- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM "KINH VĂN"
Q.431 đến phần đầu Q.432, tập 18, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với Đoạn thứ bảy, phẩm "So Lường Công Đức",
phần đầu Q.130 đến phần cuối Q.135, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược phần trên:
1. Phần trên:
(Tương đương Đoạn bảy, phẩm “So Lường Công Đức”,
từ Q.130 đến Q.135, Hội thứ I, ĐBN)
Gợi ý:
Phần này của Hội thứ II, ĐBN tương đương với phẩm “Giảo Lượng Pháp Thí” (So Sánh & Lượng Định về Pháp Thí) của Kinh MHBNBLMĐ hay phẩm thứ 38, tập 3, quyển 60, Đại Trí Độ Luận, cũng có tên là“Giảo Lượng Pháp Thí”, (1)
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình ở châu Thiệm Bộ đều được an trụ mười thiện nghiệp đạo. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước đức nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người giảng nói, chỉ bày khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa lý khiến cho họ dễ hiểu; lại nói như vầy: “Lại đây thiện nam tử! Đối với Bát Nhã thậm thâm đây, ngươi nên chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, khéo giỏi thông suốt, suy nghĩ đúng lý, nên tin hiểu đúng đắn. Nếu có khả năng tin hiểu đúng đắn thì có thể tu học Bát Nhã. Nếu có khả năng tu học Bát Nhã như vậy thì có thể chứng được Nhất thiết trí. Nếu có khả năng chứng được Nhất thiết trí thì có khả năng tu Bát Nhã tăng ích viên mãn. Nếu có khả năng tu Bát Nhã tăng ích viên mãn thì chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam, thiện nữ này được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Bồ Tát sơ phát tâm cho đến đại Bồ Tát an trụ thập địa đều do Bát nhã Ba la mật lưu xuất.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế trong tạng bí mật rộng nói tất cả pháp vô lậu. Các thiện nam, thiện nữ tất cả đều đã học, nay học hoặc sẽ học; đã vào, nay vào hoặc sẽ vào pháp Thanh văn thừa Chánh tánh ly sanh, lần lữa cho đến đã chứng, nay chứng hoặc sẽ được quả A la hán; đã vào, nay vào hoặc sẽ vào pháp Độc giác thừa Chánh tánh ly sanh, lần lữa cho đến đã chứng, nay chứng hoặc sẽ chứng Độc giác Bồ đề; đã vào, nay vào hoặc sẽ vào pháp Bồ Tát thừa Chánh tánh ly sanh, lần lữa tu Bồ Tát hạnh đã chứng, nay chứng hoặc sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! những gì gọi là pháp vô lậu? Nghĩa là bốn niệm trụ (tứ niệm xứ) cho đến tám Thánh đạo chi. Bốn trí Thánh đế. Ba môn giải thoát. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, và vô lượng vô biên Phật pháp đều là pháp vô lậu.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa một hữu tình được trụ quả Dự lưu chỗ được nhóm phước vẫn hơn giáo hóa tất cả các loại hữu tình một châu Thiệm Bộ đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các hữu tình an trụ mười thiện nghiệp đạo chẳng thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Nếu hữu tình an trụ quả Dự lưu liền được thoát ba ác đạo vậy, huống giáo khiến trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, chỗ được nhóm phước mà chẳng hơn tất cả bọn kia sao?
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình châu Thiệm bộ đều trụ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, chẳng bằng có người giáo hóa một hữu tình khiến tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Kiều Thi Ca! Nếu giáo hóa hữu tình khiến tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời làm cho thế gian Phật bảo chẳng dứt. Vì sao? Bởi có Bồ Tát nên mới có quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Bởi có Bồ Tát nên mới có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Tất cả các Bồ Tát đều nương Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu.
Vì vậy, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ thơ tả Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, thí phát cho người đọc tụng, rộng khiến lưu bố, chỗ được nhóm phước hơn nhóm phước trước vô lượng vô biên. Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật như thế trong tạng bí mật rộng nói pháp thiện thế gian xuất thế gian thù thắng. Nương thiện pháp đây thế gian bèn có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ; trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ; cũng có bốn niệm trụ, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí; cũng có Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, chư Phật Thế Tôn.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thôi không nói đến việc giáo hóa các loại hữu tình ở châu Thiệm bộ, nếu các thiện nam, thiện nữ giáo các loại hữu tình trong Bốn đại châu đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói: Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ thơ tả Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, thí phát cho người đọc tụng, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thôi gác lại, không nói đến việc giáo hóa các loại hữu tình trong bốn Đại châu, hoặc giáo hóa tất cả hữu tình trong Tiểu thiên giới hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, hoặc tất cả hữu tình của mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng, hoặc tất cả hữu tình của vô biên thế giới khắp mười phương đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ thơ tả Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế thí phát cho người đọc tụng, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước. Như đã nói trên.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình châu Thiệm bộ, đều khiến an trụ bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ, thơ tả Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, thí phát cho người đọc tụng, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thôi gác lại, không nói đến việc giáo hóa các loại hữu tình ở châu Thiệm Bộ. Nếu các thiện nam, thiện nữ giáo hóa các loại hữu tình ở Bốn đại châu, cả đến tất cả hữu tình trong Tiểu thiên thế giới hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, hoặc tất cả hữu tình trong mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng, hoặc tất cả hữu tình trong vô biên thế giới khắp mười phương đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ thơ tả Bát nhã Ba la mật thậm thâm, thí phát cho người đọc tụng, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ, đối với Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước hơn giáo hóa các loại hữu tình một châu Thiệm bộ, đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông.
Cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong Bốn đại châu. Cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình Tiểu thiên, Trung thiên, Đại thiên thế giới, hay nói cho cùng cũng hơn giáo hóa các loại hữu tình trong mười phương tất cả thế giới đều khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông.
Kiều Thi Ca! Trong đây nói suy nghĩ đúng lý có nghĩa là đem hạnh chẳng hai, chẳng phải chẳng hai vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề suy nghĩ Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Hoặc đem hạnh chẳng hai, chẳng phải chẳng hai vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, suy nghĩ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc đem hạnh chẳng hai, chẳng phải chẳng hai vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, suy nghĩ bốn niệm trụ nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây đem vô lượng môn rộng vì người nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến dễ hiểu, chỗ được nhóm phước hơn tự lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý Bát nhã Ba la mật như thế chỗ được công đức vô lượng bội số.
(Vì tự mình thọ trì thì chỉ có mình được Bát nhã Ba la mật, chỉ có riêng mình được giác ngộ, chỉ riêng mình được phước đức trí tuệ. Còn vì mọi chúng sanh tuyên chỉ khai thị, thì mới có nhiều người ngộ nhập tri kiến Bát Nhã, có nhiều người được giác ngộ, rồi người giác ngộ lại dạy cho kẻ khác được giác ngộ tăng theo cấp số nhân, thì phước đức trí tuệ không thể xưng lường, vô lượng vô số vô biên bất khả tư nghì).
Kiều Thi Ca! Trong đây nói nghĩa thú Bát nhã Ba la mật có nghĩa là Bát nhã Ba la mật đây có bao nhiêu nghĩa thú chẳng nên đem hai tướng quán; cũng chẳng nên đem chẳng hai tướng quán phi hữu tướng phi vô tướng, phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi sanh phi diệt, phi thủ phi xả, phi chấp phi chẳng chấp, phi trụ phi chẳng trụ, phi thật phi chẳng thật, phi tương ưng phi chẳng tương ưng, phi hòa hợp phi ly tán, phi nhân duyên phi chẳng nhân duyên, phi pháp chẳng phi pháp, phi chơn như chẳng phi chơn như, phi thật tế chẳng phi thật tế. Nghĩa thú như thế có vô lượng môn. (Q.431, ĐBN)
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ tự đối Bát nhã Ba la mật chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, đem vô lượng môn vì người rộng nói tuyên chỉ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước hơn nhóm phước trước vô lượng vô biên.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ nên dùng các thứ văn nghĩa hay đẹp vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm!
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Như vậy, như ngươi đã nói! Các thiện nam, thiện nữ nên dùng các thứ văn nghĩa hay đẹp vì người diễn nói Bát Nhã thậm thâm.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ có khả năng dùng các thứ văn nghĩa hay đẹp vì người diễn nói Bát Nhã thậm thâm, các thiện nam, thiện nữ này trọn nên nhóm đại công đức vô lượng vô số vô biên bất khả tư nghì.
Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ suốt đời, đem vô lượng phẩm vật, y phục, thức ăn, thuốc men, đồ nằm cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng vô số vô biên thế giới như cát sông Hằng so với các thiện nam, thiện nữ tự đối với Bát nhã Ba la mật chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý. Lại nương các thứ văn nghĩa hay đẹp, đem vô lượng pháp môn rộng vì người nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước. Vì sao? Bởi vì mười phương các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng vô số vô biên thế giới như cát sông Hằng, đều nương Bát nhã Ba la mật tinh siêng tu học, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ ở vô lượng vô số vô biên đại kiếp, đem hữu sở đắc làm phương tiện, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Lại có các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý. Lại đem các thứ văn nghĩa khéo đẹp trong chừng giây lát vì người biện nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu, chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước.
Kiều Thi Ca! Hữu sở đắc ấy, nghĩa là các thiện nam, thiện nữ khi tu bố thí khởi nghĩ như vầy: Ta là người cho, kia là kẻ nhận, đây là vật thí, và đây là kết quả của hành thí. Như vậy là có trụ (bố thí), thì chẳng được gọi là bố thí Ba la mật. Khi tu tịnh giới khởi nghĩ như vầy: Ta là người trì giới, kia là giới phải trì, đây là thành quả tốt đẹp do trì giới. Khi tu giới như vậy là có trụ (tịnh giới), thì chẳng gọi tịnh giới Ba la mật. Khi tu an nhẫn khởi nghĩ như vầy: Ta tu nhẫn nhục, đây là quả nhẫn. Khi tu nhẫn như vậy là có trụ (an nhẫn), thì chẳng gọi an nhẫn Ba la mật. Khi tu tinh tấn khởi nghĩ như vầy: Ta siêng năng tu hành, không hề biếng nhác, vì vậy mà được tinh tấn hơn người. Khi tu tinh tấn như vậy là có trụ (tinh tấn), thì chẳng gọi tinh tấn Ba la mật. Khi tu tĩnh lự khởi nghĩ như vầy: Ta năng tu định(thiền định), kia là cảnh định, đây là quả định. Khi tu định như vậy là có trụ, nên chẳng thể gọi là tĩnh lự Ba la mật. Khi tu tuệ (Bát Nhã) khởi nghĩ như vầy: Ta năng tu huệ, kia là cảnh huệ, đây là quả huệ. Khi tu huệ như vậy là có trụ, thì chẳng thể gọi là Bát nhã Ba la mật.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này đem hữu sở đắc làm phương tiện nên chẳng có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào Bồ Tát tu hành viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật?
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát khi tu bố thí chẳng đắc kẻ thí, kẻ nhận, vật thí, quả thí, lại đem vô sở đắc phương tiện, nên có khả năng viên mãn bố thí Ba la mật. Khi tu tịnh giới, chẳng đắc kẻ trì, chẳng đắc giới, không thấy kết quả của việc thọ trì, lại đem vô sở đắc làm phương tiện, nên có khả năng viên mãn tịnh giới Ba la mật. Khi tu an nhẫn, chẳng thấy nhẫn, chẳng nghĩ được quả nhẫn, lại đem vô sở đắc làm phương tiện nên có khả năng viên mãn an nhẫn Ba la mật. Khi tu tinh tấn, chẳng đắc kẻ siêng, chẳng được quả siêng, lại đem vô sở đắc làm phương tiện, nên có khả năng viên mãn tinh tấn Ba la mật. Khi tu tĩnh lự, chẳng đắc kẻ định, cảnh định, quả định, lại đem vô sở đắc làm phương tiện, nên có khả năng viên mãn tĩnh lự Ba la mật. Khi tu Bát Nhã, chẳng đắc kẻ huệ, cảnh huệ, quả huệ, lại đem vô sở đắc làm phương tiện, nên có khả năng viên mãn Bát nhã Ba la mật.
Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát nên đem huệ vô sở đắc như thế và dùng các thứ văn nghĩa hay đẹp tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì đời đương lai có các thiện nam, thiện nữ vì người tuyên nói tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Kẻ sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề nghe bọn họ đã nói tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, tâm bèn mê lầm lui mất trung đạo.
Vậy nên, phải đem huệ vô sở đắc và dùng các thứ văn nghĩa hay đẹp vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Thích nghĩa cho phần trên:
(1). Như chúng tôi lưu ý từ đầu Bồ Tát Long Thọ lấy kinh MHBNBLMĐ để biên soạn Đại Trí Độ Luận. Nên phẩm tựa của Kinh MHBNBLMĐ và phẩm tựa của Đại Trí Độ Luận như nhau. Thí dụ như ở phần trên của phẩm này cả Kinh lẫn Luận đều có cùng phẩm tựa là “Giảo Lượng Pháp Thí”.
Lược giải phần trên:
Đoạn kinh này của Hội thứ II cũng giống như Đoạn bảy trong phẩm “So Lường Công Đức” của Hội thứ I, cốt so sánh các pháp tu như thập thiện đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông… với pháp tu như Bát nhã Ba la mật; so sánh các vai vị từ thấp lên cao của các bậc tu hành (từ Dự lưu, Thất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác và Vô Thượng Bồ đề), đồng thời cũng so sánh phạm vi các phương cõi (từ cõi Thiệm bộ châu so với Tứ đại châu, Tiểu thiên, Trung thiên, Tam thiên, Đại thiên hay mười phương thế giới như cát sông Hằng) để biết ai là người tu có nhiều công đức nhất. Thí dụ như người tu Thập thiện đạo ở Thiệm bộ châu làm sao có thể so sánh với người tu Bát nhã Ba la mật ở Tứ đại châu. Người tu Bát nhã Ba la mật dĩ nhiên có nhiều công đức hơn, và người hành đạo trong phạm vi như Thiệm bộ châu làm sao có thể so sánh với người hành đạo có phạm vi to lớn như Tứ đại châu, các Tiểu thiên, Trung thiên, Tam thiên, Đại thiên hay mười phương thế giới như cát sông Hằng được.
Đây là so sánh theo cấp lũy tiến, đọc qua ai cũng có thể hiểu, nên không cần nói thêm. Điễm đáng lưu ý của phẩm này Kinh khuyên tu Bát Nhã là phải chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, đem vô lượng môn vì người rộng nói tuyên chỉ khai diễn, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến cho dễ hiểu, đồng thời Kinh khuyên chẳng nên đem hai tướng(bất nhị), cũng chẳng nên đem chẳng hai tướng quán Bát Nhã. Phật bảo:
“Kiều Thi Ca! Trong đây nói nghĩa thú Bát Nhã có nghĩa là Bát Nhã đây có bao nhiêu nghĩa thú chẳng nên đem hai tướng quán; cũng chẳng nên đem chẳng hai tướng quán phi hữu tướng phi vô tướng, phi nhập phi xuất, phi tăng phi giảm, phi nhiễm phi tịnh, phi sanh phi diệt, phi thủ phi xả, phi chấp phi chẳng chấp, phi trụ phi chẳng trụ, phi thật phi chẳng thật, phi tương ưng phi chẳng tương ưng, phi hòa hợp phi ly tán, phi nhân duyên phi chẳng nhân duyên, phi pháp chẳng phi pháp, phi chơn như chẳng phi chơn như, phi thật tế chẳng phi thật tế(đó là nhị pháp). Nghĩa thú như thế có vô lượng môn”.
Kinh cũng khuyên hành giả Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện hành Bát nhã Ba la mật, lại đem huệ vô sở đắc vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật thì công đức được vô lượng, vô biên.
Chẳng có gì khó hiểu ở đây, nên không cần giải thích thêm nữa.
2. Phần dưới:
(Tương đương Đoạn tám, phẩm “So Lường Công Đức”,
từ Q.136 đến đầu Q. 168 Hội thứ I, ĐBN)
Tóm lược phần dưới:
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là tuyên nói tương tự Bát Nhã, tĩnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật?
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật có sở đắc. Như vậy thì gọi là tuyên nói tương tự Bát Nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là các thiện nam, thiện nữ nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật có sở đắc, nói như vậy gọi tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật?
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề hành sáu Ba la mật, nói sắc cho đến thức là vô thường, khổ, vô ngã. Nói nhãn xứ cho đến ý xứ là vô thường, khổ, vô ngã. Nói sắc xứ cho đến pháp xứ là vô thường, khổ, vô ngã. Nói nhãn giới cho đến ý giới là vô thường, khổ, vô ngã. Nói sắc giới cho đến pháp giới là vô thường, khổ, vô ngã. Nói nhãn thức giới cho đến ý thức giới là vô thường, khổ, vô ngã. Nói nhãn xúc cho đến ý xúc là vô thường, khổ, vô ngã. Nói nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là vô thường, khổ, vô ngã. Nói bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô thường, khổ, vô ngã. Nói bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí là vô thường, khổ, vô ngã. Khi khởi lời như vậy tức là tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật có sở đắc, nên gọi là hành tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Lại khởi nói này: Kẻ tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật nên cầu sắc cho đến Nhất thiết tướng trí vô thường, khổ, vô ngã. Nếu cầu các pháp như thế, tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật là tu hành Bát Nhã cho đến Bố thí Ba la mật có sở đắc, nên gọi là hành tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi lời như vầy: Thiện nam tử! Đến đây, ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nếu kẻ nào y lời ta dạy mà tu học sẽ mau an trụ Bồ Tát sơ địa cho đến thập địa. Kiều Thi Ca! Nếu kẻ nào đem hữu tướng và hữu sở đắc làm phương tiện, dạy người tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật như thế. Đấy gọi tuyên nói tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi lời như vầy: Thiện nam tử! Đến đây, ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nếu kẻ nào y lời ta dạy mà tu học, mau vượt Thanh văn và bậc Độc giác. Kẻ nào đem hữu tướng và hữu sở đắc làm phương tiện, nương vào đó mà dạy người tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đấy gọi tuyên nói tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi lời như vầy: Thiện nam tử! Đến đây, ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nếu kẻ nào y lời ta dạy mà tu học, mau vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, bèn được Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn. Đã được Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn bèn được Bồ Tát thần thông thù thắng. Đã được Bồ Tát thần thông thù thắng, năng dạo tất cả cõi Phật mười phương; từ một nước Phật đến một nước Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhờ đây mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Kẻ kia đem hữu tướng và hữu sở đắc làm phương tiện, nương tưởng ấy dạy tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đấy gọi tuyên nói tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ bảo kẻ chủng tánh Bồ Tát thừa rằng: Nếu đối Bát nhã Ba la mật chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, quyết định sẽ được công đức vô lượng vô số vô biên. Kiều Thi Ca! Kẻ kia đem hữu tướng và hữu sở đắc mà làm phương tiện khởi thuyết như vậy. Đấy gọi tuyên nói tương tự Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là tuyên nói chơn chánh Bát Nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật?
Phất nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật vô sở đắc. Nói như vậy gọi là tuyên nói chơn chánh Bát Nhã, tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật.
Khi ấy, Thiên Đế Thích lại thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Sao là các thiện nam, thiện nữ nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật vô sở đắc, nói như vậy gọi là tuyên nói chơn chánh Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật?
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi lời như vầy: Thiện nam tử! Đến đây, nên tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Ngươi chính khi tu, chẳng nên quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán nhãn xứ cho đến ý xứ; sắc xứ cho đến pháp xứ; nhãn giới cho đến ý giới; sắc giới cho đến pháp giới; nhãn thức giới cho đến ý thức giới; nhãn xúc cho đến ý xúc; nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã. Vì sao? Vì sắc, tự tánh sắc không. Cho đến Nhất thiết tướng trí, tự tánh Nhất thiết tướng trí không. Tự tánh sắc đây tức phi tự tánh. Cho đến tự tánh Nhất thiết tướng trí đây tức phi tự tánh. Nếu phi tự tánh tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật đây sắc chẳng khá được(vô sở đắc); thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng khá được, thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Vì sao? Trong đây không có sắc… khá được, huống có thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã khá được. Thiện nam tử! Nếu ngươi năng tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật như thế là tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Các thiện nam, thiện nữ này khởi thuyết như vậy, đấy gọi tuyên nói chơn chánh Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ vì kẻ phát tâm Vô thượng Bồ đề tuyên nói Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi lời như vầy: Thiện nam tử! Đến đây, ta sẽ dạy ngươi tu học Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Khi ngươi tu học chớ quán các pháp có chút nên trụ, nên vượt, nên vào, nên được, nên chứng, nên lóng nghe v.v… chỗ được công đức và nên tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao?
Thiện nam tử! Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật đây rốt ráo không có chút pháp nên trụ, nên vượt, nên vào, nên được, nên chứng, nên lóng nghe v.v… chỗ được công đức và nên tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều không. Nếu tự tánh không thời vô sở hữu. Nếu vô sở hữu tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật trọn không có chút pháp có vào có ra, có sanh có diệt, có đoạn có thường, có một có khác, có đến có đi mà khá được. (Q.431, ĐBN)
Vì vậy, nên Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ thảy nên đối Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý. Nên đem các thứ văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Do duyên cớ đây nên Ta tác lời này: Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, đem vô sở đắc làm phương tiện, chăm lòng lóng nghe v.v..., lại dùng các thứ văn nghĩa hay đẹp trong chừng giây lát vì người biện nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu, chỗ được nhóm phước rất nhiều hơn trước.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ dạy các loại hữu tình châu Thiệm bộ đều khiến trụ quả Dự lưu. Nơi ý hiểu sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thẳm sâu đây, chăm lòng lóng nghe thọ trì đọc tụng, cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý theo pháp môn này nên siêng tu học. Thiện nam thiện nữ đây chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Dự lưu và quả Dự lưu đều do Bát nhã Ba la mật này lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nói chi tới các hữu tình trong châu Thiệm bộ, nếu các thiện nam, thiện nữ dạy tất cả hữu tình trong bốn Đại châu, hoặc tất cả hữu tình trong Tiểu thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, hoặc tất cả hữu tình trong mười phương thế giới như cát sông Hằng, hoặc tất cả hữu tình trong hết mười phương vô biên thế giới đều khiến trụ quả Dự lưu. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi nghĩ này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát Nhã thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý theo pháp môn này nên siêng tu học. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Dự lưu và quả Dự lưu đều do Bát nhã Ba la mật đây lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ dạy các loại hữu tình châu Thiệm bộ đều khiến an trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát Nhã thậm thâm, chăm lòng lóng nghe thọ trì đọc tụng, cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý theo pháp môn đây nên siêng tu học. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Nhất lai và quả Nhất lai, cho đến A la hán và quả A la hán đều do Bát nhã Ba la mật đây lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nói chi tới các hữu tình trong châu Thiệm bộ, nếu các thiện nam, thiện nữ dạy tất cả hữu tình trong bốn Đại châu, hoặc tất cả hữu tình trong Tiểu thiên giới, hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, hoặc lại tất cả hữu tình trong mười phương thế giới như cát sông Hằng, hoặc tất cả hữu tình trong hết mười phương vô biên thế giới đều khiến an trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý theo pháp môn này nên siêng tu học. Các thiện nam, thiện nữ đây chỗ được công đức hơn trước rất nhiều. Vì sao? Vì tất cả Nhất lai và quả Nhất lai, cho đến A la hán và quả A la hán đều do Bát nhã Ba la mật đây lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ dạy các hoại hữu tình châu Thiệm bộ, đều khiến an trụ Độc giác Bồ đề. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi nghĩ này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý, theo pháp môn đây phải siêng tu học. Các thiện nam, thiện nữ này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Độc giác, Độc giác Bồ đề đều do Bát nhã Ba la mật đây lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nói chi tới các hữu tình trong châu Thiệm bộ, nếu các thiện nam, thiện nữ dạy tất cả hữu tình trong bốn Đại châu, hoặc tất cả hữu tình trong Tiểu thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình mười phương thế giới như cát sông Hằng, hoặc tất cả hữu tình hết mười phương vô biên thế giới, đều khiến an trụ Độc giác Bồ đề. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý theo pháp môn đây phải siêng tu học. Các thiện nam, thiện nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Độc giác, Độc giác Bồ đề đều do Bát nhã Ba la mật đây lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ dạy các loại hữu tình châu Thiệm bộ đều phát tâm hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Ý ông nghĩ sao? các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! rất nhiều.
Phật nói:
- Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi nghĩ này: Thiện nam tử! đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý, theo pháp môn Bát nhã Ba la mật đã nói nên chính tin hiểu. Nếu chính tin hiểu, thời có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế. Nếu có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế, thời có khả năng chứng được Nhất thiết trí. Nếu có khả năng chứng được Nhất thiết trí, thời tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử thiện nữ nhân này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì tất cả Bồ Tát sơ phát tâm cho đến Bồ Tát thập địa đều do Bát nhã Ba la mật đây lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nói chi tới các hữu tình trong châu Thiệm bộ, nếu các thiện nam, thiện nữ dạy tất cả hữu tình trong bốn Đại châu, hoặc tất cả hữu tình trong Tiểu thiên giới, hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, hoặc tất cả hữu tình trong mười phương thế giới như cát sông Hằng, đều phát tâm hướng đến Vô thượng Chánh đẳng giác. Ý ông nghĩ sao? Các thiện nam, thiện nữ này do nhân duyên đây được phước nhiều chăng?
Thiên Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật Bảo:
- Kiều Thi Ca! Nếu có thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý, theo pháp môn Bát nhã Ba la mật đã nói nên chính tin hiểu. Nếu chính tin hiểu, thời có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế. Nếu có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế, thời có khả năng chứng được Nhất thiết trí, thời tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Tất cả Bồ Tát sơ phát tâm cho đến Bồ Tát thập địa, đều do Bát nhã Ba la mật lưu xuất vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện tử, thiên nữ dạy các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều được Bất thối chuyển. Lại có các thiện nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý, theo pháp môn Bát nhã Ba la mật đây đã nói phải chính tin hiểu. Nếu chính tin hiểu thời có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế. Nếu có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế, thời có khả năng chứng được Nhất thiết trí. Nếu năng chứng được Nhất thiết trí, thời tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thôi không nói các loại hữu tình trong châu Thiệm bộ, nếu các thiên nam, thiên nữ dạy cho các loại hữu tình trong bốn Đại châu, hoặc tất cả hữu tình trong Tiểu thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Trung thiên thế giới, hoặc tất cả hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đây, hoặc tất cả hữu tình trong mười phương thế giới như cát sông Hằng, đều đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được Bất thối chuyển. Lại có thiện nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, dùng vô lượng môn văn nghĩa hay đẹp vì người rộng nói, tuyên chỉ khai thị, giải thích rõ ràng, phân biệt nghĩa thú khiến kia dễ hiểu. Lại khởi lời này: Thiện nam tử! Đến đây, ngươi nên đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng cho giỏi thông lợi, suy nghĩ đúng lý, theo pháp môn Bát nhã Ba la mật đã nói phải chính tin hiểu. Nếu chính tin hiểu thời có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế. Nếu có khả năng tu học Bát nhã Ba la mật như thế, thời có khả năng chứng được Nhất thiết trí. Nếu có khả năng chứng được Nhất thiết trí, thời tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn. Nếu tu Bát nhã Ba la mật tăng ích viên mãn, bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ này chỗ được công đức rất nhiều hơn trước.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy đại Bồ Tát càng gần Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy, nên đem bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật dạy bảo dạy trao. Như vậy, nên đem nội không cho đến vô tánh tự tánh không dạy bảo dạy trao. Như vậy, nên đem bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi dạy bảo dạy trao. Như vậy nên đem Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng dạy bảo dạy trao. Nên đem y phục, thuốc men, thực phẩm, đồ nằm, tùy họ cần thứ tự cụ gì thì cúng dường nhiếp thọ.
Bạch Thế Tôn! Như vậy, là các thiện nam, thiện nữ năng đem pháp thí, tài thí dạy bảo dạy trao, cúng dường nhiếp thọ Bồ Tát kia; các thiện nam thiện nữ này, chỗ được công đức rất nhiều hơn trước. Vì sao? Vì Bồ Tát kia cần nhờ pháp thí, tài thí dạy bảo dạy trao, cúng dường nhiếp thọ như thế mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng:
- Hay thay! Kiều Thi Ca! Ngươi mới là người khuyến dẫn, năng nhiếp thọ cùng hỗ trợ các đại Bồ Tát kia. Ngươi nay đã là Thánh đệ tử Phật, làm việc đáng làm. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các Thánh đệ tử của tất cả đức Như Lai muốn làm lợi lạc cho các hữu tình, nên mới khuyến khích Đại Bồ Tát ấy sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bằng tài thí và pháp thí, các Thánh đệ tử Phật truyền trao, cúng dường, nhiếp thọ, hỗ trợ cho Đại Bồ Tát ấy sớm chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả các đức Như Lai, Thanh văn, Duyên giác, việc thù thắng của thế gian đều do Đại Bồ Tát này mà được xuất hiện.
Kiều Thi Ca! Nếu không Bồ Tát phát khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, thời không có đại Bồ Tát năng học sáu Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Nếu không có đại Bồ Tát học sáu Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thời không có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu không Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thời không có Như Lai, Thanh văn, Độc giác, và các việc tốt lành thế gian.
Kiều Thi Ca! Do có Bồ Tát khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, bèn có đại Bồ Tát năng học sáu Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Do có đại Bồ Tát học sáu Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bèn có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do có đại Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, năng dứt địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng làm giảm bớt bè lũ A tu la, tăng thêm trời người; bèn có đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ xuất hiện thế gian. Cũng có trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ xuất hiện thế gian. Lại có bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng xuất hiện thế gian. Lại có Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Chánh giác thừa xuất hiện thế gian.
Sơ giải phần dưới:
Phần dưới của Hội thứ II cũng giống như đoạn tám, cuối phẩm “So Lường Công Đức”. Kinh giải thích thế nào tu tương tợ và tu chơn chánh Bát Nhã: Tu tương tợ Bát Nhã là tu có sở đắc, đem hữu tướng và hữu sở đắc làm phương tiện, dạy người tu hành Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, còn tu chơn chánh Bát Nhã là tu vô sở đắc. Tu vô sở đắc lại hồi hướng Nhất thiết trí trí thì mau chứng Vô Thượng Bồ đề.
Đoạn tám cuối phẩm “So Lường Công Đức”cũng so sánh các pháp tu như thập thiện đạo, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tứ niệm xứ cho đến 18 pháp Phật bất cộng với tu Bát nhã Ba la mật; so sánh các vai vị từ thấp lên cao của các bậc tu hành (từ Dự lưu, Thất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát và Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề), đồng thời cũng so sánh phạm vi cõi nước (từ Thiệm bộ châu so với Tứ đại châu, Tiểu thiên, Trung thiên, Tam thiên, Đại thiên hay 10 phương thế giới như cát sông Hằng) như Đoạn bảy, để biết ai là người tu có nhiều công đức trí tuệ hơn.
Kinh cũng khuyên rằng chẳng nên quán sắc cho đến Nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã. Quán và tu như vậy là có sở đắc nên chỉ được gọi là tu tương tự Bát nhã Ba la mật. Còn tu chơn chánh Bát nhã Ba la mật trái lại, phải lấy vô sở đắc làm phương tiện. Vì sao? “Vì sắc, tự tánh sắc không. Cho đến Nhất thiết tướng trí, tự tánh Nhất thiết tướng trí không. Tự tánh sắc đây tức phi tự tánh. Cho đến tự tánh Nhất thiết tướng trí đây tức phi tự tánh. Nếu phi tự tánh tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật đây sắc chẳng khá được; thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng khá được, thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã kia cũng chẳng khá được. Vì sao? Trong đây không có sắc… khá được, huống có thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã khá được. Thiện nam tử! Nếu ngươi năng tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật như thế là tu Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Các thiện nam, thiện nữ này khởi thuyết như vậy, đấy gọi tuyên nói chơn chánh Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật”.
Đó là các ý chánh của phần sau phẩm này, ai đọc cũng có thể hiểu, nên không cần bàn thêm. Nếu có thắc mắc có thể quay lại tụng đọc đoạn bảy và đoạn tám của phẩm “So Lường Công Đức”của Kinh ĐBN.
Giáo lý đáng chú ý trong phẩm này là câu chỉ thị của Phật:
“Thiện nam tử! Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật đây rốt ráo không có chút pháp nên trụ, nên vượt, nên vào, nên được, nên chứng, nên lóng nghe v.v… chỗ được công đức và nên tùy hỷ hồi hướng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều không. Nếu tự tánh không thời vô sở hữu. Nếu vô sở hữu tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật trọn không có chút pháp có vào có ra, có sanh có diệt, có đoạn có thường, có một có khác, có đến có đi mà khá được”. (Q.431, ĐBN)
Phật nhiều lần đã thuyết là không có pháp khá trụ, khá vượt, nên vào, nên được v.v… Có trụ là có nắm bắt là có quái ngại, nên nói là vô sở trụ. Còn nghĩ các pháp là tối cao có nhiều công đức trí tuệ vượt lên tất cả, có thể vào, có thể đắc… là còn thủ tâm chấp tướng tức bị trói buộc bằng cách này hay cách khác, thì không thể giải thoát. Tại sao? Bởi vì tất cả pháp đều không có tự tánh, vô sở hữu bát khả đắc, thì làm sao nắm bắt thủ giữ được. Kinh bảo: “vô sở hữu tức là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Đối Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật trọn không có chút pháp có vào có ra, có sanh có diệt, có đoạn có thường, có một có khác, có đến có đi mà khá được”.
Kết luận:
Để giải thích toàn bộ phẩm thứ 38, tập 3, quyển 60, chúng tôi lấy lời bình giải của Đại Trí Độ Luận, làm kết luận:
“Vì thọ trì, đọc tụng chỉ được phước đức mà thôi, còn chánh ức niệm vừa được phước đức, vừa được trí huệ, nên phải nói rõ hơn.
Thọ trì, đọc tụng ví như hòa hợp được các cây cỏ thuốc để trị bệnh, nhưng chưa sắc thuốc để uống, thì vẫn chưa lành bệnh được. Chánh ức niệm để biết rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật mà tu tập mới dẫn đến giải thoát, ví như sắc thuốc để uống mới dẫn đến lành bệnh vậy.
Với chánh ức niệm, người tu sẽ rõ được thậm thâm nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật là chẳng phải “nhị tướng quán”, chẳng phải “bất nhị tướng quán”, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải nhập, chẳng phải xuất, chẳng phải tăng, chẳng phải giảm, chẳng phải cấu, chẳng phải tịnh, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải thủ, chẳng phải xả v.v...
Trong kinh nói biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn cúng dường xá lợi Phật; biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mật rồi cúng dường cho người khác đọc, thù thắng hơn tự mình thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật; chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn thọ trì, đọc tụng Bát Nhã Ba La Mật; phân biệt, khai thị, diễn nói cho người khác được hiểu rõ về nghĩa Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn tự mình chánh ức niệm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật.
Bao nhiêu so sánh đó là quá đủ: Cái gì do mình làm mình hưởng chỉ có kết quả cá nhân hạn hẹp, không thể sánh bằng vì người khác mà phân biệt, khai thị, diễn nói… khiến có thể ngộ nhập Bát Nhã mà được pháp lạc lâu dài.
--o0o--
Phật nói: Người cung kính, cúng dường các đức Phật chẳng có được phước đức bằng người giải rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe. Vì sao? Vì chư Phật trong 3 đời đều do tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề.
Phật lại nói: Dù tinh tấn hành Bát Nhã Ba La Mật trong vô lượng kiếp, mà tâm còn “hữu sở đắc”, thì chẳng có được công đức bằng người giải rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật cho người khác nghe. Vì sao ? Vì còn “hữu sở đắc” là còn chấp ngã, chấp tướng.
Phật muốn rộng nói về chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, nên dạy vị Đế Thích rằng: Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát phải dụng tâm “vô sở đắc” mới được đầy đủ 6 Ba La Mật.
Phật nói thêm: Ở đời vị lai, có người nói “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”, khiến người nghe chẳng thể phân biệt được chánh niệm hay tà niệm. Bởi vậy nên Phật nói rõ về tướng của “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật” để người nghe dễ phân biệt chánh niệm và tà niệm, giúp họ hành chánh đạo, và xa lìa tà đạo.
Phật thương xót chúng sanh đời sau, vì chẳng được duyên lành gặp Phật và chư đại Bồ Tát, nên chỉ được học Bát Nhã Ba La Mật qua kinh điển, khiến có thể sanh tà ức niệm; rồi y vào danh tự, ngôn ngữ mà nói “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật” cho người khác nghe.
Nếu chỉ xét về danh tự, ngữ ngôn bên ngoài, thì bên ngoài tưởng chừng như Bát Nhã Ba La Mật và tương tợ Bát Nhã Ba La Mật tương đồng với nhau. Nếu chánh ức niệm, tư duy, sẽ thấy rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm, vi diệu, khác hẳn với “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.
Người chấp tâm, chấp tướng nói 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã... dẫn đến nói 5 ấm là vô sanh, vô diệt, rồi hành 5 ấm như vậy, mà cho đó là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Đây là hành “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”.
Trái lại, với người chẳng chấp tâm, chẳng chấp tướng cũng nói 5 ấm là vô sanh, vô diệt; nhưng nói như vậy chỉ nhầm phá các chấp điên đảo của phàm phu mà chẳng hề chấp trước. Như vậy mới đúng theo chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật.
Lại nữa, người thuyết pháp để dạy người khác xả “tương tợ Bát Nhã Ba La Mật”, và tu tập “chánh Bát Nhã Ba La Mật” cũng thuyết đúng theo chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật.
Người thuyết pháp đúng theo chánh nghĩa Bát Nhã Ba La Mật được công đức rất thù thắng.
Với lời bình giảng ngắn gọn rõ ràng này của Đại Trí Độ Luận, chúng tôi nghĩ Quý vị có thể hiểu toàn thể phẩm này cũng như các phẩm khác có giáo lý tương tự. Thế cũng tạm đủ! Chúng ta có thể tụng đọc thọ trì các phẩm kế tiếp ./.
---o0o---