tình vô biên nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Ý ông nghĩ sao? Nói hữu tình, hữu tình ấy có thêm nghĩa cho pháp nào?

Thiên Đế Thích nói:

- Hữu tình, hữu tình ấy chẳng phải thêm nghĩa cho pháp cũng chẳng phải chẳng thêm nghĩa cho pháp. Chỉ là giả lập khách danh, thuộc về tên gọi tạm thời, thuộc về tên gọi không thật, thuộc về tên gọi không có nhân duyên.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Vậy, theo ý Ngài, Kinh Bát Nhã thẩm sâu này hiển thị thật có hữu tình chăng?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng có!

Thiện Hiện hỏi:

- Trong Kinh Bát Nhã thẳm sâu này, đã không hiển thị thật có hữu tình nên nói vô biên. Vì nội hay ngoại đều bất khả đắc. Kiều Thi Ca! Ý ông thế nào? Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua hằng hà sa số kiếp đã nói danh tự của các hữu tình. Trong đây hữu tình, có sanh, có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Đại đức! Không có! Vì sao? Vì bản tánh các hữu tình vốn thanh tịnh. Từ xưa đến nay vô sở hữu.

Thiện Hiện bảo:

- Do điều này nên tôi nói hữu tình vô biên, nên các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã cũng vô biên. Bởi nhân duyên đây phải biết các đại Bồ Tát sở học Bát Nhã nên phải nói là đại, là vô lượng, là vô biên.

 

 

2. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiên đế”, phần sau quyển 499, Hội thứ III.

(Tương đương với phẩm “Tín Thọ”, phần giữa quyển 426, Hội thứ II, ĐBN).

 

Khi ấy, các thiên tử lại thầm nghĩ này: “Không biết Đại đức Thiện Hiện nay muốn vì những hữu tình nào, thuyết những pháp nào?”

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm niệm các thiên tử nên bảo rằng:

- Thiên tử phải biết: Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng cũng lại tuyên nói pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Như vậy, kẻ nghe đối với pháp nói ra không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy.

Khi ấy, các thiên tử liền hỏi lại rằng:

- Năng nói năng nghe và pháp nói ra đều như huyễn hóa như mộng chăng? 

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy, như các ngươi đã hỏi! Hữu tình như huyễn, vì kẻ như huyễn nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì kẻ như hóa thuyết pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì kẻ như mộng thuyết pháp như mộng. Thiên tử phải biết: Ngã cho đến kiến giả như huyễn như hóa như mộng. Sắc uẩn cho đến thức uẩn cũng như huyễn như hóa như mộng. Cho đến Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng như huyễn như hóa như mộng.

Các thiên tử lại hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nay Đại đức chỉ nói ngã cho đến Bồ Tát như huyễn như hóa như mộng, hay cũng nói Niết Bàn như huyễn như hóa như mộng?

Thiện Hiện đáp:

- Thiên tử phải biết: Giả sử còn có pháp cao hơn Niết Bàn chăng nữa, tôi cũng nói là như huyễn như hóa như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Việc huyễn hóa mộng cùng tất cả pháp cho đến Niết Bàn thảy đều không hai, không hai phần vậy. (Q.499, ĐBN).

 

(Ai là người có thể tín thọ Bát Nhã?)

 

Bấy giờ, các cụ thọ Xá Lợi Tử, Đại Mục Kiền Liên, Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba cùng các Đại Thanh Văn và vô lượng trăm ngàn đại Bồ Tát đồng cất tiếng hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng: Đã thuyết Bát Nhã thẳm sâu như thế, khó thấy khó giác, vắng lặng nhiệm mầu, chẳng chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm, đệ nhất thù thắng, như vậy, ai là người có thể tín thọ được?

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch các đại Thanh Văn cùng các Bồ Tát rằng:

- Có các đại Bồ Tát Bất thối chuyển đối Bát nhã Ba la mật đây có thể thâm tín thọ được. Lại có vô lượng A la hán đã thấy Thánh đế, đối các thâm pháp hiểu tận cội nguồn, sở nguyện đã mãn, hết hẳn các lậu, đối Bát nhã Ba la mật đây cũng có thể tín thọ được. Lại có vô lượng các thiện nam, thiện nữ ở quá khứ vô lượng vô số trăm ngàn trăm ức muôn ức Phật gần gũi cúng dường, phát thệ nguyện rộng lớn, trồng các căn lành, trí huệ thông lợi, được bạn lành nhiếp thọ, đối Bát nhã Ba la mật đây cũng có thể tín thọ được. Vì sao? Vì những vị như thế đối pháp phi pháp thường không phân biệt. Nghĩa là chẳng đem không bất không phân biệt sắc cho đến thức, cũng chẳng đem sắc cho đến thức phân biệt không bất không. Chẳng đem hữu tướng vô tướng phân biệt sắc cho đến thức, cũng chẳng đem sắc cho đến thức phân biệt hữu nguyện vô nguyện. Chẳng đem vắng lặng chẳng vắng lặng phân biệt sắc cho đến thức, cũng chẳng đem sắc cho đến thức phân biệt vắng lặng chẳng vắng lặng. Chẳng đem xa lìa chẳng xa lìa phân biệt sắc cho đến thức, cũng chẳng đem sắc cho đến thức phân biệt xa lìa. Chẳng đem sanh bất sanh phân biệt sắc cho đến thức, cũng chẳng đem sắc cho đến thức phân biệt sanh bất sanh. Chẳng đem diệt bất diệt phân biệt sắc cho đến thức, cũng chẳng đem sắc cho đến thức phân biệt diệt bất diệt. (Q.499, ĐBN)

Như vậy, cho đến chẳng đem không bất không phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt không bất không. Chẳng đem hữu tướng vô tướng phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt hữu tướng vô tướng. Chẳng đem hữu nguyện vô nguyện phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt hữu nguyện vô nguyện. Chẳng đem vắng lặng phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt vắng lặng. Chẳng đem xa lìa chẳng xa lìa phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng đem sanh bất sanh phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt sanh bất sanh. Chẳng đem diệt bất diệt phân biệt giới hữu vi vô vi, cũng chẳng đem giới hữu vi vô vi phân biệt diệt bất diệt. (Q.499, ĐBN)

Do nhân duyên này nên những vị như vậy đối với Bát nhã Ba la mật đều có thể tin hiểu và thọ trì được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các thiên tử rằng: Như vậy, Bát nhã Ba la mật thật là thẳm sâu khó thấy khó giác, vắng lặng nhiệm mầu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm, tối thắng đệ nhất, trong ấy thật không kẻ có thể tín thọ. Vì sao? Trong ấy không pháp khá hiển khá chỉ, đã thật không pháp khá hiển khá chỉ, nên kẻ tín thọ cũng bất khả đắc.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Đâu chẳng phải trong giáo pháp Bát Nhã thẳm sâu rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa, nghĩa là pháp Thanh Văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Vô thượng thừa. Rộng nói các đạo Bồ Tát nhiếp thọ các đại Bồ Tát, từ sơ phát tâm lần hồi cho đến thập địa. Chỗ gọi bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ đoạn giới cho đến vô vi giới. An trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tám giải thoát, chín định thứ lớp. Hoặc không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc năm nhãn, sáu thần thông. Hoặc Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Hoặc tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Rộng nói việc nhiếp thọ các thần thông thù thắng của các đại Bồ Tát. Nghĩa là đại Bồ Tát đối Bát Nhã thẳm sâu siêng tu hành nên tùy sanh chỗ nào thường được dạo chơi, từ một cõi Phật đến một cõi Phật cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật thọ trì Chánh pháp cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thường chẳng quên mất, hằng ở thắng định lìa tâm rối loạn. Bởi nhân duyên đây nên được biện không ngại, biện ứng, biện nhanh, biện các điều diễn nói phong phú nghĩa vị, biện tất cả thế gian rất mực thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đúng vậy! Đúng ngươi đã nói! Trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây, đem vô sở đắc làm phương tiện. Nói rộng pháp tương ưng Tam thừa, cho đến nói rộng việc nhiếp thọ Bồ Tát thần thông thù thắng. Cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu như thế có các điều đã thuyết, đem vô sở đắc làm phương tiện, vậy ở đây đối pháp nào đem vô sở đắc làm phương tiện? 

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đây đối ngã cho đến kiến giả đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối sắc cho đến thức đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối mười hai xứ cho đến mười tám giới đem vô sở đắc làm phương tiện. Đây đối nhãn xúc cho đến ý xúc đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối địa giới cho đến thức giới đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối vô minh cho đến lão tử đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối chơn như cho đến bất tư nghì giới đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Đây đối đoạn giới cho đến vô vi giới đem vô sở đắc mà làm phương tiện. Nói rộng ra, đây đối với tất cả pháp Phật từ khổ tập diệt đạo Thánh đế cho đến Nhất thiết tướng trí đem vô sở đắc mà làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì nhân duyên gì đối trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây đem vô sở đắc mà làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng Tam thừa? Vì nhân duyên gì đối trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây đem vô sở đắc mà làm phương tiện, rộng nói đạo Bồ Tát nhiếp thọ các Bồ Tát từ sơ phát tâm lần hồi cho đến thập địa? Vì nhân duyên gì đối trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây, rộng nói việc nhiếp thọ các đại Bồ Tát thần thông thù thắng, cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Do nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên đối trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây đem vô sở đắc mà làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng Tam thừa.

Xá Lợi Tử! Do nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên đối trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây đem vô sở đắc mà làm phương tiện, rộng nói đạo Bồ Tát nhiếp thọ các Bồ Tát từ sơ phát tâm lần hồi cho đến thập địa.

Xá Lợi Tử! Do nội không cho đến vô tánh tự tánh không nên đối trong giáo nghĩa Bát Nhã thẳm sâu đây đem vô sở đắc mà làm phương tiện, rộng nói việc nhiếp thọ các đại Bồ Tát thần thông thù thắng, cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu. Vì sao? Vì tất cả pháp, không có pháp nào chẳng không. Xét gạn rốt ráo đều bất khả đắc vậy. (Q.499, ĐBN)

 

 

3. Đoạn Kinh sau đây thuộc phẩm “Thiên Đế”, phần đầu quyển 500, Hội thứ III.

(Tương đương với phẩm “Rải Hoa”, phần cuối quyển 426

đến phần đầu quyển 427, Hội thứ II, ĐBN).

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích và Tam thiên đại thiên thế giới đây có bao chư Thiên bốn đại vương chúng, cho đến chư Thiên sắc cứu cánh đồng khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện vâng thần lực Phật vì các đại Bồ Tát rưới trận mưa pháp. Chúng ta nay nên cúng dường, mỗi mỗi đều nên biến hóa ra các hoa trời vi diệu, phụng rải lên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đại Bồ Tát, cùng Bí sô tăng, Tôn giả Thiện Hiện, Bát Nhã thẳm sâu để cúng dường! Khi ấy, Thiên Đế Thích và các thiên chúng khởi nghĩ này rồi, mỗi mỗi liền hóa hiện ra các thiên hoa vi diệu phụng rải cúng dường. (Q.500, ĐBN)

Bấy giờ, Tam thiên đại thiên thế giới đây bỗng hiện đầy dẫy các hoa trời, nhờ thần lực Phật, ở giữa hư không các hoa trời hợp thành đài hoa trang nghiêm đẹp lạ, lượn ngang Tam thiên đại thiên thế giới.

Cụ thọ Thiện Hiện thấy việc này rồi, thầm nghĩ: Chưa có hoa nào đẹp lạ như hoa của các chư thiên đã rải! Hoa này quyết định chẳng phải do đất nước cây cỏ sanh ra, có lẽ từ tâm chư Thiên hóa ra.

Khi ấy, Thiên Đế Thích đoán biết tâm niệm của Thiện Hiện, liền bảo Thiện Hiện rằng: 

- Hoa đã rải đây thật chẳng phải do đất nước cỏ cây sanh ra mà là do tâm của chư Thiên hóa hiện vậy.

Thiện Hiện nói với trời Đế Thích:

- Hoa đây không sanh tức chẳng phải hoa.

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì chỉ hoa này chẳng sanh hay các pháp khác cũng thế?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Chẳng những hoa này chẳng sanh mà các pháp cũng nghĩa vô sanh. Tại sao vậy? Kiều Thi Ca! Sắc cũng chẳng sanh, thọ tưởng hành thức cũng chẳng sanh. Nếu chẳng sanh tức chẳng phải sắc cho đến thức. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh lìa các hý luận, chẳng thể thi thiết đây là sắc hay thức vậy. Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Vô minh cho đến lão tử. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chơn như cho đến bất tư nghì giới. Đoạn giới cho đến vô vi giới. Khổ tập diệt đạo Thánh đế. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát, chín định thứ lớp. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Năm nhãn, sáu thần thông. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Dự lưu hướng Dự lưu quả cho đến Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, phải nên biết như vậy. (Q.500, ĐBN)

Khi ấy, Thiên Đế Thích thầm khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện trí huệ thẳm sâu, chẳng hoại giả danh mà thuyết pháp tánh.

Phật biết ý Thiên Đế Thích bèn ấn chứng rằng:

- Như tâm Kiều Thi Ca đã nghĩ: Cụ thọ Thiện Hiện trí huệ thẳm sâu, chẳng hoại giả danh mà thuyết pháp tánh.

Khi ấy, Thiên Đế Thích liền thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Thiện Hiện đối những pháp nào chẳng hoại giả danh mà thuyết pháp tánh?

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Sắc cho đến thức chỉ là giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh sắc cho đến thức, như thế mà thuyết pháp tánh sắc cho đến thức. Vì sao? Pháp tánh sắc thảy không hoại không chẳng hoại. Vậy nên, Thiện Hiện đã thuyết cũng không hoại không chẳng hoại. Như vậy, cho đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên biết cũng thế. Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối pháp như thế chỉ thuyết pháp tánh mà không bỏ giả danh.

 

Thích nghĩa:

(1). (2). và (3). là ba trong 19 bậc Thánh hữu học gọi là Thập bát hữu học hay Thập bát học nhân, đó là: Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Tín giải, Kiến chí, Thân chứng, Gia gia (người dứt được 3 phẩm cho đến 4 phẩm Tư hoặc ở cõi Dục, gọi là Gia gia), Nhất gián (chỉ cho bậc Thánh Bất hoàn hướng, 1 trong 18 bậc Thánh Hữu học. Trong 9 phẩm Tư hoặc ở cõi Dục, các bậc Thánh này đã dứt được 7 hoặc 8 phẩm, vẫn còn 1 hay 2 phẩm chưa dứt, còn phải 1 lần thọ sinh ở cõi Dục để tu quả vị Bất hoàn. Vì phải thụ sinh 1 lần nữa mới được vào Niết bàn nên gọi là Nhất gián), Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, Trung ban, Sinh ban, Hữu hành ban, Vô hành ban và Thượng lưu ban. Còn quả Thánh gọi là Tề thủ, dịch là ngang đầu phải đoạn diệt tất cả tập khí phiền não tương tục thì thân hậu hữu mới dứt. Vậy, chỉ có bậc Bát hoàn quả trở lên mới không còn tái sanh nữa!

(4). Quyển 426, Hội thứ hai, ĐBN nói: “Các đại Bồ Tát muốn học Bát Nhã nên cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện".

 

Sơ giải:

 

Như đã báo trước chúng tôi chỉ thích nghĩa Hội III này, không chiết giải với lý do là không muốn trùng tuyên. Tất cả giáo pháp trong phẩm “Thiên Đế” đã được thích nghĩa và lược giải đại cương ở Hội thứ I và II rồi, Quý vị có thể quay lại tụng đọc hay tham cứu nếu muốn.

Ý kiến của chúng tôi là Hội thứ III đã nhập nhiều phẩm của hai Hội đầu thành một phẩm lớn, thuyết các giáo pháp khác nhau cùng một lúc, Quý vị phải chú ý rất nhiều mới có thể thâm hiểu được. Vậy, nên đọc Hội thứ III với mục đích ôn lại các giáo pháp đã học thì tốt hơn!

 

---o0o---

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com