Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Phẩm “Thiện Hiện” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

08/08/202009:07(Xem: 9572)
06. Phẩm “Thiện Hiện” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


Phẩm Thiện Hiện_photo


 

PHẨM “THIỆN HIỆN”


Quyển 406 đến đầu quyển 408, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” quyển 11 đến

đầu quyển 36, Hội thứ I, ĐBN).

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước





 


 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

- Ông hãy đem biện tài tùy theo chúng Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy bảo truyền trao cho các Bồ Tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, các Bồ Tát, đại Thanh văn, chư thiên, nhơn v.v... đều nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện đem biện tài của mình tùy theo chúng đại Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy bảo truyền trao cho các Bồ Tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật, đó có phải là nhờ oai lực của Phật gia hộ chăng?

Tôn giả Thiện Hiện biết tâm niệm của các chúng Bồ Tát, đại Thanh văn, chư thiên, nhơn liền bảo Tôn giả Xá lợi Tử:

- Các đệ tử Phật phàm nói ra điều gì tất cả đều nhờ oai lực của Phật. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Như Lai giảng nói pháp yếu cho chúng sanh, các pháp tánh thường không trái nhau. Các đệ tử Phật nương vào pháp ấy, siêng năng tu học, chứng thật tánh các pháp. Do đó, những pháp mà Ngài nói cùng với pháp tánh không trái nhau. Nên lời Phật nói như ngọn đèn truyền sáng mãi.

Này Xá lợi Tử! Nhờ oai lực của Phật gia hộ, ta sẽ tùy theo chúng Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát Nhã, dạy bảo truyền trao cho các Bồ Tát, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật, chẳng phải là biện tài của mình có thể làm được việc này. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thẳm sâu không phải là cảnh giới của các Thanh văn, Độc giác.

Tôn giả Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con đều không thấy có một pháp nào có thể gọi là Bồ Tát, cũng không thấy pháp nào có thể gọi là Bát nhã Ba la mật. Hai tên như thế con đều không thấy thì làm sao con có thể tùy chúng Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với Bát nhã Ba la mật, dạy bảo truyền trao, làm cho họ thành tựu Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ Tát chỉ có tên, Bát nhã Ba la mật cũng chỉ có tên, hai tên như thế cũng chỉ là tên gọi.

Này Thiện Hiện! Hai tên này không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Nên biết, như ngã ở thế gian chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là ngã. Như vậy, hữu tình, mạng giả, sự sanh, sĩ phu, nho đồng, ý sanh, tác giả, người biết, người thấy… cũng chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy, tất cả như vậy, chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế đều không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như sắc chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập mà gọi là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, cả hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa vì không nắm bắt được.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như mười hai xứ, mười tám giới chỉ là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là mười hai xứ, mười tám giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, hoặc đại Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như trong thân có đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo, xương sống, đùi, đầu gối, bắp chân, ống chân, da, thịt, xương, tủy… chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt chỉ giả lập mà gọi là đầu, cổ, cánh tay... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy hoặc Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như các vật bên ngoài như: Cỏ cây, gốc, cành, lá, hoa, quả v.v... chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là các vật bên ngoài như cỏ, cây, gốc v.v... Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, nếu hai tên này đều là giả danh; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như chư Phật quá khứ, vị lai chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là chư Phật quá khứ, vị lai. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như cảnh trong mộng, tiếng vang, bóng sáng, việc huyễn, sóng nắng, trăng dưới nước... chỉ có giả danh; giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là cảnh trong mộng cho đến biến hóa. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, nếu hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp, tên giả, pháp giả và phương tiện giả nên phải tu học. Vì sao? Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã, không nên quán danh sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường. Không nên quán danh sắc hoặc vui hoặc khổ; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui hoặc khổ. Không nên quán danh sắc hoặc ngã hoặc vô ngã; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Không nên quán danh sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Không nên quán danh sắc hoặc không hoặc bất không; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc không hoặc bất không. Không nên quán danh sắc hoặc hữu tướng hoặc vô tướng; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Không nên quán danh sắc hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Không nên quán danh sắc hoặc tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán danh sắc hoặc viễn ly hoặc không viễn ly; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc viễn ly hoặc không viễn ly. Không nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Không nên quán danh sắc hoặc sanh hoặc diệt; không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã, không nên quán danh mười hai xứ, mười tám giới hoặc thường hoặc vô thường; hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã; hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, hoặc sanh hoặc diệt. Vì sao? Vì Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã, hoặc Bồ Tát, hoặc danh Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, hoặc danh Bát Nhã đều không thấy ở trong giới hữu vi, cũng không thấy ở trong giới vô vi. Vì sao? Vì Bồ Tát này đối tất cả pháp chẳng khởi tác phân biệt, không phân biệt khác.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã an trụ trong tất cả pháp vô phân biệt nên chẳng thấy đại Bồ Tát, chẳng thấy danh Bồ Tát, chẳng thấy Bát Nhã, chẳng thấy danh Bát Nhã.

Này Thiện Hiện! Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã thường tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; thường trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; thường trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cho đến cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; thường tu ba mươi bảy pháp trợ đạo; thường trụ tứ Thánh đế; thường tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; thường tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; thường tu Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Bồ Tát này vào lúc đó không thấy Bồ Tát, không thấy danh Bồ Tát, không thấy Bát Nhã, không thấy danh Bát Nhã. Vì sao? Vì Bồ Tát này tu hành Bát Nhã đối với tất cả pháp khéo thông đạt thật tướng, và trong ấy khéo thông đạt pháp không tạp nhiễm, pháp thanh tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã hiểu biết tất cả pháp đều là danh giả, pháp giả.

Này Thiện Hiện! Bồ Tát này đã hiểu biết như thật danh pháp giả rồi nên không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; không chấp trước mười hai xứ, mười tám giới; không chấp trước tất cả pháp Phật; không chấp trước giới hữu vi, không chấp trước giới vô vi; không chấp trước bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; không chấp trước các tướng tốt, không chấp trước thân Bồ Tát, không chấp trước nhục nhãn cho đến Phật nhãn; không chấp trước trí Ba la mật và thần thông Ba la mật; không chấp trước sự thành thục hữu tình, không chấp trước việc nghiêm tịnh cõi Phật, không chấp trước phương tiện quyền xảo. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, xứ trước, thời trước đều bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối với tất cả pháp không chấp trước; khi tu hành Bát Nhã tăng trưởng bố thí Ba la mật; tăng trưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Hướng vào Chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, hướng vào địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, viên mãn thần thông thù thắng của Bồ Tát.

Như vậy, Thần thông thù thắng của Bồ Tát đã được viên mãn, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, vì muốn giáo hóa các hữu tình, vì muốn làm nghiêm tịnh cõi Phật, được gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, gặp rồi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, làm cho các thiện căn đều được sanh trưởng. Thiện căn đã được sanh trưởng, được nghe và thọ trì Chánh pháp chư Phật theo sở thích của mình. Đã thọ trì rồi cho đến Vô Thượng Bồ đề không quên mất, đối với tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn đều được tự tại.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã hiểu biết như thật danh giả, pháp giả nên không chấp trước.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ngươi Sắc có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thọ, tưởng, hành, thức là có phải Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc có phải Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức có phải Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Mười hai xứ có phải Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Mười tám giới có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Vô minh có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử có phải Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa vô minh có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa hành cho đến lão tử có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

- Ngươi xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Sắc thảy pháp(1) chẳng phải Bồ Tát, lìa sắc thảy pháp cũng không phải Bồ Tát?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp rốt ráo còn bất khả đắc vì tánh chẳng có, huống là có Bồ Tát. Nếu đã chẳng có, sao có thể nói sắc thảy pháp là Bồ Tát, lìa sắc có Bồ Tát được!

Phật bảo Thiện Hiện!

- Hay thay! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp đều bất khả đắc nên các Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ Tát bất khả đắc nên việc tu hành Bát Nhã cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ngươi, thế nào là Bồ Tát?

- Sắc như (hay chơn như của sắc) có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Thọ, tưởng, hành, thức như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa sắc như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- 12 xứ như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- 18 giới như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa 18 giới như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Vô minh như có phải là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử như có phải là đại Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa vô minh như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

- Lìa hành cho đến lão tử như có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện:

- Ngươi quán nghĩa nào mà nói như vầy: Cả sắc thảy pháp như, không phải là Bồ Tát, lìa sắc thảy pháp như không phải là Bồ Tát?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sắc thảy pháp rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có sắc thảy pháp như. Như này đã chẳng có, như vậy sao có thể nói cả sắc thảy pháp như là Bồ Tát, lìa sắc thảy pháp như có Bồ Tát?

Phật bảo Thiện Hiện!

- Hay thay! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói.

Này Thiện Hiện! Vì sắc thảy pháp bất khả đắc, nên cả sắc thảy pháp như cũng bất khả đắc. Vì sắc thảy pháp như bất khả đắc nên các Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ Tát bất khả đắc nên tu hành Bát Nhã cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Theo ngươi thế nào là Bồ Tát? Khái niệm sắc là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc thường là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức thường là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc vô thường là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức vô thường là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm sắc là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là hữu tướng hay vô tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay bất tịch tịnh, là viễn ly hay bất viễn ly, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, sanh hay diệt…là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm thọ, tưởng, hành, thức là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, là tịnh hay bất tịnh, là không hay bất không, là hữu tướng hay vô tướng, là hữu nguyện hay vô nguyện, là tịch tịnh hay bất tịch tịnh, là viễn ly hay bất viễn ly, là tạp nhiễm hay thanh tịnh, sanh hay diệt… là Bồ Tát phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Khái niệm mười hai xứ, mười tám giới… cho đến mười hai duyên khởi là vui hay khổ, là ngã hay vô ngã, sanh hay diệt v.v… có phải là Bồ Tát không?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Lúc bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

- Ngươi xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Khái niệm về sắc không phải là Bồ Tát? Lại xem xét nghĩa nào mà nói như vầy: Khái niệm về sắc hoặc thường, hoặc vô thường, hoặc vui, hoặc khổ, hoặc ngã, hoặc vô ngã, hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, hoặc không, hoặc bất không, hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng, hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh, hoặc viễn ly, hoặc bất viễn ly, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc sanh, hoặc diệt cũng không phải là Bồ Tát?

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sắc rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khái niệm về sắc, các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về sắc là Bồ Tát?

Bạch Thế Tôn! Thường của sắc rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô thường của sắc. Thường, vô thường của sắc rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về thường, vô thường của sắc. Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về thường, vô thường của sắc là Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Lạc của sắc rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có khổ của sắc, khổ của sắc rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về khổ của sắc. Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về lạc, khổ của sắc là Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Ngã, tịnh v.v… của sắc thảy pháp rốt ráo còn bất khả đắc, vì tánh chẳng có, huống là có vô ngã, bất tịnh v.v… của sắc thảy pháp, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh v.v… của sắc rốt ráo còn bất khả đắc, huống là có khái niệm về ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh v.v… của sắc. Khái niệm về các pháp này đã không có, sao có thể nói khái niệm về ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh v.v… của sắc là đại Bồ Tát.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Này Thiện Hiện! Các sắc thảy và thường, vô thường v.v... bất khả đắc nên khái niệm về sắc thảy và khái niệm về thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc. Vì pháp và khái niệm đều bất khả đắc, nên các đại Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ Tát bất khả đắc, nên tu hành Bát Nhã cũng bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Trước ngươi đã nói: “Con hoàn toàn không thấy có một pháp nào có thể gọi là Bồ Tát”. Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Các pháp không thấy các pháp. Các pháp không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy các pháp. Pháp giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy thọ, tưởng, hành, thức giới; thọ, tưởng, hành, thức giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy mười hai xứ, mười tám giới; mười hai xứ, mười tám giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy vô minh; vô minh không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; hành cho đến lão tử không thấy pháp giới. Giới hữu vi không thấy giới vô vi; giới vô vi không thấy giới hữu vi.

Này Thiện Hiện! Chẳng phải lìa hữu vi mà lập vô vi, chẳng phải lìa vô vi mà lập hữu vi.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy nên tâm không kinh (khiếp), không hãi, không e ngại, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bồ Tát này khi tu hành Bát Nhã thâm sâu như vậy, không thấy sắc, không thấy thọ, tưởng, hành, thức; không thấy mười hai xứ, mười tám giới; không thấy vô minh, không thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; không thấy tham dục, không thấy sân giận, ngu si; không thấy ngã, không thấy hữu tình, mạng giả, sĩ phu, nho đồng cho đến người biết, người thấy; không thấy Dục giới, không thấy Sắc, Vô sắc giới; không thấy Thanh văn và pháp Thanh văn, không thấy Độc giác và pháp Độc giác; không thấy Bồ Tát và pháp Bồ Tát; không thấy chư Phật và pháp chư Phật; không thấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối với tất cả pháp đều không thấy. Vì không thấy, nên tâm không kinh, không hãi, không e ngại. Đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Lại do nhân duyên nào, các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn?

Phật bảo:

Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả tâm, tâm sở đều không được, không thấy. Do đó, đối với tất cả pháp, tâm không chìm đắm, cũng chẳng lo buồn, ăn năn.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, do nguyên nhân nào mà đối với tất cả pháp, tâm không kinh, không hãi, không e ngại?

Phật bảo:

Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả ý và ý giới đều không được, không thấy. Như vậy, này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp, tâm không kinh, không hãi, không e ngại.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên hành Bát Nhã như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả chỗ và tất cả thời, đều không thấy đắc Bát Nhã, không thấy đắc danh Bát Nhã, không thấy đắc Bồ Tát, không thấy đắc danh Bồ Tát, cũng không thấy đắc Bồ đề tâm.

Này Thiện Hiện! Nên dạy bảo truyền trao cho các Bồ Tát, làm cho họ được thành tựu Bát nhã Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

Xin đọc thích nghĩa ở phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền”, quyển 11 đến đầu quyển 36, Hội thứ I, ĐBN.

(1). Sắc thảy pháp: Nguyên văn chữ Hán là “ sắc đẳng pháp”.

 

Sơ giải:

 

Xin đọc lại phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” quyển 11 đến đầu quyển 36, Hội thứ I, ĐBN. Ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt các giáo pháp chính của phẩm này để quý vị nắm vững phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” của cả hai Hội mà thôi:

 

1. Các pháp chỉ là danh giả, pháp giả:

 

Hoặc đại Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, cả hai tên này đều là giả pháp; giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Để giải thích điểm này chúng tôi đưa ra thí dụ về “cháy rừng”. Rừng không thể tự nhiên phát cháy. Lửa không phải tự trong cây mà có, lửa không ở ngoài cây. Vậy lửa ở đâu ra? Khi có một luồng điện âm và luồng điện dương chạm nhau, thì có tia lửa xẹt ra. Sấm chớp là do hai luồng điện âm dương chạm nhau, phát ra lửa. Lửa bắt vào cây gây ra cháy rừng. Rừng không tự nhiên phát cháy. Cây cũng không phát ra lửa, sấm chớp cũng không làm cháy nếu không có cây. Vậy, ngoài cây, ngoài sấm chớp cũng không có lửa. Cháy rừng nguyên nhân là do sấm chớp, do cây, do có dưỡng khí (oxygen)… hợp lại mà có cháy. Do công năng thiêu đốt và vật dẫn cháy mà có lửa. Do đó, có thể nói danh tự lửa không có trong rừng, không ngoài rừng, không có trong sắm hay ngoài sấm, cũng không ở giữa hai, phải có sự phối hợp của tất cả các yếu tố mới có lửa. Tất cả đều giả danh, tất cả đều do duyên hội. Nên Kinh nói: “Hết thảy các pháp thế gian cũng đều là giả danh. Bồ Tát dẫn đến Bát nhã Ba la mật cũng đều là giả danh. Tất cả đều do duyên hòa hợp mà có, nhưng vốn đều là bất sanh, bất diệt, là không, là bất khả đắc”.

 Cái gì do duyên sanh, không do hòa hợp, không thể tự sanh (như thí dụ lửa trời, sấm sét) nên nói là bất sanh hay vô sanh. Còn nói lửa diệt, từ nguyên thỉ đã có lửa, nếu nói lửa diệt tại sao đến bây giờ cho đến khi thế giới bị tiêu diệt vẫn có lửa. Đã là bất sanh tức bất diệt. Còn tại sao nói là không, bất khả đắc? Bởi vì, “lửa trời” là duyên hợp, giả có chỉ là tên gọi nên nói là không, không có tự thể hay nắm bắt được, nên nói là không, bất khả đắc.

Như vậy, tất cả chỉ là giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa hai nên gọi là không, bất khả đắc. Cũng như vậy, hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc tất cả pháp, tất cả như thế đều là giả danh; giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa hai, bất khả đắc. Nên, Kinh bảo tất cả pháp đều không có tự tánh. Kinh nói nếu tất cả pháp không có tự tánh thì đều lấy vô tánh làm tự tánh. Nhưng chẳng có gì là tự tánh trong chúng cả, nên nói là không. Nên Phật bảo:

“Này Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp đều bất khả đắc nên các Bồ Tát cũng bất khả đắc. Vì các Bồ Tát bất khả đắc nên việc tu hành Bát Nhã cũng bất khả đắc”.

Các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã hiểu biết như thật danh giả, pháp giả đều bất khả đắc nên không phân biệt, nếu không phân biệt thì không chấp. Do đó, phẩm thứ bảy “Tam Giả”, tập 3, quyển 41, Đại Trí Độ Luận, nói rằng: “… ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát đều chẳng có tác ý phân biệt. Bồ Tát trú trong pháp bất hoại, hành 6 pháp Ba la mật, nhẫn đến hành 18 bất cộng pháp.

Do được thật trí huệ, nên ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào nhất định gọi là Bát nhã Ba la mật cả, chẳng thấy có danh tự Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát. Bồ Tát dùng trí huệ ấy, phá được vô minh và các phiền não.

Lại nữa, cũng do được thật trí huệ, mà Bồ Tát được vô sở kiến, chẳng thấy hết thảy các pháp, nên phá được các chấp về Bát nhã Ba la mật, về danh tự Bát nhã Ba la mật, vào được nơi thật tướng các pháp, được tâm thanh tịnh, vô ngại.

Bồ Tát được trí huệ như vậy, nên dù thấy, dù nghe, dù niệm các pháp, vẫn thấy các pháp đều là như huyễn, như hóa. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ thấy, nghe, niệm cũng đều là hư vọng, nên chẳng có chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc... mà thường trú trong vô ngại trí, tăng ích 6 Ba la mật, vào Bồ Tát vị, được hết thảy các lợi ích”.

 

2. Pháp không thấy pháp:

 

Chỉ có con người thường tục mới thấy pháp nọ pháp kia, còn pháp chẳng thấy pháp. Phật bảo:“Các pháp không thấy các pháp. Các pháp không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy các pháp. Pháp giới không thấy pháp giới. Pháp giới không thấy sắc giới; sắc giới không thấy pháp giới v.v…”

Nếu đối với tất cả pháp không thấy không chấp thì các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên Phật bảo:.

Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã như vậy, đối với tất cả chỗ và tất cả thời, đều không thấy đắc Bát Nhã, không thấy đắc danh Bát Nhã, không thấy đắc Bồ Tát, không thấy đắc danh Bồ Tát, cũng không thấy đắc Bồ đề tâm”.

Vì không thấy, không phân biệt, nên không chấp. Do công năng vô chấp nên không bị quái ngại, mới thấy thật tướng các pháp mà vào được Niết bàn thường lạc ngã tịnh.

Nói tóm lại, có nhiều cách để giải thích phẩm này:

1. Cách giải thích chính không những cho phẩm này mà cho toàn thể Kinh ĐBN là nói về tất cả pháp đều không: Nhân không và pháp không. Pháp không có thật thể, không có tự tánh, duyên hợp giả có nên nói là không. Còn Nhân không là không thấy ngã. Do quán biết như vậy, nên nói tất cả pháp không thật có. Nhưng các pháp vẫn hiện hữu giữa lòng căn tánh của vạn hữu mà bảo là không như sông núi nhà cửa, xe cộ… nên không có ai có thể tin nhận ngay được. Vì vậy, nói các pháp không thật chỉ giả thi thiết.

2. Do thi thiết như thế, nên có: Giả danh, thọ giả, và pháp giả. Đó là tam giả. Giả tức là không thật. Nên nói chúng sanh không, Bồ Tát không, Phật cũng không, tất cả pháp hữu vi vô vi cũng đều không… Do tri nhận như vậy mà không còn phân biệt chấp đắm thủ giữ các pháp nữa.

3. Do không phân biệt, vô chấp nên chẳng còn sợ hãi, mộng tưởng điên đảo nữa mới có thể chứng Niết bàn. Đó cũng là pháp mà Bồ Tát Quán Âm dạy Xá Lợi Phất trong Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa.

 

Để giải thích phẩm “Tam Giả” của Hội thứ II, ĐBN, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ thứ 7, “Tam Giả”(3 Thứ Giả Lập), tập 3, quyển 41, luận rằng:

“Bồ Tát thật hành Bát nhã Ba la mật, quán các pháp danh tự là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải chẳng thường, chẳng phải chẳng vô thường; dẫn đến hữu vi tánh và vô vi tánh đều chẳng thấy có danh tự Bồ Tát.

Như trước đây đã nói, ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát đều chẳng có tác ý phân biệt. Bồ Tát trú trong pháp bất hoại, hành 6 pháp Ba la mật... dẫn đến hành mười tám bất cộng pháp.

Do được thật trí huệ, nên ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào nhất định gọi là Bát nhã Ba la mật cả, chẳng thấy có danh tự Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát. Bồ Tát dùng trí huệ ấy, phá được vô minh và các phiền não.

Lại nữa, cũng do được thật trí huệ, mà Bồ Tát được vô sở kiến, chẳng thấy hết thảy các pháp, nên phá được các chấp về Bát nhã Ba la mật, về danh tự Bát nhã Ba la mật, vào được nơi thật tướng các pháp, được tâm thanh tịnh, được vô ngại.

Bồ Tát được trí huệ như vậy, nên dù thấy, dù nghe, dù niệm các pháp, vẫn thấy các pháp đều là như huyễn, như hóa. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ sự thấy, sự nghe, sự niệm cũng đều là hư vọng, nên chẳng có chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc,... mà thường trú trong vô ngại trí, tăng ích sáu Ba la mật, vào Bồ Tát vị, được hết thảy các lợi ích.

 

--o0o--

 

Trong phẩm này, Phật dạy về pháp quán Bồ Tát, Bồ Tát danh, Bồ Tát nghĩa đều là bất khả đắc.

Ở các phẩm sau, phần nhiều nói về quán “không”.

 

--o0o--

 

Phật hỏi ngài Tu Bồ Đề sắc có phải là Bồ Tát chăng? Thọ, tưởng, hành, thức có phải là Bồ Tát chăng? Dẫn đến có một pháp nào nhất định gọi là Bồ Tát chăng?

Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng Bồ Tát do duyên hòa hợp mà có, thì chẳng có pháp nào nhất định gọi là Bồ Tát cả. Nghĩ như vậy, nên ngài thưa rằng: Chẳng phải vậy.

Vì ngài Tu Bồ Đề là người đã chứng được “chúng sanh không” nên Phật mới tán thán: Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói, chúng sanh bất khả đắc, Bồ Tát bất khả đắc, nên Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Ông phải như vậy mà tu học Bát nhã Ba la mật.

 

--o0o--

 

Phật lại hỏi ngài Tu Bồ Đề: Sắc có phải là Bồ Tát nghĩa chăng? Dẫn đến sắc không, sắc vô tướng, sắc vô tánh có phải là Bồ Tát nghĩa chăng? Dẫn đến có một pháp nào nhất định gọi là Bồ Tát nghĩa chăng?

Vì ngài Tu Bồ Đề đã vào được pháp “không” chẳng còn tâm nghi, nên Ngài thưa rằng: Chẳng phải vậy.

Bởi vậy nên Phật lại tán thán: Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói, Bồ Tát thật hành Bát nhã Ba la mật biết rõ nghĩa của sắc là bất khả đắc, dẫn đến nghĩa của hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, nên Bồ Tát nghĩa, dẫn đến Bát nhã Ba la mật nghĩa cũng đều bất khả đắc cả. Ông phải như vậy mà tu học Bát nhã Ba la mật.

 

--o0o--

 

Ngài Tu Bồ Đề lại bạch Phật: Con chẳng thấy có pháp nào gọi là Bồ Tát, chẳng có pháp nào gọi là Bồ Tát nghĩa cả.

Phật dạy: Chẳng phải riêng Bồ Tát là chẳng thể được (Bất khả đắc), chẳng thể thấy (Bất khả kiến), mà ở nơi hết thảy pháp cũng chẳng có pháp nào thấy pháp nào cả. Vì sao? Vì pháp tánh là vô lượng, là chẳng thể được, chẳng thể thấy vậy. Các pháp chẳng thể thấy pháp tánh, mà pháp tánh cũng chẳng thể thấy các pháp. Vì sao? Vì các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, chẳng có tự tánh, nên các pháp chẳng thấy pháp tánh, và pháp tánh cũng chẳng thấy các pháp vậy.

Tánh của năm ấm, của mười hai nhập, mười tám giới... dẫn đến tánh của pháp hữu vi, của pháp vô vi cùng với pháp tánh là chẳng phải hai, chẳng phải khác.

 

--o0o--

 

Như vậy là lược nói về các nhân duyên “Ly hữu vi tánh chẳng có vô vi tánh, và ly vô vi tánh chẳng có hữu vi tánh”. Vì sao? Vì hai pháp hữu vi và vô vi nhiếp hết thảy các pháp.

Do Bồ Tát chẳng chấp hết thảy các pháp, nên chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ. Nếu còn có chỗ thấy, chỗ không thấy là còn kinh, còn hãi, còn sợ. Bồ Tát chẳng chấp hết thảy pháp, nên chẳng còn có chỗ thấy, chẳng còn chỗ sợ, tức là vào được vô sở kiến, vô sở úy vậy.

Hỏi: Trước đã nói về các nhân duyên Bồ Tát chẳng kinh, chẳng hãi, chẳng sợ rồi. Nay vì sao ngài Tu Bồ Đề còn hỏi nữa?

Đáp: Ngài Tu Bồ Đề nói các pháp đều là “không”, là vô sở hữu. Nhưng ngài vẫn còn sợ có người khỏi tâm nghi, khiến phải bị đọa về tà kiến, nên Ngài mới hỏi Phật. Ngài muốn được Phật giải rộng, để người hành đạo được sanh chánh kiến.

Hỏi: Vì sao nói hết thảy các pháp đều chẳng thể thấy được?

Đáp: Do biết rõ tâm niệm của ngài Tu Bồ Đề, nên Phật dạy: Hết thảy các tâm và tâm sở đều chẳng thể được (bất khả đắc), chẳng thể thấy (bất khả kiến). Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng có kinh, chẳng có hãi, chẳng có sợ.

Người mới tu “pháp không” thấy các tâm và tâm sở là có thể được (khả đắc), còn các ngoại pháp là chẳng thể được (bất khả đắc), nên mới sanh sợ hãi. Trái lại, Bồ Tát đã thấy rõ các tâm và tâm sở đều là hư vọng, chẳng thật có đều do quả báo điên đảo mà giả có vậy thôi, nên chẳng còn sanh tâm sợ hãi.

Vì chưa khai thị cho phàm phu rõ về thật tướng pháp, lại vì biết rõ phàm phu chấp nghĩa của các pháp có sai khác nhau, nên ngài Tu Bồ Đề mới phải hỏi như trên đây.

Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề phải hỏi đến ba lần?

Đáp: Các tâm và tâm sở đều ở nơi ý thức. Phải nương nơi ý căn mới thấy được ý thức, và mới thấy dược toàn thể các tâm và tâm sở pháp. Vì sao? Vì có ý thức, mới khởi phân biệt. Do có khởi phân biệt, nên mới sanh sợ hãi. Ví như khi năm căn duyên năm trần, thì ở vào khoảnh khắc thời gian ngắn ngủi đó chưa có sự phân biệt. Khi có ý thức xen vào, thì mới có phân biệt, dẫn đến có sanh sợ hãi. Bởi vậy nên, muốn phá sự sợ hãi đến tận cùng gốc rễ, thì phải đình chỉ mọi sự phân biệt nơi ý thức. Đây chính là lý do khiến ngài Tu Bồ Đề phải hỏi Phật lần thứ ba.

Bồ Tát thật hành Bát nhã Ba la mật như vậy, nên chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát, chẳng thấy có Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy có danh tự Bát nhã Ba la mật nữa. Do biết rõ như vậy, nên Bồ Tát chẳng sanh sợ hãi. Đây cũng chính là nhằm giáo hóa Bồ Tát tu tập về Bát nhã Ba la mật tướng vậy.

Nếu biết rõ Bồ Tát tướng, Bát nhã Ba la mật tướng đã thật hành Bát nhã Ba la mật rồi. Nếu biết Bát nhã Ba la mật chẳng phải do cầu khắp mười  phương mà có được, cũng chẳng phải do ai mà có được, cũng chẳng phải như các vật báu mà phải dùng sức để chiếm đoạt được vậy.

Bao nhiêu lời giảng luận như vậy là quá rõ đối với phẩm này. Chịu khó chậm rãi suy nghĩ thì sẽ hiểu.

 

---o0o---

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com