Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Phẩm “Vào Ly Sanh” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

08/08/202009:08(Xem: 9777)
07. Phẩm “Vào Ly Sanh” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.7. Vào Ly Sanh - Hoàng Lan

 

 

PHẨM “VÀO LY SANH”



Phần giữa quyển 408, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Khuyến Học”, phần giữa quyển 36, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc:  Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc:  Quảng Thiện Hùng Jordan Le





 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát muốn viên mãn sáu Ba la mật nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn biết khắp hết sắc nên học Bát nhã Ba la mật, muốn biết khắp hết cả thọ, tưởng, hành, thức nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn biết khắp hết mười hai xứ, mười tám giới nên học Bát nhã Ba la mật, muốn biết khắp hết mười hai duyên khởi nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn tham dục, sân giận, ngu si nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham, sân hận nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạn, trạo cử nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn tất cả các tùy miên trói buộc, nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn bốn cách ăn(1) nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đoạn hẳn vòng xoáy của bốn dòng nước mạnh(2)làm thân điên đảo thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn thọ trì mười thiện nghiệp đạo thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn tu hành 37 pháp trợ đạo, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn nhập tất cả môn Đà la ni, môn Tam ma địa đều được tự tại thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn làm viên mãn sở nguyện của tất cả hữu tình thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn làm viên mãn thiện căn thù thắng như vậy, do thiện căn này được viên mãn, nên không đọa vào các đường ác, không sanh vào nhà bần tiện, không rơi vào địa vị Thanh văn và Độc giác, đối với ngôi vị Bồ Tát hoàn toàn không thối lui thì nên học Bát nhã Ba la mật.

Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả! Thế nào gọi là Bồ Tát đỉnh đọa?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu các Bồ Tát thực hành sáu pháp Ba la mật, không có phương tiện thiện xảo mà an trụ ba môn giải thoát, thì bị thối lui ở địa vị Thanh văn, Độc giác, không vào được Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Như vậy, gọi là Bồ Tát đỉnh đọa.

 

(Kinh MHBNBLMĐ thuyết ý này rõ ràng hơn:

“Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề:

- Thế nào gọi là Bồ Tát đọa đảnh(hay đảnh đọa)?

Ngài Tu Bồ Đề đáp:

- Nếu Bồ Tát chẳng có đủ các sức phương tiện để thực hành 6 pháp Ba la mật, để nhập vào các tam muội Không, Vô tướng và Vô tác, mà lại trú nơi Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa, nhẫn đến thủ chấp Bồ Tát vị, thì gọi là Bồ Tát sanh pháp ái. Như vậy gọi là Bồ Tát đọa đảnh?”)

 

Khi ấy, Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tôn giả! Thế nào gọi là sanh?

Thiện Hiện đáp:

- Sanh là pháp ái.

Xá lợi Tử hỏi:

- Tôn giả! Thế nào là pháp ái?

Thiện Hiện đáp:

- Nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật an trụ sắc không mà sanh tưởng chấp trước, an trụ sắc vô tướng mà sanh tưởng chấp trước, an trụ sắc vô nguyện mà sanh tưởng chấp trước, an trụ sắc là tịch tịnh, là viễn ly, là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà sanh tưởng chấp trước. Cũng vậy, nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật an trụ thọ, tưởng, hành, thức là không mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là vô tướng mà sanh tưởng chấp trước, an trụ thọ, tưởng, hành, thức là vô nguyện mà sanh tưởng chấp trước; nếu đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật an trụ thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, là viễn ly, là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà sanh tưởng chấp trước, thì đó là đại Bồ Tát tùy thuận pháp ái, tức pháp ái này gọi là sanh.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nghĩ như vầy: Sắc này nên dứt (đoạn); thọ, tưởng, hành, thức này nên đoạn. Do đó nên sắc được dứt, do đó nên thọ, tưởng, hành, thức được đoạn; khổ này nên biết hết, do đó nên khổ được biết trọn vẹn; tập này nên dứt trừ, do đó nên tập được đoạn trừ; diệt này nên chứng, do đó nên diệt được chứng; đạo này nên tu tập, do đó nên đạo được tu tập; đây là tạp nhiễm, đây là thanh tịnh; đây nên thân cận, đây không nên thân cận; điều này nên làm, điều này không nên làm; đây là đạo, đây chẳng phải là đạo; điều này nên học, điều này không nên học; đây là bố thí, đây chẳng phải là bố thí; đây là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, đây chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; đây là phương tiện thiện xảo, đây chẳng phải là phương tiện thiện xảo; đây là Bồ Tát sanh, đây là Bồ Tát ly sanh.

Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, an trụ các pháp môn này mà sanh tưởng đắm trước, thì đó là đại Bồ Tát tùy thuận pháp ái, pháp ái này tức gọi là sanh, như thức ăn để cách đêm hay sanh ra bệnh hoạn.

Lúc bấy giờ, Ngài Xá lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

- Tôn giả! Thế nào là nhập Chánh tánh ly sanh của đại Bồ Tát?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không thấy pháp không nội, không nương vào pháp không nội mà quán pháp không ngoại; không thấy pháp không ngoại, không nương vào pháp không ngoại mà quán pháp không nội, không nương vào pháp không ngoại mà quán pháp không nội ngoại; không thấy pháp không nội ngoại, không nương vào pháp không nội ngoại mà quán pháp không ngoại, không nương vào pháp không nội ngoại mà quán pháp không không; không thấy pháp không không, không nương vào pháp không không mà quán pháp không nội ngoại, không nương vào pháp không không mà quán pháp không lớn; không thấy pháp không lớn, không nương vào pháp không lớn mà quán pháp không không, không nương vào pháp không lớn mà quán pháp không thắng nghĩa; không thấy pháp không thắng nghĩa, không nương vào pháp không thắng nghĩa mà quán pháp không lớn, không nương vào pháp không thắng nghĩa mà quán pháp không hữu vi; không thấy pháp không hữu vi, không nương vào pháp không hữu vi mà quán pháp không thắng nghĩa, không nương vào pháp không hữu vi mà quán pháp không vô vi; không thấy pháp không vô vi, không nương vào pháp không vô vi mà quán pháp không hữu vi, không nương vào pháp không vô vi mà quán pháp không rốt ráo; không thấy pháp không rốt ráo, không nương vào pháp không rốt ráo mà quán pháp không vô vi, không nương vào pháp không rốt ráo mà quán pháp không không biên giới; không thấy pháp không không biên giới, không nương vào pháp không không biên giới mà quán pháp không rốt ráo, không nương vào pháp không không biên giới mà quán pháp không tán vô tán; không thấy pháp không tán vô tán, không nương vào pháp không tán vô tán mà quán pháp không không biên giới, không nương vào pháp không tán vô tán mà quán pháp không bổn tánh; không thấy pháp không bổn tánh, không nương vào pháp không bổn tánh mà quán pháp không tán vô tán, không nương vào pháp không bổn tánh mà quán pháp không tự cộng tướng; không thấy pháp không tự cộng tướng, không nương vào pháp không tự cộng tướng mà quán pháp không bổn tánh, không nương vào pháp không tự cộng tướng mà quán pháp không tất cả pháp; không thấy pháp không tất cả pháp, không nương vào pháp không tất cả pháp mà quán pháp không tự cộng tướng, không nương vào pháp không tất cả pháp mà quán pháp không bất khả đắc; không thấy pháp không bất khả đắc, không nương vào pháp không bất khả đắc mà quán pháp không tất cả pháp, không nương vào pháp không bất khả đắc mà quán pháp không không tánh; không thấy pháp không không tánh, không nương vào pháp không không tánh mà quán pháp không bất khả đắc, không nương vào pháp không không tánh mà quán pháp không tự tánh; không thấy pháp không tự tánh, không nương vào pháp không tự tánh mà quán pháp không không tánh, không nương vào pháp không tự tánh mà quán pháp không không tánh tự tánh; không thấy pháp không không tánh tự tánh, không nương vào pháp không không tánh tự tánh mà quán pháp không tự tánh.

Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã quán như vậy gọi là nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã nên học như vầy: Biết như thật về sắc không nên chấp; biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức không nên chấp. Biết như thật về 12 xứ, 18 giới không nên chấp; biết như thật về bố thí không nên chấp; biết như thật về tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật không nên chấp. Biết như thật về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nên chấp. Biết như thật về  37 pháp trợ đạo không nên chấp. Biết như thật về Phật mười lực không nên chấp; biết như thật về bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không nên chấp.

Như vậy, Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, như thật biết tâm Bồ đề chẳng nên chấp, tâm vô đẳng đẳng chẳng nên chấp, tâm quảng đại chẳng nên chấp. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Tâm này phi tâm, bản tánh thanh tịnh vậy.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Sao là tâm này bản tánh thanh tịnh?

Thiện Hiện đáp rằng: Bản tánh tâm này chẳng tương ưng tham, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng sân, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng si, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các quấn gút tùy miên, chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các kiến thú lậu thảy, chẳng phải chẳng tương ưng. Cùng các tâm Thanh văn Độc giác thảy cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát Ma ha tát biết tâm như thế bản tánh thanh tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm này có phải là phi tâm tánh chăng?

Thiện Hiện gạn lại rằng: Trong phi tâm tánh, có tánh không tánh khá được chăng?

Xá Lợi Tử nói: Thiện Hiện! Chẳng được.

Thiện Hiện nói rằng: Trong phi tâm tánh, có tánh không tánh nếu chẳng khá được, tại sao nên hỏi tâm này là phi tâm tánh?

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Những gì gọi là phi tâm tánh?

Thiện Hiện đáp rằng: Đối tất cả pháp không biến hoại, không phân biệt, đấy gọi phi tâm tánh(3).

Xá lợi Tử hỏi:

- Chỉ có tâm không biến đổi, không phân biệt hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... cũng không biến đổi, không phân biệt?

Thiện Hiện đáp:

- Như tâm không biến đổi, không phân biệt, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không biến đổi, không phân biệt. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật cũng không biến đổi, không phân biệt.

Khi ấy, Xá lợi Tử khen ngợi Tôn giả Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói. Ông đúng là Phật tử, từ tâm Phật sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh, từ Pháp hóa sanh, thọ nhận phần pháp của Phật, không nhận phần tài bảo, đối với các pháp tự mình chứng đắc tuệ nhãn, thấy rõ mới có thể giảng nói. Phật thường nói ông là đứng đầu trụ Vô tránh định trong chúng Thanh văn, đúng như lời Phật nói chơn thật không hư vọng.

Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã thâm sâu nên học như vậy.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với Bát Nhã thâm sâu có thể học như vậy thì nên biết Bồ Tát đó đã trụ địa vị Bất thối chuyển, không lìa Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ nào người muốn học địa vị Thanh văn, Độc giác thì đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu như vậy nên siêng lắng nghe học tập, đọc tụng, thọ trì, tư duy đúng lý, làm cho đến chỗ rốt ráo. Muốn học địa vị Bồ Tát cũng đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu như vậy, nên siêng năng lắng nghe, học tập, đọc tụng, thọ trì, tư duy đúng lý, làm cho đến chỗ rốt ráo. Này Thiện Hiện! Vì trong Kinh Bát nhã Ba la mật thâm sâu như vậy đã giảng nói mở bày giáo pháp ba thừa; đại Bồ Tát nào có thể học Bát nhã Ba la mật tức là học hết giáo pháp ba thừa một cách thiện xảo.

 

Thích nghĩa:

(1). Bốn cách ăn hay tứ thực: 1- Đoạn thực: thực phẩm bằng vật chất, dùng miệng ăn từng miếng—như trái cây, thịt, rau… 2- Xúc thực: Chất bổ dưỡng hấp thụ được qua sự tiếp xúc của năm giác quan. 3- Tư thực: Chất bổ dưỡng hấp thụ được qua tư tưởng. 4- Thức thực: Chất bổ dưỡng hấp thụ được qua sáu thức. (từ điển Phật học Anh-Hán-Việt)

(2). Bốn vòng nước xoáy hay gọi là “tứ bộc lưu”: Theo Kinh Phúng Tụng trong Trường Bộ Kinh, có bốn bộc lưu là: 1- Dục Bộc Lưu, 2- Hữu Bộc Lưu, 3- Tà Kiến Bộc Lưu và 4- Vô Minh Bộc Lưu.

(3). Cũng như đoạn Kinh tương đương ở phẩm “Khuyến Học”, quyển 36, Hội thứ I. Đoạn Kinh này, nói:

“Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm này có phải là phi tâm tánh chăng?

Thiện Hiện gạn lại rằng: Trong phi tâm tánh, có tánh không tánh khá được chăng?

Xá Lợi Tử nói: Thiện Hiện! Chẳng được.

Thiện Hiện đáp rằng: Trong phi tâm tánh, có tánh không tánh nếu chẳng khá được, tại sao lại hỏi tâm này là có phi tâm tánh?

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Những gì gọi là phi tâm tánh?

Thiện Hiện đáp rằng: Đối tất cả pháp không biến hoại, không phân biệt, đấy gọi phi tâm tánh”.

 

Nguyên văn chữ Hán là:

thời .Lợi Tử vấn thiện hiện ngôn: thị tâm vi hữu phi tâm tánh phủ .

thiện hiện cật ngôn: phi tâm tánh trung hữu tánh tánh vi khả đắc phủ .

Lợi Tử ngôn :phủ dã .thiện hiện .

thiện hiện đối viết :phi tâm tánh trung hữu tánh tánh nhược bất khả đắc .vân khả vấn thị tâm vi hữu phi tâm tánh phủ

thời .Lợi Tử vấn thiện hiện ngôn :đẳng danh vi phi tâm tánh da .

thiện hiện đối viết :ư nhất thiết pháp biến dị .phân biệt. thị danh phi tâm tánh” .

Đoạn Kinh này cũng giống đoạn Kinh trong phẩm “Khuyến Học” quyển 36, Hội thứ I, tuy nhiên cách diễn đạt rõ ràng hơn. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Tâm này có phải là phi tâm tánh chăng? Mấu chốt để hiểu câu này ở các từ: tâm(), tánh(), tâm tánh(心性) và phi tâm tánh(非心性).

Tâm(): Nguồn gốc của mọi ý thức, suy tưởng, cảm thọ có thể là vọng hay chân.

Tánh(): Trong nghĩa bản tánh là cái thường trụ, chẳng đổi dời, nhiễm tịnh.

Ghép hai chữ Tâm() và Tánh() với nhau thì có từ kép là Tâm tánh(心性). Bản tánh của tâm bất biến, bất nhiễm, bất tịnh, vốn là chân(chơn như). Nhưng tùy theo điều kiện chung quanh mà có nhiễm có tịnh.

Phi tâm tánh(非心性)tức là Tâm không nghĩa là đối với trần cảnh tâm không sanh diệt, đổi dời thì gọi là tâm không hay vô thức, vô niệm, vô tâm.

 

Lưu ý: Phẩm “Vào Ly Sanh” được thuyết ở trên, có tên khác là “Khuyến Học”, được thuyết ở quyển 36, Hội thứ I, ĐBN. Nếu có gì không sáng tõ, xin quay lại đọc phẩm “Khuyến Học”, quyển 36, Hội thứ I, ĐBN.

 

Sơ giải:

 

1.Thế nào là sanh?

 

Bồ Tát an trụ sắc không, vô tướng, vô nguyện mà sanh tưởng chấp trước; an trụ sắc là tịch tịnh, là viễn ly, là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà sanh tưởng chấp trước. Nếu Bồ Tát tu hành Bát Nhã an trụ thọ, tưởng, hành, thức là không, vô tướng, vô nguyện mà sanh tưởng chấp trước; an trụ thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, là viễn ly, là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh mà sanh tưởng chấp trước, thì đó là đại Bồ Tát tùy thuận pháp ái; pháp ái này tức gọi là sanh như thức ăn để qua đêm bị nhiễm độc dễ sanh bệnh tật.

Cũng vậy, nếu Bồ Tát nghĩ sắc này nên dứt, sắc này nên đoạn, sắc này nên trừ, sắc nên khiển… mà sanh tưởng chấp trước, thì đó là đại Bồ Tát tùy thuận pháp ái; pháp ái này tức gọi là sanh, như thức ăn để qua đêm bị nhiễm độc dễ sanh bệnh tật.

Nếu Bồ Tát học Bát Nhã mà còn tác ý pháp này nên học, pháp này không nên học, Kinh MHBNBLMĐ nói: Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật mà ở nơi các pháp còn khởi niệm chấp trước “thị” hay “phi”, thì gọi là Bồ Tát thuận đạo mà sanh pháp ái”.  Ái pháp đối với người sơ cơ, mới học đạo là tốt, nhưng đối với Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn không có ích gì, chỉ là động niệm, nên dễ sanh bệnh.  Đã vướng vào pháp ái tức sanh bệnh, nên bị gọi là Bồ Tát đỉnh đọa.

 

2. Thế nào là ly sanh?

 

Nếu Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, không quán, không thấy, không nương, không chấp vào tất cả pháp, Bồ Tát này tu hành Bát Nhã như vậy, gọi là nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh.

Nếu Bồ Tát tu hành Bát Nhã đối với tất cả pháp không tưởng, không thấy, không biết, không phân biệt thì không chấp. Tâm mới được rỗng rang tự tại. Tâm rỗng rang tự tại chính là tâm không! Trong tâm không: Không có nhiễm không có tịnh, không có khổ không có lạc, v.v… Vì tôn chỉ Bát nhã Ba la mật là vô kiến (không thấy), vô tri (không biết), vô thức (không phân biệt), vô thủ (không giữ), vô trước (không vướng mắc), vô niệm (không tưởng), vô tâm (tâm không). Đó chính là phi tâm. Học như vậy là tâm không sanh mà Bát Nhã sanh, mau chứng Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát.

Để sáng tỏ vấn đề của phẩm này, chúng tôi dẫn chứng lời giảng luận của Bồ Tát Long Thọ ghi trong phẩm thứ 8, “Khuyến Học”, tập 3, quyển 41, Đại Trí Độ Luận như sau:

“Ở nơi Nhu Thuận Nhẫn, ở nơi Vô Sanh Nhẫn, nếu chẳng có chấp trước pháp Vô Sanh đó thì gọi là Trú Đảnh vị. Bồ Tát trú ở đảnh cao đó, thẳng đường đến Phật đạo, chẳng còn sợ bị đọa nữa.

Cũng như vậy, ở trong pháp Thanh Văn có nói đến Noãn pháp, Nhẫn pháp và Đảnh pháp. Khi đã thành tựu được hai pháp Noãn và Nhẫn rồi, thì hành giả tiến tu Đảnh pháp vậy”.

“Người được Đảnh vị rồi, mà tâm kiên cố, trí an ổn, thì chẳng sợ bị đọa nữa. Người đã gần được Đảnh vị rồi mà đánh mất đi thì mới gọi là đọa Đảnh.

Vì sao? Vì khi đã lên đến đảnh núi, đứng vững chắc trên đảnh núi rồi, thì chẳng còn sợ bị rơi xuống nữa. Thế nhưng, khi còn đang leo núi, mặc dù đã gần đến đảnh núi rồi, thì cũng vẫn còn nguy hiểm, còn lo sợ bị rơi xuống, nên cần phải giữ tâm trí kiên cố, an ổn.

Bồ Tát, khi đã trú ở Đảnh vị rồi, thì chẳng còn bị các nội ma quấy nhiễu, chẳng còn bị các kiết sử trói buộc nữa. Như vậy gọi là được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vì sao? Vì trái với Vô Sanh là còn kiết sử, còn ái chấp các tập thiện pháp.

Nếu chẳng có được trí huệ soi sáng, thì chẳng vào được nơi thật tướng pháp; như vậy gọi là Sanh. Nếu có được trí huệ soi chiếu, thì vào được nơi thật tướng pháp; như vậy gọi là Thục.

Lại nữa, nếu chẳng y chỉ trí sanh diệt, nếu ly được trí sanh diệt, ly được các chấp điên đảo, thì vào được nơi bất sanh, bất diệt. Như vậy gọi là được Vô Sanh Pháp, hay Tín Pháp, hay Thọ Pháp, hay Trí Pháp, cũng gọi là Nhẫn vị.

Bồ Tát, khi đã nhập vào vị ấy rồi, là xả bỏ hết thảy các quán vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu chẳng được như vậy, thì gọi là thuận đạo mà còn sanh pháp ái”.

Chúng tôi tưởng với lời giảng luận tuy ngắn ngủi này của bậc thật tu thật chứng, có thể giúp chúng ta hiểu phẩm “Vào Ly Sanh” dễ dàng hơn với các pháp gọi là pháp ái, pháp sanh hay ly sanh; có thể hiểu thế nào Bồ Tát Đỉnh đọa, Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn, Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, v.v...

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com