Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

83. Phẩm "Nói Thật"

17/09/202015:41(Xem: 7910)
83. Phẩm "Nói Thật"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-458

 

PHẨM "NÓI THẬT"

Phần giữa quyển 478, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Thắng Nghĩa Du Già”, phần sau Q.396

cho đến phần đầu Q.397, Hội thứ I, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Gợi ý:

Phẩm “Nói Thật” của Hội thứ II này là một trong hai phẩm cuối cùng trước khi Phật chấm dứt Hội thứ I, ĐBN. Đây là phẩm quá hay giải quyết được một số thắc mắc cũng có thể gọi là mâu thuẫn trong tư tưởng của chúng ta khi thọ trì các giáo pháp cực kỳ khó khăn. Phẩm này của Hội thứ II có tên là “Nói Thật”, trong khi phẩm tương đương với phẩm này trong Hội thứ I, ĐBN lại có tên là “Thắng Nghĩa Du Già”.

Thắng nghĩa du già: Thắng nghĩa có nghĩa là cao tột, vi diệu hay thực tại tối hậu cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa. Du già có nghĩa là tương ứng, tức là tương ứng với cơ, cảnh, hành, lý, quả… Thắng nghĩa du già: Tu hành như thế nào để (nghĩa là đã được quả tròn đầy, lợi sanh cứu vật, tùy cơ duyên mà cảm ứng, thuốc và bệnh tương ứng với nhau), cảnh (không trái với tự tánh của tất cả pháp), hành (tương ứng với hành các định, tuệ v.v…), (lý hai đế: an lập, phi an lập), quả (có thể chứng đắc Vô Thượng Bồ đề cùng tột) tương ưng với “đạo lý chân thực tối thắng”. Thực hiện được các điểm nói trên thì cũng chính là tương ứng với cơ cảnh hành quả của Bát nhã Ba la mật.

Phẩm “Nói Thật” của Hội thứ II, cũng tương đương với phẩm thứ 86, “Bình Đẳng”, tập 5, quyển 85, Đại Trí Độ Luận.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Người thấy thật đã không tạp nhiễm, không thanh tịnh, người chẳng thấy thật cũng không tạp nhiễm, không thanh tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Người nói thật đã không tạp nhiễm, không thanh tịnh, người chẳng nói thật cũng không tạp nhiễm, không thanh tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp không có tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Pháp không có tự tánh là không tạp nhiễm, không thanh tịnh. Pháp có tự tánh cũng không tạp nhiễm, không thanh tịnh. Các pháp có tự tánh và không có tự tánh cũng không tạp nhiễm, không thanh tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu người thấy thật và người nói thật không nhiễm không tịnh, người chẳng thấy thật và người chẳng nói thật cũng không nhiễm, thì tại sao đức Thế Tôn có lúc nói có pháp thanh tịnh?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ta nói tất cả pháp tánh bình đẳng là pháp thanh tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi tất cả pháp tánh bình đẳng?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Vì các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới như hư không, cảnh giới bất tư nghì, dù có Phật ra đời hay không có Phật ra đời thì tánh tướng của các pháp vẫn thường trụ. Đấy gọi là tất cả các pháp tánh bình đẳng. Tánh bình đẳng đây gọi là pháp thanh tịnh. Đây nương vào thế tục nói là thanh tịnh, chẳng phải nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế không có sự phân biệt, ngôn ngữ dứt, bặt hý luận.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:  

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng, như tượng, như tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa, như thành Tầm hương, tuy hiển hiện như có nhưng không thật có, vậy làm sao các đại Bồ Tát nương vào pháp chẳng thật có đây để phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rồi tuyên thệ như: Ta sẽ viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ta sẽ viên mãn thù thắng thần thông Ba la mật. Ta sẽ viên mãn phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật. Ta sẽ viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Ta sẽ viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Ta sẽ viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Ta sẽ viên mãn tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Ta sẽ viên mãn nội không cho đến vô tính tự tính không. Ta sẽ viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, Ta sẽ viên mãn tất cả pháp Phật. Ta sẽ phát khởi vô lượng quang minh chiếu khắp mười phương vô biên thế giới. Ta sẽ phát khởi diệu âm biến khắp mười phương vô biên thế giới, tùy theo tâm, tâm sở của các hữu tình hiểu biết khác nhau mà nói nhiều thứ pháp môn vi diệu khiến được lợi vui?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Tất cả pháp mà ông đã nói đây há chẳng phải đều như mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa, như thành Tầm hương sao?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Như vậy! Như vậy! Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng cho đến như thành Tầm hương đều không thật có, thì tại sao khi đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phát đại thệ nguyện rằng: Ta sẽ viên mãn tất cả công đức, làm lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình?

Bạch Thế Tôn! Các vật loại được thấy trong mộng, nói rộng cho đến hiện ra thành Tầm hương, hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật còn chẳng có, huống nữa là có khả năng viên mãn. Tất cả pháp khác cũng như vậy đều không thật có.

Bạch Thế Tôn! Các vật loại được thấy trong mộng, nói rộng cho đến hiện ra như thành Tầm hương, hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ còn chẳng có, huống nữa là có khả năng viên mãn. Tất cả pháp khác cũng như vậy đều chẳng thật có.

Bạch Thế Tôn! Các vật loại được thấy trong mộng, nói rộng cho đến hiện ra như thành Tầm hương, thành tựu tất cả sự nghiệp sở nguyện còn chẳng thật có, huống nữa là có khả năng viên mãn. Tất cả pháp khác cũng như vậy đều chẳng thật có.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Pháp chẳng thật có còn chẳng thể hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, huống nữa là có khả năng viên mãn. Như vậy, cho đến pháp chẳng thật có còn chẳng thể hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, huống nữa là có khả năng viên mãn. Pháp chẳng thật có chẳng thể thành tựu sự nghiệp sở nguyện. Pháp chẳng thật có chẳng thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên thiện pháp khác chẳng thật có, nên chẳng thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết các pháp như thế, tất cả đều là pháp suy nghĩ tạo tác. Các pháp do suy nghĩ tạo tác đều chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp như thế đối với đạo Bồ đề tuy có thể dẫn phát, song đối với quả Bồ đề không có tác dụng giúp ích gì. Bởi các pháp này không sanh, không khởi, không có thật tướng nên khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, từ sơ phát tâm, tuy khởi các loại thiện nơi thân, ngữ, ý như là tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy cho đến hoặc tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, mà biết tất cả đều như mộng, như bóng, như tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa và như thành Tầm hương đều chẳng thật có.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các pháp như thế tuy chẳng thật có, nhưng nếu chẳng viên mãn thì quyết định chẳng thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nghĩa là đại Bồ Tát nếu chẳng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật thì quyết định chẳng thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, dù tu tất cả thiện pháp cũng đều như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nghĩa là nếu tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật thì như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Như vậy, cho đến nếu tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí thì như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Nếu thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì như thật biết như mộng cho đến như thành Tầm hương. Cũng như thật biết tâm hành sai khác của các loài hữu tình như mộng cho đến như thành Tầm hương.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, đối với tất cả pháp chẳng lấy đó làm có, chẳng lấy đó làm không. Nếu do lấy như thế nên chứng được Nhất thiết trí trí thì cũng biết pháp kia như mộng cho đến như thành Tầm hương, chẳng lấy đó làm có, chẳng lấy đó làm không. Vì sao? Vì 6 pháp Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí đều chẳng thể lấy được. Pháp thiện, bất thiện cũng chẳng thể lấy được. Pháp hữu ký, vô ký cũng chẳng thể lấy được. Pháp hữu lậu, vô lậu cũng chẳng thể lấy được. Pháp thế gian, xuất thế gian cũng chẳng thể lấy được. Đại Bồ Tát này biết tất cả pháp chẳng thể lấy rồi cầu chứng Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể lấy, đều chẳng thật có, như mộng cho đến như thành Tầm hương. Chẳng thể lấy, chẳng thể chứng được pháp, nhưng các hữu tình đối với pháp như thế chẳng biết, chẳng thấy. Đại Bồ Tát này vì làm lợi ích cho các hữu tình kia, nên cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này từ sơ phát tâm, vì muốn làm lợi vui cho các hữu tình nên tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, chẳng vì việc mình, chẳng vì việc nào khác. Vì muốn lợi vui cho các hữu tình nên cầu chứng Vô Thượng Bồ đề, chẳng vì việc mình, chẳng vì việc nào khác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, thấy các người ngu ở trong phi ngã mà tưởng trụ ngã, ở trong phi hữu tình mà tưởng trụ hữu tình, như vậy cho đến chẳng phải người biết(tri giả) mà tưởng trụ người biết; đối với chẳng phải người thấy(kiến giả) mà tưởng trụ nơi người thấy. Thấy việc đây rồi, đại Bồ Tát này rất thương xót, phương tiện giáo hóa khiến xa lìa điên đảo vọng tưởng chấp trước, an trú trong cõi cam lồ vô tướng. Trụ trong cõi này chẳng còn khởi tưởng ta cho đến tưởng người thấy người biết. Khi đó, tất cả sự dao động, tán loạn, hý luận, phân biệt chẳng hiện hành nữa. Tâm thường an trụ cõi vắng lặng đạm bạc không hý luận. (Q.478, ĐBN)

Này Thiện Hiện! Nhờ phương tiện đây, nên đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tự đối với các pháp không có chấp trước, cũng dạy người đối với tất cả pháp không chấp trước. Đây là nương thế tục, chẳng nương thắng nghĩa, vì trong thắng nghĩa không có chấp trước ta, người sai khác, chẳng thể đắc vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Khi Phật đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, pháp mà Phật chứng được là nương vào thế tục mà nói là được, hay nương vào thắng nghĩa nói là được?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Khi Phật đắc Vô thượng Chánh đẳng giác, pháp mà Phật chứng là nương vào thế tục mà nói là được, chẳng nương vào thắng nghĩa. Nếu nương vào thắng nghĩa, thì năng đắc sở đắc đều chẳng thể được. Vì sao? Vì nếu bảo là được pháp như vậy bèn có sở đắc. Kẻ có sở đắc thì liền chấp có hai. Kẻ chấp có hai thì chẳng được quả, cũng chẳng hiện quán.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu chấp có hai thì chẳng đắc quả, cũng chẳng hiện quán; nếu chấp không hai thì có đắc có hiện quán không?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Kẻ chấp có hai chẳng đắc quả, cũng chẳng hiện quán. Kẻ chấp không hai cũng lại như thế, vì có sở chấp vậy. Vì chấp đây, chấp kia đều là hý luận. Chẳng phải trong tánh bình đẳng tất cả pháp có hý luận. Nếu lìa hý luận mới được gọi là pháp tánh bình đẳng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, trong đây sao gọi pháp tánh bình đẳng?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Nếu ở chỗ này đều không có hữu tánh, cũng không có vô tánh, cũng chẳng thể nói là tánh bình đẳng thì như vậy mới gọi là pháp tánh bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Phải biết tánh bình đẳng đã chẳng thể nói, cũng chẳng thể biết, trừ tánh bình đẳng không pháp có thể đắc, lìa tất cả pháp không tánh bình đẳng.

Này Thiện Hiện! Phải biết pháp tánh bình đẳng, Thánh giả dị sanh đều chẳng thể hành, vì chẳng phải cảnh giới kia vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Pháp tánh bình đẳng há cũng chẳng phải là cảnh sở hành của Phật sao?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Pháp tánh bình đẳng, tất cả Thánh giả đều chẳng thể hành, cũng chẳng thể chứng. Nghĩa là các vị Dự lưu, hoặc các vị Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai đều chẳng thể lấy pháp tánh bình đẳng làm cảnh sở hành. Trong đây, tất cả hý luận phân biệt đều chẳng thể hành vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Phật đối với các pháp đều được tự tại, như thế có thể nói pháp tánh bình đẳng cũng chẳng phải cảnh sở hành của chư Phật sao?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Phật đối với các pháp tuy được tự tại, nếu tánh bình đẳng cùng Phật có khác, thì có thể nói là cảnh giới sở hành của Phật. Nhưng tánh bình đẳng cùng Phật không khác, làm sao có thể nói Phật hành cảnh ấy.

Này Thiện Hiện! Phải biết, nếu pháp tánh bình đẳng của các dị sanh, hoặc pháp tánh bình đẳng của các Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai, tất cả pháp tánh bình đẳng như vậy đều đồng một tướng, đó là vô tướng. Tướng bình đẳng đây không hai không khác, nên chẳng thể nói đây là pháp tánh bình đẳng của dị sanh, nói rộng cho đến đây là pháp tánh bình đẳng của Như Lai. Ở trong pháp tánh bình đẳng này, tánh bình đẳng đã bất khả đắc. Ở trong tướng của dị sanh và Dự lưu… sai khác cũng bất khả đắc. (Q.478, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tánh bình đẳng của tất cả pháp, các tướng sai khác đều bất khả đắc thì các pháp dị sanh, Dự lưu… và hữu tình cũng phải không sai khác?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói! Trong tánh bình đẳng của tất cả pháp, các dị sanh, hoặc các Thánh giả, cho đến pháp Như Lai và hữu tình đều không sai khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu trong tánh bình đẳng của tất cả pháp, dị sanh, Thánh giả, pháp Như Lai và hữu tình đều không sai khác thì tại sao có Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo xuất hiện ở thế gian?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Pháp tánh bình đẳng của Phật, Pháp, Tăng bảo, mỗi mỗi có khác chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, thì pháp tánh bình đẳng của Phật, Pháp, Tăng bảo đều không sai khác. Vì sao? Vì pháp tánh bình đẳng của Phật, Pháp, Tăng bảo, tất cả pháp như thế đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Nhưng Phật Thế Tôn đối với pháp vô tướng, phương tiện khéo léo kiến lập nhiều thứ pháp và hữu tình gọi tướng sai khác, chỗ gọi đây là dị sanh và pháp, cho đến đây là Như Lai và pháp?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ngươi đã nói! Chư Phật đối pháp vô tướng phương tiện khéo léo kiến lập nhiều thứ pháp và hữu tình gọi tướng sai khác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Nếu các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng vì hữu tình kiến lập danh tướng các pháp sai khác thì các loại hữu tình có thể tự biết đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là cõi quỷ, đây là người, đây là trời Tứ đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; đây là sắc cho đến thức; đây là mười hai xứ cho đến mười tám giới; đây là nhãn xúc cho đến ý xúc; đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; đây là địa giới cho đến thức giới; đây là nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; đây là theo duyên sanh ra các pháp; đây là vô minh cho đến lão tử; đây là pháp thiện, pháp ác; đây là pháp hữu ký, vô ký; đây là pháp hữu lậu, vô lậu; đây là pháp thế gian, xuất thế gian, đây là pháp hữu vi, vô vi; đây là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; đây là bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; đây là nội không cho đến vô tính tự tính không; đây là chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; nói rộng ra đây là tất cả pháp Phật; đây là Tam bảo, đây là Tam thừa; các loại hữu tình đối với danh tướng sai khác như thế có thể tự biết chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Không! Nếu Phật chẳng vì hữu tình kiến lập các danh tướng sai khác như thế thì các loài hữu tình chẳng thể tự biết các danh tướng sai khác như thế.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Vì vậy, đối với pháp vô tướng, Như Lai tuy vì hữu tình, phương tiện khéo léo kiến lập các loại danh tướng sai khác, nhưng đối với tánh bình đẳng của các pháp thì không thể động chuyển. Tuy đối với hữu tình, Như Lai là đại ân đức, song ở trong ấy chẳng giữ lấy tướng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Ví như đức Như Lai đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp đều không thể bị động chuyển. Như vậy, tất cả dị sanh, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát đối với tánh bình đẳng của tất cả pháp cũng không thể bị động chuyển chăng?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng ra khỏi tánh bình đẳng vậy. Như tánh bình đẳng, phải biết chơn như nói rộng cho đến bất tư nghì giới cũng lại như thế. Các pháp dị sanh và các Thánh giả đối chơn như thảy không sai khác vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như các dị sanh và các Thánh giả cùng với tánh của tất cả pháp bình đẳng không sai khác nhau. Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Nghĩa là sắc cho đến thức, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. 12 xứ cho đến 18 giới, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Địa giới cho đến thức giới, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Các pháp theo duyên sanh ra, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Vô minh cho đến lão tử, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng tham, sân, si đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng dị sanh, kiến thú, đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng 4 niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tướng của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nội không cho đến vô tính tự tính không, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau? Pháp thế gian, xuất thế gian, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau. Pháp hữu vi, vô vi, tướng đều khác nhau nên tánh cũng phải khác nhau?

Bạch Thế Tôn! Các pháp như thế, nếu tướng đều khác nhau thì pháp tánh cũng phải khác nhau? Vậy đối với các pháp tướng khác nhau, làm sao có thể an lập nơi pháp tánh nhất tướng? Khi đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, làm sao chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh? Nếu đại Bồ Tát chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh, thì chẳng thể hành sâu Bát Nhã. Nếu chẳng thể hành sâu Bát Nhã thì chẳng thể từ bậc Bồ Tát này tiến đến bậc Bồ Tát khác. Nếu chẳng được từ bậc Bồ Tát này tiến đến bậc Bồ Tát khác thì chẳng thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu chẳng vào được Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì chẳng thể vượt qua các bậc Thanh văn và Độc giác. Nếu chẳng vượt qua được các bậc Thanh văn và Độc giác thì chẳng thể viên mãn thần thông Ba la mật. Nếu chẳng viên mãn được thần thông Ba la mật thì chẳng thể đối với các thần thông, du hý tự tại. Nếu đối với các thần thông, chẳng du hý tự tại được thì chẳng thể viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nếu chẳng viên mãn được bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thì chẳng thể từ cõi Phật này tới cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Nếu chẳng được từ cõi Phật này tới cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn thì chẳng thể ở chỗ chư Phật trồng các căn lành. Nếu chẳng được ở chỗ chư Phật trồng các căn lành thì chẳng thể nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Nếu chẳng được nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình thì chẳng thể chứng được Vô Thượng Bồ đề, chuyển bánh xe chánh pháp độ chúng hữu tình khiến cho lìa hẳn sanh tử ác thú?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như ngươi đã nói, các dị sanh và các Thánh giả cùng với tánh của tất cả pháp bình đẳng không sai khác. Nhưng tướng của tất cả pháp đây và tướng của các hữu tình đều khác nhau nên tánh cũng phải khác. Vậy thì pháp tánh cũng phải khác nhau. Đối với các pháp tướng khác nhau, làm sao có thể an lập nơi pháp tánh nhất tướng? Khi đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao chẳng phân biệt pháp và các hữu tình có các thứ tánh, cho đến nói rộng như trên?

Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Pháp tánh của các sắc là tánh không chăng? Pháp tánh của các thọ, tưởng, hành, thức là tánh không chăng? Như vậy cho đến tất cả pháp tánh hữu vi, vô vi là tánh không chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Tất cả pháp tánh đều là tánh không.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ở trong tánh không, tướng khác nhau của các pháp có thể đắc được chăng? Nghĩa là tướng khác nhau của sắc, nói rộng cho đến tất cả tướng khác nhau của hữu vi, vô vi có thể đắc được chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Ở trong tánh không, tất cả tướng khác nhau đều chẳng thể đắc.

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Do đây phải biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải là tất cả phàm phu ngu si dị sanh, cũng chẳng lìa tất cả phàm phu ngu si dị sanh. Như vậy, cho đến chẳng phải là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng chẳng lìa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Pháp tánh bình đẳng chẳng phải là sắc cũng chẳng lìa sắc; chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến chẳng phải pháp hữu vi và vô vi, cũng chẳng lìa pháp hữu vi và vô vi.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vậy pháp tánh bình đẳng chính là hữu vi hay vô vi?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Pháp tánh bình đẳng chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi. Nhưng lìa pháp hữu vi, pháp vô vi thì chẳng thể được; lìa pháp vô vi, pháp hữu vi cũng chẳng thể được.

Thiện Hiện nên biết! Cõi hữu vi, hoặc cõi vô vi, hai cõi như thế chẳng hợp chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương thế tục mà nói, chẳng nương thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải trong thắng nghĩa thân hành, ngữ hành, ý hành có thể được; chẳng lìa thân hành, ngữ hành, ý hành, thắng nghĩa có thể được. (Q.478, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Pháp tánh bình đẳng của pháp hữu vi và pháp vô vi gọi là thắng nghĩa, chẳng phải lìa tất cả hữu vi, vô vi riêng có thắng nghĩa. Cho nên, khi đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chẳng động thắng nghĩa mà hành Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp độ chúng hữu tình, khiến cho dứt hẳn sanh, lão, bệnh, tử, chứng được Niết bàn tuyệt đối an vui.

 

Lược giải:

 

1. “Nói Thật”:

 

Vì tất cả pháp là vô sở hữu, vì tất cả pháp không có tự tánh, nên tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Nhưng chẳng có pháp nào có tự tánh, nên nói tất cả là không. Trong không thì chẳng có tạp nhiễm hay thanh tịnh. Vì vậy, Phật bảo tất cả pháp tánh bình đẳng là pháp thanh tịnh. “Vì pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới như hư không, cảnh giới bất tư nghì, dù có Phật ra đời hay không có Phật ra đời thì tánh tướng của các pháp vẫn thường trụ. Đấy gọi là tất cả các pháp tánh bình đẳng. Tánh bình đẳng đây gọi là pháp thanh tịnh. Đây nương vào thế tục nói là thanh tịnh, chẳng phải nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế không có sự phân biệt, ngôn ngữ dứt, bặt hý luận”.

Nếu tất cả pháp “như mộng, như tượng, như tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa, như thành Tầm hương,… tuy hiển hiện như có nhưng không thật có. Vậy làm sao các đại Bồ Tát nương vào pháp chẳng thật có đây để phát tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rồi tuyên thệ: Ta sẽ viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Ta sẽ viên mãn thù thắng thần thông Ba la mật. Ta sẽ viên mãn phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật. Ta sẽ viên mãn 18 Phật bất công… cho đến viên mãn tất cả pháp Phật. Rồi sẽ phát khởi diệu âm biến khắp mười phương vô biên thế giới, tùy theo tâm, tâm sở của các hữu tình hiểu biết khác nhau mà nói nhiều thứ pháp môn vi diệu khiến được lợi vui?”

“Tuy biết tất cả pháp như mộng cho đến như thành Tầm hương đều không thật có, thì tại sao khi đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phát đại thệ nguyện rằng: Ta sẽ viên mãn tất cả công đức, làm lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình?”

Đó là những thắc mắc của cụ thọ Thiện Hiện mà cũng là những thắc mắc lớn của chúng ta! Phật trả lời:

“… Pháp chẳng thật có còn chẳng thể hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, huống nữa là có khả năng viên mãn… Pháp chẳng thật có chẳng thể thành tựu sự nghiệp sở nguyện. Pháp chẳng thật có chẳng thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

“…Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên thiện pháp khác chẳng thật có, nên chẳng thể chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

“…phải biết các pháp như thế, tất cả đều là pháp suy nghĩ tạo tác. Các pháp do suy nghĩ tạo tác đều chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí”

Câu trả lời từ kim khẩu của Phật, chẳng khác nào tiếng sét đập mạnh ngang tai. Tất cả pháp kể cả pháp Phật đều do tư duy tạo tác mà ra, những pháp ấy chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí. Vậy, bao nhiêu lời nói, bao nhiêu giấy mực, bao nhiêu lời khuyên bảo, táng tụng các pháp mầu Phật đạo… rốt cục đổ sông đổ biển. Đến đây chúng ta chẳng khác nào người câm ăn phải mướp đắng. Vậy, công trình xây dựng đạo Phật ở chỗ nào? Đâu là lập cước của đạo Phật?

Phật thuyết tiếp:

“Các pháp như thế đối với đạo Bồ đề tuy có thể dẫn phát, song đối với quả Bồ đề không có tác dụng giúp ích gì. Bởi các pháp này không sanh, không khởi, không có thật tướng nên khi các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, từ sơ phát tâm, tuy khởi các loại thiện nơi thân, ngữ, ý như là tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy cho đến hoặc tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, mà biết tất cả đều như mộng, như bóng, như tiếng vang, như quáng nắng, như ảo ảnh, như huyễn hóa và như thành Tầm hương đều chẳng thật có”.

“… Các pháp như thế tuy chẳng thật có, nhưng nếu chẳng viên mãn thì quyết định chẳng thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Tới đây chúng ta có thể thở ra nhẹ nhỏm: Biết tất cả pháp là như huyễn như mộng nên đừng mong chờ nắm bắt, đừng bám vúi vào bất cứ pháp nào dù là pháp thắng diệu mang nhiều công đức nhất, lấy vô sở hữu bất khả đắc viên mãn tất cả pháp Phật thì chứng được Vô Thượng Bồ đề. Nhưng với điều kiện là đừng thủ tâm chấp tướng, đừng lấy cái ngã tu Phật, cũng chẳng hành nhị pháp tu đạo. Kinh MHBNBLMĐ nói:

“Hành “2 pháp” chẳng có đạo, chẳng có quả, hành “chẳng 2 pháp” cũng chẳng có đạo, chẳng có quả. Chẳng dùng “2 pháp” (nhị pháp), cũng chẳng dùng “chẳng 2 pháp” (bất nhị pháp) thì đó mới tức là đạo, tức quả vậy.

Vì sao? Vì nói dùng pháp ấy mà được đạo, được quả là hý luận, nói dùng pháp ấy mà chẳng được đạo, chẳng được quả cũng là hý luận. Nơi các pháp bình đẳng chẳng có hý luận chẳng có tướng hý luận. Các pháp chẳng có hý luận là các pháp bình đẳng”.

Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 86, “Bình Đẳng”, tập 5, quyển 95, giải thích như sau:

“Dùng “2 pháp” (nhị pháp) mới phân biệt có địa ngục, có ngạ quỷ, có súc sanh, có trời, có người; phân biệt có phàm phu, có các bậc thánh hiền... dẫn đến có các đức Phật v.v...

Dùng “chẳng 2 pháp” (bất nhị pháp) thì chẳng có các sự phân biệt như vậy. Vì sao? Vì Phật pháp là tướng tịch diệt, chẳng có hý luận. Nếu ở trong Phật pháp mà còn phân biệt có các pháp tướng sai khác, như có tướng địa ngục, tướng ngạ quỷ, tướng súc sanh v.v... thì chẳng phải là tịch diệt nữa. “Chẳng 2 pháp” (bất nhị pháp) là chẳng có hý luận.

Phật ở nơi tướng tịch diệt mà vẫn thường vì chúng sanh phân biệt các pháp. Tuy phân biệt các pháp mà chẳng đọa vào hý luận, cũng chẳng ly thật tướng pháp”.

“Phật bất động ở nơi hết thảy các pháp, mà phân biệt được hết thảy các pháp. Do bất động mà phân biệt các pháp như vậy, nên chẳng có chấp “hai tướng” (nhị tướng), cũng chẳng có chấp “một tướng” (nhất tướng) vậy”.

 

2. Tất cả pháp tánh đều rỗng không.

 

Pháp tánh của sắc là rỗng không, pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức là rỗng không. Pháp tánh của 12 xứ, 18 giới cũng rỗng không. Pháp tánh của tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng cho đến Nhất thiết chủng trí… cũng rỗng không. Pháp tánh của phàm phu ngu si rỗng không. Pháp tánh của tùy tín hành, tùy pháp hành, Đệ bát, cho đến Phật Vô Thượng cũng rỗng không. Pháp tánh của pháp thế gian, xuất thế gian rỗng không. Pháp tánh của pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi cũng rỗng không. Nói chung, tất cả pháp tánh đều là rỗng không.

Trong cái rỗng không, tất cả tướng sai khác đều chẳng thể nắm bắt được. Do đó nên biết, pháp tánh bình đẳng chẳng phải sắc, chẳng lìa sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức; pháp tánh bình đẳng chẳng phải 12 xứ, 18 giới, chẳng lìa 12 xứ, 18 giới; pháp tánh bình đẳng chẳng phải tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết chủng trí… cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác, cũng chẳng lìa tất cả các pháp ấy; pháp tánh bình đẳng chẳng phải pháp thế gian xuất thế gian, chẳng lìa pháp thế gian xuất thế gian; chẳng phải pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi, chẳng lìa pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi. Vì lìa pháp hữu vi, thì không có pháp vô vi; lìa pháp vô vi, thì không có pháp hữu vi.

Để giải thích phần này, Đại Trí Độ Luận phẩm “Bình Đẳng”, nói:

“Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Như Phật chẳng động ở nơi các pháp bình đặng, thì làm sao phàm phu, Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng đều chẳng động ở nơi các tướng bình đẳng? Như vậy, Phật làm sao phân biệt được các pháp có tướng sai khác nhau, như tướng sắc khác... dẫn đến tướng pháp hữu vi khác, tướng pháp vô vi khác? Nếu chẳng có phân biệt như vậy thì làm sao Bồ Tát tu từ địa này lên địa khác,... dẫn đến thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ?

Phật dạy: Tướng sắc là không chăng? Dẫn đến tướng Phật là không chăng? Trong không thì có các tướng sai khác có khả đắc chăng?

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Các pháp tướng đều là không. Trong rốt ráo không, trong vô tướng, thì làm sao nói các pháp tướng sai khác được.

Phật dạy: Trong “không” chẳng có các pháp tướng sai khác. Pháp “không” là thật pháp, thì làm sao ở trong “không” ông lại phân biệt các pháp, và nêu lên các lời vấn nạn? Trong rốt ráo “không” thì “không” là bất khả đắc, các pháp tướng mỗi mỗi đều bất khả đắc, thì ông còn vấn nạn làm gì nữa?

Bởi vậy nên phải biết rằng các pháp bình đẳng là chẳng có phân biệt. Ở nơi các pháp bình đẳng đó, chẳng có phàm phu, cũng chẳng ly phàm phu... dẫn đến chẳng có Phật, cũng chẳng ly Phật. Tướng của phàm phu cũng tức là tướng của Thánh Hiền... dẫn đến cũng tức là tướng của Phật. Bởi vậy nên nói Thánh Hiền chẳng phải phàm phu mà cũng chẳng ly
phàm phu... dẫn đến Phật chẳng phải phàm phu mà cũng chẳng ly phàm phu vậy.

Ngài Tu Bồ Đề muốn hiểu rõ hơn về tướng bình đẳng, nên hỏi: Các pháp bình đẳng là pháp hữu vi hay là pháp vô vi?

Phật dạy: Chẳng phải là pháp hữu vi, cũng chẳng phải là pháp vô vi.

Vì sao? Vì pháp hữu vi là pháp hư vọng, chẳng thật; còn pháp vô vi thì chẳng có sanh trú diệt, nên là vô pháp (chẳng có pháp nào như vậy). Nếu đã là vô pháp, thì cũng chẳng thể gọi là pháp vô vi được.

Vì sao? Vì do đối đãi với hữu vi, mà nói có vô vi; nếu ly hữu ra, thì vô vi là bất khả đắc. Ví như dài và ngắn là hai khái niệm tương đãi; nếu chẳng có khái niệm về dài, thì cũng chẳng có khái niệm về ngắn, và ngược lại.

Hỏi: Pháp hữu vi là pháp vô thường; pháp vô vi là pháp thường. Như vậy vì sao nói, ly hữu vi, thì vô vi là bất khả đắc?

Đáp: Pháp vô vi là pháp vô phân biệt (chẳng có phân biệt), là pháp vô tướng (chẳng có tướng).

Nếu pháp vô vi là thường, thì chẳng phải là vô tướng được vậy. Chỉ vì nhằm phá hữu vi, nên mới nói vô vi. Một khi hữu vi đã bị phá rồi, thì chẳng cần nói đến vô vi nữa. Ví như người bị giam cầm ở trong ngục tối, tìm mọi cách đục thủng vách tường, để thoát ra bên ngoài. Khi vách tường đã được đục thủng rồi, thì nó chẳng còn là vật ngăn cách bên
trong và bên ngoài nữa. Lúc bấy giờ thì khoảng hư không bên trong và khoảng hư không bên ngoài đã hòa đồng với nhau, chẳng còn có sự phân biệt, chẳng còn sai khác nữa.

Pháp vô vi chẳng phải do các nhân duyên sanh. Sở dĩ lập ra tánh vô vi là để phá chấp về tánh hữu vi. Khi đã phá hữu vi rồi, thì chẳng còn phân biệt hữu vi và vô vi nữa.

Pháp hữu vi và pháp vô vi đều là bất khả đắc, chẳng hợp, chẳng tan, đều là nhất tướng (một tướng), là vô tướng (chẳng có tướng) vậy.

Vì y theo thế tục đế mà nói có hữu vi, có vô vi; chẳng phải là y theo đệ nhất nghĩa đế. Vì sao? Vì ở nơi đệ nhất nghĩa đế thì chẳng còn có thân hành, khẩu hành và ý hành. Hữu vi và vô vi bình đẳng mới tức là đệ nhất nghĩa đế.

Bồ Tát biết rõ pháp hữu vi và pháp vô vi đều là bình đẳng tướng, là nhất tướng, là vô tướng, mà chẳng chấp bình đẳng tướng, nhất tướng, vô tướng đó.

Bồ Tát an trú bất động ở nơi đệ nhất nghĩa mà làm các việc lợi ích cho chúng sanh, dùng các lực phương tiện để vì chúng sanh thuyết pháp.

Hãy suy nghĩ về lời chứng giải vi diệu này, nó thật sự giúp chúng ta thấu hiểu tất cả các giáo lý khó khăn mà đôi khi chúng ta tưởng chừng như nghịch đảo theo trí năng thường tục. Nhưng chẳng có gì nghịch đời đối vời Thánh giả khi thâm nhập được pháp không, pháp như./.

 

---o0o---

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com