Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25. Phẩm “Đế Thích” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

12/08/202021:19(Xem: 8974)
25. Phẩm “Đế Thích” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
2.25. Đế Thích - HL

 PHẨM “ĐẾ THÍCH”

Quyển 425 đến phần đầu quyển 426, tập 18, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Thiên Đế”, Q.77 - Q. 81, Hội thứ I, ĐBN).

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le





 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, ở tam thiên đại thiên thế giới Kham Nhẫn này có trời Tứ đại vương cùng với vô lượng trăm ngàn ức các Thiên tử cõi trời Tứ đại vương đều đến hội hợp; có Thiên Đế cùng với vô lượng trăm ngàn ức các Thiên tử cõi trời Ba mươi ba đều đến hội hợp; có Thiên vương Tô dạ ma, San đổ sử đa, Diệu biến hóa, Tha hóa Tự tại, Đại phạm, trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Sắc cứu cánh, cùng với vô lượng trăm ngàn Thiên tử, thiên chúng đều đến hội hợp. Thiên chúng cõi trời Tứ đại vương, cho đến thiên chúng trời Tịnh cư có nghiệp dị thục thanh tịnh thân có ánh sáng, so với ánh sáng thường hiện của thân Như Lai không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, không bằng một phần trăm ngàn, phần ức, phần trăm ngàn ức, như vậy, cho đến số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, cực số phần. Vì sao? Vì ánh sáng thường hiện của thân Như Lai rất rực rỡ, trong số các ánh sáng thì ánh sáng của Như Lai là tối tôn, tối thắng, tối thượng, tối diệu, vô tỷ, vô đẳng, vô thượng, đệ nhất, che ánh sáng chư Thiên giống như đốm lửa đối với vàng Thiệm bộ.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Nay thế giới Tam thiên đại thiên đây, có trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tịnh cư đều đến nhóm hội, muốn nghe Tôn giả tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Nguyện xin Tôn giả đúng thời giảng nói cho. Thưa Tôn giả! Thế nào là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát? Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào? Bồ Tát nên học Bát nhã Ba la mật như thế nào?

Cụ thọ Thiện Hiện liền bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Thiên chúng các ngươi hãy lóng nghe, khéo nghĩ nhớ, ta sẽ nhờ oai thần của Phật, thuận ý Như Lai, vì các chúng Bồ Tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật. Các Bồ Tát nên đối trong ấy, nên trụ như thế, nên học như thế.

Kiều Thi Ca! Chư Thiên ngươi, kẻ chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay đều nên phát tâm. Kiều Thi Ca! Các vị đã vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác chẳng cần phát tâm đại Bồ đề nữa. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì các vị kia đã chấm dứt đường sanh tử. Nhưng trong đó nếu có vị nào muốn phát tâm đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì thắng nhân nên cầu thắng pháp, đối với tôi chẳng có gì trở ngại.

 

(Thế nào là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát?)

 

Kiều Thi Ca! Ngươi hỏi thế nào là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát? Các ngươi lóng nghe, ta sẽ vì các ông nói. Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên, hoặc mụt ghẻ, hoặc nóng nảy, hoặc bức bách, hoặc hư hoại, hoặc mục nát, hoặc lay chuyển, hoặc mau diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng nhàm chán, hoặc có tai ách, hoặc có oan ức, hoặc có bệnh dịch, hoặc có bệnh hủi, hoặc không an ổn, hoặc không thể tín nhiệm. Tư duy nhãn xứ cho đến ý xứ. Tư duy sắc xứ cho đến pháp xứ. Tư duy nhãn giới cho đến ý giới. Tư duy sắc giới cho đến pháp giới. Tư duy nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Tư duy địa giới cho đến thức giới cũng lại như thế.

 

(Tại sao Thiện Hiện nói với Kiều Thi Ca các Bồ Tát tu hành phải tư duy 5 ấm, 12 xứ, 18 giới là vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên… Vì ấm xứ giới là những thứ ghê tởm biến hoại thường đem đau khổ phiền não lo âu, phải biết như vậy nhàm chán xa lánh).

 

Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vắng lặng, hoặc xa lìa, hoặc vô sanh, hoặc vô diệt, hoặc vô nhiễm, hoặc vô tịnh, hoặc vô tác, hoặc vô vi. Tư duy mười hai xứ cho đến mười tám giới. Tư duy nhãn xúc cho đến ý xúc. Tư duy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Tư duy địa giới cho đến thức giới cũng lại như thế.

Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử tập hợp toàn một nhóm khổ lớn. Đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử cho đến trọn nhóm khổ lớn cũng diệt.

Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như, pháp giới, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới v.v…

Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát phát tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu hành sáu Ba la mật, bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành tất cả Tam ma địa môn, Đà la ni môn. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Bồ Tát nào khi tu hành Bát Nhã, quán như vầy: Chỉ có các pháp bồi bổ, tăng trưởng lớn mạnh, viên mãn lẫn nhau. Tư duy suy tính không có ngã, không có ngã sở. Lại quán như vầy: Tâm hồi hướng của các Bồ Tát không hòa hợp với tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề cũng không hòa hợp với tâm hồi hướng. Nghĩa là tâm hồi hướng của Bồ Tát trong tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc. Tâm Bồ đề trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Các Bồ Tát tuy như thật quán sát các pháp nhưng đối với các pháp hoàn toàn không thấy.

Này Kiều Thi Ca! Đấy gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

(Sau khi tư duy các ấm xứ giới biết cái tệ hại của nó thì phải quán như thế nào, tu như thế nào, để thoát ly áp lực của chúng mà được tâm hoặc vắng lặng, hoặc xa lìa, hoặc vô sanh, hoặc vô diệt, hoặc vô nhiễm, vô tịnh, hoặc vô tác, vô vi… Nếu quán như vậy sẽ thấy 5 ấm, 12 xứ, 18 giới là tịch diệt, là viễn ly... thì biết rõ được hết thảy các pháp đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh tức đạt đến chỗ an tịnh của tâm. Tu như vậy, lại đem tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí lấy vô sở đắc làm phương tiện tu hành tất cả pháp Phật, thì đó gọi là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát.

Đại Trí Độ Luận, phẩm “Thiên Vương”, tập 3, quyển 54, giải thích điểm này như sau:

“Hàng Thanh Văn do chưa được đầy đủ lực trí huệ, nên khi quán 5 ấm chưa vào được các pháp viễn ly, tịch diệt, mà chỉ quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Bồ Tát do lợi căn, lại đã đầy đủ lực trí huệ, nên khi quán 5 ấm liền biết rõ 5 ấm là tịch diệt, là viễn ly, là bất khả đắc. Bởi vậy nên Bồ Tát thường dùng “vô sở đắc không huệ” mà quán các pháp tướng.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn (Kiều Thi Ca) chỉ hỏi về “Bát nhã Ba la mật tướng”, chẳng hỏi về “5 ấm tướng”, nhưng ngài Tu Bồ Đề lại đáp rằng: Bát nhã Ba la mật tướng chẳng ly 5 ấm tướng, đó chính là Niết Bàn tướng. Vì sao? Vì thật tướng của 5 ấm chính là Niết Bàn tướng vậy.

Đối với những người căn trí còn yếu kém, thì trước hết phải quán 5 ấm là vô thường, khổ, không, vô ngã, rồi sau đó mới quán 5 ấm là viễn ly, là tịch diệt, là bất khả đắc. Quán các nhân duyên tác pháp khác cũng đều là như vậy cả. Sau đó mới tu 4 niệm xứ... dẫn đến 8 thánh đạo v.v...

Bồ Tát do lợi căn, thượng trí, nên khi quán các pháp tướng, khi tu các pháp môn đều dụng vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm(chỉ Nhất thiết trí trí hay Vô Thượng Bồ đề tâm).

Bồ Tát hành Bồ Tát đạo như vậy là hành Bát nhã Ba la mật tướng, dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề”).

 

(Tâm hồi hướng của Bồ Tát chẳng hòa hợp cùng tâm Bồ đề?)

 

Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Tại sao tâm hồi hướng của Bồ Tát chẳng hòa hợp cùng tâm Bồ đề, tâm Bồ đề cũng chẳng hòa hợp cùng tâm hồi hướng? Tại sao tâm hồi hướng của Bồ Tát đối trong tâm Bồ đề vô sở hữu bất khả đắc, tâm Bồ đề đối trong tâm hồi hướng cũng vô sở hữu bất khả đắc?

Thiện Hiện đáp rằng:

- “Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát Ma ha tát tâm hồi hướng thời phi tâm, tâm Bồ đề cũng phi tâm. Chẳng lẽ phi tâm hồi hướng phi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng phi tâm? Phi tâm chẳng lẽ hồi hướng nơi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng nơi tâm? Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Phi tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là phi tâm, hai thứ như thế đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng”(1). Kiều Thi Ca! Tâm không tự tánh. Tâm không nên tâm sở cũng không. Tâm và tâm sở đã không tự tánh, nên tâm cũng không có nghĩa hồi hướng. Kiều Thi Ca! Nếu tác quán tác như vậy, đấy gọi Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật.

 

(Đại Trí Độ Luận cùng phẩm đặt câu Hỏi và Đáp của đoạn Kinh này như sau:

“Hỏi: Nếu nói tâm hồi hướng chẳng có trong tâm Vô Thượng Bồ Đề, thì tâm ấy là như thế nào?

Đáp: Khi đã vào trong Bát nhã Ba la mật rồi, thì biết rõ hết thảy các pháp đều là phi thường tướng (chẳng phải tướng thường), phi vô thường tướng (chẳng phải tướng vô thường), phi hữu tướng (chẳng phải tướng có), phi vô tướng (chẳng phải tướng không).

Như vậy chẳng nên nạn vấn về tướng của tâm hồi hướng làm gì nữa”.

Vì Bát Nhã là bất nhị pháp môn, Bát Nhã là đệ nhất nghĩa nên trong Bát Nhã không có thường hay đoạn, có tướng hay không có tướng. Tất cả đều bình đẳng, nên Luận không muốn trả lời).

 

Bấy giờ, Thế Tôn khen Thiện Hiện rằng:

- Hay thay, hay thay! Ngươi khéo hay vì các Bồ Tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật, cũng gắng khuyên các Bồ Tát khiến sanh vui mừng, tu tập Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con đã biết ơn chẳng lẽ chẳng trả. Vì sao? Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử vì chúng Bồ Tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật, chỉ dạy khuyến dẫn, khen gắng vui mừng, an ủi kiến lập, khiến được rốt ráo. Bấy giờ Đức Thế Tôn cũng học, nay chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp lợi vui chúng con. Nên con ngày nay theo Phật dạy, vì chúng Bồ Tát tuyên nói sáu thứ Ba la mật chỉ dạy khuyến dẫn, khen gắng vui mừng, an ủi kiến lập, khiến được rốt ráo, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đấy thời gọi là đáp đền ân đức!

 

(Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào?)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Ngươi hỏi Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào? Các ngươi lóng nghe, tôi sẽ vì các ngươi nói. Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật cần trụ chỗ nên trụ, chẳng trụ nơi tướng. Kiều Thi Ca! Sắc, sắc không; thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức không; Bồ Tát, Bồ Tát không. Hoặc sắc không, hoặc thọ tưởng hành thức không, hoặc Bồ Tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.

Kiều Thi Ca! Nhãn xứ, nhãn xứ không; nhãn giới, nhãn giới không; Bồ Tát, Bồ Tát không. Hoặc nhãn xứ không, cho đến hoặc nhãn giới không, hoặc Bồ Tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.

Kiều Thi Ca! Nhãn xúc, nhãn xúc không; cho đến ý xúc, ý xúc không; Bồ Tát, Bồ Tát không. Hoặc nhãn xúc không, cho đến hoặc ý xúc không, hoặc Bồ Tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.

Kiều Thi Ca! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không; cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không; Bồ Tát, Bồ Tát không. Hoặc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không, cho đến hoặc ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, hoặc Bồ Tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.

Kiều Thi Ca! Địa giới, địa giới không; cho đến thức giới, thức giới không; Bồ Tát, Bồ Tát không. Hoặc địa giới không, cho đến hoặc thức giới không, hoặc Bồ Tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.

Kiều Thi Ca! Tất cả pháp Phật, tất cả pháp Phật không; Bồ Tát, Bồ Tát không. Hoặc tất cả pháp Phật không, hoặc Bồ Tát không. Tất cả như thế đều không hai, không hai phần. Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật nên an trụ như thế.

Kiều Thi Ca lại hỏi:

- Nếu tất cả pháp đều không, vậy Bồ Tát tu hành Bát Nhã an trụ chỗ nào?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Này Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Chẳng nên trụ nhãn xứ, cho đến chẳng nên trụ ý xứ. Chẳng nên trụ sắc xứ, cho đến chẳng nên trụ pháp xứ. Chẳng nên trụ nhãn giới, cho đến ý giới. Chẳng nên trụ sắc giới cho đến pháp giới. Chẳng nên trụ nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chẳng nên trụ nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng nên trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cho đến chẳng trụ ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng nên trụ địa giới, cho đến chẳng nên trụ thức giới. Chẳng nên trụ vô minh, cho đến chẳng nên trụ lão tử. Chẳng nên trụ vô minh diệt, cho đến chẳng nên trụ lão tử diệt. Chẳng nên trụ bố thí Ba la mật, cho đến chẳng nên trụ Bát nhã Ba la mật. Chẳng nên trụ nội không, cho đến chẳng nên trụ vô tánh tự tánh không. Chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cho đến chẳng nên trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ tất cả Tam ma địa môn, chẳng nên trụ tất cả Đà la ni môn. Chẳng nên trụ Thanh văn thừa, chẳng nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Chẳng nên trụ Dự lưu cho đến chẳng nên trụ Như Lai. Chẳng nên trụ Nhất thiết trí; chẳng nên trụ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí (Tức là chẳng nên trụ tất cả pháp Phật). Vì sao? Kiều Thi Ca! An trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ đây là sắc cho đến đây là thức. Chẳng nên trụ đây là nhãn xứ cho đến đây là ý xứ. Chẳng nên trụ đây là sắc xứ cho đến đây là pháp xứ. Chẳng nên trụ đây là nhãn giới cho đến đây là ý giới. Chẳng nên trụ đây là sắc giới cho đến đây là pháp giới. Chẳng nên trụ đây là nhãn thức giới cho đến đây là ý thức giới. Chẳng nên trụ đây là nhãn xúc cho đến đây là ý xúc. Chẳng nên trụ đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến đây là ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng nên trụ đây là địa giới cho đến đây là thức giới. Chẳng nên trụ đây là nội không cho đến đây là vô tánh tự tánh không. Chẳng nên trụ đây là vô minh cho đến đây là lão tử. Chẳng nên trụ đây là vô minh diệt cho đến đây là lão tử diệt. Chẳng nên trụ đây là bố thí Ba la mật cho đến đây là Bát nhã Ba la mật. Chẳng nên trụ đây là bốn niệm trụ cho đến đây là mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ đây là tất cả Tam ma địa môn, đây là tất cả Đà la ni môn. Chẳng nên trụ đây là Thanh văn thừa, đây là Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Chẳng nên trụ đây là Dự lưu cho đến đây là Như Lai. Chẳng nên trụ đây là Nhất thiết trí, đây là Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

 

(Xác nhận một pháp cho dù pháp đó mang nhiều công đức thắng diệu nhất và an trụ trong ấy, tức có sở đắc, nên không thể an trụ)

 

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ mười hai xứ, mười tám giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ địa giới cho đến thức giới hoặc thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Nói rộng ra, chẳng nên trụ tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên trụ Dự lưu cho đến Như Lai hoặc thường hoặc vô thường, cho đến hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ quả Dự lưu hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ đề, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc hiển thị hữu vi, hoặc hiển thị vô vi. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ Dự lưu là phước điền. Chẳng nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai là phước điền. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ sơ địa cho đến chẳng nên trụ đệ thập địa. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì trụ như thế là có sở đắc vậy. Vì sao? Vì trụ như thế là động chuyển vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi khởi nghĩ: Ta sẽ viên mãn bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi khởi nghĩ: Ta sẽ tu hành bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi. Chẳng nên trụ sơ phát tâm rồi liền khởi nghĩ: Ta sẽ tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ rồi khởi nghĩ này: Ta tu gia hạnh đã viên mãn rồi sẽ vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Chẳng nên trụ rồi khởi nghĩ này: Ta đã được vào Chánh tánh ly sanh, sẽ trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển. Chẳng nên trụ rồi khởi nghĩ này: Ta sẽ viên mãn năm (thần)thông Bồ Tát. Chẳng nên trụ rồi khởi nghĩ này: Ta trụ Bồ Tát viên mãn năm thông, thường dạo vô lượng vô số cõi Phật, lễ kính chiêm ngưỡng, cúng dường thừa sự chư Phật Thế Tôn, lóng nghe chánh pháp, suy nghĩ đúng lý, rộng vì người thuyết. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ làm trang nghiêm tịnh độ như cõi Phật trong mười phương. Không nên trụ nghĩ như vầy: Ta sẽ biến hóa tịnh độ như cõi Phật trong mười phương. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ thành thục các loại hữu tình khiến chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc vào Niết bàn, hoặc vui người trời. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ đến vô lượng vô số cõi nước chư Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Lại đem vô biên hoa hương, anh lạc, bảo tràng, phan lọng, áo mặc, đồ nằm, uống ăn, đèn sáng, trăm ngàn trăm ức, muôn ức số các kỹ nhạc trời và vô lượng châu báu thượng diệu mà vì cúng dường. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình, khiến đối Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được Bất thối chuyển. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong thanh tịnh nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Chẳng nên trú khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong các môn đẳng trì, đối các đẳng trì được tự tại du hý. Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong các tổng trì môn, đối các tổng trì đều được tự tại. Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ thành xong ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân, khiến các hữu tình kẻ thấy vui mừng, xem không nhàm chán. Do đấy chứng được lợi ích an vui. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ đây là bổ đặc già la thứ tám, đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành. Không nên trụ bậc Dự lưu còn sanh trở lại bảy lần, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn. Không nên trụ đây là bổ đặc già la đứng đầu, đến khi mạng chung, phiền não mới hết. Chẳng nên trụ đây là pháp Dự lưu quyết định chẳng đọa, đây là Nhất lai đến đây được hết ngằn mé khổ thế gian. Chẳng nên trụ đây là Bất hoàn hướng, đây là Bất hoàn quả, đến đó mới đắc Niết bàn. Chẳng nên trụ đây là A la hán dứt hẳn hậu hữu(2), hiện tại tất vào Vô dư Niết bàn. Chẳng nên trụ đây là Độc giác. Chẳng nên trụ đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta vượt bậc Thanh văn, Độc giác, đã an trụ bậc Bồ Tát. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ đầy đủ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, giác tất cả pháp tất cả tướng rồi dứt hẳn tất cả tập khí phiền não ràng buộc nối nhau. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ chứng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đắc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quay xe diệu pháp làm các Phật sự, độ thoát vô lượng vô số hữu tình, khiến được Niết bàn an vui. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ khéo tu bốn thần túc, đã an trụ đẳng trì thù thắng như thế. Do đẳng trì đây tăng thêm thế lực, khiến ta thọ mệnh vô lượng vô biên. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ trọn nên ba mươi hai tướng, mỗi mỗi tướng này trăm phước trang nghiêm. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ trọn nên tám mươi vẻ đẹp, mỗi vẻ đẹp đều có vô lượng hy hữu thắng sự. Chẳng nên trụ khởi nghĩ này: Ta sẽ an trụ một cõi nghiêm tịnh, cõi ấy rộng rãi như mười phương thế giới. Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ ngồi yên một tòa kim cương, tòa ấy rộng lớn lượng ngang Tam thiên đại thiên thế giới. Chẳng nên an trụ khởi nghĩ: Ta sẽ nương ở cội Đại bồ đề, cội ấy cao rộng các báu trang nghiêm phát ra diệu hương, hữu tình kẻ nghe, tâm tham sân si thảy mau trừ diệt, vô lượng vô biên thân bệnh cũng được lành. Các kẻ nghe hương cội Bồ đề này lìa các tác ý Thanh văn, Độc giác, quyết được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Chẳng nên trụ khởi nghĩ: Ta sẽ được cõi Phật nghiêm tịnh, cõi ấy thanh tịnh không có tiếng gọi sắc uẩn, không có tiếng gọi thọ tưởng hành thức uẩn. Không có tiếng gọi mười hai xứ, mười tám giới. Không có tiếng gọi nhãn xúc, không có tiếng gọi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Không có tiếng gọi nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, không có tiếng gọi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Không có tiếng gọi địa giới, không có tiếng gọi thủy hỏa phong không thức giới. Không có tiếng gọi vô minh; không có tiếng gọi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Chỉ có tiếng gọi bố thí Ba la mật cho đến chỉ có tiếng gọi Bát nhã Ba la mật. Chỉ có tiếng gọi nội không, cho đến chỉ có tiếng gọi vô tánh tự tánh không. Chỉ có tiếng gọi chơn như, cho đến chỉ có tiếng gọi bất tư nghì giới. Chỉ có tiếng gọi bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chỉ có tiếng gọi mười tám pháp Phật bất cộng. Trong ấy đều không tiếng gọi Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Dị sanh thảy. Chỉ có tiếng gọi Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì an trú như thế là có sở đắc vậy. Vì sao? Vì khi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hiểu tất cả pháp đều vô sở hữu. Tất cả chúng Bồ Tát an trú bậc Bất thối chuyển cũng thấy các pháp đều vô sở hữu. Này Kiều Thi Ca! Đấy là Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật, tùy chỗ nên trụ, không nên trụ tướng.

Này Kiều thi Ca! Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu, tùy theo chỗ nên trụ, không nên trụ tướng, đem vô sở đắc làm phương tiện nên học như vậy.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử khởi nghĩ này rằng: Nếu Bồ Tát tu hành Bát Nhã đối tất cả pháp chẳng nên trụ, làm sao an trụ Bát nhã Ba la mật?

Cụ thọ Thiện Hiện biết chỗ tâm nghĩ Xá Lợi Tử bèn bảo rằng: Các ông nghĩ sao? Tâm các Như Lai an trụ chỗ nào?

Xá Lợi Tử nói: Tâm Như Lai đều vô sở trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tâm Như lai chẳng trụ nơi sắc, chẳng trụ thọ tưởng hành thức. Chẳng trụ mười hai xứ, mười tám giới. Chẳng trụ nhãn xúc, chẳng trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chẳng trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng trụ hữu vi giới, chẳng trụ vô vi giới. Chẳng trụ bốn niệm trụ, nói rộng cho đến chẳng trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng trụ Nhất thiết trí; chẳng trụ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy. Như vậy, Thiện Hiện! Tâm Như Lai đối tất cả pháp đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo Xá Lợi Tử rằng: Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã cũng lại như vậy, tuy trụ Bát nhã Ba la mật mà đồng Như Lai đối tất cả pháp đều vô sở trụ cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã tuy trụ Bát nhã Ba la mật mà đối sắc chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Cho đến đối Nhất thiết tướng trí cũng chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì sắc, thọ, tưởng… là pháp không hai tướng vậy.

Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm tùy theo tướng chẳng trụ chẳng phải trụ đây, đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên học như thế.

 

(Bồ Tát nên học Bát nhã Ba la mật như thế nào?)

 

Bấy giờ, trong hội có các Thiên tử thầm nghĩ này: Lời lẽ câu chú của các Dược xoa, các loài quỷ tuy rất khó hiểu mà bọn ta còn có thể biết được. Tôn giả Thiện Hiện tuy đối với Bát nhã Ba la mật đây, đem nhiều thứ dẫn giải, chỉ rõ, mà bọn ta trọn chẳng hiểu được gì hết!

Cụ thọ Thiện Hiện biết chỗ tâm các Thiên tử nghĩ bèn bảo họ rằng:

- Thiên tử các ngươi đối với lời giảng thuyết của tôi chẳng hiểu được ư?

Các Thiên tử thưa:

- Đúng vậy, đúng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bảo họ rằng:

- Tôi đối với nghĩa tương ưng Bát Nhã chưa từng thuyết một chữ, các ngươi cũng chẳng nghe thời hiểu chỗ nào? Vì sao? Các Thiên tử! Trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật, đều xa lìa văn tự ngôn thuyết. Bởi đấy, với trong đây kẻ thuyết, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thẳm sâu mầu nhiệm cũng lại như thế.

Thiên tử các ngươi! Như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm hóa thân, hóa thân như vậy hóa làm bốn chúng đồng đến nhóm hội mà vì thuyết pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ năng thuyết, năng nghe, năng hiểu chăng?

Các thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng thật.

Thiện Hiện bảo rằng: Như vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như hóa vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây kẻ thuyết, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các Thiên tử! Như người trong mộng, mộng ấy có Phật vì đại chúng tuyên nói chánh pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ năng nói, năng nghe, năng hiểu chăng?

Các thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng thật.

Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các Thiên tử! Như có hai người ở trong hang núi, mỗi người quay mặt mỗi hướng, khen Phật Pháp Tăng cùng lúc phát âm vang. Các ông nghĩ sao? Hai tiếng vang đây có thể nghe, có thể hiểu lẫn nhau chăng?

Các thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng được.

Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như tiếng vang vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, kẻ nói, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các Thiên tử! Như huyễn sư giỏi hoặc học trò y, ở ngã tư đường hóa hiện bốn chúng và Đức Như Lai. Đức Như Lai huyễn đây vì bốn huyễn chúng tuyên nói chánh pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ nói, kẻ nghe và kẻ năng hiểu chăng?

Các thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng thật.

Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như huyễn vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm, kẻ nói, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các Thiên tử! Bởi nhân duyên này, tôi từng đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm chẳng thuyết một chữ. Các ngươi cũng chẳng nghe thời hiểu chỗ nào? (Q.425, ĐBN)

Bấy giờ, các thiên tử lại khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện đối với Bát nhã Ba la mật đây, dù đã đem nhiều thứ phương tiện nói rõ để muốn dễ hiểu hơn, nhưng nghĩa thú ấy lại càng sâu càng diệu khó nổi so lường!

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm các Thiên tử đã nghĩ gì liền bảo:

- Này Thiên tử! Sắc cho đến thức chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh sắc cho đến thức chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh sắc cho đến tự tánh thức cũng chẳng sâu chẳng diệu. Mười hai xứ, mười tám giới chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh mười hai xứ, mười tám giới cũng chẳng sâu chẳng diệu. Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc cũng chẳng sâu chẳng diệu. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến tự tánh ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng sâu chẳng diệu. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh nội không cho đến tự tánh vô tánh, tự tánh vô tánh không cũng chẳng sâu chẳng diệu. Sáu Ba la mật cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng sâu chẳng diệu, tự tánh sáu Ba la mật cho đến tự tánh ba mươi bảy pháp trợ đạo cũng chẳng sâu chẳng diệu. Cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng sâu chẳng diệu; tự tánh Nhất thiết trí, tự tánh Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng chẳng sâu chẳng diệu.

Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trong pháp đã thuyết chẳng thi thiết sắc cho đến thức. Chẳng thi thiết nhãn xứ cho đến ý xứ. Chẳng thi thiết sắc xứ cho đến pháp xứ. Chẳng thi thiết nhãn giới cho đến ý giới. Chẳng thi thiết sắc giới cho đến pháp giới. Chẳng thi thiết nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng thi thiết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng thi thiết nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng thi thiết sáu Ba la mật cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Chẳng thi thiết Phật mười lực nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng thi thiết tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn. Chẳng thi thiết Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Chẳng thi thiết Dự lưu và quả Dự lưu cho đến chẳng thi thiết A la hán và quả A la hán. Chẳng thi thiết Độc giác và Độc giác Bồ đề. Chẳng thi thiết Bồ Tát và bậc Bồ Tát. Chẳng thi thiết Tam miệu tam Phật Đà và Tam miệu tam Bồ đề. Cũng chẳng thi thiết văn tự lời nói.

Cụ thọ Thiện Hiện biết tâm các Thiên tử đã nghĩ nên liền bảo:

- Như vậy, như vậy, các Thiên tử! Như các ngươi đã nghĩ. Các pháp tsắc cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều lìa văn tự, đều chẳng thể nói nên đối Bát nhã Ba la mật không nói không nghe, cũng không kẻ hiểu. Vậy nên các ngươi đối trong các pháp nên tùy sở thuyết bền b, kiên nhẫn tu học. Các kẻ muốn trụ muốn chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng. Các kẻ muốn trụ muốn chứng Độc giác sở đắc Bồ đề cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng. Các kẻ muốn trụ muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cần nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng được.

Như vậy, các Thiên tử! Các Bồ Tát từ sơ phát tâm đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên trụ vô thuyết, vô thính, vô giải Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường siêng tu học.

 

Thích nghĩa:

(1). Một trong những đoạn kinh của phẩm “Tùy Thuận”, quyển 425, mà lối chuyển ngữ thường gây lúng túng cho chúng tôi không ít, nên trình ra để quý vị thẩm định. Đừng xem đây là chỉ trích mà đây chỉ cốt nói lên cái khó khăn trong vấn đề dịch thuật:

1- Đoạn Kinh trong quangduc.com, dịch giả HT Thích Trí Nghiêm, bản in năm 2003. Nhuận văn: Cư sĩ Bảo Quang & Cư sĩ Giác Tuệ: 

- “Này Kiều thi ca! Tâm hồi hướng của các đại Bồ Tát là chẳng phải tâm, tâm Bồ đề cũng chẳng phải tâm. Không thể nào chẳng phải tâm hồi hướng chẳng phải tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng chẳng phải tâm? Chẳng phải tâm không thể nào hồi hướng đến tâm? Tâm cũng không thể nào hồi hướng đến tâm? Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì chẳng phải tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là chẳng phải tâm, hai pháp này đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng”.

2- Đoạn Kinh của tuvienquangduc.com, do HT Thích trí Nghiêm dịch vào năm 1997, khảo dịch HT Thích Thiện Siêu:

- “Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát Ma ha tát tâm hồi hướng thời phi tâm, tâm Bồ đề cũng phi tâm. Chẳng lẽ phi tâm hồi hướng phi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng phi tâm? Phi tâm chẳng lẽ hồi hướng nơi tâm? Tâm cũng chẳng lẽ hồi hướng nơi tâm? Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Phi tâm tức là bất khả tư nghì, bất khả tư nghì tức là phi tâm, hai thứ như thế đều vô sở hữu. Trong vô sở hữu không có nghĩa hồi hướng”.

3- Đoạn Kinh nguyên văn bằng chữ Hán trong Hoavouu.com, ghi như sau:

kiều thi ca chư Bồ Tát Ma Ha Tát hồi hướng tâm tắc phi tâm Bồ Đề tâm diệc phi tâm bất ưng/ứng phi tâm hồi hướng phi tâm tâm diệc bất ưng/ứng hồi hướng phi tâm phi tâm bất ưng/ứng hồi hướng ư tâm tâm diệc bất ưng/ứng hồi hướng ư tâm

cố kiều thi ca phi tâm tức thị bất khả nghị bất khả nghị tức thị phi tâm như thị nhị chủng câu sở hữu sở hữu trung hồi hướng nghĩa”

Cụm từ “chẳng phải tâm” trong website của quangduc.com dịch từ chữ Hán “phi tâm” làm cho chúng ta lúng túng. Trong khi bản dịch (năm 1997) nguyên bản (chưa củ soát) của HT. Thích Trí Nghiêm giữ nguyên chữ Hán là “phi tâm” lại rất rõ nghĩa. Vì vậy, chúng tôi chọn lối dịch của HT Thích Trí Nghiêm.

Cụm từ phi tâm có thể dịch nôm na là tâm không. Phi tâm là vượt ngoài mọi tâm thức suy lường thí dụ như câu: Phi sắc pháp, phi tâm pháp, không phải tâm không phải vật.

(2). Hậu hữu (Phạm là Punar-bhava). Thân sau. Tức là quả báo của chúng sinh hữu tình phải lãnh nhận ở đời vị lai. Luận Câu xá quyển 26 (Đại 29, 136 hạ), nói: Đời ta đã hết, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không chịu hậu hữu. Ý nói: Bậc A la hán đã được Tận trí, Vô sinh trí, thân và tâm đều đã diệt, nên không còn chịu quả báo ở vị lai nữa. Ngoài ra, thân sinh tử cuối cùng cũng được gọi là Hậu hữu, như thân của thái tử Tất đạt đa. [X. Bố tra bà lâu trong Trường a hàm Q.17; luận Đại tì bà sa Q.29, Q.102, Q.192; luận Du già sư địa Q.66] - Từ điển Phật Quang.

 

Sơ giải:

 

Phẩm này nêu ra ba vấn đề:

1. Thế nào là Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát?

2. Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào? Và

3. Bồ Tát nên học Bát nhã Ba la mật như thế nào?

Phẩm “Thiên Đế”, quyển 77 cho đến đầu quyển 81, Hội thứ I, ĐBN, đã chiết giải quá đầy đủ rồi, tuy nhiên ở đây chúng tôi ghi lại các điểm chánh yếu để nhớ:

 

1. Thế nào là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật?

 

Được gọi là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật, những Bồ Tát nào:

1- “Đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, hoặc không, hoặc như bệnh, hoặc như ung nhọt, hoặc như mũi tên, hoặc như ghẻ lở, hoặc nóng nảy, hoặc bức bách, hoặc hư hoại, hoặc mục nát, hoặc lay chuyển, hoặc chóng diệt, hoặc đáng sợ, hoặc đáng nhàm chán, hoặc có tai ách, hoặc có oan ức, hoặc có bệnh dịch, hoặc có bệnh hủi, hoặc không an ổn, hoặc không thể tín nhiệm”;

2- “Đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tư duy sắc cho đến thức hoặc vắng lặng, hoặc xa lìa, hoặc vô sanh, hoặc vô diệt, hoặc vô nhiễm, hoặc vô tịnh, hoặc vô tác, hoặc vô vi”;

3- “Đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu hành tất cả pháp Phật. v.v…”

Đó gọi là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.

 

2. Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật như thế nào?

 

1- Bồ Tát không nên trụ tất cả pháp: Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Chẳng nên trụ 12 xứ, 18 giới. Chẳng nên trụ địa giới, cho đến chẳng nên trụ thức giới. Chẳng nên trụ 12 duyên khởi. Chẳng nên trụ lục Ba la mật. Chẳng nên trụ mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên trụ tất cả Tam ma địa môn, chẳng nên trụ tất cả Đà la ni môn. Chẳng nên trụ Thanh văn thừa, chẳng nên trụ Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Chẳng nên trụ Nhất thiết trí; chẳng nên trụ Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy;

2- Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy;

3- Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ Dự lưu là phước điền. Chẳng nên trụ Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai là phước điền. Vì sao? Vì an trụ như thế là có sở đắc vậy;

4- Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã chẳng nên trụ sơ địa cho đến chẳng nên trụ đệ thập địa. Không nên trụ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí. Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì trụ như thế là có sở đắc vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hiểu tất cả pháp đều vô sở hữu. Nên đem vô sđắc làm phương tiện, an tr chỗ cần an trụ, không nên an trụ tướng hay phi tướng. Vì trụ như thế là có động chuyển.

Tất cả thế gian đều duyên theo bóng dáng của sáu trần mà sanh thức. Trước hết là thức phân biệt, do phân biệt sắc tướng nên sanh thọ. Do thọ mà có tưởng, có tưởng đẹp tưởng xấu… mới sanh ra hành. Đẹp thì muốn gần gũi, ôm giữ; xấu thì đuổi sô xa lánh… Tất cả đều do dính mắc, chấp chặt. Một chuổi dài mất mát làm khổ lụy thân tâm. Đó là cảnh trầm luân của thế tục.

Còn đối với người tu hành thì sao? Tu mà còn nghĩ đến công đức phước điền, tu mà muốn đắc quả nọ quả kia, là có sở đắc, lại là chỗ mất mát khác của người tu hành. Có bám trụ là có dính mắc, là có động chuyển, thì quả nhỏ như Dư lưu còn không thể có hiến chi nói đến Vô Thượng Bồ đề.

Vậy, sống đời thường tục hay xuất gia là không trụ chấp bất cứ thứ gì. Có trụ là có trói buộc, quái ngại, vô trụ mới là chỗ trụ dù là tăng hay tục. Đó là tôn chỉ tối cao của người tu hành Bát nhã Ba la mật. Lục Tổ Huệ Năng chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà thoát ngộ.

 

3. Bồ Tát nên học Bát nhã Ba la mật như thế nào?

 

Ở đây, Cụ thọ Thiện Hiện không thuyết tất cả pháp theo “Tích không quán” nghĩa là tất cả pháp phân tích cho đến cực vi thì thấy Nhân không và Pháp không. Trái lại, Cụ thọ quán xét các pháp do nhân duyên sinh đương thể tức không giống như mộng, như huyễn, như hóa... tức các pháp tuy có đó nhưng thực chất là không. Đó là thuyết theo “Thể không quán”, nên hỏi các thiên tử:

“Thiên tử các ngươi! Như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm hóa thân, hóa thân như vậy hóa làm bốn chúng đồng đến nhóm hội mà vì thuyết pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ năng thuyết, năng nghe, năng hiểu chăng?

Các thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng thật.

Thiện Hiện bảo rằng: Như vậy, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như hóa vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây kẻ thuyết, kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được. Các Thiên tử! Như người trong mộng, mộng ấy có Phật vì đại chúng tuyên nói chánh pháp. Các ông nghĩ sao? Trong đây thật có kẻ năng nói, năng nghe, năng hiểu chăng?

Các thiên tử thưa:

- Bạch Đại đức! Chẳng thật.

Thiện Hiện bảo rằng: Như thế, các Thiên tử! Tất cả pháp đều như mộng vậy. Nay đối trong nghĩa tương ưng Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây, kẻ nói kẻ nghe và kẻ năng hiểu đều chẳng khá được”.  

Vì vậy, nên Thiện Hiện bảo các Thiên tử:

“Tất cả pháp tsắc cho đến Vô Thượng Bồ đề đều lìa văn tự, đều chẳng thể nói nên đối Bát nhã Ba la mật không nói không nghe, cũng không kẻ hiểu. Vậy nên các ngươi đối trong các pháp nên tùy sở thuyết bền b, kiên nhẫn tu học. Các kẻ muốn trụ muốn chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng. Các kẻ muốn trụ muốn chứng Độc giác sở đắc Bồ đề cũng nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng. Các kẻ muốn trụ muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cần nhờ nhẫn đây mới trụ mới chứng được.

Như vậy, các Thiên tử ! Các Bồ Tát từ sơ phát tâm đến được Vô Thượng Bồ đề nên trụ vô thuyết, vô thính, vô giải Bát nhã Ba la mật thậm thâm thường siêng tu học”.

Làm sao trụ chỗ không có thuyết, không có nghe, không giải mà thường siêng tu học lại có thể trở thành bậc Thánh? Thật nghịch đời! Nhưng học Bát Nhã phải “từ cái vô chiêu mà học”, học như ảo nhân thính pháp vậy. Đừng bao giờ đòi hỏi Bát Nhã, Bát Nhã vô tri như hư không, phải tự mình lặn sâu vào tâm thức để tìm hiểu những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của Bát Nhã thôi. Vì vậy, kinh mới khuyên là phải bền bĩ tu nhẫn kiên cố!

 

Phẩm “Tán Hoa”, Hội thứ IV, TBBN Phật phó chúc Kinh Đại Bát Nhã cho Ngài A Nan bảo Rằng:

“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng, người thủ sự thủ đều không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều như hóa, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v… chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy, thì chính là hành Bát nhã Ba la mật cũng không chấp tướng các pháp này”.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Bồ Tát học được như vậy thì chính là học Bát nhã Ba la mật”.

Điều đó có nghĩa tất những lời dạy bảo dù vi diệu như thế nào đi nữa cũng chỉ bồi dưỡng thân tâm, kiến thức… Chỉ có các ông không ai khác ngoài các ông phải bền bĩ tu nhẫn kiến cố lặn sâu vào trí năng của chính mình để biến thức thành trí. Nên câu nói “Cái gì từ ngoài vào không phải là gia bảo nhà ta” là câu nói đáng tin cây.

 

Học Bát nhã Ba la mật cần phải nhớ câu này: “Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác”.

Vậy, đừng bám trụ vào bất cứ pháp nào dù pháp đó mang lại nhiều thắng diệu nhất. Nếu hiểu như vậy, hành như vậy, thì tâm như như bất động. Pháp chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, chứ không phải mặt trăng./.

 

---o0o---

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com