Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Phẩm “Xuất Trụ” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

09/08/202015:57(Xem: 9743)
19. Phẩm “Xuất Trụ” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
2.19. Xuất Trụ

PHẨM “XUẤT TRỤ”

Phần cuối quyển 416 cho đến phần đầu quyển 417, Hội thứ II.

(Tương đương phẩm “Biện Đại Thừa”, bắt đầu quyển 55 - 56, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le






 

Gợi ý:

Giáo lý của phẩm “Xuất Trụ” xoay quanh các pháp mầu Phật đạo do cụ thọ Thiện Hiện nêu ra: Những gì là tướng Đại thừa của Bồ Tát Ma ha tát? Làm thế nào biết được Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại thừa? Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào? Đại thừa như vậy trụ ở đâu? Ai lại nương Đại thừa này mà ra? Kinh mặc dù có trùng tụng, tuy nhiên các câu trả lời rất chính xác, thỏa đáng.

Ở đây, chúng tôi dẫn chứng thêm luận giải của Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 21, “Xuất Đáo”(Ra và Đến), tập 3, quyển 50, tương đương với phẩm này để làm sáng tỏ thêm.

 

Tóm lược:

 

1. Phật trả lời câu hỏi thứ hai của Thiện Hiện:

Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào?”

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào?

Thiện Hiện! Đại thừa như vậy từ trong ba cõi mà ra và đến an trụ trong Nhất thiết trí trí; do vì Nhất thiết trí trí mà hiện ra ba cõi, nhưng vì không có hai, nên không ra không đến. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Nhất thiết trí trí, hai pháp như vậy chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng. Pháp vô tướng không ra không đến. Vì sao? Thiện Hiện! Pháp vô tướng chẳng đã ra và đã đến, chẳng phải sẽ ra và sẽ đến, chẳng phải đang ra và đang đến.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến chơn như có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì chơn như chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến trụ trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng ấy có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt(1), cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn(2), cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp giới cho đến thật tế chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp giới và tánh của pháp giới là không, cho đến thật tế và tánh của thật tế là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc và tự tánh của sắc là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thọ, tưởng, hành, thức có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến 12 xứ, 18 giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì 12 xứ, 18 giới và tự tánh của chúng là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhãn thức giới cho đến ý thức giới cùng các thọ do ý thức làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến các thọ do ý thức làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn thức giới và tự tánh của nhãn thức giới là không, cho đến các thọ do ý thức làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do ý thức làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến địa giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì địa giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thủy, hỏa, phong, không, thức giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế khổ, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh đế khổ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế tập, diệt, đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô minh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô minh chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì hành và tự tánh của hành là không, cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tự tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sự huyễn có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sự huyễn chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sự huyễn và tự tánh của sự huyễn là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, sóng nắng, ảo thành, sự biến hóa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cảnh mộng cho đến sự biến hóa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cảnh mộng và tự tánh của cảnh mộng là không, cho đến sự biến hóa và tự tánh của sự biến hóa là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cái không nội có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái không nội chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không nội và tự tánh cái không nội là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không ngoại và tự tánh của cái không ngoại là không, cho đến cái không không tánh tự tánh và tự tánh của cái không không tánh tự tánh là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bố thí Ba la mật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bố thí Ba la mật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bố thí Ba la mật và tự tánh của bố thí Ba la mật là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn tịnh lự có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn tịnh lự chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn vô lượng, bốn định vô sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn niệm trụ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn niệm trụ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn và tự tánh của bốn chánh đoạn là không, cho đến tám chi Thánh đạo và tự tánh của tám chi Thánh đạo là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát không có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến năm loại mắt, sáu phép thần thông có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông và tự tánh của năm loại mắt, sáu phép thần thông là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến mười lực của Phật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì mười lực của Phật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật và tự tánh của mười lực của Phật là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ và tự tánh của bốn điều không sợ là không, cho đến Nhất thiết tướng trí và tự tánh của Nhất thiết tướng trí là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bậc Dự lưu sanh vào đường ác có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Dự lưu sanh vào đường ác chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Dự lưu sanh vào đường ác và tự tánh của bậc Dự lưu sanh vào đường ác là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bậc Nhất lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất hoàn sanh vào Dục giới, bậc đại Bồ Tát sanh ra để tự lợi, bậc A la-hán, Độc giác, Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Nhất lai sanh lại nhiều lần cho đến Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Nhất lai sanh lại nhiều lần và tự tánh của bậc Nhất lai sanh lại nhiều lần là không, cho đến Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác và tự tánh của Phật đà Chánh Đẳng Chánh Giác là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Dự lưu hướng, Dự lưu quả có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Dự lưu hướng, Dự lưu quả và tự tánh của Dự lưu hướng, Dự lưu quả là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng, A la hán quả, Độc giác hướng, Độc giác quả, Bồ Tát, Như Lai có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Nhất lai hướng, Nhất lai quả cho đến Như Lai chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Nhất lai hướng, Nhất lai quả và tự tánh của Nhất lai hướng, Nhất lai quả là không, cho đến Như lai và tự tánh của Như Lai là không. (Nghĩa là tất cả pháp Phật có chỗ ra có chỗ đến)

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết và tự tánh của danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi và tự tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là không.

Thiện Hiện! Do duyên này, nên việc Đại thừa từ trong tam giới mà ra, đến an trú trong Nhất thiết trí trí, là vô nhị, nên không ra, không đến, vì là pháp vô tướng, nên không động không chuyển.

 

(Để giải thích cho đoạn Kinh này, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 21, “Xuất Đáo”(Ra và Đến), tập 3, quyển 50, nói rằng:

Ở đây Phật nói “năm ấm tướng” là không, chẳng xuất từ ba cõi, cũng chẳng đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí. Vì sao ? Vì năm ấm là không, thì mười hai nhập, mười tám giới,… dẫn đến hết thảy các pháp đều là không cả. Tất cả đều là hư vọng, đều là tự tướng không, chỉ ví như cảnh thấy trong mộng vậy thôi.

Hết thảy các pháp tự đều là không, nên chẳng có xuất, cũng chẳng có nhập. Cho nên nói: Nếu có ai muốn khiến sáu pháp Ba la mật xuất, thì đó là muốn “vô tướng pháp” xuất.

Bồ Tát vì chúng sanh nói hết thảy các pháp đều do duyên hoà hợp sanh, đều là tự tướng không. Dẫn đến Ma Ha Diễn, Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều là như vậy cả.

Hỏi: Sáu pháp Ba la mật có chân, có tục. Tục đế chấp có pháp tướng. Còn chân đế nếu chẳng y nơi pháp tướng thì làm sao lập ra được sáu pháp Ba la mật?

Đáp: Các vị Bồ Tát nào chưa được lậu tận thì còn tu phước. Do còn tu phước nên còn tu sáu Ba la mật của phàm phu. Trong trường hợp này mới thấy có xuất, có nhập.v.v…

Trái lại các đại Bồ Tát biết rõ Ma Ha Diễn(tất cả pháp Đại thừa) là vô tướng pháp, chẳng có xuất, chẳng có nhập. Ở nơi đây, các pháp tướng chỉ là giả danh, chẳng thật có. Bởi vậy khi nói “ Ma Ha Diễn phát xuất từ ba cõi, đến an trú trong Nhất Thiết Chủng Trí”, thì cũng phải biết rõ rằng  Nhất Thiết Chủng Trí cũng là giả danh, chẳng thật có, cũng là pháp bất động vậy”.

Đã là pháp bất động thì làm gì có đến có đi, có xuất có trụ… Nên Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện: “Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi và tự tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là không.

Do duyên này, nên việc Đại thừa từ trong tam giới mà ra, đến an trú trong Nhất thiết trí trí, là vô nhị, nên không ra, không đến, vì là pháp vô tướng, nên không động không chuyển).

 

2. Câu hỏi kế tiếp của cụ thọ Thiện Hiện:

Đại thừa như vậy trụ ở đâu?

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại thừa ông hỏi như vậy trụ ở đâu?

Thiện Hiện! Đại thừa đó hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở trụ. Vì sao? Vì trụ xứ tất cả pháp bất khả đắc. Thiện Hiện! Đại thừa như thế đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ vô sở trụ. (Q.417, ĐBN)

Thiện Hiện! Như pháp giới chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp giới không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh pháp giới, tự tánh pháp giới không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Như chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như cho đến tự tánh diệt giới không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh chơn như, tự tánh chơn như không; cho đến tự tánh diệt giới, tự tánh diệt giới không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như sắc chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh sắc, tự tánh sắc không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Thọ tưởng hành thức chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh thọ tưởng hành thức không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh thọ tưởng hành thức, tự tánh thọ tưởng hành thức không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như 12 xứ, 18 giới chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh 12 xứ, 18 giới không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì 12 xứ, 18 giới tự tánh không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. 

Thiện Hiện! Như cảnh mộng chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh mộng không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh cảnh mộng, tự tánh cảnh mộng không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Việc huyễn, quáng nắng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, việc biến hóa chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa, tự tánh việc huyễn cho đến biến hóa không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như bố thí Ba la mật chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bố thí, tự tánh bố thí không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Như tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh tịnh giới cho đến Bát Nhã; tự tánh tịnh giới cho đến Bát Nhã không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như nội không chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh nội không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh nội không, tự tánh nội không không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Như ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất tánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không, không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không, tự tánh ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không không vậy.  Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như 37 pháp trợ đạo chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh 37 pháp trợ đạo không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh 37 pháp trợ đạo, tự tánh 37 pháp trợ đạo không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Cho đến Phật mười lực chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Phật mười lực không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Phật mười lực, tự tánh Phật mười lực không vậy.  Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải trụ. Thiện Hiện! Như bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng trụ chẳng phải trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tự tánh bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như bậc Dự lưu sanh đường ác thú chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu sanh đường ác thú không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh bậc Dự lưu sanh đường ác thú, tự tánh bậc Dự Lưu sanh đường ác thú không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải trụ. Thiện Hiện! Như bậc Nhất lai hằng tái sanh, bậc Bất hoàn sanh lại cõi Dục, Bồ Tát tự lợi sanh, A la hán, Độc giác, Như Lai hậu hữu sanh (sanh thân đời sau) chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy, tự tánh các bậc ấy không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải trụ.

Thiện Hiện! Như Dự lưu chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Dự lưu không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh Dự lưu, tự tánh Dự lưu không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Thiện Hiện! Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.  Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh các bậc ấy, tự tánh các bậc ấy cũng không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như danh tự giả tưởng thi thiết ngôn thuyết chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự giả tưởng thi thiết ngôn thuyết không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh danh tự giả tưởng thi thiết ngôn thuyết, tự tánh danh tự giả tưởng thi thiết ngôn thuyết không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Như vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi chẳng trụ chẳng phải chẳng chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi không trụ không chẳng trụ. Vì sao? Vì tự tánh vô sanh vô diệt cho đến vô tướng vô vi không vậy. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ.

Thiện Hiện! Do nhân duyên đây, nên nói Đại thừa tuy vô sở trụ, mà đem vô nhị làm phương tiện nên trụ vô sở trụ.

 

(Để giải thích đoạn kinh này, Đại Trí Độ Luận, cùng phẩm trên nói rằng:

“Trên đây Phật mật ý nói rằng: Từ vô thỉ đến nay, hết thảy các pháp đều là vô trú(hay vô trụ), chẳng có pháp nào có trú xứ riêng rẽ cả.

Nên biết:

- Nói “trú” là nói trú nơi rốt ráo không.

Vì sao? Vì hết thảy pháp đều là “như pháp tánh thật tế”, đều là bất sanh, bất diệt, bất khởi, bất tác, nên chẳng phải trú (bất trú), cũng chẳng phải chẳng trú (phi bất trú).

- Nói “bất trú” là nhằm phá chấp hữu cũng là nhằm nêu lên nghĩa vô thường, để phá chấp về thường tướng.

- Nói “phi bất trú” là nhầm phá chấp về diệt tướng. Lại nữa, do thuận theo thế đế mà nói “trú”, nhưng nếu chấp “bất trú” thì cũng là lỗi lầm, nên nói “phi bất trú” vậy.

Phật dạy “pháp tánh tướng” là không, nên là bất trú, phi bất trú, là vô khởi vô tác vậy).

 

3. Câu hỏi kế của cụ thọ Thiện Hiện là:

- Ai lại nương Đại thừa này mà ra?

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Ông hỏi “Ai lại nương Đại thừa này mà ra?”

Thiện Hiện! Không có ai nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì hoặc sở thừa, hoặc năng thừa, hoặc thời, hoặc xứ, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều bất khả đắc, làm sao nói được có nương sở thừa, có kẻ năng thừa, thời thừa, xứ thừa, nên chẳng thể nói thật có kẻ nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì ngã vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Như vậy, hữu tình cho đến kiến giả cũng vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Pháp giới vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy, chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy cũng vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Sắc vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Thọ tưởng hành thức cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! 12 xứ, 18 giới vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo tịnh vậy. Bố thí Ba la mật vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Nội không vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao?  Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! 37 pháp trợ đạo vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Cho đến Phật mười lực vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Sở dĩ vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Bậc Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Quả Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Nhất thiết trí vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi vô sở hữu khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Quá khứ, vị lai, hiện tại vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện! Hoặc đi, hoặc đến, hoặc sanh hoặc tử, hoặc tăng hoặc giảm… vô sở hữu bất khả đắc nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Trong đây pháp nào bất khả đắc, nên nói bất khả đắc?

Thiện Hiện! Trong đây pháp giới bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Chơn như, thật tế, bất tư nghì giới, an ẩn giới thảy cũng bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì chơn như, pháp giới… chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bố thí Ba la mật bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Tịnh giới cho đến Bát Nhã cũng bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì bố thí, tịnh giới v.v… chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nội không bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không cũng bất khả đắc, 37 pháp trợ đạo, Phật mười lực , bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì 37 pháp trợ đạo cho đến 18 pháp Phật bất cộng chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự lưu bất khả đắc nên nói bất khả đắc.  Bậc Nhất Lai cho đến Như Lai cũng bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì bậc Dự lưu cho đến Như Lai chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tướng vô vi bất khả đắc nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì vô sanh vô diệt thảy chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Sơ địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc, cho đến địa thứ mười cũng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì sơ địa v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Trong đây thế nào là mười địa? Nghĩa là Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ Tát địa, Như Lai địa đó là mười địa.

Thiện Hiện! Sơ địa trong pháp không nội bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến sơ địa trong pháp không vô tánh tự tánh bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Địa thứ hai cho đến địa thứ mười trong pháp không nội bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Thậm chí địa thứ hai cho đến địa thứ mười trong pháp không vô tánh tự tánh bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây, sơ địa v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Trong pháp không nội giáo hóa hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Cho đến trong pháp không vô tánh tự tánh giáo hóa hữu tình, nghiêm tnh cõi Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc. Vì sao? Vì ở trong đây giáo hóa hữu tình v.v... chẳng phải đã khả đắc, chẳng phải sẽ khả đắc, chẳng phải đang khả đắc, rốt ráo thanh tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, tuy quán các pháp đều vô sở hữu bất khả đắc, rốt ráo thanh tịnh, không nương Đại thừa mà xuất trụ. Nhưng đem vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Đại thừa ở trong sanh tử ba cõi mà xuất, đến trụ trong Nhất thiết trí trí, đến tận đời vị lai làm lợi lạc cho tất cả chúng hữu tình.

 

(Để giải thích cho đoạn Kinh này, Đại Trí Độ Luận nói rằng:

“Hành Ma Ha Diễn đi vào Phật đạo, để thành tựu chúng sanh, gọi là xuất. Hành Ma Ha Diễn để thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí, cũng gọi là xuất.

Phật nói “pháp không”, lại nói các pháp đều bất khả đắc, là nhằm khuyến tấn các người hành Ma Ha Diễn phải dụng pháp “vô sở đắc”, để tu sáu pháp Ba la mật.

Nếu Bồ Tát, khởi bi đại tâm, hành sáu pháp Ba la mật, độ thoát chúng sanh, mà tâm chẳng chấp trước, thì gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành đầy đủ “pháp không”.

Phật lại dạy “ngã bất đắc là rốt ráo không”, là nhằm chỉ cho chúng sanh biết rõ rằng hết thảy các pháp, nhẫn đến Nhất Thiết Chủng Trí cũng đều là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm…, và đều là tự tướng không cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói: Ngã, tri giả, khiến giả,… dẫn đến chúng sanh, thanh văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật đều là rốt ráo không cả.

Hỏi: Bất khả đắc có hai nghĩa:

- Đối với người thiểu trí, thì nói theo nghĩa “các pháp là bất khả đắc”.

- Đối với người đại trí, thì nói theo nghĩa “các pháp bất khả đắc cũng là bất khả đắc”

Như vậy, ở nơi đây, nói “bất khả đắc” theo nghĩa nào?

Đáp: Đây là nói về “pháp không”, nên “bất khả đắc” phải được hiểu theo hai nghĩa như vậy.

Hỏi: Nếu nói các pháp, trước sau, đều bất khả đắc, thì như vậy có lợi gì?

Đáp: Phật thuyết các pháp là bất khả đắc, là rốt ráo thanh tịnh. Thế nhưng, Phật sợ người tu hành lại y chỉ nơi “bất khả đắc” mà chấp “không”, chấp “vô pháp”.

Vì người sơ cơ, mà Phật dùng “vô” để phá “hữu”, nhưng bọn họ chưa được tâm thanh tịnh, nên lại y chỉ nơi “vô”. Bỏi vậy nên Phật dạy thêm rằng “các pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc.

Hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, dẫn đến “pháp bất khả đắc” cũng là bất khả đắc, nên hết thảy các pháp đều là rốt ráo thanh tịnh cả.

Bồ Tát Ma Ha Tát, dụng pháp “vô sở đắc”, hành Ma Ha Diễn hướng về Nhất Thiết Chủng Trí”.

Khi nói tất cả pháp không là bất khả đắc. Nhưng còn chấp “không” hay “vô pháp” nữa thì chưa được hoàn toàn không, nên nói bất khả đắc cũng bất khả đắc nốt. Đó là bất khả đắc không (một trong 18 pháp không) tức không còn gì để chấp nữa. Đó là phủi sạch để được tâm không. Tâm không là tâm thanh tịnh!

 

Thích nghĩa:

(1). Đoạn giới, ly giới, diệt giới tức đoạn ly diệt tam giới. Ba giới này đều lấy giải thoát vô vi (trạch diệt vô vi) làm thể. 1- Đoạn giới: Đoạn trừ 8 kết mà được trạch diệt. 2- Ly giới: Trong 9 kết [ái (yêu), khuể (giận tức), mạn (ngạo mạn), vô minh (u tối), kiến (tà kiến), thủ (chấp trước), nghi (ngờ vực), tật (ghen), xan (bỏn xẻn)], lìa tham kết mà được trạch diệt. 3- Diệt giới: Diệt các phiền não theo 9 kết mà được trạch diệt. Trên đây là y cứ vào lý thế tục mà có 3 giới khác nhau, chứ nói theo thực nghĩa thì thể của chúng đều không khác nhau. Trong đó, Đoạn giới và Ly giới là do đoạn trừ phiền não mà được, còn Diệt giới là nhờ vào việc diệt hoặc của cảnh sở duyên mà được. Trên đây là thuyết của Tiểu thừa. Ngoài ra, về danh nghĩa của Tam giới còn có nhiều thuyết, như luận Đại tì bà sa quyển 29 nói: - Đoạn giới: Đoạn tất cả hành. - Ly giới: Lìa tất cả hành. - Diệt giới: Diệt tất cả hành. Lại có thuyết cho là: - Đoạn giới: Đoạn vô minh kết - Ly giới: Đoạn ái kết. - Diệt giới: Đoạn các kết còn lại. Cũng có thuyết giải thích: - Đoạn giới: Đoạn 8 kết và các phiền não tương ứng với 8 kết cùng sinh. - Ly giới: Đoạn ái kết và các phiền não tương ứng với ái kết cùng sinh. - Diệt giới: Đoạn các kết khác và các phiền não tương ứng cùng sinh. Còn tông Duy thức Đại thừa nói: - Đoạn giới: Đoạn các hành mà Kiến đạo đoạn. - Ly giới: Lìa các hành mà Tu đạo đoạn. - Diệt giới: Diệt các hành thuộc sở y. Phỏng theo Từ điển Phật Quang.

(2). An ẩn giới: Nguyên văn chữ Hán là an ẩn giới”, có nghĩa là cảnh giới an ổn. Trong phẩm “Tùy Thuận”, quyển 61, tập 03, Hội thứ I, có ghi: “… hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn”. An ổn giới cũng đồng nghĩa với chân như, pháp giới v.v…

 

Lược giải:

 

Quý vị còn nhớ trong Phẩm “Tam Ma Địa”, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là tướng Đại thừa Bồ Tát? Làm thế nào biết được Đại Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại thừa? Đại thừa như thế từ chỗ nào ra, đến trụ chỗ nào? Đại thừa như vậy trụ ở nơi nào? Ai nương vào Đại thừa này mà xuất ly?

 

Các câu hỏi này được Phật Thế Tôn trả lời trong bốn phẩm chia ra như sau:

- Phẩm “Tam Ma Địa” và phẩm “Niệm Trụ Thảy”, Phật trả lời câu hỏi: “Những gì là tướng Đại thừa Bồ Tát Ma ha tát?”;

- Phẩm “Tu Trị Địa”, Phật trả lời câu hỏi: “Làm thế nào biết được Bồ Tát phát tâm hướng đến Đại thừa?”; và

- Phẩm “Xuất Đáo” này, Phật trả lời câu hỏi chót của Thiện Hiện: “Đại thừa như vậy từ nơi nào ra, đến trụ nơi nào? Đại thừa như vậy trụ ở đâu? Ai nương Đại thừa này mà ra?”

 

Đại thừa như vậy từ ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc ra? Không có thế gian thì không có Bồ Tát, không có Phật, không có pháp Phật, không có Phật đạo. Đại thừa như thế xuất ra từ tam giới, nghĩa là Đại thừa thường trụ trong tam giới(Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới). Nhưng người tu Đại thừa không lấy đó làm trụ xứ của mình. Vì có trụ là có nắm bắt có buông bỏ, có được có mất… tức không tránh nổi sự trói buộc của nhị nguyên đối đãi hay nói khác là không còn được tự do trong ý chí hay hành động nữa. Nên Kinh nói “chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ”. Chẳng trụ là chẳng trụ được mất, có không. Chẳng phải chẳng trụ, vì không nương vào đó làm phương tiện để học để tu thì làm sao đạt huệ mà dẫn chúng sanh đến bờ giải thoát. Đó chính là ý nghĩa của câu: “Không mượn chỉ làm sao đưa diều qua khỏi gió!” Nhưng khi đạt được cứu cánh rồi thì không nên ôm giữ cất dấu. Vì vậy, mới có câu: “Trụ mà chẳng trụ”. Nên Phật thường bảo: Sang sông thì phải quên đò, pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.

Tất cả pháp đều giả danh, không thật, trên danh nghĩa thì có nhưng thực thể thì không, tất cả pháp đều như huyễn, như mộng, tất cả đều không có tự tánh, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh… Bao nhiêu diễn tả đó mục đích là khuyên chúng sanh đừng trụ danh sắc mà sanh chấp đắm nên không thể giải thoát sanh tử.

Tâm chúng sanh lúc nào cũng sanh khởi, sanh khởi theo hình sắc danh tướng. Vì vậy mà càng lún sâu vào trầm luân khổ ải. Nên Phật bảo “Đừng bám trụ mà sanh tâm”. Có như vậy, mới không bị trói buộc hay nói khác có như vậy mới làm chủ trọn vẹn chính mình.

Trong Bát Nhã Bát thiên tụng, có câu “Tâm Như Lai không trụ bất kỳ đâu, không trụ trên các pháp hữu vi, không trụ trên các pháp vô vi, và do đó không rời sở trụ”.

Trong Kinh Duy Ma cũng có đoạn “Bồ đề không trụ, do đó không chứng” hay “nương theo cội nguồn không trụ mà hết thảy các pháp được thành lập”.

Và trong Kinh Lăng Nghiêm lại nói “Những vị Bồ Tát như thế lấy tất cả cõi Phật làm trụ xứ, nhưng không dính mắc vào trụ xứ này, vì vốn không thể chứng, không thể thấy”.

Kinh Bát nhã Ba la mật thường nói theo lối phủ định “Pháp của Như Lai nói vốn bất khả đắc, không chướng ngại như hư không, không dấu vết, pháp đó vượt ngoài tất cả những hình thức đối nghịch, pháp không đối đãi, pháp vượt ngoài sanh tử, pháp không đường để đến đi. Pháp đó chỉ chứng được với những ai theo Như Lai vì tùy thuận với Chân như. Bởi vì Chân như vốn không sanh khởi, vượt ngoài đến đi, thường trú, không biến dịch, không phân biệt, tuyệt đối độc nhất không có dấu vết của tâm đạo v.v…”.

Vì vậy, Thiền sư D.T. Suzuki viết như sau:

“… Khi chúng ta bảo rằng trụ xứ của Bồ Tát quả thực không có trụ xứ, rằng Bồ Tát cố định ở chỗ không cố định, rằng các Ngài lang thang hay lơ lửng như một cụm mây trời không cần có hậu cứ, nói như thế có vẻ như không nói gì hết. Nhưng đó là đường lối mà các nhà Đại thừa Phật giáo đã luyện tập trong đời sống hành đạo của các Ngài; không thể áp dụng những định luật tiêu biểu của pháp thức suy luận vào đó!”

 

Để kết luận, Phật bảo:

“Đại thừa đó hoàn toàn không có chỗ trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở trụ. Vì sao? Vì trụ xứ tất cả pháp bất khả đắc. Thiện Hiện! Đại thừa như thế đem vô sở đắc mà làm phương tiện trụ vô sở trụ.

(…)Do nhân duyên đây, nên nói Đại thừa tuy vô sở trụ, mà đem vô nhị làm phương tiện nên trụ vô sở trụ”. (Q.417, ĐBN)

Như vậy, ai là người nương Đại thừa mà ra?

Phật bảo: “Không có ai nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì hoặc sở thừa, hoặc năng thừa, hoặc thời, hoặc xứ, tất cả như thế đều vô sở hữu bất khả đắc vậy. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều bất khả đắc, làm sao nói được có nương sở thừa, có kẻ năng thừa, thời thừa, xứ thừa, nên chẳng thể nói thật có kẻ nương Đại thừa này ra. Vì sao? Vì ngã vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy. Như vậy, hữu tình cho đến kiến giả cũng vô sở hữu bất khả đắc, nên kẻ nương Đại thừa cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh vậy”.

 

Kết luận:

 

Ba cõi đều không, nhất thiết pháp cũng không, Đại thừa vô sở hữu bất khả đắc, không thể nắm bắt được thì còn có chỗ nào để bám trụ? Nên nói Đại thừa vô sở trụ và như thế không ai có thể nương vào Đại thừa để xuất trụ. Bồ Tát nương Đại thừa để tu giống như chim xí, nương vào hư không mặc tình bay lượn, nhưng không bị câu ngại bởi hư không!

Tới đây mọi người mới hiểu câu chuyện đốn ngộ thời danh của Lục tổ Huệ Năng khi nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cương mà tìm đường đến thôn Hoàng mai thọ giáo Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, rồi sau đó được trao y bát trở thành Tổ thứ sáu của dòng thiền Tây Thiên truyền thừa từ đức Phật./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com