151. Kinh Khất Thực Thanh Tịnh

19/05/202011:39(Xem: 17441)
151. Kinh Khất Thực Thanh Tịnh

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


151. Kinh KHẤT THỰC THANH TỊNH

( Pindapàtapàrisuddhi sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương-Xá – Ra-Chá-Ga-Ha  (1)

              Tinh Xá Vê-Lu-Vá-Na  (1)

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này, nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa).  (2)

 

              Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta   (3)

      (Hay Xá-Lợi-Phất cũng là ngài đây)

          Buổi chiều, ngài sau khi Thiền định

          Đứng dậy tính đi đến Thế Tôn,

              Khi đến, đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên ngồi xuống. Thế Tôn hỏi là :

 

    – “ Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Ta thấy

          Các căn ông hết thảy đều là

              Rất sáng suốt, còn sắc da

       Của ông thanh tịnh, thật là sáng trong.

          Xá-Lợi-Phất ! Nay ông an trú

    __________________________

 

(1) : Thành Vương-Xá  – Rajagaha. Vị Vua trị vì Bimbisara (Tần-

     Bà-Sa-La hay Bình Sa Vương) đã dâng cúng Đức Phật khu

    vườn trúc ngự uyển để kiến tạo thành Veluvanavihàra  – Trúc

    Lâm Tinh Xá.            (2) : Nơi nuôi sóc Kalandakanivapa.

(3) : Tôn-giả Sariputta  – Xá-Lợi-Phất hay Xá-Lợi-Tử, vị Đại-đệ-

    tử của Phật, thường được tôn xưng là vị “Tướng quân Chánh

    Pháp”.  


 

          Phần lớn với an trú loại nào ? ”.

 

        – “ Bạch Phật ! Con an trú vào

      ‘Không trú’, phần lớn trú sâu nơi này ”.

 

    – “ Thật lành thay ! Sa-Ri-Pút-Tá !

          Ông nay đã phần lớn trú an

              Sự an trú bậc Đại-nhân.

       Sự an trú bậc Đại nhân, tức là

         ‘Không tánh’(1). Mà Sa-Ri-Pút-Tá !

          Nếu Tỷ Kheo nào đã mong điều :

             ‘Mong rằng tôi nay phần nhiều

       An trú ‘không tánh’ sớm chiều trải qua’.

          Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Như vậy

          Tỷ Kheo ấy cần phải nghĩ là :

 

             ‘Trên đường ta đã đi qua

       Vào làng khất thực, hay là nơi ta

          Đến khất thực, hoặc là đường sá

          Khi ta đã khất thực trở về…

              Đối với các sắc mọi bề

       Do mắt nhận thức, có hề khởi ra

          Ở nơi ta dục, tham, sân giận,

          Có khởi lên si, hận tâm không ?’

 

              Này Xá-Lợi-Phất ! Nếu trong

       Tỷ Kheo ấy tư duy xong, biết là :  

         ‘Trên đường ta từ chùa xuất phát

          Để đi bát (khất thực) hằng ngày, 

              Tại địa phương khất thực này,

    ____________________________

 

(1) : Khái niệm Không – Suññatà bắt nguồn do từ Không – Suñña

      (Pali).    Còn Tánh Không – Sùnyatà (Sanskrit) được sử dụng

      rộng rãi trong kinh điển Đại thừa Phật-giáo.

 

       Sau khi khất thực, liền quay trở về,

          Trên con đường ta về trở lại…

          Với sắc do mắt ấy nhận ra

              Đã có khởi lên nơi ta

       Dục, tham, sân giận, si và hận tâm’.

          Tỷ Kheo ấy phải cần tinh tấn

          Để đoạn tận bất thiện pháp đây.

 

              Nhưng Sa-Ri-Pút-Tá này ! 

       Nếu Tỷ Kheo ấy như vầy nghĩ suy :

         ‘Trên đường ta đã đi khất thực,

          Tại địa phương khất thực trải qua,

              Sau khi khất thực, trở ra

       Trên con đường ấy để ta trở về.

          Với các sắc do về mắt đó 

          Nhận thức ra, không có khởi đi

              Dục, tham hay là sân, si,

       Hoặc hận tâm’. Này Sa-Ri-Pút-Tà !

          Tỷ Kheo ấy phải qua an trú

          Với hỷ. Vị Phích-Khú hân hoan

              Ngày đêm tu học đàng hoàng

       Trong các thiện pháp nghiêm trang hành trì.

 

          Lại nữa, này Sa-Ri-Pút-Tá !

          Vị Tỷ Kheo phải khá nghĩ suy :

             ‘Trên con đường ta đã đi

       Khất thực, nơi đó, đường đi trở về…

          Với các tiếng do nghe tai đấy,

          Các hương do mũi ấy nhận ra,

              Các vị do lưỡi nhận ra,

       Xúc do thân nhận thức ra, cùng là

          Các pháp do ý mà nhận thức…

          Có khởi lên các dục, tham, sân,

              Si hay hận tâm các phần ?

       Nếu có phát khởi, tinh cần diệt đi.

          Nếu nghĩ suy cặn kẻ, thấy rõ

          Ta không có, thì Tỷ Kheo này

              Phải an trú với hỷ đây

       Và hân hoan để hành ngay đêm ngày

          Các thiện pháp cho đầy đủ cả.

 

          Này Sa-Ri-Pút-Tá ! Còn như

              Tỷ Kheo cần phải suy tư :

      ‘Năm dục trưởng dưỡng ta trừ diệt chưa ?’  (1)

          Nếu nghĩ suy thấy chưa đoạn tận

          Tỷ Kheo phải tinh tấn diệt đi

              Năm dục trưởng dưỡng cấp kỳ.

 

       Nếu Tỷ Kheo ấy nghĩ suy, thấy rằng :

         ‘Đã diệt năm dục trưởng dưỡng’ đấy,

          Tỷ Kheo ấy phải an trú ngay

              Với hỷ, hân hoan đêm ngày

       Tu học các thiện pháp đầy tinh hoa.

 

          Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Rồi vị 

          Tỷ Kheo ấy suy nghĩ hơn thua :

             ‘Năm triền cái ta diệt chưa ?’ (2)

        Nếu nghĩ cặn kẻ, thấy chưa đoạn trừ,

           Phải tinh tấn đoạn trừ triền cái.

    ___________________________

 

(1) : Năm dục trưởng dưỡng : Các Dục vọng do mắt duyên với sắc,

    tai duyên với âm thanh, mũi duyên với hương, lưỡi duyên với vị,

    thân duyên với xúc… Các dục vọng đó nếu không ngăn chận thì

    cứ tăng trưởng mãi.

(2) : Năm triền cái : tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo

    hối (trạo cử) và nghi.

 

          Nhưng ngược lại, khi đã suy tư

              Thấy rằng ta đã đoạn trừ

       Cả năm triền cái, thời từ điều đây

          Tỷ Kheo này phải an trú hỷ,

          Hân hoan, tu học kỹ đêm ngày

              Trong các thiện pháp đủ đầy.

 

       Lại nữa, Xá-Lợi-Phất này ! Cũng như

          Tỷ Kheo cần suy tư đầy đủ :

         ‘Ta liễu tri năm thủ-uẩn chưa ?’

              Nếu suy nghĩ kỹ, thấy chưa

       Liễu tri năm thủ uẩn, chưa rõ ràng,

          Tỷ Kheo ấy phải càng tinh tấn

          Liễu tri năm thủ uẩn trải qua.

              Nhưng này Sa-Ri-Pút-Ta !

       Trong khi nghĩ kỹ, biết đà liễu tri

          Năm thủ uẩn. Vậy thì Phích-Khú

          Phải an trú với hỷ, hân hoan

              Ngày đêm tu học sẵn sang

       Trong các thiện pháp khó toan tư nghì.

 

          Lại nữa, này Sa-Ri-Pút-Tá !

          Tỷ Kheo đã suy nghĩ sớm trưa :

             ‘Ta tu bốn niệm xứ chưa ?  (1)

       Tu tập bốn chánh cần (1) vừa hay chưa ?

          Tu tập chưa bốn như ý túc ? (1)

          Năm cănnăm lực (1) tu chưa ?

              Bảy giác chi (1) tu tập chưa ?

       Tám ngành Thánh Đạo (1) thượng thừa tu chưa ? 

          Tu tập chưa Chỉ và Quán vậy ? (2)

     ___________________________

  (1) : Xem chú thích ở trang kế  540.

  (2) : Xem chú thích trang 524 thuộc Kinh số 149 : SÁU XỨ.


 

          Đã chứng ngộ Minh, Giải thoát (*) chưa ?

              Nếu suy nghĩ kỹ, thấy chưa

       Tỷ Kheo ấy phải chạy đua thì giờ

          Phải tinh tấn từng giờ từng khắc,

          Nếu nghĩ kỹ, thấy thật tình rằng

              Ta đã tu tập tinh cần

       Thì Tỷ Kheo ấy phải cần trú an

          Với hỷ và hân hoan tu tập

          Các thiện pháp trong cả đêm ngày.

 

              Lại nữa, Xá-Lợi-Phất này !

       Sa-môn, Phạm-chí nào ngay trong đời

          Quá khứ thời khiến sự khất thực

          Đã trở thành một mực tịnh thanh

              Là những vị ấy thực hành

       Khiến sự khất thực tịnh thanh bằng điều

          Suy tư, suy tư nhiều như vậy.

 

          Các vị ấy : Phạm-chí, Sa-môn

              Trong thời tương lai bảo tồn

       Cùng thời hiện tại giữ tròn điều đây

          Khiến sự khất thực này thanh tịnh

          Sẽ hay đang thanh tịnh thực hành

              Khiến sự khất thực tịnh thanh

       Bằng cách nghĩ kỹ, tâm thành suy tư.

          Sau khi đã suy tư, nghĩ kỹ 

     _______________________________

 

* Chú thích phần trang trước :

 

(1) : Ba mươi bảy pháp trợ đạo (hay 37 bồ đề phần pháp) gồm :

   Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc (hay như ý túc), ngũ căn,

   ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo.

(*) : Minh và Giải thoát.

 [ Xem chú thích thêm ở phần cuối Kinh, trang 541- 542 ]      



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/11/2025(Xem: 166)
Đời người là một cuộc hành trình dài, nhưng lại ngắn ngủi đến không ngờ. Ta khởi đi từ đâu và đích đến là đâu? Câu hỏi ấy không cần ở đâu xa, mà cần sự hồi quang (quay lại nhìn) vào chính tâm mình. Giữa biển đời mênh mông vô tận, con người mãi ngược xuôi tìm cầu tham ái. Có kẻ rong ruổi ngoài trần thế, tìm kiếm một miền an lạc ở tận đâu xa; có người hướng vào tâm linh, mong thấy Phật trong lời kinh, trong tiếng mõ. Lục Tổ Huệ Năng từng dạy: “Tâm mê tức chúng sinh, tâm ngộ tức Phật.” (心迷即眾生,心悟即佛。)(1) “Người mê đi tìm Phật ở phương xa, người ngộ nhận ra Phật nơi tự tâm.”
08/11/2025(Xem: 290)
Thuở đức Phật ngồi dưới cội bồ đề Đêm gần tàn sáng sao mai xanh biếc Khai mở con đường minh triết phương Đông Sư tử hống chấn động mười ngàn thế giới Giặc ngu tối rùng mình rũ rượi Người vượt thoát tử sinh đến bến bờ tịch tinh Trí tuệ quang minh bừng lên rạng rỡ
06/11/2025(Xem: 822)
Bạn thương mến, hy vọng lá thư này đến từ những người đang tiếp xúc trực tiếp với các bạn ( những người chịu nhiều thiệt hại và mất mát sau thiên tai ) như một làn gió nhẹ thổi thật dịu dàng đến những trái tim từng mất tất cả, bằng một lòng thương cảm sâu xa giúp các bạn nhìn lại sự sống bằng ánh sáng hiền hòa của từ tâm và chánh niệm.
31/10/2025(Xem: 384)
Dao Ca Trăng Nhạc & Lời: Khánh Hoàng Ca sĩ: Hạnh Nguyên Hòa âm: Thái Bảo Lộc pps: Thường Minh
25/10/2025(Xem: 470)
Ngón Tay Chỉ Trăng (tập 01) Trực Chỉ Đề Cương
24/10/2025(Xem: 943)
a bậc tài danh – Leonardo da Vinci, Baruch Spinoza và Vincent van Gogh – mỗi người là một khía cạnh của hành trình nhân loại tìm đến chân lý. Cả ba đều chứng minh rằng: trí mà không phước thì sáng mà mong manh, phước mà thiếu duyên thì nở muộn như hoa trong đêm, còn duyên mà không trí thì chỉ là hư sắc thoảng qua.
24/10/2025(Xem: 828)
Thuần nhiên, nhẹ nhàng như hơi thở là tiếng thơ của Chân Tạng Nghiêm. Một tiếng thơ lấp lánh, long lanh ngời ánh thanh cao, là nguồn thơ trong trẻo, reo ca giọng hát thiên lương trong tận đáy xanh lòng... Lòng yên, tâm lặng như vầng trăng sáng chiếu diệu kỳ. Thi ca đi về trên đôi chân trần, chất phác, nhè nhẹ khẽ chạm vào núi sông, rừng biển, suối thác, mưa nắng, trăng sương, gió mây, cây lá, chim bướm, cỏ hoa trên mặt đất thân yêu. Nhật nguyệt cũng huyền hòa chan chứa giữa ánh sáng ban sơ, diễm tuyệt, bừng lên rực rỡ trong tâm hồn vô ngại của trái Tim Thơ.
22/10/2025(Xem: 1493)
Về thôi, về mặc Cà Sa Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương Về thăm lại tiếng chơn thường Thăm vườn lam nhả khói thiêng Cõi Thiền Ô hay, một góc trời yên Một vườn hoa toả hương miền ngàn bay Thoảng trong gió, thoảng chân đài… Gót sen thoát những cơn say bụi trần
21/10/2025(Xem: 614)
Quảng Đức từ quang chiếu cõi thiền, Tăng Ni đạo hạnh sáng tâm nguyên. Phật tử tinh chuyên bền chí nguyện, Nương theo ân đức bậc cao hiền. Ngưỡng mộ đức - tài Thầy Nguyên Tạng Chí nguyện độ sinh khắp mọi miền Lời kinh nhẹ rót như mưa pháp, Từng bước khoan thai ấm cửa thiền
19/10/2025(Xem: 948)
Kể từ ngàn xưa muôn thuở nọ, tuy xa xăm, hun hút tuyệt mù nhưng vẫn còn dư vang, thấp thoáng trong sương mờ vạn cổ, những bóng người đi giữa thiên thu vời vợi. Đó là những Thiền sư, những Thi sỹ, những đạo nhân, mặc khách, hành giả đã xuất hiện trên mặt đất, trần gian này. Họ đến rồi đi, chỉ để lại vài tiếng thơ, tiếng sáo hòa lẫn trong tiếng hét, tiếng gầm rền vang với giọng cười tiêu dao, hào sảng còn dội âm trầm hùng suốt vạn đại rung ngân...