Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

59. Phẩm "Tăng Thượng Mạn"

03/09/202008:09(Xem: 8757)
59. Phẩm "Tăng Thượng Mạn"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-444

PHẨM "TĂNG THƯỢNG MẠN"


Phần sau quyển 452 đến đầu quyển 454, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương  phẩm “Khéo Học”, và phẩm "Dứt Phân Biệt" phần sau Q.332

cho đến phần đầu Q.335, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le


 

 

Gợi ý:

Phẩm này tương đối dài, vì phẩm này của Hội thứ II nhập chung phần sau phẩm “Khéo Học” với phẩm “Dứt Phân Biệt” của Hội thứ I, ĐBN với nhau.

Phần đầu phẩm “Tăng Thượng Mạn” nói về Bồ Tát Bất thối chuyển, kế đến nói về Bồ Tát tăng thượng mạng và Bồ Tát tu hạnh viễn ly. Kinh cũng đề cập đến bạn lành chân tịnh (hay gọi là thiện tri thức) của Bồ Tát và nói thế nào là tướng của Bát nhã Ba la mật, đồng thời so sánh công đức của người tự mình tu tập các pháp Phật với người đem Bát nhã Ba la mật giảng nói cho người.

Phần sau của phẩm “Tăng Thượng Mạn” lại đề cập đến “Dứt Phân Biệt”. Nghĩa là trong cùng một phẩm mà thuyết quá nhiều giáo lý khác nhau. Phẩm tựa của Hội thứ II cũng khác với phẩm tựa của Kinh MHBNBLMĐ có tên là “Mộng Trung Bất Chứng”, mặc dù nội dung phần đầu của hai Hội như nhau.

 

Tóm lược:

 

1. Phần đầu của phẩm “Tăng Thượng Mạn”, nói về:

 

(Hành động tướng trạng của Bồ Tát Bất thối chuyển)

 

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Nếu Bồ Tát, cho đến trong mộng cũng chẳng ưa muốn ngợi khen là Thanh Văn và bậc Độc giác. Đối pháp tam giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới)cũng chẳng khởi tâm ưa muốn được ngợi khen. Thường quán các pháp như mộng, như vang, như tượng, như huyễn, như ánh nắng, như bóng sáng, như việc biến hóa, như thành tầm hương; dù quán sát như thế mà chẳng chứng thật tế. Phải biết Bồ Tát này có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng cung kính vây quanh nghe thuyết pháp. Đã nghe pháp rồi, khéo hiểu nghĩa thú. Đã hiểu nghĩa thú rồi, tinh tấn tu hành: Pháp tùy pháp hành và hòa kính hành cùng tùy pháp hành(1). Phải biết Bồ Tát này có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu, tám mươi tùy hảo viên mãn trang nghiêm, hào quang một tầm tỏa quanh; cùng vô lượng chúng bay vọt hư không, hiện đại thần thông, thuyết Chánh pháp; dạy họ làm Phật sự, đưa họ đến vô số cõi Phật ở mười phương khác để làm Phật sự thì nên biết Bồ Tát đó có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mộng thấy cuồng tặc phá hoại thành quách; hoặc thấy lửa khởi đốt cháy xóm làng, hoặc thấy sư tử hổ lang thú dữ, rắn độc rít ác muốn đến hại thân; hoặc thấy oan gia muốn chém đầu, hoặc thấy cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn thân sắp đến mạng chung; hoặc thấy tự thân lạnh nóng, đói khát và những việc khổ khác làm bức não. Thấy việc đáng sợ hãi như thế thảy chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng buồn rầu. Từ mộng tỉnh rồi, liền nghĩ: Tam giới phi nhân đều như mộng. Khi ta chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sẽ vì hữu tình thuyết pháp tam giới tất cả hư dối đều như cảnh mộng, khiến các hữu tình chẳng sanh chấp trước. Phải biết Bồ Tát này có tướng Bất thối chuyển. (Q.452, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát cho đến trong mộng thấy địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, các loại hữu tình, bèn khởi nghĩ này: Ta phải tinh siêng tu Bồ Tát hạnh mau tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta không có danh địa ngục, bàng sanh, quỷ giới ác thú. Từ mộng tỉnh rồi, cũng khởi nghĩ như vậy. Thiện Hiện! Phải biết Bồ Tát này khi làm Phật, trong cõi Phật kia định không ác thú. Vì sao? Hoặc mộng, hoặc giác, các pháp không hai, không hai phần vậy. Phải biết Bồ Tát này có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát trong mộng thấy thành ấp xóm làng bị cháy, bèn phát thệ nguyện: Nếu ta đã nhận ký Bất thối chuyển sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện lửa dữ đây tức thì tắt gấp, biến thành mát mẻ. Nếu Bồ Tát này tác nguyện đây rồi, lửa thấy trong mộng tức thì tắt lẹ. Phải biết đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu Bồ Tát này tác nguyện đây rồi mà lửa trong mộng chẳng tắt, phải biết chưa được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi giác hiện thấy lửa dữ bỗng khởi đốt các thành ấp hoặc đốt xóm làng, bèn khởi nghĩ này: Ta ở trong mộng hoặc ở lúc tỉnh, từng thấy tự có tướng Bất thối chuyển, chưa xác định thật hư. Bèn nguyện cho lửa kia mau tắt. Nhưng nguyện rồi lửa không tắt mà lại cháy lan rộng thêm. Như vậy, không hẳn là Bồ Tát không có tướng bất thối chuyển mà có thể là do cộng nghiệp của dân cư tại vùng bị cháy đã tạo ác nghiệp phá hoại Chánh pháp. Nên nay phải chịu tai họa khóc hại như thế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nương ý trước đã nói các thứ nhân duyên có thể cho biết là Bồ Tát Bất thối chuyển, còn có các hành động tướng trạng khác cũng có thể cho biết là Bồ Tát Bất thối chuyển. Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải nói, ngươi nên lóng nghe, khéo nghĩ.

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin nói cho.

Phật bảo:

- Hoặc đại Bồ Tát thấy có nam hay nữ nhân đang bị phi nhân nhập xác, liền nghĩ: Nếu chư Phật biết ta có khả năng tu Bồ Tát hạnh quyết chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao thì nên cho ta uy lực của bậc bất thối chuyển để cứu vớt nam hay nữ nầy chẳng bị loài phi nhơn quấy nhiễu; loài phi nhơn ấy theo lời ta bảo liền bỏ đi. Đó là Bồ Tát có tướng bất thối chuyển. Trái lại, đại Bồ Tát ấy nguyện rồi mà loài phi nhơn kia chẳng bỏ đi thì nên biết đại Bồ Tát ấy chưa từng được thọ ký bậc bất thối chuyển.

 

(Hành động tướng trạng của kẻ tăng thượng mạn)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ Tát chưa khéo tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chưa khéo an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chưa khéo an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Chưa khéo an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Chưa khéo tu học bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Chưa khéo tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chưa khéo tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chưa khéo tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chưa khéo tu học Đà la ni môn Tam ma địa môn. Chưa vào Bồ Tát chánh tánh ly sanh. Chưa đủ tu tập tất cả Phật pháp, xa lìa Bồ Tát phương tiện khéo léo. Đối với các ma chưa năng giác biết. Chẳng tự độ lượng căn lành nhiều ít, bèn bị ác ma dối gạt. Bồ Tát này thấy có nam tử hoặc có nữ nhân bị phi nhân ám bắt chịu các khổ não, chẳng thoát khỏi được, liền vội phát nguyện: Nếu tôi đã từ quá khứ được chư Phật trao ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời khiến cho nam tử này hoặc nữ nhân đây chẳng bị phi nhân nhiễu hại. Bọn phi nhân theo lời tôi nguyện, liền bỏ đi. Khi Bồ Tát này khởi lời đây rồi, bấy giờ ác ma nghe được, muốn dối gạt, nên liền xua đuổi phi nhân kia. Vì sao? Vì oai lực của ác ma mạnh hơn, nên phi nhân phải bỏ đi.

Bồ Tát được việc đây rồi, rất đỗi vui mừng, khởi nghĩ rằng: Phi nhân nay bỏ đi là do oai lực ta. Vì sao? Vì phi nhân do ta phát nguyện, tức tốc buông tha nam tử nữ nhân đây, ngoài ra không duyên cớ nào khác. Bồ Tát này chẳng biết ác ma đã sua đuổi phi nhân kia mà tưởng là do nguyện lực của mình, nên sanh vui mừng. Cậy đây coi nhẹ các Bồ Tát khác, liền phô trương: Ta đã từ quá khứ được chư Phật trao ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các ngươi chưa được chư Phật trao ký, chẳng nên theo ta chỉ nhọc công thôi.

Do đó, Bồ Tát này khinh chê các Bồ Tát khác, phát sanh lắm thứ tăng thượng mạn, nên xa lìa Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng năng chứng được Nhất thiết trí trí, dù siêng năng tinh tấn nhưng vẫn rơi vào bậc Thanh Văn hoặc bậc Độc giác. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ Tát cần khéo giác biết việc ác ma, chẳng nên vọng khởi tăng thượng mạn, lui mất sở cầu Vô thượng Phật quả.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là Bồ Tát tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật chưa được lâu, lại xa lìa phương tiện khéo léo nên dễ bị ác ma dối gạt: Ác ma hóa làm các thứ hình tượng, đến trước Bồ Tát nói lời như vầy: Quý thay, nam tử! Ngươi tự biết quá khứ chư Phật đã từng trao ngươi ký đại Bồ đề. Ngươi đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề quyết chẳng thối chuyển. Thân ngươi, cha mẹ, anh em, chị em, bạn thân, quyến thuộc cho đến bảy đời, danh tự sai khác ta đều thạo biết; thân ngươi sanh tại phương đó, nước đó, thành đó, ấp đó, trong xóm làng đó; ngươi sanh trong tướng vương tại năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, giờ ấy, đêm ấy. Ác ma nếu thấy Bồ Tát bẩm tánh mềm mại, căn tánh ám độn, bèn nói dối rằng: Ngươi ở đời trước căn tánh đã từng như thế. Nếu thấy Bồ Tát bẩm tánh cứng cỏi, các căn sắc bén, bèn nói dối rằng: Ngươi ở đời trước căn tánh cũng từng như thế.

Nếu thấy Bồ Tát ở chỗ thanh vắng, hoặc thường khất thực, chỉ nhận thức ăn một lần, hoặc chỉ ăn một bữa, hoặc chỉ ăn trong một bát, hoặc ở trong gò mả, hoặc ở đất trống, hoặc ở dưới gốc cây, chỉ dùng giẻ rác làm áo, chỉ mặc ba áo, thường ngồi chẳng nằm, ít muốn biết đủ, hoặc thích hạnh viễn ly, hoặc đầy đủ chánh niệm, hoặc thích định vắng lặng, hoặc đầy đủ trí huệ vi diệu, lại coi thường lợi dưỡng, xem nhẹ khen chê, thích cần kiệm, không xoa dù nơi chân, ít ngủ nghỉ, lìa trạo cử, ăn nói ôn hòa, thường ít nói. Ác ma thấy Bồ Tát như thế, bèn nói dối rằng: Ngươi ở đời trước cũng từng như thế. Vì sao? Vì trọn nên công đức như vậy như vậy, thế gian đồng thấy, đời trước chắc có các thứ công đức như vậy, nên vui mừng chớ nên tự khinh. Bồ Tát này nghe ác ma kia nói các công đức thiện căn quá khứ hiện tại thù thắng như vậy, rất đỗi vui mừng sanh tăng thượng mạn, lấn khinh hủy mắng các Bồ Tát khác.

Bấy giờ, ác ma biết các Bồ Tát ám độn khởi tăng thượng mạn, lấn khinh người khác, bảo rằng: Ngươi định trọn nên công đức thù thắng, quá khứ được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trao ký, đã có tướng hiện hành như thế. Nên ngươi đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhất định sẽ chứng được chẳng thối chuyển nữa.

Khi ấy ác ma muốn làm rối Bồ Tát, hoặc giả hóa làm hình tượng Bí sô, hoặc giả hóa làm cha mẹ, bạn thân, người phi người tìm đến, cao tiếng xướng rằng: Hay thay! Đại sĩ mới năng trọn nên công đức như thế. Chư Phật quá khứ đã lâu trao ký đại Bồ đề cho ngươi, ngươi đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng thối chuyển. Vì sao? Các thắng tướng công đức Bồ Tát bậc Bất thối chuyển ngươi đều có đủ, nên tự tôn trọng chớ sanh nghi lầm. Khi Bồ Tát đây nghe lời kia rồi, lòng tăng thượng mạn lại càng kiên cố.

Thiện Hiện! Như ta đã nói diễn tiến tướng trạng mà đại Bồ Tát bất thối chuyển thực sự đạt được thì các Bồ Tát này đều không có.

Thiện Hiện! Nên biết Bồ Tát này bị ma khống chế và làm rối loạn không được tự tại. Vì sao? Vì thực sự họ chưa có các hành vi tướng trạng của đại Bồ Tát bất thối chuyển. Chỉ nghe ác ma giả vờ nói đến đức độ và tên họ của mình, người ấy liền sanh tăng thượng mạn, lấn lướt, khinh khi, chửi mắng các Bồ Tát khác.

Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên khéo giác chứng, nên khéo giác biết các việc ác ma, chớ bị dối gạt sanh tâm kiêu mạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ Tát bị ma nắm giữ, bị ma làm rối, chỉ nghe hư danh mà sanh kiêu mạn. Vì sao? Bồ Tát này trước chưa tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Trước chưa an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Trước chưa an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Trước chưa an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Trước chưa tu học bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Trước chưa tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Trước chưa tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Trước chưa tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Trước chưa tu học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Trước chưa tu học Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Trước chưa tu học năm nhãn, sáu thần thông. Trước chưa tu học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Trước chưa tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Trước chưa tu học Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trước chưa tu học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Bởi nhân duyên này nên bị ác ma khuynh đảo.

Bồ Tát này chẳng năng biết rõ hành tướng bốn ma (ngũ ấm ma, tử ma, thiên ma và phiền não ma), do nhân duyên đây nên bị ác ma khuynh đảo. Bồ Tát này chẳng biết rõ sắc thọ tưởng hành thức. Chẳng biết rõ mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng biết rõ nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng biết rõ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng biết rõ địa giới cho đến thức giới. Chẳng biết rõ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng biết rõ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng biết rõ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, chẳng biết tất cả pháp Phật. Bởi nhân duyên đây nên bị ác ma khuynh đảo: “Ngươi đã tu hành hạnh nguyện đã mãn, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi ngươi thành Phật sẽ được danh hiệu tôn quý thù thắng, chư Phật sẽ thọ ký cho ngươi”.

Lúc đó, vì xa lìa Bát nhã Ba la mật, không có phương tiện thiện xảo, nên khi nghe ma thọ ký, Bồ Tát ấy nghĩ: Lạ thay, người này báo trước là ta sẽ được thành Phật với công đức và danh hiệu tương ưng với điều ta nghĩ và ước nguyện từ lâu. Do đó biết được chư Phật quá khứ đã thọ ký đại Bồ đề cho ta, chắc chắn ta sẽ đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không còn thối lui nữa. Lúc thành Phật nhất định ta sẽ được danh hiệu tôn quí và công đức như vậy. Bồ Tát ấy bị ác ma, hoặc quyến thuộc của ma, hoặc ma giả làm Sa môn đến thọ ký: “Tương lai ông sẽ thành Phật có danh hiệu như vậy, như vậy nên vị ấy càng tăng thêm kiêu mạn và nghĩ: Đời vị lai chắc chắn ta sẽ thành Phật, đạt được công đức và danh hiệu như vậy, các Bồ Tát khác đều không bằng ta”.

Thiện Hiện! Phải biết Bồ Tát này do khởi kiêu mạn, coi nhẹ khinh hủy các Bồ Tát khác, nên xa lìa Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Phải biết Bồ Tát này xa lìa Bát nhã Ba la mật, không phương tiện khéo léo, nới bỏ bạn lành, thường bị bạn ác nhiếp thọ, nên phải rơi vào Thanh Văn hoặc bậc Độc giác.

Thiện Hiện! Nên biết nếu ngay đời này, Bồ Tát đó quay lại chánh niệm, hết lòng ăn năn hối cải, xả bỏ tâm kiêu mạn, thường thân cận bạn lành thì tuy phải trôi lăn trong sanh tử suốt một thời gian dài nhưng sau đó vị ấy dựa vào phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, lần lần tu học và sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Phải biết nếu ngay trong đời này, Bồ Tát đó không có chánh niệm, không ăn năn hối cải, không xả bỏ tâm kiêu mạn, không thích gần gũi bạn lành thì chắc chắn sau một thời gian dài trôi lăn trong sanh tử, dù tinh tấn tu các nghiệp lành vị ấy vẫn bị rơi vào địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác

Ví như Bí sô cầu Thanh Văn, phạm vào bốn trọng tội bèn chẳng phải Sa Môn, chẳng phải con Phật, quyết định chẳng năng được bốn quả Sa Môn. Bồ Tát hư vọng cũng vậy, chỉ nghe ma nói thành Phật bèn khởi khinh mạn hủy chê các chúng Bồ Tát khác, phải biết tội này lớn hơn bốn trọng tội của Bí sô kia phạm phải vô lượng bội số. (Q.453, ĐBN)

Thôi không nói bốn trọng tội do Bí sô kia đã phạm, tội Bồ Tát đây nặng hơn năm tội vô gián cũng vô lượng bội số. Vì sao? Vì Bồ Tát này thật chẳng trọn nên công đức thù thắng, nghe ác ma nói thành Phật hư danh, bèn tự kiêu mạn khinh khi Bồ Tát khác, vậy nên tội này hơn năm tội vô gián. Do đây nên biết, Nếu Bồ Tát này muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, cần khéo giác biết ma sự vi tế trao ký hư danh.

 

(Thế nào là tu hạnh viễn ly?)

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Bồ Tát tu hạnh viễn ly(2), nghĩa là ở ẩn nơi núi rừng, đầm vắng, đồng nội vắng vẻ, yên tịnh ngồi yên tư duy. Lúc ấy có ác ma đến chỗ người ấy, cung kính khen ngợi nói: “Lành thay! Đại sĩ có thể tu hạnh viễn ly chơn chánh như vậy, hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng khen ngợi, trời Đế Thích, chư thiên, thần tiên đều ủng hộ, cúng dường, tôn trọng. Ông phải thường ở đây đừng có đi nơi khác”.

Thiện Hiện! Phải biết Ta chẳng khen ngợi các Bồ Tát tu hạnh viễn ly ở chỗ thanh vắng, đồng nội núi rừng, ngồi yên suy nghĩ.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Tại sao Như Lai không khen ngợi công đức viễn ly ở nơi vắng vẻ như núi rừng, đồng trống?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát không cần phải ở núi rừng, chằm trống, đồng nội chỗ thanh vắng, hoặc trụ thành ấp, xóm làng, vương đô là những chỗ hỗn tạp. Bồ Tát chỉ cần xa lìa phiền não ác nghiệp và các tác ý Thanh Văn và Độc giác, siêng tu Bát nhã Ba la mật và tu các công đức thắng hạnh khác, đấy được gọi là Bồ Tát thực hành hạnh viễn ly chơn thật.

Hạnh viễn ly đây được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng ngợi khen, chư Phật Thế Tôn công nhận hứa cho. Các chúng Bồ Tát nên thường tu học, hoặc ngày hoặc đêm nên chính suy nghĩ, tinh tấn tu hành pháp viễn ly này, đấy gọi Bồ Tát tu hạnh viễn ly. Hạnh viễn ly đây chẳng tạp ý Thanh Văn Độc giác, chẳng tạp lẫn tất cả phiền não ác nghiệp, lìa ồn tạp, thanh tịnh rốt ráo, khiến các Bồ Tát mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, lợi vui hữu tình thường không ngừng nghỉ. Việc mà ác ma khen ngợi như ở núi rừng, chằm trống, đồng nội hoang vắng, không dùng ngọa cụ tốt đẹp, tư duy chẳng phải là hạnh viễn ly chơn thật của Bồ Tát. Vì sao? Vì hạnh viễn ly kia còn ồn ào tạp nhiễm, nghĩa là hạnh đó còn xen lẫn ác nghiệp phiền não hoặc còn tác ý về quả Thanh văn, Độc giác, chẳng thể siêng năng tu học Bát nhã Ba la mật, không thể viên mãn Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Phải biết có Bồ Tát tuy muốn tu hành pháp viễn ly mà ma đã khen ngợi, lại sanh tâm kiêu mạn, không thanh tịnh, khinh chê chửi mắng các Bồ Tát khác. Nghĩa là có chúng Bồ Tát dù ở thành ấp xóm làng vương đô mà tâm thanh tịnh, chẳng tạp các thứ phiền não ác nghiệp và tác ý các Thanh Văn Độc giác, tinh siêng tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Tinh siêng an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Tinh siêng an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Tinh siêng an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Tinh siêng tu học bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Tinh siêng tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông thảy công đức thế gian. Tinh siêng tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tinh siêng tu học Bồ Tát thập địa. Tinh siêng tu học Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Tinh siêng tu học năm nhãn, sáu thần thông. Tinh siêng tu học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tinh siêng tu học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tinh siêng tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tinh siêng tu học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nghiêm tịnh cõi Phật thành thục hữu tình. Dù ở chốn ồn náo mà tâm vắng lặng, hằng siêng tu hành hạnh viễn ly chơn thật. Đối với chúng Bồ Tát chơn tịnh như thế, tâm thường ngạo mạn khinh dễ hủy mắng bài báng lấn át.

Thiện Hiện! Phải biết Bồ Tát này xa lìa Bát nhã Ba la mật, không phương tiện khéo léo, nên dù ở đồng nội rộng một trăm do tuần, giả sử trải một năm, hoặc năm, hoặc mười, hoặc đến trăm ngàn trăm ức, cũng không thể hơn các Bồ Tát tuy ở chốn ồn náo mà tâm vắng lặng, xa lìa các thứ phiền não và các tác ý Thanh Văn, Độc giác.

Thiện Hiện! Phải biết Bồ Tát nói trước tuy tu hạnh viễn ly như thế, mà chẳng xứng thuận tâm các Như Lai. Phải biết các Bồ Tát này xa lìa Bát nhã Ba la mật, không phương tiện khéo léo, nên vọng sanh các thứ phân biệt chấp trước. Vì sao? Vì Bồ Tát này khởi nghĩ: Chỗ tu học ta là chơn viễn ly, nên được phi nhân ngợi khen hộ niệm, kẻ ở thành ấp thân tâm rối loạn ai mà hộ niệm cung kính khen ngợi. Các Bồ Tát này do nhân duyên đây, tâm nhiều kiêu mạn, khinh miệt hủy mắng chúng Bồ Tát, phiền não ác nghiệp ngày càng lớn thêm.

Thiện Hiện! Phải biết các Bồ Tát này đối với chúng Bồ Tát là hàng bị thịt chiên đà la, làm nhiễm ô chúng Bồ Tát khác. Tướng giống như Bồ Tát mà tâm đại tặc trên trời trong người, phỉnh gạt trời, người v.v… Thân kia tuy mặc cà sa mà tâm là đạo tặc. Các kẻ có pháp khí hướng tới Bồ Tát thừa chẳng nên gần gũi, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen ác nhân như thế. Vì sao? Vì phải biết hạng người này ôm tăng thượng mạn, ngoài giống Bồ Tát nhưng bên trong đầy phiền não.

Vậy nên Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát chơn thật chẳng bỏ Nhất thiết trí trí, chẳng bỏ Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; thâm tâm muốn cầu Nhất thiết trí trí, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khắp vì lợi vui các loại hữu tình, chẳng nên gần gũi cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen ác nhân như thế.

Thiện Hiện! Phải biết các Bồ Tát nên thường siêng năng tu sự nghiệp nơi mình, xa lìa sanh tử, chẳng đắm ba cõi. Đối hạng ác tặc chiên đà la kia thường nên phát sanh từ bi hỷ xả, nên khởi nghĩ này: Ta chẳng nên khởi tội lỗi như ác nhân kia. Nếu lỡ thất niệm, liền giác biết khiến mau trừ diệt.

Vậy nên, chúng Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề phải khéo giác biết các việc ác ma, nên siêng tinh tấn xa lìa trừ diệt tội lỗi khinh mạn kẻ khác, siêng cầu Vô Thượng Bồ đề.

 

(Ai là chơn thiện tri thức của Bồ Tát?)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tăng thượng tác ý muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải thường gần gũi, cung kính, cúng dường, tôn trọng ngợi khen chơn thiện tri thức.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền thưa Phật rằng:

- Bậc nào được gọi là chơn thiện tri thức của các Bồ Tát?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là chơn thiện tri thức các Bồ Tát. Tất cả chúng đại Bồ Tát cũng là chơn thiện tri thức các Bồ Tát. Các Thanh Văn và các thiện sĩ năng vì chúng Bồ Tát tuyên nói khai thị phân biệt rõ ràng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật nghĩa thú tương ưng, khiến được dễ hiểu, cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát. Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là chơn thiện tri thức các Bồ Tát. Bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ, Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát. Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát. Dứt hẳn tập khí nối nhau cũng là chơn thiện tri thức Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cùng chúng Bồ Tát làm thầy, làm người hướng dẫn, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm hiểu làm biết, làm trí làm huệ, làm kẻ cứu giúp hộ trì, làm nhà cửa, làm bãi làm cồn, làm nơi qui thú, làm cha làm mẹ. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không cùng chúng Bồ Tát làm người hướng dẫn, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm hiểu làm biết, làm trí làm huệ, làm kẻ cứu giúp hộ trì, làm nhà cửa, làm bãi làm cồn, làm nơi qui thú, làm cha làm mẹ. Chơn như cho đến bất tư nghì giới cùng chúng Bồ Tát làm thầy, làm người hướng dẫn, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm hiểu làm biết, làm trí làm huệ, làm kẻ cứu giúp hộ trì, làm nhà cửa, làm bãi làm cồn, làm nơi qui thú, làm cha làm mẹ. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật cùng chúng Bồ Tát làm thầy làm người hướng dẫn, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm hiểu làm biết, làm trí làm huệ, làm kẻ cứu giúp hộ trì, làm nhà cửa, làm bãi làm cồn, làm nơi qui thú, làm cha làm mẹ. Dứt hẳn tập khí nối nhau cũng cùng chúng Bồ Tát làm thầy làm người hướng dẫn, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm hiểu làm biết, làm trí làm huệ, v.v... Vì tất cả chư Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai, hiện tại đều lấy bố thí, nói rộng cho đến bất tư nghì giới làm thầy làm người hướng dẫn, làm đuốc, làm đèn chiếu soi, làm hiểu làm biết, làm trí làm huệ, v.v... Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả chư Phật Thế Tôn quá khứ vị lai hiện tại đều từ bố thí Ba la mật nói rộng cho đến bất tư nghì giới mà xuất sanh vậy.

Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, phải học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Phải học bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Phải học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Phải học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Phải học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Phải học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Phải học Đà la ni môn, Tam ma địa môn. Phải học năm nhãn, sáu thần thông. Phải học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Phải học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Phải học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Phải học Bồ Tát hạnh. Phải học chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Phải học dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau.

Thiện Hiện! Bồ Tát này đã học bố thí Ba la mật, nói rộng cho đến bất tư nghì giới, lại nên đem bốn nhiếp sự là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự mà nhiếp hóa hữu tình.

Thiện Hiện! Ta quán nghĩa đây nên nói lời này: Sở hữu bố thí Ba la mật nói rộng cho đến bất tư nghì giới cùng chúng Bồ Tát làm thầy làm người hướng dẫn nói rộng cho đến làm cha làm mẹ.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ Tát muốn chẳng theo lời người mà hành, muốn chẳng nương lời người mà trụ, muốn dứt nghi tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện tất cả hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình, nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây nói rộng pháp cần nên học của chúng Bồ Tát. Tất cả chúng Bồ Tát nên tinh cần tu học.

 

(Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy gì làm tướng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy hư không làm tướng, lấy vô trước làm tướng, lấy vô tướng làm tướng. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ở trong tướng Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, các pháp, các tướng đều vô sở hữu, chẳng thể nắm được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Vả có nhân duyên khá nói Bát nhã Ba la mật có diệu tướng, các pháp cũng có tướng như thế ư?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Có nhân duyên nên có thể nói Bát nhã Ba la mật có diệu tướng, các pháp cũng có diệu tướng như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy viễn ly làm tướng. Các pháp cũng lấy viễn ly làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy tánh không làm tướng. Các pháp cũng lấy tánh không làm tướng. Do nhân duyên đây nên nói như vầy: Bát Nhã thẳm sâu có diệu tướng, các pháp cũng có diệu tướng như thế. Vì tất cả pháp tự tánh đều không, lìa tướng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, lấy viển ly làm tướng, thời tất cả pháp đều tánh không, đều lìa, làm sao hữu tình thi thiết có nhiễm có tịnh?

Chẳng phải pháp tánh không có nhiễm có tịnh, cũng chẳng phải pháp lìa có nhiễm có tịnh. Chẳng phải pháp tánh không năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng phải pháp lìa năng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chẳng phải trong tánh không có pháp khá được, cũng chẳng phải trong lìa có pháp khá được. Chẳng phải trong tánh không có Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng phải trong lìa có Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bạch Thế Tôn! Làm sao con hiểu nghĩa thú thẳm sâu mà Phật đã thuyết?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Từ xưa hữu tình có ngã và ngã sở, có tâm chấp ngã và ngã sở không?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy. Từ xưa hữu tình có ngã, ngã sở và tâm chấp chặt ngã, ngã sở.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Chỗ chấp ngã và ngã sở của hữu tình có trống không và xa lìa không?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy! Chỗ chấp ngã và ngã sở của hữu tình đều trống không và xa lìa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Há chẳng phải do chấp ngã và ngã sở mà hữu tình trôi lăn trong sanh tử?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy! Các loại hữu tình bởi chấp ngã, ngã sở nên trôi lăn trong sanh tử.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Hữu tình này trôi lăn trong sanh tử là do có tạp nhiễm. Vì vậy, hành động của hữu tình có nhiễm ô. Nếu các hữu tình không có tâm chấp trước ngã và ngã sở thì không có tạp nhiễm. Nếu không có tạp nhiễm thì không có trôi lăn trong sanh tử. Trôi lăn sanh tử cũng bất khả đắc. Vậy, phải biết hữu tình xa lìa tạp nhiễm. Do không tạp nhiễm mà an lập hữu tình.

Vậy nên, Thiện Hiện! Phải biết hữu tình tuy tự tánh không, xa lìa các tướng, mà an lập có nhiễm có tịnh.

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát năng hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế và tất cả pháp không, xa lìa tướng, thời Bồ Tát này chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ tưởng hành thức. Chẳng hành mười hai xứ, cũng chẳng hành mười tám giới. Chẳng hành nhãn xúc, cũng chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chẳng hành nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng hành địa giới, cũng chẳng hành thủy hỏa phong không  thức giới. Chẳng hành nhân duyên; cũng chẳng hành đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chẳng hành vô minh; cũng chẳng hành hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Chẳng hành bố thí Ba la mật; cũng chẳng hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành nội không; cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng hành chơn như; cũng chẳng hành pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Nói rộng cho đến chẳng hành tất cả pháp Phật.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát năng hành như thế, chẳng bị tất cả thế gian, trời, người, A tu la thảy hàng phục, nếu Bồ Tát năng hành như thế, chẳng bị tất cả Thanh Văn, Độc giác hàng phục, mà năng hàng phục tất cả. Vì sao? Vì Bồ Tát này đã an trụ vào địa vị không gì có thể khiến họ hàng phục, nghĩa là địa vị ly sanh của Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này hằng trụ tác ý Nhất thiết trí trí, chẳng thể khuất phục, như thế thời là gần kề Nhất thiết trí trí, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật nói:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã thuyết! Nếu Bồ Tát năng hành Bát Nhã thẳm sâu như thế và tất cả pháp không, xa lìa các tướng, Bồ Tát này thời chẳng hành sắc, cũng chẳng hành thọ tưởng hành thức. Cho đến chẳng hành Nhất thiết trí; cũng chẳng hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Các pháp như thế năng hành, sở hành và do đây hành, thời hành, xứ hành đều bất khả đắc.

Nếu Bồ Tát này năng hành như thế, chẳng bị tất cả người, trời, A tu la hàng phục. Cũng lại chẳng bị Thanh Văn, Độc giác hàng phục, mà năng hàng phục tất cả.

Bồ Tát này đã được an trụ ngôi vô năng phục, nghĩa là ngôi Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, hằng trụ tác ý Nhất thiết trí trí chẳng thể khuất phục, thời là gần kề Nhất thiết trí trí, mau chứng Vô Thượng chánh Đẳng Bồ đề. 

 

(So sánh công đức của người tự mình tu tập các pháp Phật

với người đem Bát Nhã giảng nói cho người)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Giả sử các loại hữu tình ở châu Nam thiệm bộ đây đều được thân người. Được thân người rồi, phát tâm tu Bồ Tát hạnh, đều chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Có các thiện nam, thiện nữ trọn đời thọ lượng, đem đồ vui thượng diệu ở thế gian, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đây. Lại đem căn lành đã nhóm như thế, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam thiện nữ này, do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu các thiện nam, thiện nữ giữa đại chúng tuyên nói Bát Nhã thẳm sâu như thế, thi thiết kiến lập, phân biệt khai chỉ, khiến kia dễ hiểu và trụ tác ý tương ưng Bát Nhã thẳm sâu như thế. Các thiện nam thiện nữ đây do nhân duyên này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước vô lượng vô số. (Q.454, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như vậy cho đến giả sử các loại hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đều được thân người. Được thân người rồi, phát tâm tu Bồ Tát hạnh, đều chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Có các thiện nam, thiện nữ, trọn đời thọ lượng, đem đồ vui thượng diệu thế gian, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đây. Lại đem căn lành đã nhóm như thế, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam thiện nữ này, do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu các thiện nam, thiện nữ giữa đại chúng tuyên nói Bát Nhã thẳm sâu như thế, thi thiết kiến lập, phân biệt khai chỉ, khiến kia dễ hiểu và trụ tác ý tương ưng Bát Nhã thẳm sâu như thế. Các thiện nam, thiện nữ đây do nhân duyên này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Giả sử các loại hữu tình ở châu Nam thiệm bộ đây chẳng trước chẳng sau đều được thân người. Có các thiện nam, thiện nữ phương tiện dạy dẫn đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông. Hoặc quả Dự lưu, hoặc quả bất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc quả Độc giác Bồ đề, hoặc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lại đem căn lành dạy dẫn như thế, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ đây do nhân duyên này được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu các thiện nam, thiện nữ giữa đại chúng tuyên nói Bát Nhã thẳm sâu như thế, thi thiết kiến lập, phân biệt khai chỉ, khiến kia dễ hiểu và trụ tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí như thế. Các thiện nam, thiện nữ đây do nhân duyên này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước vô lượng vô số.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Như vậy, cho đến giả sử các loại hữu tình Tam thiên đại thiên thế giới chẳng trước chẳng sau đều được thân người. Có các thiện nam, thiện nữ phương tiện dạy đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông. Hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề. Lại đem căn lành đây dạy dẫn như thế, cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các thiện nam, thiện nữ này, do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu các thiện nam, thiện nữ giữa đại chúng tuyên nói Bát Nhã thẳm sâu như thế, thi thiết kiến lập, phân biệt khai chỉ, khiến họ dễ hiểu và trụ tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí như thế. Các thiện nam, thiện nữ đây do nhân duyên này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước vô lượng vô số. Thiện Hiện! Phải biết Bồ Tát này do tinh tấn đây tăng trưởng oai lực, đến bờ bên kia là phước điền các hữu tình. Vì sao? Bồ Tát này đối pháp tinh tấn tăng trưởng oai lực, tất cả hữu tình không ai kịp được, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao?

Thiện Hiện! Bồ Tát này tu hành Bát nhã Ba la mật, thấy các hữu tình kẻ không lợi vui, khởi tâm đại từ. Thấy các hữu tình có kẻ suy khổ, khởi tâm đại bi. Thấy các hữu tình kẻ được lợi vui, khởi tâm đại hỷ. Thấy các hữu tình lìa tánh lìa tướng, khởi tâm đại xả. Bồ Tát này tuy đối hữu tình bình đẳng phát khởi đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà đối tất cả đều vô sở chấp trước, chẳng phải như các dị sanh, Thanh văn, Độc giác, tùy theo sở đắc khởi tâm chấp trước.

Thiện Hiện! Bồ Tát này tu hành Bát nhã Ba la mật được đại quang minh. Nghĩa là được bố thí Ba la mật đại quang minh vậy, cũng được tịnh giới Ba la mật quang minh vậy, cũng được an nhẫn Ba la mật, cũng được tinh tấn Ba la mật, tĩnh lự Ba la mật, Bát nhã Ba la mật đại quang minh vậy.

Đại Bồ Tát ấy an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, nên có khả năng báo ân thí chủ một cách rốt ráo, cũng có khả năng gần gũi Nhất thiết trí trí.

Đại Bồ Tát chẳng muốn lừa dối để nhận đồ cúng dường của quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, hữu tình mà trái lại đại Bồ Tát này chỉ muốn: Chỉ cho hữu tình con đường chơn thiện, chỉ muốn vì hữu tình làm ánh sáng thanh tịnh, muốn cứu thoát hữu tình khỏi lao ngục ba cõi, muốn ban cho hữu tình pháp nhãn thanh tịnh. Nên đại Bồ Tát ấy ngày đêm tin cần an trụ tác ý tương ưng Bát Nhã không khi nào dừng nghỉ. Giống như người, trước chưa từng có bảo châu Mạt ni, khi gặp được, quá đi vui mừng, ngắm xem không chán; bỗng nhiên bị mất, lòng rất đau khổ, luôn luôn than tiếc. Người ấy lúc nào cũng hướng về viên bảo châu Mạt ni này, không lúc nào dừng nghỉ. Nên biết, các đại Bồ Tát nầy cũng giống như thế, thường tin cần an trụ tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật; nếu lìa tác ý này là đánh mất tâm hướng đến Nhất thiết trí trí.

 

2. Phần sau của phẩm “Tăng Thượng Mạn” tương đương

phẩm “Đoạn Phân Biệt”, phần sau Q.335 đến hết Q.335,

Hội thứ I, ĐBN.

 

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả tác ý tự tánh đều không, tất cả tác ý tự tánh đều lìa, các pháp cũng vậy. Ở trong tất cả pháp tự tánh không, tự tánh lìa, hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc Nhất thiết trí trí, hoặc các tác ý đều bất khả đắc. Vì sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khuyên chúng Bồ Tát chẳng lìa tác ý tương ưng Bát nhã Ba la mật, cũng khiến chẳng lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát biết tất cả pháp, tất cả tác ý đều tự tánh không, đều tự tánh lìa. Lìa không như thế chẳng Thanh văn làm, chẳng Độc giác làm, chẳng Như Lai làm, cũng chẳng phải ai làm ra.

Nhưng tất cả pháp: Pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, hư không giới, chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, lẽ vậy thường trụ. Bồ Tát này chẳng lìa tác ý tương ưng Bát Nhã thẳm sâu, chẳng lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu, Nhất thiết trí trí và các tác ý đều tự tánh không, đều tự tánh lìa. Lìa không như thế cũng không tăng không giảm, chính gọi là thông đạt nghĩa chẳng lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu Bát Nhã thẳm sâu cũng tự tánh không, tự tánh lìa ấy, làm sao chúng Bồ Tát tu chứng tánh bình đẳng Bát nhã Ba la mật rồi mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu chứng tánh bình đẳng Bát nhã Ba la mật, chẳng phải pháp chư Phật có tăng có giảm, cũng chẳng phải các pháp: Pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng biến khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, hư không giới, chơn như, thật tế, bất tư nghì giới có tăng có giảm. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu chẳng một chẳng hai, chẳng ba chẳng bốn, cũng chẳng phải nhiều vậy.

Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát nghe thuyết Bát Nhã thậm thâm như thế, nơi tâm chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng lo ngại, chẳng chìm chẳng đắm, cũng chẳng sanh nghi. Bồ Tát này hành Bát Nhã thẳm sâu đã được rốt ráo, an trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khắp vì hữu tình làm nhiêu ích lớn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh chẳng hư dối, tánh chẳng tự tại, rỗng không, chẳng phải có của Bát nhã Ba la mật mà có thể hành Bát Nhã chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa tánh chẳng hư dối, tánh chẳng tự tại, rỗng không, chẳng phải thật có của Bát Nhã mà có pháp có thể đắc, có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự Bát Nhã có thể hành Bát nhã Ba la mật chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng phải.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Bát Nhã thẳm sâu có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự tánh không có thể hành không chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa không tánh có pháp khả đắc, có thể hành không được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự sắc thọ tưởng hành thức có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Chẳng phải.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa sắc thọ tưởng hành thức có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Tức mười hai xứ cho đến mười tám giới có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa mười hai xứ cho đến mười tám giới có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự nhãn xúc cho đến ý xúc có thể hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa nhãn xúc cho đến ý xúc có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự địa giới cho đến thức giới có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa địa giới cho đến thức giới có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự bố thí cho đến tự Bát nhã Ba la mật có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự nội không cho đến vô tánh tự tánh không có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự chơn như cho đến bất tư nghì giới có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa chơn như cho đến bất tư nghì giới có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả có thể hành Bát Nhã thẩm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự Nhất thiết trí, Đạo tướng trí có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự sắc thọ tưởng hành thức, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa sắc thọ tưởng hành thức, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Như vậy cho đến có phải tự Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc, năng hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tánh chẳng tự tại, tánh chẳng bền chắc, có pháp khả đắc năng hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

- Bạch Thế Tôn! Có phải tự sắc thọ tưởng hành thức chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng được.

- Bạch Thế Tôn! Có phải lìa sắc thọ tưởng hành thức chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, có pháp khả đắc có thể hành Bát Nhã thẳm sâu được chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng có.

Thiện Hiện bấy giờ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp như thế đều chẳng thể hành Bát Nhã thẳm sâu, các Bồ Tát làm sao có thể hành Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi thấy có pháp có thể hành Bát Nhã thẳm sâu chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi có thấy Bát nhã Ba la mật là sở hành của đại Bồ Tát chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Pháp ngươi chẳng thấy, pháp ấy khá được chăng?

- Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Pháp chẳng thể đạt được có sanh diệt chăng?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng có.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Thật tánh của các pháp như ông đã thấy tức là vô sanh pháp nhẫn của đại Bồ Tát. Nếu đại Bồ Tát thành tựu vô sanh pháp nhẫn như thế thì liền được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ ký Bất thối chuyển đối với quả vị Giác ngộ tối cao.

Bồ Tát này đối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên công đức thù thắng, nên được gọi là Năng Tinh Tấn Như Thật Đạo giả. Nếu năng tinh tấn tu hành như thế mà chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Nhất thiết tướng trí, Đại diệu trí, thì không có lẽ ấy. Vì sao? Bồ Tát này đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn rồi, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, với pháp đã được thường không lui giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát vì thấu đạt tánh tất cả pháp vô sanh, nên được thọ ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng phải.

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát vì thấu đạt tánh tất cả pháp sanh, nên được thọ ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng phải.

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát vì thấu đạt tánh tất cả pháp sanh hay vô sanh, được ký Bất thối chuyển Vô Thượng Bồ đề chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng phải.

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát vì thấu đạt tánh tất cả pháp chẳng sanh chẳng vô sanh, nên được trao ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?

- Thiện Hiện! Chẳng phải.

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy các Bồ Tát làm sao được trao ký Bất thối chuyển?

Phật bảo:

-Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi thấy có pháp nào được Phật trao ký Bất thối chuyển chăng?

Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Con chẳng thấy có pháp nào được trao ký Bất thối chuyển. Cũng chẳng thấy pháp đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có kẻ năng chứng, xứ chứng, thời chứng và do đây chứng, tất cả đều bất khả đắc.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát đối tất cả pháp vô sở đắc, chẳng khởi nghĩ này: Ta đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ năng chứng được. Ta dùng pháp đây, với thời như vậy, với xứ như vậy, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao?

Thiện Hiện! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã thẳm sâu như thế, tất cả đều phân biệt. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát Nhã thẳm sâu đều xa lìa phân biệt. Nếu khởi các thứ phân biệt như thế, thời chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Pháp tùy pháp hành và hòa kính hành cùng tùy pháp hành. Nguyên văn bằng chữ Hán trong Hoavouu.com là pháp tùy pháp hành. cập hòa kính hành. tinh tùy pháp hành”.

Tùy pháp hành và hòa kính hành: Một trong hai hạng. Hạng người thứ nhất, có lợi căn tu quả Dự lưu lấy lý trí phân tích pháp Phật tu hành gọi là tùy pháp hành. Hạng thứ hai căn trí chậm lụt hơn thường lấy lòng tin để tu thì gọi là tùy tín hành. Còn gọi là hòa kính hành là người tu lấy sự hòa nhã đối xử với nhau để cùng tu hành, thì gọi là hòa kính hành. Có sáu loại hòa kính là: 1. Thân hòa đồng trụ (ở chung với nhau); 2. Khẩu hòa vô tranh; 3. Ý hòa đồng duyệt; 4. Giới hòa đồng tu; 5. Kiến hòa đồng giải; 6. Lợi hòa đồng quân (chia sẻ đều nhau), gọi chung là Lục hòa, là quy ước căn bản của Tăng chúng cùng sống chung trong Tăng đoàn.

 (2). Hạnh viễn ly: Tức hạnh “viễn trần ly cấu” hay  xa trần lìa cấu.

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu của phẩm “Tăng Thượng Mạng” thuyết về:

 

1- Ai được xem là Bồ Tát Bất thối chuyển?

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 61, “Mộng Trung Bất Chứng”, tập 4, quyển 76 tương đương với đoạn kinh của ĐBN, nói rằng:

“Ví như nói Bồ Tát thường tu tập quán không, nên khi nằm mộng, thấy cảnh mộng thù thắng vẫn chẳng sanh tâm chấp đắm cảnh mộng ... dẫn đến chẳng chấp đắm 3 cõi.

Bồ Tát hành như vậy là phát khởi tâm đại bi, thâm nhập vào Phật pháp, nên chẳng bị lạc về Nhị Thừa địa. Khi tỉnh thức cũng như trong mộng, Bồ Tát luôn nhận rõ hết thảy pháp đều là như mộng, như huyễn.

Do vậy mà, dù ở hiện tiền chưa được đầy đủ Bồ Tát hạnh, mà đã được xem như bậc Bồ Tát bất thối chuyển. Vì sao?

Vì Bồ Tát ấy chẳng còn rơi về 2 chấp. Đó là :

- Chấp thế gian lạc.

- Chấp pháp Nhị Thừa.

Do Bồ Tát kiên tâm thâm nhập pháp không, nên được đầy đủ tâm từ bi, khiến ở trong mộng cũng chẳng còn tham chấp 3 cõi, chẳng còn tham chấp Nhị Thừa, huống nữa là khi tỉnh thức.

 

--o0o--

 

“Bồ Tát, ở trong mộng, thấy chư Phật thuyết pháp, dạy về thật tướng nghĩa. Nghe nghĩa ấy xong, liền thâm nhập.

Bồ Tát ở trong mộng, thấy Phật thân vô lượng, thấy thân Phật như núi Tu Di, thấy thân Phật sắc vàng như vàng ròng, thấy chư Phật phóng vô lượng quang minh; từ nơi mỗi lỗ chân lông đều có quang minh; ở nơi mỗi quang minh đó đều có một vị Hoá Phật đang thuyết pháp và hành các Phật sự để độ thoát chúng sanh.

Nếu ở trong mộng, Bồ Tát thấy các cảnh như vậy, mà vẫn giữ tâm thanh tịnh, bất động, lại thấu rõ được thật tướng của các pháp, thì phải biết Bồ Tát ấy đã hiển thị tướng mạo của bậc Bồ Tát bất thối chuyển.

Bồ Tát thường hành rốt ráo không, nên chẳng còn chấp ngã và ngã sở, chẳng còn tiếc thân mạng, chẳng còn khởi sanh phiền não.

Bởi vậy nên khi nằm mộng, thấy chính mình hoặc thấy cha mẹ, anh chị em mình bị giết, hoặc thấy làng xóm, thôn ấp mình bị lửa thiêu rụi, Bồ Tát vẫn giữ tâm tỉnh giác, bất động. Khi tỉnh thức, Bồ Tát tự niệm cảnh mộng cùng hết thảy pháp trong 3 cõi đều là chẳng phải hai, chẳng phải khác; tất cả đều là mộng. Rồi Bồ Tát tự niệm, “Ta phải vì chúng sanh thuyết pháp “không”, dạy cho họ biết rõ hết thảy pháp thế gian đều là như mộng, như huyễn, chớ nên chấp ngã, chấp pháp, mà phải bị trầm luân mãi trong bể khổ sanh tử”.

Bồ Tát, ở trong mộng, thấy chúng sanh bị đoạ lạc vào trong ba đường ác, nên tự niệm: Khi ta được Vô Thượng Bồ Đề, ta sẽ khiến cho cõi nước của ta chẳng còn 3 đường ác.

Bồ Tát, ở trong mộng, thấy lửa địa ngục thiêu đốt chúng sanh, liền tự nguyện làm cho lửa địa ngục tự tiêu diệt, để cứu thoát chúng sanh. Khi tỉnh thức, thấy lửa thiêu đốt thành ấp, xóm làng cũng tự nguyện như vậy, khiến lửa tự tiêu diệt. Vì sao? Vì Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp đã tu tập phước đức, đã thâm nhập vào thật tướng pháp, nên hàng Thiên Long Bát Bộ thường theo bên hộ trì, khiến ý nguyện của Bồ Tát được thành tựu, khiến lửa tự diệt.

Nếu ở nơi nào có nạn lửa, mà có nhà bị lửa thiêu cháy rụi, có nhà chẳng bị thiệt hại gì cả, thì phải biết chủ nhân của những nhà bị lửa thiêu rụi, ở đời trước đã phạm tội phá pháp, nên đời nay mới phải chịu quả báo như vậy; còn chủ nhân của những nhà được an ổn, thì biết đời trước đã gieo trồng phước đức, nên đời này mới được hưởng phước báo như vậy. Lại nữa, tuy Bồ Tát đã phát nguyện và đã được Thiên Long Bát Bộ hộ trì, nhưng vẫn chẳng sao cứu được những trường hợp của những người đã phạm tội nặng ở đời trước, mà đời này đã đến thời kỳ phải trả nghiệp quả báo”.

 

2- Hành động tướng trạng của kẻ Tăng thượng mạng?

“Có Bồ Tát chưa được vô sanh pháp nhẫn, bị quỷ thần đến quấy nhiễu, đã phát nguyện khiến các quỷ thần tản đi nơi khác, mà được như nguyện. Đây là ác ma dùng uy lực khiến các quỷ thần phải tản đi nơi khác, chẳng phải là do oai lực của Bồ Tát ấy vậy. Thế nhưng, vị Bồ Tát ấy khởi niệm: “Ta có oai lực, khiến quỷ thần phải sợ hãi lánh đi nơi khác”. Tự niệm như vậy rồi, Bồ Tát ấy dấy niệm khinh khi các Bồ Tát khác, khiến phải bị ác ma sai sứ, dẫn dắt vào Nhị Thừa địa.

 

--o0o--

 

Lại có Bồ Tát chưa được chánh định, nhưng đã nghe ác ma tán thán rằng mình đã được thọ ký, nên dấy tâm kiêu mạn, khinh khi các Bồ Tát khác, khiến phải xa rời Vô Thượng Bồ Đề.

 

--o0o--

 

Lại có Bồ Tát chưa vào được nơi thật tướng pháp, chẳng biết rõ hết thảy các pháp đều là như mộng, như huyễn, nhưng khi nghe ác ma tán thán mình đã được thọ ký, mình sẽ thành Phật có hiệu đó, ở quốc độ đó v.v... liền tưởng là mình đã được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.

Do lầm tưởng như vậy, nên Bồ Tát ấy dấy niệm khinh khi các Bồ Tát khác, xa rời Vô Thượng Bồ Đề, lạc về Nhị Thừa địa.

Thế nhưng, nếu Bồ Tát ấy biết thành tâm sám hối, biết trở lại y chỉ nơi Bát nhã Ba la mật, thì nghiệp tội sẽ được tiêu trừ, và Bồ Tát ấy cũng có thể được Vô Thượng Bồ Đề.

Trái lại, nếu Bồ Tát ấy khởi tâm chấp danh vị do ác ma thọ ký cho, thì sẽ bị phạm trọng tội. Vì sao? Vì tội chấp danh vị, cho mình là Phật như vậy, còn nặng hơn 4 trọng tội của giới Tỳ kheo, nặng hơn cả tội ngũ nghịch nữa” .

 

3 - Thế nào là tu hạnh viễn ly?

“Lại có Bồ Tát tìm chỗ hoang vắng, xa lìa bà con thân thuộc, xa lìa hết thẩy các người khác, và cho rằng như vậy là mình hành hạnh viễn ly. Ác ma thường đến với Bồ Tát ấy, tán thán rằng hạnh viễn  ly đó là chân thật, được chư Phật ngợi khen. Bồ Tát ấy nghe nói như vậy, liền dấy tâm kiêu mạn, khinh khi các Bồ Tát khác tu tập ở chốn thành ấp, ồn ào, náo nhiệt. Do dấy niệm như vậy, nên xa lìa Vô Thượng Bồ Đề, lạc về Nhị Thừa địa.

Phật dạy “Hành viễn ly chân thật là viễn ly tâm Nhị Thừa, viễn ly 3 cõi, chẳng phải là trốn tránh chúng sanh, xả bỏ chúng sanh như vậy. Người ở chốn huyên náo mà tâm chẳng loạn động đáng kính trọng hơn là người ở chốn tĩnh lặng mà tâm vẫn thường loạn động”.

 

4- Ai là chơn thiện tri thức của Bồ Tát?

“Phật dạy “Bồ Tát muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề phải nhất tâm thâm ái Phật pháp, xa lìa các lạc thú thế gian, và phải thân cận thiện tri thức”.

Bồ Tát muốn được Vô Thượng Bồ Đề phải tác hành 2 việc. Đó là:

- Phải trú tâm trong chánh niệm.

- Phải gần gũi thiện tri thức.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi, “Những ai là thiện tri thức của Bồ Tát?”.

Phật dạy “Chư Phật, chư Bồ Tát, chư A La Hán là thiện tri thức của Bồ Tát, 6 pháp Ba la mật... dẫn đến nhất thiết chủng trí đều là thiện tri thức của Bồ Tát. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát thuận hành theo chư thiện tri thức đó, thì sẽ được Phật thọ ký bất thối chuyển”.

 

Bốn phân đoạn trên: 1- Ai được xem là Bồ Tát Bất thối chuyển? 2- Hành động tướng trạng của kẻ Tăng thượng mạng? 3 - Thế nào là tu hạnh viễn ly? 4- Ai là chơn thiện tri thức của Bồ Tát? Chúng ta đã học qua trong các phẩm rải rác của Hội thứ I và đầu Hội thứ II rồi, nên chúng tôi chỉ tóm gọn phần giải thích của Đại Trí Độ Luận. Các phân đoạn sau rất quan trọng nên cần trích dẫn nhiều hơn để Quý độc giả nắm vững vấn đề. Phẩm này của Hội thứ II, ĐBN chiếm gần hết 2 quyển (Q.76 và Q.77) của Đại Trí Độ Luận, giáo lý rất khó, nên phải kiên nhẫn thọ trì.

 

5- Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?

Kinh ĐBN, Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy gì làm tướng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy hư không làm tướng, lấy vô trước làm tướng, lấy vô tướng làm tướng. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ở trong tướng Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, các pháp, các tướng đều vô sở hữu, chẳng thể nắm được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Vả có nhân duyên khá nói Bát nhã Ba la mật có diệu tướng, các pháp cũng có tướng như thế ư?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như ngươi đã nói! Có nhân duyên nên có thể nói Bát nhã Ba la mật có diệu tướng, các pháp cũng có diệu tướng như thế. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Bát nhã Ba la mật thẳm sâu lấy viễn ly làm tướng. Các pháp cũng lấy viễn ly làm tướng. Bát Nhã thẳm sâu lấy tánh không làm tướng. Các pháp cũng lấy tánh không làm tướng. Do nhân duyên đây nên nói như vầy: Bát Nhã thẳm sâu có diệu tướng, các pháp cũng có diệu tướng như thế. Vì tất cả pháp tự tánh đều không, lìa tướng vậy”.

Tại sao nói Bát nhã Ba la mật lấy hư không làm tướng? Chúng ta cũng đọc qua các dẫn giải về vấn đề này. Nhưng Kinh lặp lại để chúng ta hiểu thế nào là tánh cách khách quan của Bát Nhã, nên chúng tôi tiếp tục trích dẫn Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 61,“Mộng Trung Bất Chứng”, tập 4, quyển 77 (tiếp theo):

“Phật dạy: Như hư không tướng là tướng của Bát nhã Ba la mật. Vì hư không tướng là vô sắc tướng, là phi vô sắc tướng, là vô sở hữu tướng; Bát nhã Ba la mật cũng là như vậy.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Vì sao nói hết thảy pháp tướng đều là Bát nhã Ba la mật tướng?

Phật dạy: Vì hết thảy pháp tướng đều rốt ráo là không, rốt ráo là ly, cho nên nói hết thảy pháp tướng đều là Bát nhã Ba la mật tướng.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Nếu hết thảy pháp đều là ly tướng, đều là chẳng có tướng, thì làm sao biết được tâm chúng sanh là cấu hay là tịnh? Lại nữa, trong ly tướng, trong vô tướng, thì làm sao Bồ Tát tu tập có thể đến được Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Vì chúng sanh chấp ngã và ngã sở, nên bị vô minh che tâm, khiến thấy tâm có cấu, có tịnh.

Trên đây, Phật muốn dạy rằng, Ngã và ngã sở đều rốt ráo là không, rốt ráo là ly, nhưng chúng sanh, do cuồng vọng điên đảo, mà chấp có ngã và có ngã sở, rồi khởi sanh các tướng phiền não. Vì có các phiền não như vậy, nên mới khởi sanh các nghiệp, cùng các nghiệp chủng nhân duyên, khiến chúng sanh cứ phải luân chuyển mãi trong các nẻo đường sanh tử, mà chẳng biết rằng phiền não cũng là rốt ráo không. Vì sao? Vì do tâm hư vọng chấp, mà thấy có ngã và ngã sở; do ngã và ngã sở tác duyên, mà khởi sanh các pháp hư vọng.

Dùng lực phương tiện cũa Bát nhã Ba la mật, mà quán 5 ấm là vô thường, là khổ, là vô ngã, là tự tướng không, là tự tướng ly, thì sẽ biết rõ rằng ngã và ngã sở, từ vô thỉ đến nay, vẫn là rốt ráo bất sanh; khi tâm và tâm sở đều diệt, thì các phiền não cũng diệt, khiến các duyên nghiệp tác khởi qua lại trong các đường sanh tử cũng đoạn; lúc bấy giờ, sẽ được tâm thanh tịnh. Lại cũng nên biết, vì các pháp tướng rốt ráo không, nên là chẳng có cấu, chẳng có tịnh.

Đến đây, ngài Tu Bồ Đề tư duy về lời Phật dạy, rồi bạch Phật: Bồ Tát hành như vậy là chẳng hành sắc ... dẫn đến chẳng hành thức, chẳng hành 4 niệm xứ... dẫn đến chẳng hành 8 thánh đạo v.v...

Vì sao? Vì Bồ Tát chẳng thấy có pháp để hành, chẳng thấy có pháp để chứng, chẳng thấy có người chứng.

Bồ Tát hành như vậy, thì các hàng Trời, Người, A Tu La đều chẳng có thể hàng phục được. Vì sao? Vì hàng Trời, Người còn chấp có danh pháp, khiến khởi sanh các quả báo hư vọng; còn Bồ Tát trú nơi rốt ráo không, mà chẳng chấp không, huống nữa là chấp các pháp, nên chẳng ai có thể hàng phục được vậy.

Bồ Tát hành pháp như vậy, nên hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng sao sánh kịp. Bởi vậy nên Bồ Tát vào pháp vị bất thối chuyển rồi, thì ma chẳng còn có thể phá hoại được.

Bồ Tát thường hành Bát nhã Ba la mật, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm(Nhất thiết chủng trí), nên mau đến được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao? Vì Bồ Tát, tuy chẳng chấp hết thảy pháp, mà vẫn tinh tấn tu tập hết thảy các trợ đạo pháp.

Phật ấn chứng lời của ngài Tu Bồ Đề, và tán thán các công đức tự lợi và lợi tha của Bồ Tát.

Phần kế so sánh các phước đức quả báo của người cúng dường hay tu tập hoặc dạy dỗ chúng sanh học các thiện pháp hay các quả vị Tu đà hoàn v.v… với Bồ Tát phát tâm tu hành hay dạy người khác tu hành Bát Nhã thì ai có công đức hơn? Chúng ta đã tụng đọc các công đức này quá nhiều nên không cần lặp lại ở đây.

Tóm lại, tất cả tiết mục trên được thuyết giảng thường xuyên ở 5 Hội đầu, nhiều nhất ở phẩm “Khéo Học” từ quyển 332 đến quyển 335, Hội thứ I và đồng thời cũng thuyết giảng rải rác ở các phẩm “Ma Sự” từ quyển 303 đến quyển 304, Hội thứ I; phẩm “Chơn Thiện Hữu” quyển 313 đến quyển 316, Hội thứ I; phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, Hội thứ I, ĐBN. Vậy, quý vị có thể quay lại đọc tụng nhất là phẩm “Khéo Học” và các phẩm mà chúng tôi đã liệt kê trên nếu có thắc mắc.

 

2. Phần sau của phẩm “Tăng Thượng Mạn”, đặt câu hỏi: Tại sao Bồ Tát hành Bát Nhã mà bảo là không hành, mới gọi là hành?

 

Phần này đặt trọng tâm ở câu hỏi này, không những Tu Bồ Đề mà tất cả những người thọ trì Bát nhã Ba la mật không khỏi ngạc nhiên với câu trả lời ngược đời: “Không hành tức là hành?”. Xin Quý vị độc giả cố gắng đọc đoạn chiết giải của Đại Trí Độ Luận sau đây:

“Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật khai thị về chánh hạnh Bát nhã Ba la mật, nên hỏi Phật: Khi hành Bát nhã Ba la mật, Bồ Tát quán hết thảy pháp đều là không, là vô sở hữu, là chẳng kiên cố. Như vậy, thì hành không, hành vô sở hữu là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì nếu là không, là vô sở hữu, thì chẳng thể hành Bát nhã Ba la mật được vậy.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Ly không là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì nếu hết thảy pháp là không, là vô tướng, là vô tác, thì ly không cũng chẳng thể hành Bát nhã Ba la mật được vậy.

Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ “Bát nhã Ba la mật nhiếp hết thảy pháp”, nên lại hỏi: Trú nơi Bát nhã Ba la mật là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì pháp chẳng tự hành, mà phải nương nơi các pháp khác mới hành được vậy.

Ngài Tù Bồ Đề lại hỏi: Ly Bát nhã Ba la mật, thì có pháp để hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng có vậy.

Vì sao? Vì hết thảy pháp đều nhiếp trong Bát nhã Ba la mật cả.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề lại nghĩ về danh tự, và về nhân duyên, nên hỏi Phật: Trú nơi 5 ấm là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì 5 ấm là hư vọng. Do duyên hòa hợp sanh, nên 5 ấm là chẳng tự tại. Chẳng thể trú nơi 5 ấm mà hành Bát nhã Ba la mật được.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Trú nơi 6 pháp Ba la mật là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì cũng như 5 ấm, các pháp Ba La Mật cũng đều do duyên hòa hợp sanh, nên cũng chẳng có tự tại. Chẳng thể trú nơi 6 pháp Ba la mật mà hành Bát nhã Ba la mật được.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Trú nơi 4 niệm xứ... dẫn đến trú nơi 18 bất cộng pháp là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì cũng như 5 ấm, 4 niệm xứ... dẫn đến 18 bất cộng pháp cũng đều do duyên hòa hợp sanh, nên cũng chẳng có tự tại. Chẳng thể trú nơi các pháp ấy mà hành Bát nhã Ba la mật được.

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Hành 5 ấm không... dẫn đến hành 18 bất cộng pháp không, hành pháp vô sở hữu, hành pháp không, hành pháp như, hành pháp tướng, hành pháp tánh, hành pháp trụ, hành pháp vị, hành thật tế có phải là hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì hết thảy pháp ấy đều là bất sanh, bất diệt, đều tự tánh không, nên chẳng thể hành Bát nhã Ba la mật được.

Ngài Tu Bồ Đề tại hỏi: Nếu nói Bồ Tát chỉ là giả danh, chẳng hành được Bát nhã Ba la mật, nếu nói các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, chẳng hành Bát nhã Ba la mật được, thì như vậy ai là người (có thể) hành Bát nhã Ba la mật?

Nếu nói chẳng có người hành Bát nhã Ba la mật thì vì sao nói Bồ Tát do hành Bát nhã Ba la mật mà được Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Ông dùng huệ nhãn có thấy pháp nào quyết định hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Vì ngài Tu Bồ Đề đã vào được 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”, nên biết rõ thật tướng pháp, biết rõ hết thảy pháp đều là bất khả đắc, huống nữa là có pháp để tác chứng, và có người tác chứng.

Nghĩ như vậy, nên ngài bạch Phật: Con chẳng thấy có pháp hành Bát nhã Ba la mật, và cũng chẳng thấy có người hành Bát nhã Ba la mật.

Phật dạy: Ông có thấy chỗ hành xứ của Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật chăng?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Con chẳng thấy.

Vì sao? Vì vào trong Bát nhã Ba la mật thì hết thảy quán hạnh đều diệt khiến chẳng thấy có định pháp nào gọi là Bát nhã Ba la mật cả. Bởi vậy nên chẳng thể chỉ bày được.

Phật dạy: Nếu dùng huệ nhãn mà chẳng thấy Bát nhã Ba la mật, thì pháp ấy là có hay là chẳng có?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng có vậy.

Vì sao? Vì Phật đã dạy huệ nhãn là thật trí huệ, còn nhục nhãn và thiên nhãn đều là hư dối, mà ngài Tu Bồ Đề dùng huệ nhãn chẳng thấy có định pháp nào gọi là Bát nhã Ba la mật, nên ngài đáp, “Chẳng có vậy”.

Phật lại hỏi: Nếu pháp ấy là không, là bất khả đắc, thì pháp ấy có sanh chăng?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: Chẳng sanh vậy.

Vì sao? Vì ngài nghĩ rằng “Từ vô thỉ đến nay, các pháp vẫn là không, là vô sở hữu. Dù nói các pháp là không, hay nói các pháp là có, thì cũng đều là hý luận cả. Lại nữa, pháp diệt rồi, thì làm sao có sanh lại được nữa?”.

Phật dạy: Nếu ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát đều thông đạt như vậy, mà chẳng nghi, chẳng sợ, thì Bồ Tát sẽ đủ trí lực và huệ lực, để vẫn an trú trong pháp ấy, mà vào được vô sanh pháp nhẫn.

Tuy ở nơi 5 ấm giả danh, mà Bồ Tát vẫn an trú nơi pháp ấy để hành Bát nhã Ba la mật.

Tuy rằng pháp thế gian chẳng có nói đến đệ nhất nghĩa đế, chẳng có nói đến vô sanh pháp, nhưng vì đệ nhất nghĩa đế dung nhiếp hết thảy pháp, nên Bồ Tát thường an trú nơi đệ nhất nghĩa đế, thường an trú nơi vô sanh pháp, mà vào được vô sanh pháp nhẫn… dẫn đến được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.

 

--o0o--

 

Phật lại dạy: Nếu Bồ Tát nhất tâm, tinh tấn hành Bát nhã Ba la mật, chẳng sợ, chẳng nghi, chẳng hề thối chuyển, lại tùy vô sanh pháp mà hành trì, thì sẽ được đại trí huệ.

Vì sao? Vì trong kinh nói, “Nếu chẳng có nhân, chẳng có duyên, thì chẳng có quả báo”. Nếu nhân duyên chưa đầy đủ, thì quả báo chưa có thể thành tựu được. Nay Bồ Tát đã được vô sanh pháp nhẫn là đã hội đủ các nhân duyên để được quả báo “Bồ Tát vị” vậy. Bồ Tát gieo nhân “xả thân sanh tử”, và được quả là “pháp tánh thân”.

Bồ Tát đầy đủ các nhân duyên Phật pháp như vậy, thì ở nơi thân rốt sau sẽ tọa đạo tràng... dẫn đến được đầy đủ quả Vô Thượng Bồ Đề.

Vì sao? Vì Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn rồi, thì chỉ nhất tâm thẳng tiến, chẳng bao giờ thối chuyển. Trái lại, người chưa vào được vô sanh pháp nhẵn, thì còn ái chấp các pháp thế gian, nên còn bị các phiền não ngăn che tâm trí. Người chưa được vô sanh pháp nhẫn, thì dụng lực rất gian nan; còn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn rồi, nên dụng lực rất tự tại.

Bởi vậy nên Bồ Tát rất quý vô sanh pháp nhẫn.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Được vô sanh pháp nhẫn là được thọ ký chăng ?

Phật dạy: Chẳng phải vậy.

Vì sao? Vì vô sanh pháp nhẫn là bất sanh, bất diệt, là bất khả đắc. Tướng của vô sanh pháp nhẫn đã là bất khả đắc, thì làm sao có tướng thọ ký Vô Thượng Bồ Đề?

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu pháp chẳng sanh, thì có được thọ ký chăng?

Phật dạy: Chẳng được như vậy.

Vì sao? Vì pháp chẳng sanh cũng là hư vọng, nên chẳng thể được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu pháp chẳng sanh cũng chẳng phải chẳng sanh, thì có được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề chăng?

Phật dạy: Chẳng được vậy.

Vì sao ? Vì cả 2 bên đều là lầm lỗi cả.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi: Nếu như vậy, thì ai được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Ông dùng huệ nhãn có thấy pháp thọ ký, và người được thọ ký chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Con chẳng thấy vậy,

Vì sao? Vì pháp, từ vô thỉ đến nay, vẫn là tịch diệt. Ở nơi tịch diệt, thì chẳng thể nói là thấy hay chẳng thấy, được thọ ký hay chẳng được thọ ký vậy. Bởi vậy nên nói chẳng thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề, cũng chẳng thấy có người đắc Vô Thượng Bồ Đề.

 

--o0o--

 

Ở đoạn kinh trên đây, Phật muốn phá trừ mọi ức tưởng phân biệt.

Bởi vậy nên khi ngài Tu Bồ Đề hỏi, “Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn rồi, có được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề chăng?”

Phật đã đáp lại rằng “chẳng được vậy”.

Vì sao ? Vì khi Bồ Tát đã hiểu được lý vô sanh rồi, thì hành Bát nhã Ba la mật chẳng còn khởi ức tưởng phân biệt nữa.

Đây là Phật mật ý nói: “Bồ Tát phải được vô sanh pháp nhẫn rồi, thì mới được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề”.

Vì trong chúng hội nhiều người chưa rõ lý vô sanh, còn thấy có chỗ đắc “vô sanh pháp nhẫn”, nên Phật đã đáp như trên.

Trường hợp này cũng giống như trường hợp ông Phạm Chí Bà Sa hỏi Phật về ngã và vô ngã.

Ông Phạm Chí hỏi Phật “Có ngã chăng?” Phật giữ im lặng. Ông Phạm Chí lại hỏi Phật, “Có vô ngã chăng?” Phật cũng vẫn giữ im lặng. Sở dĩ Phật giữ im lặng, chẳng đáp lời ông Phạm Chí, vì Phật biết ông Phạm Chí đã dụng tâm chấp khi nêu lên 2 câu hỏi này, và muốn hý luận về “ngã và vô ngã”. Phật giữ im lặng để ông Phạm Chí biết rằng, “Ngã và vô ngã đều chẳng nên chấp”.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề biết có việc thọ ký Vô Thượng Bồ Đề, nhưng còn nghi chưa rõ là “Có định pháp Vô Thượng Bồ Đề chăng?” Do vậy mà ngài mới hỏi Phật: Làm sao Bồ Tát biết có pháp được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề?

Phật dạy: Ông thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề để được thọ ký chăng?

Ngài Tu Bồ Đề, trú trong 3 giải thoát môn, dùng huệ nhãn quán thấy các pháp đều là không, là vô tướng, là pháp như, là pháp tánh… nên chẳng có định pháp Vô Thượng Bồ Đề để được thọ ký, chẳng có chỗ được Vô Thượng Bồ Đề... dẫn đến chẳng có người được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề. Tự niệm như vậy, tâm ngài liền tự giải, chẳng còn nghi nữa, nên ngài bạch Phật: Con chẳng thấy có pháp Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có chỗ được Vô Thượng Bồ Đề, chẳng thấy có người được thọ ký Vô Thượng Bồ Đề.

Phật ấn chứng lời ngài Tu Bồ Đề, và dạy rằng: Như chỗ ông nói ra, “Chẳng có pháp để đắc, chẳng có người đắc pháp” mới là thật pháp. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật chẳng có chỗ ức tưởng phân biệt vậy.

Pháp tu hết sức tế nhị, tu mà muốn đắc là có sở đắc, có phân biệt, có chấp tức còn mong cầu nắm bắt thì làm sao đắc Vô Thượng Bồ đề. Đó là lý do tại sao nói tu Bát nhã Ba la mật như tu hư không.

Xin Quý vị nghiên cứu kỹ phần chú giải của Đại Trí Độ Luận. Tất cả thắc mắc về các giáo lý của 5 Hội đều nằm trong phần chú giải sâu sắc này./.

 

---o0o---

  


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com