Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Phẩm “Niệm Trụ Đẳng” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

09/08/202015:56(Xem: 10232)
17. Phẩm “Niệm Trụ Đẳng” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.17. niệm trụ đẳng -HL

 

PHẨM “NIỆM TRỤ ĐẲNG”

Phần cuối quyển 414 đến đầu quyển 415, Hội thứ II.

(Tương đương phẩm “Biện Đại Thừa”, phần cuối quyển 52 - 53, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le




 

Tóm lược:

 

(Tu bốn niệm trụ)

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát là bốn niệm trụ. Những gì là bốn? Một là thân niệm trụ, hai là thọ niệm trụ, ba là tâm niệm trụ, bốn là pháp niệm trụ.

Thân niệm trụ ấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối nội thân trụ quán theo thân, hoặc đối ngoại thân trụ quán theo thân, hoặc đối nội ngoại thân trụ quán theo thân, nhưng vĩnh viễn không phát sanh những đòi hỏi của thân(1), nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Thọ niệm trụ ấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối nội thọ trụ quán theo thọ, hoặc đối ngoại thọ trụ quán theo thọ, hoặc đối nội ngoại thọ trụ quán theo thọ, nhưng vĩnh viễn không phát sanh những đòi hỏi của thân, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Tâm niệm trụ ấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối nội tâm trụ quán theo tâm, hoặc đối ngoại tâm trụ quán theo tâm, nhưng vĩnh viễn không phát sanh những đòi hỏi của thân, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Pháp niệm trụ ấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối nội pháp trụ quán theo pháp, hoặc đối ngoại pháp trụ quán theo pháp, hoặc đối nội ngoại pháp trụ quán theo pháp, nhưng vĩnh viễn không phát sanh những đòi hỏi của thân nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Sao là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái?

Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân khi đi biết đi, khi đứng biết đứng, khi ngồi biết ngồi, khi nằm biết nằm, như như tự thân uy nghi sai khác. Như vậy, như vậy, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân chính biết đi đến, chính biết xem ngó, chính biết cúi ngước, chính biết co dãn, mặc Tăng già lê, cầm nắm y bát, hoặc ăn hoặc uống, nghỉ ngơi kinh hành, ngồi dậy, đón rước, thức ngủ nói lặng, vào ra các định, đều nhớ chính biết. Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, khi hít vào nhớ biết hít vào, khi thở ra nhớ biết thở ra, khi thở dài nhớ biết thở dài, khi thở ngắn nhớ biết thở ngắn. Như thợ quay xe hoặc học trò y, khi thế xe dài biết thế xe dài, khi thế xe ngắn biết thế xe ngắn. Bồ Tát này cũng lại như thế, nhớ biết các hít thở ra vào, dài ngắn sai khác. Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, các giới (các đại chủng) sai khác. Chỗ gọi địa giới, thủy, hỏa, phong giới. Như đồ tể giỏi hoặc học trò y dứt mạng trâu rồi, lại dùng dao bén chia xẻ nơi thân, cắt làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng như thật quán biết. Bồ Tát này cũng lại như thế, quán sát tự thân địa, thủy, hỏa, phong bốn giới sai khác. Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân từ chân đến đỉnh các thứ bất tịnh đầy rẫy nơi trong ngoài được da mỏng gói kín. Chỗ gọi thân này chỉ có các thứ: Tóc, lông, móng, răng, da dày, da mỏng, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, tim, gan, phổi, cật, mật, lá lách, bào thai, dạ dày, ruột lớn, ruột nhỏ, cứt, đái, nước mắt, nước dãi, khạc nhổ, mồ hôi, đất bẩn, đàm, mủ, mỡ lá, óc, màng, ghèn, cứt ráy, bất tịnh như thế đầy rẫy trong thân. Như có nông phu hoặc các trưởng giả, trong bịch đựng đầy các thứ tạp cốc, chỗ gọi nếp, mè, lúa, đậu, bắp thảy; có kẻ tỏ mắt khai bịch xem coi năng như thật biết trong ấy chỉ có nếp, mè, lúa thảy các thứ tạp cốc. Bồ Tát này cũng là như thế, quán kỹ tự thân từ chân đến đỉnh đầy rẫy bất tịnh chẳng thể tham muốn. Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã một ngày, hoặc qua hai ngày cho đến bảy ngày, nơi thân sình trướng sắc biến xanh bầm, hôi thối, da nứt, mủ máu chảy ra. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã một ngày, hoặc qua hai ngày cho đến bảy ngày, bị các chim bồ cắt, quạ khách, cú mèo, cọp, beo, chồn, sói, dã can thảy, nhiều loại cầm thú; hoặc mổ hoặc bấu, xương thịt rơi rớt ngổn ngang, cắn giành ăn nuốt.

Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, cầm thú bu đến ăn nuốt, mủ máu chảy lìa, có vô lượng loại trùng giòi sinh ra hôi thối hơn cả chó chết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ trùng giòi ăn rồi, thịt lìa xương ló, đốt chân tay liền nhau vì gân quấn máu dính hãy còn thịt nát bấy. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, đã thành xương trắng máu thịt đều hết, còn gân liền nhau. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ chỉ còn các xương, xương ấy trắng ngà sắc như kha tuyết, các gân nát bấy, đốt chân tay rời lìa. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, nỗ lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ đã thành xương trắng, lóng đốt chân tay chia tản, rơi rớt mỗi nơi. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, thấy các xương phân chia mỗi thứ một nơi, rải rác khắp chỗ. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, hài cốt ngổn ngang, gió thổi nắng phơi, mưa chan sương phủ, lâu đã nhiều năm, sắc như kha tuyết. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi vắng vẻ quán tử thi quăng bỏ, còn xương tan đất, trải nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, tướng ấy biến xanh, trạng sắc như chim câu, mục nát như bụi, cùng đất hòa nhau khó phân biệt. Thấy việc này rồi, tự nghĩ thân ta cũng như thế, nếu chưa được giải thoát, cuối cùng cũng lại như vậy! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đem vô sở đắc mà làm phương tiện, đối nội thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái.

Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, như đối với nội thân sai khác như thế trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái, đối với ngoại thân trụ quán theo thân, đối với nội ngoại thân trụ quán theo thân, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Tùy theo sở thích cũng lại như vậy.

Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối nội ngoại cùng thọ, tâm, pháp trụ quán theo thọ, tâm, pháp, n lực tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ái. Tùy theo sở thích đều nên giảng rộng. Thiện Hiện! Như vậy, Bồ Tát tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội ngoại cùng thân, thọ, tâm, pháp khi trụ quán theo thân, thọ, tâm, pháp. Tuy quán như thế mà vô sở đắc. Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu bốn chánh đoạn)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bốn chánh đoạn

Những gì là bốn? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối các pháp ác bất thiện chưa phát sanh, chẳng muốn chúng sanh nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đấy là thứ nhất.

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, đối các pháp ác bất thiện đã sanh, vì muốn dứt diệt, nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đấy là thứ hai.

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, muốn thiện pháp chưa sanh muốn chúng sanh, nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đấy là thứ ba.

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã đem vô sở đắc làm phương tiện, nếu thiện pháp đã sanh, vì khiến an trụ chẳng quên, lại muốn tăng thêm cho được viên mãn nên sanh tâm mong muốn cố gắng siêng năng giữ gìn, đấy là thứ tư.

Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu bốn thần túc)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bốn thần túc

Những gì là bốn? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu dục Tam ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả, đấy là thứ nhất.

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu cần Tam ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả, đấy là thứ hai.

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở làm phương tiện, tu tâm Tam ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả, đấy là thứ ba.

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu quán Tam ma địa, đoạn hành, thành tựu thần túc, nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả, đấy là thứ tư.

Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu năm căn)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là năm căn. 

Những gì là năm? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, sở tu tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu năm lực)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là năm lực. Những gì là năm? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, sở tu tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu bảy Bồ đề phần)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bảy thảy nhánh giác (bảy chi thánh đạo). Những gì là bảy? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, sở tu niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi; nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Bát chánh đạo phần)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là tám nhánh Thánh đạo. Những gì là tám? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, tu chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; nương vào xa lìa, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt hồi hướng xả. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành không, vô tướng, vô nguyện Tam ma địa)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là ba Tam ma địa. Những gì là ba? Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng đều không, an trụ nơi tâm, gọi là không giải thoát môn, cũng gọi là không Tam ma địa, đấy là thứ nhất. Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng không, nên đều không có tướng, an trụ nơi tâm, gọi vô tướng giải thoát môn, cũng gọi vô tướng Tam ma địa, đấy là thứ hai. Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem vô sở đắc làm phương tiện, quán tất cả pháp tự tướng không, nên đều không sở nguyện, an trụ nơi tâm gọi vô nguyện giải thoát môn, cũng gọi vô nguyện Tam ma địa, đấy là thứ ba. Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành mười một trí)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là mười một trí.  Những gì là mười một? Là pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thuyết trí.

Sao gọi pháp trí? Nếu đem vô sở đắc mà làm phương tiện, trí biết tướng năm uẩn sai khác, đấy là pháp trí.

Sao gọi loại trí? Trí biết nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp đều là vô thường, đấy là loại trí.

Sao gọi tha tâm trí? Trí biết hữu tình sai khác về pháp tâm, tâm sở không bị trở ngại, đấy là tha tâm trí.

Sao gọi thế tục trí? Trí biết các hữu tình tu hành sai khác, đấy là thế tục trí.

Sao gọi khổ trí? Trí biết khổ nên chẳng sanh, đấy là khổ trí.

Sao gọi tập trí? Trí biết tập nên dứt hẳn, đấy là tập trí.

Sao gọi diệt trí? Trí biết diệt nên tác chứng, đấy là diệt trí.

Sao gọi đạo trí? Trí biết đạo nên tu tập, đấy là đạo trí.

Sao gọi tận trí? Trí biết tham sân si hết, đấy là tận trí.

Sao gọi vô sanh trí? Trí biết các cõi, vĩnh viễn không trở lại nữa, đấy là vô sanh trí.

Sao gọi như thuyết trí? Trí biết Nhất thiết tướng của Như Lai. Đó là như thuyết trí.

Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Tam căn)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là ba căn: Một căn chưa biết sẽ biết, hai căn đã biết, ba căn đủ biết.

Sao gọi vị tri đương tri căn (căn chưa biết sẽ biết)? Nếu các kẻ hữu học đối với các Thánh đế chưa hiện quán, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là vị tri đương tri căn.

Sao gọi dĩ tri căn (căn đã biết)? Nếu các kẻ hữu học đối với các Thánh đế đã được hiện quán, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là dĩ tri căn.

Sao gọi cụ tri căn (căn đủ biết)? Nghĩa là các kẻ vô học hoặc A la hán, hoặc Độc giác, hoặc đã trụ mười bậc Bồ Tát, hoặc các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó là cụ tri căn.

Thiện Hiện! Nếu ba căn đây đem vô sở đắc làm phương tiện ấy, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Tam tam ma địa)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là ba Tam ma địa. Sao gọi là ba? Một có tầm có tứ Tam ma địa; hai không tầm chỉ t tam ma địa; ba không tầm không t tam ma địa.

Sao gọi tầm có t tam ma địa? Nếu lìa pháp dục ác bất thiện có tầm có t, lìa sanh vui mừng, vào sơ tĩnh lự trụ đầy đủ. Đấy là có tầm có t Tam ma địa.

Sao gọi không tầm chỉ t Tam ma địa? Định trung gian tịnh lự thứ nhất và tịnh lự thứ hai. Đó là Tam ma địa không có tầm chỉ có t.

Sao gọi không tầm không t Tam ma địa? Như định đệ tam tĩnh lự cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đấy là không tầm không tứ Tam ma địa.

Thiện Hiện! Nếu ba món đây đem vô sở đắc làm phương tiện, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành mười tùy niệm)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là mười tùy niệm. Những gì là mười? Là Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm, vắng lặng tùy niệm, thở vào ra tùy niệm, thân tùy niệm, chết tùy niệm. Thiện Hiện! Nếu mười pháp này đem vô sở đắc làm phương tiện ấy, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Tứ Thiền, Tứ vô lưng, Tứ định vô sắc,

Tám giải thoát, Chín định thứ lớp)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, chín định thứ lớp thảy. Sở hữu thiện pháp đem vô sở đắc làm phương tiện ấy, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Như Lai mười lực)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là Như Lai mười lực. Những gì là mười?

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các pháp nhân quả v.v... tướng xứ, phi xứ. Đấy là thứ nhất.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ sự sai khác của nghiệp báo, nhân quả mà các loại hữu tình lãnh thọ trong quá khứ, vị lai, hiện tại.. Đấy là thứ hai.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ tướng thế gian chẳng phải một cảnh giới. Đấy là thứ ba.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình chẳng phải một thắng giải mà nhiều loại thắng giải. Đấy là thứ tư.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình các căn thắng liệt(hơn kém). Đấy là thứ năm.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ hành tướng biến hành. Đấy là thứ sáu.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình căn, lực, giác chi, giải thoát, tịnh lự, đẳng trì, đẳng chí, nhiễm, tịnh sai khác. Đấy là thứ bảy.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình có vô lượng thứ túc mạng sai khác. Đấy là thứ tám.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các loại hữu tình có vô lượng thứ tử sanh sai khác. Đấy là thứ chín.

Đem vô sở đắc làm phương tiện, như thật biết rõ các lậu được đoạn hẳn, được vô lậu tâm giải thoát, được vô lậu tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự mình chứng đắc và an trụ hoàn toàn, có thể biết rõ như thật đây là đời cuối cùng, phạm hạnh đã lập, việc làm đã làm xong, chẳng thọ thân sau. Đấy là thứ mười.

Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Tứ vô sở úy)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bốn vô sở úy.  Những gì là bốn? 1). Chính đẳng giác vô uý. 2). Lậu vĩnh tận vô uý. 3). Thuyết chướng pháp vô uý. 4). Thuyết xuất đạo vô uý):

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là bậc Chánh Đẳng Giác. Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Pháp này chẳng phải Chánh Đẳng Giác”. Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ nhất.

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta đã dứt hẳn các lậu. Nếu có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Lậu như thế chưa được dứt hẳn”. Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ hai.

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết pháp chướng đạo.  Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Hoặc pháp này chẳng năng chướng đạo”. Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ ba.

Thiện Hiện! Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, vì các đệ tử thuyết đạo hết khổ.  Dù có Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên ma phạm, hoặc người trong thế gian nương vào pháp đặt ra câu hỏi, làm cho ta nhnghĩ: “Tu đạo này chẳng năng hết khổ”.  Ta đối với lời gạn hỏi như thế thấy không có căn cớ, vì biết không có căn cớ, nên được yên ổn trụ vào chỗ không lo, không sợ, tự xưng ta ở ngôi vị của bậc Đại tiên, ở giữa đại chúng rống tiếng Sư tử, chuyển bánh xe diệu pháp. Bánh xe pháp ấy thanh tịnh, chánh chơn, vô thượng mà tất cả Sa môn, hoặc Bà la môn, hoặc Thiên, ma, phạm vương, hoặc người trong thế gian đều không có thể chuyển được. Đó là thứ tư.

Thiện Hiện! Phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành Tứ vô ngại giải)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là bốn vô ngại giải. Những gì là bốn? Một: Nghĩa vô ngại giải, hai: Pháp vô ngại giải, ba: Từ vô ngại giải, bốn: Biện vô ngại giải. Thiện Hiện! Bốn vô ngại giải như thế, lấy vô sở đắc làm phương tiện, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

(Tu hành 18 pháp Phật bất cộng)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là mười tám pháp Phật bất cộng. Những gì là mười tám? Thiện Hiện! Nghĩa là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thường không lầm lỗi, không hấp tấp, không mất giọng nói, không nhớ nghĩ, tưởng không nhiều thứ, tâm không chọn bỏ, chí muốn không lui, tinh tấn không lui, niệm không lui, tuệ không lui, giải thoát không lui, giải thoát tri kiến không lui. Tất cả thân nghiệp trí là tiên khởi, tùy theo trí mà chuyển; tất cả ngữ nghiệp trí là tiên khởi, tùy theo trí mà chuyển; tất cả ý nghiệp trí là tiên khởi, tùy theo trí mà chuyển, đối với tri kiến phát sanh ở đời quá khứ không chấp trước, không chướng ngại, đối với tri kiến phát sanh ở đời vị lai không chấp trước, không chướng ngại, đối với tri kiến phát sanh ở đời hiện tại không chấp trước, không chướng ngại. Này Thiện Hiện! Mười tám pháp Phật bất cộng như vậy không có pháp nào không lấy vô sở đắc làm phương tiện. Nên biết đó là tướng Đại thừa của Bồ Tát.

 

(Tu hành các môn Đà la ni)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại thừa Bồ Tát ấy là Đà la ni môn.  Những gì là Đà la ni môn? Nghĩa là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ. Thế nào là tánh chữ bình đẳng, tánh ngôn ngữ bình đẳng, vào môn các chữ? 

Này Thiện Hiện! Bồ Tát nào khi tu hành Bát Nhã lấy vô sở đắc làm phương tiện, vào môn chữ Ả, ngộ tất cả pháp vốn không sanh; vào môn chữ Lạc, ngộ tất cả pháp xa lìa trần cấu; vào môn chữ Bả, ngộ giáo lý thắng nghĩa của tất cả pháp; vào môn chữ Giả, ngộ tất cả pháp không có tử sanh; vào môn chữ Na, ngộ tất cả pháp, xa lìa danh tướng không có được mất; vào môn chữ Lã, ngộ tất cả pháp xuất thế gian, yêu thích duyên cành nhánh nên bị hại; vào môn chữ Đà, ngộ tất cả pháp, điều phục tịch tịnh, chơn như bình đẳng không phân biệt; vào môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp, xa lìa ràng buộc giải thoát; vào môn chữ Trà, ngộ tất cả pháp, xa lìa nóng nảy, giả dối, ô uế được thanh tịnh; vào môn chữ Sa, ngộ tất cả pháp, không chướng ngại; vào môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp, bặt dứt ngôn ngữ; vào môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp, chơn như bất động; vào môn chữ Dã, ngộ tất cả pháp, như thật không sanh; vào môn chữ Sắc tra, ngộ tất cả pháp, chế phục giữ gìn tướng bất khả đắc; vào môn chữ Ca, ngộ tất cả pháp, người làm bất khả đắc; vào môn chữ Bà, ngộ tất cả pháp, thời tánh bình đẳng bất khả đắc; vào môn chữ Ma, ngộ tất cả pháp, tánh chấp ngã sở bất khả đắc; vào môn chữ Già, ngộ tất cả pháp, tánh chấp hành động bất khả đắc; vào môn chữ Tha, ngộ tất cả pháp, tánh chỗ nương tựa bất khả đắc; vào môn chữ Xà (Đồ), ngộ tất cả pháp, năng sở sanh khởi bất khả đắc; vào môn chữ Thấp phược, ngộ tất cả pháp, tánh an ổn bất khả đắc; vào môn chữ Đạt, ngộ tất cả pháp, tánh hay chấp các cõi bất khả đắc; vào môn chữ Xả, ngộ tất cả pháp, tánh tịch tịnh bất khả đắc; vào môn chữ Khư, ngộ tất cả pháp, tánh như hư không bất khả đắc; vào môn chữ Sằn, ngộ tất cả pháp, tánh cùng tận bất khả đắc; vào môn chữ Đả, ngộ tất cả pháp, nhậm trì xứ phi xứ làm cho tánh không động chuyển bất khả đắc; vào môn chữ Nhã, ngộ tất cả pháp chỗ tánh biết rõ bất khả đắc; vào môn chữ Thứ-tha, ngộ tất cả pháp, tánh nghĩa chấp trước nghĩa bất khả đắc; vào môn chữ A, ngộ tất cả pháp, tánh hay làm nhân bất khả đắc; vào môn chữ Bạt, ngộ tất cả pháp, tánh có thể phá hoại bất khả đắc; vào môn chữ Phược, ngộ tất cả pháp, tánh ưa muốn che đậy bất khả đắc; vào môn chữ Tạp ma, ngộ tất cả pháp, tánh có thể nhớ nghĩ bất khả đắc; vào môn chữ Hạ phược, ngộ tất cả pháp, tánh có thể gọi tên bất khả đắc; vào môn chữ Tha, ngộ tất cả pháp, tánh mạnh mẽ bất khả đắc; vào môn chữ Sải, ngộ tất cả pháp, tánh rất bình đẳng bất khả đắc; vào môn chữ Noa, ngộ tất cả pháp, tánh chứa nhóm bất khả đắc; vào môn chữ Nã, ngộ tất cả pháp, xa lìa tranh cãi, huyên náo không đến không lại, đi, đứng, ngồi, nằm bất khả đắc; vào môn chữ Phả, ngộ tất cả pháp, quả báo đầy khắp bất khả đắc; vào môn chữ Tắc ca, ngộ tất cả pháp, tánh tích tụ chứa nhóm bất khả đắc; vào môn chữ Dật sa, ngộ tất cả pháp, tánh tướng già suy bất khả đắc; vào môn chữ Chước, ngộ tất cả pháp, chứa nhóm dấu vết bất khả đắc; vào môn chữ Tra, ngộ tất cả pháp, tánh xô đuổi nhau bất khả đắc; vào môn chữ Trạch, ngộ tất cả pháp, xứ sở rốt ráo bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Môn chữ Trạch này có thể ngộ nhập tận cùng pháp không. Ngoài các chữ này ra biểu thị các pháp không lại bất khả đắc. Vì sao? Vì nghĩa các chữ này không thể giảng nói, không thể chỉ rõ, không thể ghi chép, thọ trì, không thể chấp lấy, không thể quán sát, xa lìa các tướng.

Này Thiện Hiện! Ví như hư không là nơi tất cả các vật nương tựa, môn các chữ này cũng vậy. Nghĩa không của các pháp đều dựa vào môn này mới được hiển rõ.

Này Thiện Hiện! Vào chữ Ả, Lạc, Bả này v.v... gọi là vào môn các chữ.

Này Thiện Hiện! Nếu các Bồ Tát đối với việc vào môn các chữ này được trí thiện xảo, thì đối với các ngôn ngữ âm thanh nói ra nêu rõ đều không chướng ngại. Đối với tánh không bình đẳng của tất cả pháp đều có thể chứng đắc phụng trì. Đối với các ngôn ngữ âm thanh đều được khéo léo.

Này Thiện Hiện! Bồ Tát nào có thể nghe như vậy, vào môn các chữ ấn tướng, ấn cú, nghe rồi thọ trì, đọc tụng thông suốt, giải nói cho người khác mà không mong cầu danh dự, lợi dưỡng, sự cung kính, do đó được 20 công đức thù thắng. Những gì là hai mươi? Nghĩa là được sự nhớ nghĩ tốt, được sự hổ thẹn cao quí, được sức bền bỉ, được pháp hướng đến, được sự giác ngộ tăng thượng, được trí tuệ thù thắng, được biện tài vô ngại, được pháp môn tổng trì, được không có nghi hoặc, được ngôn ngữ trái thuận mà không sanh ghét, ưa, được sống bình đẳng không có cao thấp, được nói lời khéo léo đối với hữu tình, được uẩn thiện xảo, giới thiện xảo, xứ thiện xảo, đế thiện xảo, được duyên khởi thiện xảo, nhân thiện xảo, duyên thiện xảo, pháp thiện xảo, được trí căn thắng liệt thiện xảo, trí biết tha tâm thiện xảo, được trí xem sao lịch thiện xảo, được trí thiên nhĩ thiện xảo, được trí nhớ nghĩ việc đời trước thiện xảo, được trí thần cảnh thiện xảo, trí sanh tử thiện xảo, được trí lậu tận thiện xảo, được trí thuyết xứ phi xứ thiện xảo, được trí vãng lai thiện xảo, phép oai nghi thiện xảo. Này Thiện Hiện! Đó là hai mươi công đức thù thắng.

Này Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem vô sở đắc làm phương tiện sở đắc Đà la ni môn như thế, phải biết đấy là tướng Đại thừa Bồ Tát.

 

Thích nghĩa:

(1). Đòi hỏi của thân: Nguyên văn bản dịch của HT. Thích Trí Nghiêm là “tầm tư theo thân”. Từ “tầm tư” này có thể nhầm lẫn với từ “tầm tứ”. Tầm tứ là hai điều kiện của thiền (truy cầu và phân tích) trong khi tầm tư có nghĩa là đòi hỏi.

 

Lược giải:

 

Phẩm này Phật quản diễn tiếp tục về câu hỏi của cụ thọ Thiện Hiện “Thế nào là tướng Đại thừa của Bồ Tát?”

Phật trả lời: Tất cả các pháp tu như 37 pháp trợ đạo, tu hành tam tam giải thoát môn, tu hành 11 trí, tu hành tam căn, tu hành Tam tam ma địa, 10 tùy niệm, Như Lai mười lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải, 18 pháp Phật bất cộng, các môn Đà la ni... Nếu Bồ Tát nào tu hành tất cả các pháp môn này thì phải biết đó là tướng Đại thừa của Bồ Tát.

Tất cả các pháp mầu Phật học được liệt kê và giải thích trong hơn 150 trang ở “Phần thứ I Tổng Luận”, quyển 380, Hội thứ I, ĐBN. Nhưng xét cho cùng thì những giải thích đó chỉ có trên mặt nổi của ngôn từ chứ không phải là những giải thích của những bậc thật tu thật chứng. Bồ Tát Long Thọ là Tổ thứ 14, một trong 28 Tổ của dòng thiền Tây Thiên truyền thừa từ Đức Phật, là bậc thật tu thật chứng, viết những bí quyết của các pháp tu Phật học trong Đại Trí Độ Luận như pháp tu Tứ niệm xứ, phẩm thứ 19, “Quảng Thừa”, tập 3, quyển 48, mà chúng tôi trích dẫn chỉ là một  pháp môn làm thí dụ:

 

Hỏi: Trong tứ niệm xứ có nhiều pháp quán. Vì sao chỉ nói đến thập nhị pháp quán mà thôi? Vì sao nói nội ngoại quán?

Lại nữa, thân niệm xứ nhiếp về nội pháp, tâm niệm xứ nhiếp về ngoại pháp. Như vậy, ở nơi thân đã có đủ cả thân và tâm rồi, đã nhiếp đủ cả nội lẫn ngoại rồi. Vì sao chẳng nói quán thân, mà lại nói theo thân mà quán? Vì sao nói quán thân, mà chẳng có sanh thân giác? Vì sao nói cần phải nhất tâm, tinh tấn?

Lại nữa, tu tứ niệm xứ là trừ được hết ngũ triền cái. Như vậy vì sao chỉ nói đến trừ tham ưu thế gian? Vì sao lại quán thân bất tịnh?

Lại nữa, tứ oai nghi ở thân là việc dễ biết. Còn phải nói làm gì nữa?

Đáp: Có thập nhị pháp quán hạnh. Hành giả y theo định tâm, thấy có tam tà hạnh, nên quán nội thân, quán ngoại thân và quán cả nội ngoại thân, mới phá trừ được tam tà hạnh, rồi mới có được tam chánh hạnh.

Có người chấp nội tình nhiều, ngoại tình ít, thâm quán nội thân đến độ chẳng còn biết đến cha mẹ, vợ con, thân thuộc; trở thành cuồng si.

Lại có người chấp ngoại tình nhiều, nội tình ít; dẫn đến tham đắm của cải, khiến phải bị mất mạng, hoặc trở thành kẻ bạo tàn, đi giết người, cướp của, gây ra bao nhiêu tội lỗi.

Lại có người đắm chấp cả nội tình lẫn ngoại tình, vừa cuồng si mê muội, vừa tham sân tật đố, tự hại mình và hại người.

Bởi vậy, nên phải tu tập tam chánh hạnh, nhằm đối trị tam tà hạnh.

 

--o0o--

 

Nếu biết tự thân là nội thân, tha thân là ngoại thân.

Như nói về ngũ căn, nói về chín lỗ (cửu khiếu) nơi thân là nói về nội thân, như nói về ngũ trần là nói về ngoại thân.

Như vậy là phân biệt rõ giữa nội thân và ngoại thân.

Người tu hành, trước hết, phải biết rõ các pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã, mới có được trí huệ quán.

Khi quán nội thân, chẳng nên chấp vào các tướng tốt đẹp của thân.

Cho nên, nếu còn chấp nội thân là thường, lạc, ngã, tịnh, thì hành giả phải quán nội thân là bất khả đắc, cũng như vậy, nếu còn chấp ngoại thân là thường, lạc, ngã, tịnh, thì hành giả cũng phải quán ngoại thân là bất khả đắc.

Khi quán nội thân và ngoại thân đều bất khả đắc, thì hành giả sẽ được tâm chánh định. Ở nơi chánh định, hành giả sẽ biết rõ thân là vô thường, khổ, không, vô ngã; sẽ biết rõ thân là như bệnh, như ung nhọt, như ghẻ lở; sẽ biết rõ chín lỗ nơi thân là ô uế.

Lại nữa, hành giả còn phải quán thân, khi chết, sẽ bị tán hoại, sẽ bị tiêu diệt; hành giả lại còn phải quán thân, khi còn sống, cũng thường bị đói khát, bị nóng lạnh, chịu sự chê bai, khinh miệt, chịu cảnh già, bệnh, chết, bị bao nhiêu thứ khổ vây quanh, chẳng có lúc nào được tự tại.

Lại nữa, khi quán về “nội thân”, hành giả phải quán nội thân chẳng phải tác chủ, nên chẳng phải tri giả, kiến giả và thọ giả; phải quán nội thân chỉ do nhân duyên hòa hợp, mà có tợ sanh, tợ diệt, nhưng thật ra nội thân hoàn toàn bất khả đắc.

Bởi nhân duyên vậy, nên khi quán nội thân, quán ngoại thân, hành giả phải quán theo nghĩa của thập bát không. Cứ theo thân mà quán sát thì sẽ biết rõ thân đầy rẫy thứ bất tịnh, lại còn chịu cảnh đói khát, rét bức, còn chịu cảnh già, bệnh; và sau cùng, khi chết, thân này sẽ bị hủy hoại, sẽ trở về với tứ đại. Hành phải nên quán thân tướng, từ ngoại đến nội, từ gốc đến ngọn, đều rốt ráo không cả.

Phật dạy: Theo thân mà quán các pháp, thì mới chẳng còn chấp thân.

Khi quán thân bất tịnh, thì hành giả chẳng còn sanh các giác quán tham, sân, si nữa…

Phàm phu, do chấp thủ thân tướng, mà phải chìm đắm trong si mê, lầm lạc, gây ra biết bao nhiêu tội lỗi. Bồ Tát chẳng chấp thủ thân tướng, nên khi quán thân, liền được nhất tâm.

 

--o0o--

Lại nữa, thiện tri thức dễ ly mà cha con khó ly; cha con dễ ly mà thân khó ly, thân dễ ly mà tâm khó lý. Bởi vậy nên Bồ Tát tự mình phải nhất tâm tinh tấn quán các pháp đều là bất khả đắc. Ví như dùi cây để lấy lửa(1), thì phải nhất tâm, tinh tấn, chẳng dừng nghỉ, mới mong có được lửa vậy.

 

--o0o--

 

Lại nữa, muốn trừ tham ưu, thì phải trừ tận gốc, phải tận trừ cả năm triền cái. Ví như khúc tre có năm đốt, thì phải chẻ suốt cả năm đốt đó.

Người tu hành, xuất gia, học đạo, là đã xả thế lạc(bỏ dục lạc thế gian) rồi. Thế nhưng, nếu chưa có được định lạc, thì tâm vẫn còn sanh niệm tham ưu. Bởi vậy nên Phật dạy: Người tu hành phải nhất tâm tinh tấn trừ tham ưu thế gian.

Vì sao? Vì tham là tham các việc vui của thế gian, nên phải quán thân bất tịnh, mới trừ được tận gốc các tham ưu thế gian được.

 

--o0o--

 

Lại nữa, vì chúng sanh tham chấp dục lạc, nên trước hết phải trừ tham dục, để mở đường vào đạo. Bởi vậy nên người tu hành phải thường quán niệm tứ oai nghi ở nơi thân mình.

Vì sao? Vì dục là kẻ giặc phá hoại thân tâm; phải nhất tâm mới đối trị được. Bằng cách quán 4 oai nghi, đi đứng, nằm, ngồi; bằng cách tọa thiền, quán thân, người tu sẽ được thân tâm an lạc, chẳng còn bị lầm lạc nữa.

 

--o0o--

           

Nếu dùng quán bất tịnh mà tâm chưa được an lạc, thì phải dùng pháp quán hơi thở, để ngăn ngừa các giác quán. Vì sao? Vì phải được an lạc, mới chẳng còn bị lầm lạc.

Nếu quán bất tịnh tâm hết cuồng loạn, thì lúc bấy giờ bất tịnh tướng cũng trở thành tịnh tướng.

Bởi vậy, nên trong Phật pháp, thì 2 quán pháp: Bất tịnh và quán hơi thở (Anabama, hay còn gọi là Sổ Tức) được xem như 2 cửa đầu tiên dẫn vào Đạo Cam Lồ.

 

--o0o--

 

Lại nữa, Bồ Tát quán tứ đại ở nơi thân đều như cỏ rác, gạch gói…; quán tứ đại bên ngoài, khi biến thành các thức ăn uống để nuôi thân và duy trì mạng sống; quán tứ đại và tứ đại tạo sắc, dù được chia ra thành tứ phần là đất, nước, gió, lửa riêng khác, nhưng mỗi phần cũng là vô ngã, là khổ, là không, là vô thường cả, rồi Bồ Tát quán tứ oai nghi ở thân cũng đều là như vậy.

Trong khi quán phát nhất tâm, tinh tấn, chớ nên giải đãi, hôn trầm. Vì sao? Vì nếu quán mà giải đãi, hôn trầm, thì tâm sẽ bị loạn động, chẳng được an định.

Bồ Tát quán thân do tứ đại hòa hợp mà được thi thiết ra, chỉ là hư dối, chẳng phải thật có. Ví như, khi người thợ mổ trâu, chia ra làm bốn phần, thì chẳng còn có tướng trâu nữa.

Do 4 đại hòa hợp, duyên khởi tạo ra thân, nên tứ đại là tổng tướng. Mà thân chỉ là biệt tướng. Nếu tứ đại còn ở ngoài, thì chẳng được gọi là thân; chỉ khi nào tứ đại hòa hợp tạo ra sắc thân, thì mới giả danh gọi là thân. Như vậy, thân chẳng ở nơi tứ đại, mà tứ đại cũng chẳng ở nơi thân. Thân cũng như tứ đại đều chẳng phải là tác chủ(vô chủ tác).

Phàm phu điên đảo chấp tứ đại làm thân; Bồ Tát dùng “tánh không” phân biệt tứ đại tạo sắc nơi thân đều là không, là bất khả đắc.

Dẫn đến ba niệm xứ kia cũng đều là như vậy.

 

--o0o--

 

Lại nữa, Bồ Tát quán thân, từ chân lên đến đỉnh đầu, chứa 36 thứ bất tịnh, bao bọc bên trong một lớp da mỏng.

Ví như người làm ruộng đem đủ thứ hạt giống chất chứa vào bên trong kho lẫm của mình. Người tu hành pháp bất tịnh, dùng huệ nhãn nhìn vào kho thân, thấy đầy rẫy những thứ bất tịnh, nên chẳng còn ái chấp thân, biết rõ thân là bất tịnh, là tán hoại, là bất khả đắc.

Do quán thân như vậy, nên Bồ Tát nhẫn thọ được mọi sự đau khổ, giữ được tâm bất động, khi có người đến mắng nhiếc, đánh đập, đâm chém mình, v.v…

Bồ Tát quán nội thân bất tịnh, tán hoại; quán ngoại thân bất tịnh, tán hoại; dẫn đến nội ngoại thân cũng bất tịnh, tán hoại như vậy.

Lại nữa, Bồ Tát quán thân, khi chưa bị tán hoại có thức dẫn sanh ra các kiết sử, mà sanh nhàm chán thân; trong khi đó, khi phàm phu bị các kiết sử trói buộc, nên tham đắm thân. Rồi Bồ Tát lại quán thân người chết, sau vài ngày, nếu chẳng làm mồi cho chim thú rỉa thịt, nhai xương thì cũng bị sình thối, hư nát nên chẳng chấp thân tướng tốt hay xấu, trong khi đó thì phàm phu lầm lạc tham đắm thân tướng nên bị tình ái, dâm dục làm mê mờ tâm trí.

Phật dạy: Sắc thân chỉ là huyễn pháp, chỉ làm cho người vô trí phải mê lầm vậy thôi.

Bồ Tát quán thân người chết, rồi tự nghĩ rằng thân mình rồi đây cũng sẽ là như vậy. Do quán thân như vậy, mà Bồ Tát nhàm chán thân, quyết điều phục tâm mình, nhất tâm, tinh tấn trừ các tham ưu thế gian. Bồ Tát lại quán thân người chết bị diều quạ rỉa thịt, bị lang sói gặm xương, chẳng ai dám đến gần; quán, khi thịt đã tiêu hết, khi tất cả tim, gan, tỳ, vị, phèo, phổi,… đều đã thối nát, thì thân người chỉ còn lại nắm xương trắng. Do quán như vậy, Bồ Tát nghĩ rằng thân là vô ngã; do chấp đắm thân, mà chứa nhóm bao nhiêu tội phước nhân duyên, khiến phải trầm luân mãi trong sanh tử. Bồ Tát lại quán xương cốt người chết phân tán, rải rác khắp nơi, mặc cho gió táp, mưa sa, với thời gian rồi sẽ trở thành mục nát, thành đất. Do quán như vậy, Bồ Tát nghĩ rằng thân đã vô thường như vậy,  thì ngã là bất khả đắc. Bồ Tát lại quán thân do nghiệp thức nhân duyên sanh ra, chẳng có tự tại, quán thân tướng là phi ngã, quán khổ vui đều do tâm điên đảo tạo ra; quán già, bệnh, chết dẫn đến quán thân mạng đều là vô thường cả. Do quán như vậy, Bồ Tát tự nghĩ rằng nếu chẳng tu pháp quán “bất tịnh” thì rất dễ bị các nghiệp lôi cuốn; nếu chẳng nhất tâm, tinh tấn trừ hết tham ưu, thì hai tên giặc “tham” và “ưu” này sẽ cướp hết pháp bảo. Bồ Tát lại nghĩ rằng thân là vô thường, là bất tịnh; như vậy vì sao chúng sanh cứ mãi tham trước thân này, khiến khởi sanh bao nhiêu nghiệp tội; chỉ vì trong thân có ngũ tình, ngoài thân có ngũ dục hòa hợp mà sanh ra các chấp điên đảo vậy thôi. Bồ Tát lại nghĩ rằng thân, dù kiên cố trong một thời gian dài, rồi cũng phải tán hoại, huống nữa là các cuộc vui trong chốc lát, do niệm tương tục sanh diệt, mà hết khổ đến vui, hết vui đến khổ vậy thôi.

Như vậy thì vui đây phải là thật có, vì ngay trong vui đã có sẵn mầm mống của khổ rồi vậy. Ví như, ăn uống cho hết đói khát là vui, nhưng chỉ vui trong chôc lát, rồi các thứ khổ khác lại quấy nhiễu xác thân, v.v.. Cho nên biết, vui thế gian do nhân duyên khổ sanh ra, lại thường sanh ra các khổ quả, tương tục nối nhau, kết thành vô lượng khổ.

Nên biết, món ăn ngon có trộn chất độc có thể hại mạng người. Nhưng vui trong 5 dục còn nguy hại gấp bội. Đây là chất độc rất nguy hại, có thể đoạt cả huệ mạng của ta.

Người tu phải biết rõ vui chỉ do tâm thức tưởng ra, mà tâm niệm thì luôn luôn sanh diệt, nên là bất khả đắc; chỉ ví như sóng nhấp nhô trên mặt biển, vừa hiện là liền tan. Tâm tưởng là vô thường, nên có lúc thọ khổ, có lúc thọ lạc; mà đã là vô thường, thì tâm chẳng được tự tại, nên là vô ngã vậy.

 

--o0o--

           

Tu tâm niệm xứ kia cũng phải quán đầy đủ các tướng: nội tướng, ngoại tướng và nội ngoại tướng.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói tứ niệm xứ là tứ thánh hạnh có công năng phá tứ điên đảo, khai mở đường vào thật tướng pháp.

 

--o0o--

 

Nơi đây, cũng nên biết rằng quán vô thường cũng là quán về khổ đế; mà khổ là do các chấp điên đảo gây ra; quán các nguyên nhân gây ra khổ là quán về tập đế, quán đoạn các nguyên nhân gây ra khổ là quán về diệt đế; quán các pháp tu để đoạn điên đảo là đạo đế.

Hàng Thanh Văn quán tứ đế, tin Niết Bàn trú đạo tâm, tợ như vô lậu, đây là Noãn Pháp. Ví như người kéo dây để lấy lửa thấy hơi nóng tỏa ra các nguyên nhân gây ra khổ là quán về diệt đế; quán các pháp tu để đoạn điên đảo là đạo đế.

Hàng Thanh Văn quán 4 đế, tin Niết Bàn trú đạo tâm, tợ như vô lậu, đây là Noãn Pháp. Ví như người kéo dây để lấy lửa thấy có hơi nóng tỏa ra, biết là có lửa. Có tín pháp này rồi, sẽ sanh tâm sùng kính Phật. Ví như người uống thuốc lành bệnh rồi sẽ tin thầy thuốc, người đã tin pháp rồi, sẽ dần dần tin Tam Bảo.

Noãn Pháp tăng; thì các tướng tội phước sẽ dứt. Đây là Đảnh Pháp. Ví như người leo đảnh núi, thấy rõ cảnh vật chung quanh.

Từ Đảnh Pháp, hàng Thanh Văn tu quán tứ niệm xứ, được tứ quả Thanh Văn. Đây là Nhẫn Pháp.

Bồ Tát, ở nơi pháp quán này, chẳng quên bản nguyện độ sanh, chẳng xả tâm đại bi, lại dùng “bất khả đắc không” để điều phục tâm, nên dù tâm còn lưu dư tàng kiết sử, mà vẫn chẳng bị đọa. Ví như người lính thiện chiến, dù chưa giết được giặc, mà đã cô lập được đối phương rồi vậy.

Bồ Tát đạt đảnh Pháp và Nhẫn Pháp rồi, sẽ vào Thế Đệ Nhất Pháp. Đây là chỗ Thuận Pháp Nhẫn, dẫn đến Vô Sanh Pháp Nhẫn.

 Đó là bí quyết của người thật tu thật chứng đối với pháp quán này. Nếu quán triệt để, liên tục miên mật như người dùi cây để lấy lửa thì có cơ hội nhập đạo Bồ đề dẫn nước Cam lồ về rửa sạch bụi trần cho tất cả chúng sanh.

Chúng tôi thiết tha khuyến dẫn Quý vị đọc phẩm này của Đại Trí Độ Luận hay đọc toàn bộ Tập 3 của Luận này, để tu tập các pháp thật tu thật chứng hay còn gọi là các pháp mầu Phật đạo. Không có các pháp tu này không có Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ Tát, Phật, không có Phật đạo, không có Đại thừa v.v…Vì trong khuôn khổ giới hạn của thiên Tổng luận chúng tôi không thể trích dẫn nhiều hơn được.

Thích nghĩa cho phần lược giải:

(1). Như dùi cây để lấy lửa hay kéo dây để lấy lửa. Ngày xưa muốn có lửa người ta thường dùng một khúc cây tròn ngắn, cắm vào một thanh gỗ trên có để bùi nhùi làm vật dẫn cháy. Rồi dùng hai bàn tay vò mạnh qua lại khúc gỗ nhiều lần. Đầu nhọn của khúc gỗ ma xát mạnh vào thanh gỗ, gỗ nóng lên phát tia lửa bắt vào bùi nhùi cháy lên thành ngọn lửa. Cũng vậy, thay vì dùng hai tay vò mạnh khúc gổ, người ta cột khúc gỗ tròn vào một cây cung ngắn cắm vào khúc khổ để bùi nhùi, rồi kéo sợi dây nhiều lần thì lửa sẽ bật ra. Phải kéo liên tục nhiều lần mới có lửa.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com