Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Phẩm “Giáp Bị Đại Thừa” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

26/05/202009:25(Xem: 9740)
14. Phẩm “Giáp Bị Đại Thừa” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
 

 Buddha-318

PHẨM “ GIÁP BỊ ĐẠI THỪA”(1)

Phần sau quyển 49 đến phần đầu quyển 51, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Trang nghiêm” quyển thứ 05, MHBNBLM).

Biên Soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước




 

 

 

 

Gợi ý:

Nguyên văn chữ Hán, Kinh ĐBN là: Thế Tôn . như thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát . hoàn Đại Thừa khải giả . vân danh vi . Bồ Tát Ma Ha Tát . hoàn Đại Thừa khải”.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát là người mặc giáp bị Đại thừa, thế nào gọi là đại Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa?”  Câu hỏi này có thể dịch như sau: “Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát là người có đại thệ nguyện trang nghiêm, vậy thế nào là đại thệ nguyện trang nghiêm của Bồ Tát?” Hai câu này có ý nghĩa như nhau, chỉ khác một đàng dùng cụm từ “người mặc giáp bị Đại thừa” và đàng khác là “đại thệ nguyện trang nghiêm”.

Chúng tôi cho lối dịch sau dễ hiểu, nên trong toàn phẩm này, cụm từ “mặc giáp bị Đại thừa” được dịch là “đại thệ nguyện trang nghiêm” như Kinh MHBNBLMĐ, do HT Thích Trí Tịnh đã dịch.

 

 Tóm lược:

 

(1. Thế nào là đại thệ nguyện trang nghiêm an trụ

sáu Ba la mật và tất cả pháp Phật?)

 

Phật dạy: Nếu đại Bồ Tát phát nguyện một cách nghiêm chỉnh vì tất cả hữu tình mà thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, thì này Thiện Hiện, như vậy gọi là Bồ Tát đại thệ nguyện trang nghiêm.

Nếu đại Bồ Tát, tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp không, ngũ nhãn, lục thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí (tức tất cả pháp Phật), thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, có đại thệ nguyện công đức như vậy, phóng đại quang minh(hào quang) chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, cũng khiến ba trong sáu cõi(2) biến động, trong đó, những khổ cụ ở địa ngục như dù xôi, lửa bỏng... cùng với sự thống khổ thân tâm của các hữu tình ấy, đều được diệt trừ. Bồ Tát biết họ đã lìa được các khổ, liền vì họ mà xưng tán công đức Tam bảo, họ được nghe rồi, thân tâm an lạc; từ đó chết đi, sanh vào cõi trời, người, liền được phụng sự, hầu hạ chư Phật, Bồ Tát, thân thường cúng dường, nhận lãnh Chánh pháp. Như vậy, gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hay đệ tử của y, ở ngã tư đường, trước đám đông, biến thành vô lượng hữu tình thọ các thứ khổ trong địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng lại phóng quang, làm đại địa biến động, khiến cho các cái khổ của hữu tình kia đều dứt, lại vì họ mà xưng tán Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, khiến họ nghe rồi thân tâm an lạc, từ đây chết đi, sanh vào cõi trời, người, thừa sự(3), cúng dường chư Phật, Bồ Tát, ở chỗ chư Phật, nhận lãnh Chánh pháp. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đại thệ nguyện trang nghiêm như vậy, phóng đại quang minh, làm biến động đại địa, cứu giúp nỗi thống khổ của hữu tình nơi ba đường ác trong vô lượng thế giới, khiến sanh vào cõi trời, người, thấy Phật, nghe Pháp, cũng lại như vậy, tuy có làm, nhưng không có thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, an trú bố thí Ba la mật, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới thành ngọc Phệ lưu ly, tự thân cũng hóa làm Chuyển luân vương, có bảy báu, quyến thuộc, trước sau vây quanh, trong đó hữu tình cần ăn thì cho ăn, cần uống thì cho uống, cần y phục cho y phục, cần xe cho xe; phòng xá, ngọa cụ, đèn đuốc, thuốc men, vàng, bạc, chơn châu, san hô, bích ngọc và các thứ dụng cụ khác theo nhu cầu, mà cho tất cả. Làm việc bố thí như vậy rồi, lại vì họ mà nói pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, khiến họ nghe rồi, cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, đối với pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, thường chẳng xa lìa, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y, ở trước đại chúng, nơi ngã tư đường, biến hóa thành các loại hữu tình nghèo khổ, cô độc, tật nguyền, bệnh hoạn; tùy theo nhu cầu của họ, đều biến hóa ra mà cho. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát an trú bố thí Ba la mật, hoặc biến thế giới thành như ngọc Phệ lưu ly, hoặc tự thân hóa làm Chuyển Luân vương v.v... tùy theo nhu cầu của loài hữu tình mà cho và vì họ mà tuyên nói pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không thật có. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, tự an trú tịnh giới Ba la mật, vì muốn lợi lạc các hữu tình, sanh vào nhà Chuyển luân vương, nối ngôi Chuyển luân vương, an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở trong mười thiện nghiệp đạo; hoặc lại an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở tứ thiền tứ định, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, khiến an trụ rồi, cho đến chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, đối với pháp như vậy, thường chẳng xa lìa, thì này Thiện Hiện, như vậy, gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến ra vô lượng hữu tình, khiến an trú trong mười thiện nghiệp đạo; hoặc lại khiến an trú ở trong tất cả pháp Phật. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì hữu tình, sanh vào nhà Chuyển luân vương, nối ngôi Chuyển luân vương, an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở mười thiện nghiệp đạo; hoặc lại an lập vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình ở trong tất cả pháp Phật, cũng lại như vậy; tuy có làm nhưng không thật có. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự an trú an nhẫn Ba la mật, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú an nhẫn. Nếu đại Bồ Tát, từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc Nhất thiết trí trí, phát nguyện an nhẫn, thường tự nghĩ: Giả sử tất cả hữu tình cầm dao, gậy, đất, đá v.v... đến làm hại, ta hoàn toàn chẳng khởi lên một niệm tức giận và khuyên các hữu tình cũng nhẫn và đối với nhẫn như vậy, thường chẳng xa lìa cho đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao thì này Thiện Hiện, như vậy gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các loại hữu tình, đều cầm dao, gậy, đất, đá v.v... làm hại nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y. Khi ấy, nhà ảo thuật… đối với các hữu tình được biến hóa ra đó, đều chẳng khởi tâm báo oán, mà khuyên những hữu tình ấy an trú an nhẫn như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ tự an trú an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú an nhẫn, thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tự an trú tinh tấn Ba la mật, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú tinh tấn. Nếu đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, thân tâm tinh tấn, đoạn các pháp ác, tu các pháp thiện, cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, tu tập như vậy, thân tâm tinh tấn… cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, đối với sự tinh tấn như vậy, thường chẳng xa lìa, thì này Thiện Hiện, như vậy gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các loại hữu tình, và nhà ảo thuật đó tự thể hiện hăng hái, thân tâm tinh tấn, cũng khuyên hữu tình được biến hóa ra, tu tinh tấn hăng hái như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, thân tâm tinh tấn, đoạn các pháp ác, tu các pháp thiện, cũng khuyên hữu tình tu tập như vậy, thân tâm tinh tấn, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, tự an trú tịnh lự Ba la mật, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú tịnh lự. Nếu đại Bồ Tát, đối với tất cả pháp, an trú định bình đẳng, chẳng thấy các pháp có định, có loạn, mà thường tu tập tịnh lự như vậy, thì cũng khuyên vô số trăm ngàn hữu tình tu tập tịnh lự bình đẳng như vậy, cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, đối với định như vậy, thường chẳng xa lìa. Này Thiện Hiện! Như vậy gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các loại hữu tình, nhưng nhà ảo thuật kia đối với pháp, tự hiện, an trú định bình đẳng, cũng khuyên các hữu tình được biến hóa ra, tu tịnh lự bình đẳng như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp, an trú định bình đẳng, cũng khuyên hữu tình tu tập tịnh lự bình đẳng như vậy, thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát, tự an trú Bát nhã Ba la mật, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, khiến an trú Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát, tự an trú Bát Nhã vô hý luận, chẳng thấy các pháp có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh và chẳng thấy có sự sai biệt giữa bờ bên này và bờ bên kia, thì cũng khuyên vô lượng, vô số trăm ngàn hữu tình, an trú tuệ vô hý luận như vậy, cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, đối với tuệ như vậy, thường chẳng xa lìa. Như vậy gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các loại hữu tình, và nhà ảo thuật đó tự hiện an trú tuệ vô hý luận, cũng khuyên các hữu tình được biến hóa ra ấy, khiến họ tu tập Bát Nhã như vậy. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát tự an trú Bát Nhã vô hý luận, cũng khuyên hữu tình tu tập tuệ vô hý luận như vậy, thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đại thệ nguyện công đức như trên đã nói, ở khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương, dùng sức thần thông, tự biến thân mình, cùng khắp thế giới chư Phật như vậy, tùy theo sự ưa thích của hữu tình mà thị hiện, tự an trú bố thí Ba la mật, khuyên kẻ xan tham khiến an trú bố thí; tự an trú tịnh giới Ba la mật, khuyên kẻ phạm giới khiến an trú tịnh giới; tự an trú an nhẫn Ba la mật, khuyên kẻ bạo ác khiến an trú an nhẫn; tự an trú tinh tấn Ba la mật, khuyên kẻ giải đãi khiến an trú tinh tấn; tự an trú tịnh lự Ba la mật, khuyên kẻ loạn tâm khiến an trú tịnh lự; tự an trú Bát nhã Ba la mật, khuyên kẻ ngu si, khiến an trú diệu tuệ, thì đại Bồ Tát như vậy, đã an lập hữu tình ở sáu pháp Ba la mật rồi, lại tùy theo tiếng nói, của mỗi loại mà nói pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, khiến họ nghe rồi, cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, đối với pháp tương ưng sáu pháp Ba la mật, thường chẳng xa lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm. (Q.49, ĐBN)

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, nơi ngã tư đường, biến hóa ra đủ các loại hữu tình, và nhà ảo thuật ấy, tự hiện an trú sáu pháp Ba la mật, cũng khuyên những hữu tình được biến ra, khiến họ an trụ. Thiện Hiện! Theo ý ông việc biến hóa như vậy là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ở khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương, tự hiện thân mình, tùy theo loài mà an trú sáu pháp Ba la mật, cũng khuyên hữu tình, khiến họ an trú… cho đến chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thường chẳng xa lìa, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có một cái nào thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát có đại thệ nguyện các công đức như trên đã nói, lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, lợi ích an lạc tất cả hữu tình, chẳng xen lẫn tác ý Thanh văn, Độc giác, chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập nhóm hữu tình này ở sáu pháp Ba la mật, còn nhóm hữu tình kia thì chẳng thể an lập được! Chẳng nghĩ thế này: Ta sẽ an lập nhóm hữu tình này ở tất cả pháp môn Phật học, còn nhóm hữu tình kia, sẽ không an lập; đại Bồ Tát chỉ nên nghĩ: Ta sẽ an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở tất cả pháp môn Phật học. Như vậy, đại Bồ Tát không có tâm so đo chấp trước, nên được gọi là đại Bồ Tát Đại thừa đại thệ nguyện trang nghiêm.

Thiện Hiện! Như nhà ảo thuật, hoặc đệ tử của y, ở trước đám đông, tại ngã tư đường, biến hóa ra vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, an lập ở sáu pháp Ba la mật… cho đến an lập tất cả pháp môn Phật học. Thiện Hiện! Theo ý ông việcbiến hóa như vậy là có thật hay chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lấy tâm tương ưng Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc làm phương tiện, an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở sáu phép Ba la mật, cho đến an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình ở tất cả pháp môn Phật học, cũng lại như vậy, tuy có làm nhưng không có một cái nào là thật. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của các pháp là không, đều như huyễn. (Q.49, ĐBN)

 

(2. Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là

đại trang nghiêm): 

 

(Đoạn kinh sau đây của phẩm “Trang Nghiêm”, quyển thứ 05, Kinh MHBNBLMĐ, tương đối ngắn gọn, dễ hiểu nên được chúng tôi trích dẫn  để thay thế cho đoạn Kinh tương đương của ĐBN).

“Tu Bồ Đề bạch Phật:

Bạch đức Thế Tôn! Theo ý nghĩa mà con được nghe từ đức Phật dạy, thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm. Vì các pháp tự tánh rỗng không vậy.

Nghĩa là sắc tự tướng rỗng không nhẫn đến thức tự tướng rỗng không, nhãn tự tướng rỗng không nhẫn đến ý tự tướng rỗng không, sắc tự tướng rỗng không nhẫn đến pháp tự tướng rỗng không, nhãn thức tự tướng rỗng không nhẫn đến ý thức tự tướng rỗng không, nhãn xúc tự tướng rỗng không nhẫn đến ý xúc tự tướng rỗng không, nhãn xúc làm nhân duyên, sanh thọ tự tướng rỗng không nhẫn đến ý xúc, nhơn duyên, sanh thọ tự tướng rỗng không, Đàn na Ba la mật đến Bát nhã Ba la mật tự tướng rỗng không, nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không tự tướng rỗng không, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng tự tướng rỗng không, Bồ Tát tự tướng rỗng không.

Do duyên cớ trên đây mà biết rằng đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm(4).

Đức Phật nói: “Phải lắm, đúng như lời ông nói. Nầy Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp. Đại Bồ Tát vì chúng sanh nầy mà đại trang nghiêm. Tại sao vậy? Vì tác giả bất khả đắc vậy.

Nầy Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là pháp làm ra, sanh ra (tạo tác), chúng sanh nầy cũng chẳng phải pháp làm ra, sanh ra. Tại sao vậy? Vì sắc chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra; ngã nhơn nhẫn đến tri giả, kiến giả chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra. Tại sao vậy? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy.

Nầy Tu Bồ Đề! Mộng nhẫn đến biến hóa chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Nầy Tu Bồ Đề! Nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Nầy Tu Bồ Đề! Pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Bồ Tát chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc vậy.

Nầy Tu Bồ Đề! Do duyên cớ nầy nên Nhất thiết trí chẳng phải pháp làm ra, sanh ra, chúng sanh này cũng chẳng phải pháp làm ra sanh ra. Đại Bồ Tát vì chúng sanh này mà đại trang nghiêm”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Như con quán sát nghĩa của đức Phật nói thời sắc không phược không thoát(5), thọ, tưởng, hành, thức không phược, không thoát”.

Ngài Phú Lâu Na hỏi Ngài Tu Bồ Đề: “Những sắc gì không phược, không thoát, những thọ, tưởng, hành, thức gì không phược, không thoát?”

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Sắc như mộng và thọ, tưởng, hành, thức như mộng không phược, không thoát. Sắc như ảnh, như hưởng, như ảo, như diệm, như hóa và thọ, tưởng, hành, thức như ảnh, như hưởng, như ảo, như diệm, như hóa không phược, không thoát.

Này Ngài Phú Lâu Na! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, không phược, không thoát. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức vị lai không phược, không thoát. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện tại, không phược, không thoát.

Tại sao không phược, không thoát?

Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây là vô sở hữu nên không phược, không thoát.

Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức đây là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.

Này Ngài Phú Lâu Na! Thiện và bất thiện cùng vô ký, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phược, không thoát.

Thế gian, xuất thế gian và hữu lậu cùng vô lậu, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không phược, không thoát.

Tại sao vậy? Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.

Tất cả pháp cũng không phược, không thoát. Tại sao vậy? Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.

Này Ngài Phú Lâu Na! Đàn na ba la mật đến Bát nhã Ba la mật không phược, không thoát. Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.

Này Ngài Phú Lâu Na! Nội không đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, Bồ Tát và Phật cũng đều không phược, không thoát.

Này Ngài Phú Lâu Na! Pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế, vô vi pháp cũng đều không phược, không thoát. Vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là vô sanh nên không phược, không thoát.

Này Ngài Phú Lâu Na! Đây gọi là đại Bồ Tát Đàn na Ba la mật đến Bát nhã Ba la mật không phược, không thoát, tứ niệm xứ đến Nhất thiết chủng trí không phược, không thoát.

Đại Bồ Tát an trụ trong sáu Ba la mật không phược, không thoát, nhẫn đến an trụ Nhất thiết chủng trí không phược, không thoát để thực hiện không phược không thoát, thành tựu chúng sanh, không phược không thoát, thanh tịnh Phật độ không phược không thoát, cúng dường chư Phật, không phược không thoát, nghe chánh pháp, không phược không thoát; trọn chẳng rời chư Phật, không phược không thoát; trọn chẳng rời các thần thông, không phược không thoát; trọn chẳng rời ngũ nhãn, không phược không thoát; trọn chẳng rời các môn Đà la ni, không phược không thoát; trọn chẳng rời các môn tam muội, không phược không thoát; sẽ sanh Đạo chủng trí, không phược không thoát; sẽ được Nhất thiết chủng trí, không phược không thoát; chuyển pháp luân, không phược không thoát; an lập chúng sanh nơi Tam thừa.

Này Ngài Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát thực hành không phược không thoát sáu Ba la mật, phải biết tất cả pháp đều không phược không thoát, vì là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.

Đây gọi là đại Bồ Tát không phược không thoát đại trang nghiêm”.

 

Lưu ý:

Kinh ĐBN thường gọi cụ thọ Thiện Hiện, cụ thọ Xá Lợi Tử v.v...; trong khi Kinh MHBNBLMĐ hay Đại Trí Độ Luận gọi thẳng cả tên lẫn họ như Tu Bồ Đề, Xá Lợi Phất. Đó là lối xưng hô khác biệt giữa hai kinh. Vì tôn trọng người dịch nên chúng tôi giữ y nguyên văn khi trích dẫn, Vì vậy có thể làm độc giả ngỡ ngàng tại sao có lúc thì gọi là Thiện Hiện, có lúc thì gọi là Tu Bồ Đề!

 

Thích nghĩa:

(1). Mặc giáp bị Đại thừa: Kinh MHBNBLMĐ gọi là “đại thệ trang nghiêm” cũng gọi “hoằng thệ nguyện”: Thệ nguyện rộng lớn bao trùm khắp cả chúng sanh. Nguyện nghĩa của tiếng Phạm là mặc giáp lớn, tức là lập thệ nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh để thành tựu Vô thượng Bồ đề. Cụm từ đại thệ nguyện trang nghiêm diễn tả xác nghĩa và dễ hiểu hơn “mặc áo giáp lớn”. Để khỏi lầm lẫn nên chúng tôi lặp lại thích nghĩa của cụm từ này đã giải thích trong phẩm “Ma Ha Tát”.

(2). Ba trong sáu cõi(luân hồi): Ba cõi là địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; sáu cõi thêm ba cõi nữa là A tu la, Người, Trời.

(3). Thừa sự: Được giao phó nhiệm vụ.

(4). Nguyên văn bản chữ Hán của Kinh ĐBN là: Bồ Tát Ma Ha Tát .bất hoàn công đức khải .đương tri thị vi .hoàn Đại Thừa khải”.

“Đại Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, thì nên biết đó là mặc giáp bị Đại thừa”. Cách dịch trên của ĐBN không có gì sai trái. Tuy nhiên, câu này có vẽ khó hiểu nếu so với lối dịch của Kinh MHBNBLMĐ: “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”.

Đứng về phương diện chiết tự giải thích như thế. Nhưng đứng về nghĩa: “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”, luận Đại Trí Độ giải thích rằng:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Theo nghĩa mà con được nghe Phật nói thì chẳng trang nghiêm mới là đại trang nghiêm. Vì sao? Vì các pháp đều là tự tướng không.

Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Phật như vậy?

Đáp: Theo nghĩa Phật dạy thì “phát đại trang nghiêm” hàm súc ý nghĩa quá thậm thâm, khó biết khó giải, nên chúng sanh ở trong chúng hội khởi tâm nghi, khi nghe nói trang nghiêm là rốt ráo không. Họ dấy niệm nghĩ rằng việc dùng thần thông đi khắp mười phương thế giới là việc làm của chư Phật và chư Bồ Tát, họ chẳng làm sao có thể biết được.

Do biết rõ tâm niệm của chúng sanh trong chúng hội như vậy, nên ngài Tu Bồ Đề mới chỉ cho họ biết rằng nghĩa “đại trang nghiêm” chẳng phải quá thậm thâm, chẳng phải quá khó biết, khó giải. Ngài nói rằng vì “đại trang nghiêm” là tự tướng không, nên dễ thành, dễ được vậy.

Vì sao? Vì sắc,… dẫn đến thức chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát bất cộng pháp chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng chẳng có định tướng, nên đều là bất khả đắc cả.

Nếu có Bồ Tát biết rõ được các pháp đều là tự tướng không, đều là tịch diệt tướng mà chẳng sợ hãi, chẳng bỏ mất bản nguyện của mình, vẫn thường tinh tấn hành đạo, thì phải biết đó là vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm.

Vậy nên, phát đại thệ trang nghiêm chẳng phải là việc khó làm, khó được.

--o0o--

           

Phật ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề, và dạy rằng: Đúng như vậy, đúng như vậy. Vì Nhất thiết chủng trí chẳng phải là tác pháp (phi tác pháp), chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp, nên Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ trang nghiêm. Vì sao? Vì tác giả là bất khả đắc, nên Nhất thiết chủng trí cũng như chúng sanh đều chẳng phải là tác pháp. Hết thảy các pháp đều chẳng do ai làm ra (phi tác), và đều chẳng phải chẳng làm ra (phi bất tác), đều là như huyễn, như hóa, đều là bất khả đắc cả.

Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ nguyện trang nghiêm. Nhưng Bồ Tát không, chúng sanh không, Nhất thiết chủng trí cũng không phải tác pháp. Không có tác giả, không có thọ giả, không có tác pháp. Tất cả đều bất khả đắc. Biết như vậy, nên không chấp. Nên Bồ Tát vẫn thành thục chúng sanh, trang nghiêm thanh tịnh Phật độ. Chẳng có gì để trang nghiêm, nhưng vẫn tu Đại thừa vẫn trang nghiêm Phật độ, nên nói “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm mà là đại trang nghiêm”.

(5). Không phược không thoát: Phược: Trói buộc chỉ cho phiền não. Thoát: Tháo gỡ các trói buộc thì được giải thoát. Không phược không thoát hay không phược không giải như nhau.

 

Lược giải:

 

Tất cả pháp rốt ráo bất khả đắc, vì tự tánh tất cả pháp đều rỗng không giống như trò ảo thuật do ảo nhân hóa hiện, thấy có mà không thật có, nên công trình xây dựng quốc độ mười phương của đại Bồ Tát không được coi là đại trang nghiêm. Kinh MHBNBLMĐ nói:

1. Đại Bồ Tát hướng tâm đến Nhất thiết trí, nghĩ rằng tôi sẽ làm cho vô lượng vô biên vô số chúng sanh an trụ sáu Ba la mật. Tôi sẽ đặt tất cả chúng sanh nơi tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng. Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn đến Nhất thiết chủng trí. Nhưng thật không có chúng sanh an trụ sáu Ba la mật nhẫn đến được Nhất thiết chủng trí. Tại sao vậy? Vì pháp tướng như ảo vậy. Ví như nhà ảo thuật giỏi.

(…)Vì các pháp tự tánh rỗng không: Năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới tự tướng rỗng không. Đàn na ba la mật đến Bát nhã Ba la mật tự tướng rỗng không, nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, tự tướng rỗng không, tứ niệm xứ nhẫn đến mười tám pháp bất cộng tự tướng rỗng không, Bồ Tát tự tướng rỗng không.

2. Ngũ uẩn như mộng, mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp như mộng không phược, không thoát. Tất cả pháp như ảnh, như hưởng, như ảo, như diệm, như hóa không phược, không thoát.  Đại Bồ Tát thực hành không phược, không thoát tất cả pháp, nên phải biết tất cả pháp là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược, không thoát.

Do duyên cớ đó mà biết rằng đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm (Q.05, MHBNBLMĐ). 

Phải chăng Bát Nhã đưa ra một phản biện ngược đời: “Không trang nghiêm mới chính là trang nghiêm?” Thông thường người ta gọi đại Bồ Tát trang nghiêm, có nghĩa nói một cách nghiêm chỉnh rằng Bồ Tát hiện thân ở cõi này mục đích là làm cho cõi này mỗi ngày mỗi tươi đẹp hơn lên, mỗi ngày mỗi thanh tịnh, trong sáng hơn, vì muốn cõi nước này không còn phiền não, khốn khổ nữa. Nói khác, là Bồ Tát muốn tạo một mô hình hoàn hảo, đầy trang nghiêm mà tất cả các cõi nước khắp tam thiên hằng ngưỡng mộ. Bồ Tát mới an trụ trong Bát nhã Ba la mật, dạy chúng hữu tình thực hành lục Ba la mật, tứ niệm xứ, mười tám pháp bất cộng cho đến Nhất thiết trí để thành thục hữu tình và thanh tịnh quốc độ. Đây gọi là đại Bồ Tát đại trang nghiêm cõi Phật.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Theo con hiểu ý Phật nói thời đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm. Vì các pháp tự tánh rỗng không vậy”.

Đức Phật nói: “Phải lắm, đúng như lời ông nói. Nầy Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp. Đại Bồ Tát vì chúng sanh này mà đại trang nghiêm. Tại sao? Vì tác giả bất khả đắc vậy.

Này Tu Bồ Đề! Nhất thiết trí chẳng phải là pháp làm ra, sanh ra, chúng sanh này cũng chẳng phải pháp làm ra, sanh ra. Tại sao? Vì sắc chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải làm ra chẳng phải chẳng làm ra; ngã nhơn nhẫn đến tri giả, kiến giả chẳng phải làm ra, chẳng phải chẳng làm ra.

Tại sao? Vì các pháp rốt ráo bất khả đắc vậy”.

Đây không phải là một phản biện. Vì Bát nhã Ba la mật chứng nghiệm rằng: Các pháp tự tánh rỗng không, cho đến Nhất thiết trí cũng chẳng phải là tác pháp, chúng sanh cũng không phải là tác giả. Bồ Tát vì chúng sanh này mà đại trang nghiêm. Tại sao? Vì tác giả bất khả đắc, vì tất cả pháp rốt ráo cũng bất khả đắc vậy.

Cả đến cảnh mộng nhẫn đến trò biến hóa chẳng phải làm ra, chẳng phải chẳng làm ra, vì rốt ráo bất khả đắc.

Tất cả pháp là vô sở hữu, là viễn ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không phược(trói) không thoát(mở). Đây gọi là đại Bồ Tát Đàn Na Ba la mật đến Bát nhã Ba la mật không phược, không thoát; tứ niệm xứ đến Nhất thiết chủng trí không phược, không thoát.

Đại Bồ Tát thực hành không phược, không thoát sáu Ba la mật, phải biết tất cả pháp đều không tróí buộc hay giải thoát vì là vô sở hữu, là viễn ly, là tịch diệt, là bất sanh nên không trói buộc không giải thoát.

 

Phẩm “Giáp Bị Đại Thừa” quyển 51, Hội thứ I, ĐBN nói:

“Nói tóm lại, tất cả pháp đều không buộc, không mở. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp vô sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô tịnh, nên không buộc, không mở”.

Đại Bồ Tát không bị trói buộc trong việc thực thi các chương trình cứu rỗi chúng sinh, làm như vô sự, hành như không hành nên nói là vô đạo hành. Vì vậy, mới được gọi là đại Bồ Tát Đại thừa không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm.

Nếu còn thấy tâm, thấy cảnh, mình người là còn phân biệt chấp đắm tức năng sở chủ khách chưa tiêu: Còn chấp nhân ngã, khách trần... thì còn phân biệt chấp đắm tức vẫn còn trói buộc thì không thể gọi là đại trang nghiêm.

 

Kết luận:

 

Khó mà tưởng tượng được rằng các công trình kiến tạo chúng sanh của chư Bồ Tát là một công trình rỗng không, không có gì gọi là đại trang nghiêm! Một thí dụ về bố thí để cho thấy quan điểm của Đại thừa trong việc cứu độ chúng sanh mà toàn bộ ĐBN xem rỗng không như việc huyễn: Bố thí nghĩa là cho, cho một cái gì và nhận là nhận một cái gì đó, không thể nói là không có cho, không có nhận. Đối với Bát Nhã không thấy người cho, không thấy người nhận, không thấy của thí, mới gọi là bố thí Ba la mật thanh tịnh. Vì sao?

Vì cho mà còn thấy ta cho, ta giúp đỡ kẻ khác, ta đang làm từ thiện, tức còn dính cái ngã vào đó(chấp ngã). Tại sao lại không thấy người nhận? Có người chìa tay nhận vật thí tại sao nói là không thấy? Nói không thấy có nghĩa là không phân biệt kẻ nhận là khỏe hay ốm, trẻ hay già, người lành lặn hay tật nguyền. Nếu còn phân biệt, so đo là tâm còn chấp(chấp nhân). Còn vật thí tại sao không thấy? Cho là cho một đồng bạc, miếng cơm manh áo để tạm thời giúp đở kẻ khốn cùng trong cơn đói lạnh, tại sao bảo là không thấy vật cho? Nếu còn chú ý vật cho nhiều hay ít, tốt hay xấu, lớn hay nhỏ… tức còn chấp pháp. Nên muốn được xem là bố thí Ba la mật đem lại công đức vô lậu thì phải tam luân không tịch, nghĩa là không thấy người cho, kẻ nhận, không thấy vật thí tâm mới được thanh tịnh.

Vì vậy, kinh mới bảo như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của y, ở trước đại chúng, nơi ngã tư đường, biến hóa thành các loại hữu tình nghèo khổ, cô độc, tật nguyền, bệnh hoạn; tùy theo nhu cầu của họ, đều biến hóa ra mà cho. Tất cả bố thí hay các công đức phục vụ chúng sanh của Bồ Tát chẳng khác nào như việc biến hóa của huyễn sư, không khác. Thí dụ này cho thấy quan điểm của Đại thừa cũng như Bát nhã Ba la mật trong việc cứu độ chúng sanh, không có gì là sở hữu, không có gì là khả đắc trong công việc cứu rỗi này. Không thấy người cho, không thấy người nhận, không thấy vật thí không phải là không có gì cả. Có tất cả nhưng không chấp đắm thì tâm thể mới thanh tịnh. Vì vậy, Kinh nói không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm.

Bồ Tát là người tô điểm làm đẹp thế gian nầy, thị hiện trong thế giới xấu xa đầy tội lỗi, bằng ý chí và hành động, quyết tâm thực hiện những công trình “năng hành nan hành”. Bồ Tát muốn biến đổi thế giới đầy uế trọc thành Tịnh độ, phát Bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo để dẫn dắt chúng sinh đến chỗ an vui, hạnh phúc. Đó là ý nghĩa Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật.

Nhưng trang nghiêm không năng sở. Nếu Bồ Tát còn chấp mình (ta làm = năng) làm trang nghiêm cõi Phật (Tịnh quốc độ = sở) thì Bồ Tát còn chấp thủ. Đã chấp thủ thì làm sao chứng Bát Nhã Trí, làm sao giác ngộ. Chỉ khi nào không còn vọng chấp ngã pháp thì Như Lai mới gọi là đại Bồ Tát, là chân Bồ Tát.

Để tóm tắt ý nghĩa của phẩm nầy, chúng ta có thể lấy bài kệ của ngài Xuyên Thiền sư làm kết luận cho phẩm này:

 

“Mượn áo tràng bà để lạy bà

Lễ rồi, áo trả lại cho bà.

Bóng trúc quét sân, trần chẳng động

Vừng trăng xuyên biển nước không xao”.

 

Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật cũng như người mượn áo của Sư để lạy Sư. Nhưng Bồ Tát không thấy làm trang nghiêm cõi Phật, như lạy rồi trả áo lại Sư, không còn giữ dấu vết gì cả, giống như bóng trúc quét sân, như vừng trăng chiếu xuyên biển, bụi không bay mà nước cũng không động!

Rốt lại, những hành động công đức hay các chương trình cứu rỗi của Bồ Tát chẳng khác nào dấu chân trên hư không./.

 

Để luận giải phẩm này Bồ Tát Long Thọ trong phẩm thứ 17, “Trang Nghiêm”, tập 3, quyển 46, Đại trí Độ Luận nói:

“Trong chúng hội, có người nghe Phật dạy rằng các pháp đều là như huyễn, như hóa, lại dấy niệm nghĩ rằng: Thập bát không nhằm phá các pháp tướng là có thật dụng. Như vậy vì sao lại nói các pháp đều chẳng được làm ra, là phi tác?

Phật dạy: Nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát bất cộng pháp v.v... đều là vô sở tác cả. Vậy nên biết rằng thập bát không cũng là hư dối, chẳng thật có, là vô sở tác vậy.

Dẫn đến pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế đều là chân thật pháp, nhưng bản thể vốn là vô tác.

Tùy theo nghiệp nhân duyên mà trở thành hữu tác, thành ra có pháp hữu vị; mỗi mỗi đều do cộng nhân mà có vậy. Còn pháp vô vi là do đối đãi với pháp hữu vi mà có.

Bởi nhân duyên như vậy, nên Phật nói pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế cũng đều là vô sở tác, đều là rốt ráo bất khả đắc. Dẫn đến Nhất thiết chủng trí, Bồ Tát, Phật cũng đều là như vậy.

 

--o0o--

 

Lại nữa, các pháp đều là vô phược, vô thoát; mà chúng sanh chấp các pháp tướng nên ở nơi khổ xứ khó giải thoát, mới nghĩ rằng: Phật pháp rất khó làm, rất khó được.

Ngài Tu Bồ Đề thấu rõ tâm niệm của chúng sanh nên bạch Phật: Theo nghĩa mà con nghe được Phật nói, thì ngũ ấm là vô phược, vô thoát, là rốt ráo không, là bất khả đắc. Như vậy chẳng có tác giả, nên chẳng có trói buộc (vô phược) chẳng có cở mở (vô thoát).

Phật dạy: Phàm phu chấp các pháp mà chẳng biết các pháp đều là hư dối, là bất khả đắc, là vô phược, vô thoát. Còn các bậc Thánh, thấy rõ các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô phược, vô thoát. Bồ Tát thấy rõ ngũ ấm cùng các pháp thiện, bất thiện, vô ký trong 3 đời đều là như mộng, như huyễn, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc. Dẫn đến như pháp tánh, thật tế cũng như vậy.

Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tánh ly, tự tánh tịch diệt, tự tánh bất sanh, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc, nên được vô phược, vô thoát.

Bồ Tát trú nơi Trung Đạo, dẫn dắt chúng sanh thoát ly phiền não, nên nói là vô phược, vô thoát, lại chẳng dùng vô lậu để phá các pháp tướng nên nói là vô thoát.

Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, tịnh Phật độ quốc, dẫn đến được đầy đủ các thần thông, đầy đủ năm nhãn, các đà la ni và các tam muội mà vẫn chẳng rời Phật, an lạc chúng sanh trong tam thừa đạo, mà vẫn vô phược, vô thoát. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh, là rốt ráo không vậy.

Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, với đầy đủ các nhân duyên như vậy, nên được vô phược, vô thoát./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com