TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majhima Nikàya )
Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tự TUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : honglacmai1@yahoo.com
127. Kinh A-NA-LUẬT
( Anuruddha sutta )
Như vậy, tôi nghe :
Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ
An trú tại Xá-Vệ thành này
Sa-Vát-Thí cũng là đây
Kỳ Viên Tinh Xá hôm mai tịnh, hòa
Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná (1)
Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia
(A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka) (1)
Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.
Một buổi mai, Panh-Cha-Kan-Gá (2)
Một thợ mộc, bảo gã người nhà :
– “ Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha
Đang ở Tinh Xá Chê-Ta-Va-Nà
Hãy đến, nhân danh ta cung kính
Cúi đầu đính lễ dưới chân ngài,
Thưa rằng : ‘Thỉnh ngài ngày mai
Cùng ba vị nữa thân lai đến nhà
Của thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá
Để thọ thực. Tôn-giả vui lòng
Đến sớm vào lúc hừng đông
Bởi vì Gia-chủ chính trong lúc này
Nhiều việc phải làm ngay chẳng đợi,
Nhiều bổn phận đối với Quốc-vương ”.
____________________________
(1) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana-vihàra do Trưởng-giả Cấp Cô
Độc – Anathapindika dâng cúng đến Đức Phật.
(2) : Thợ mộc tên Pañcakanga.
Người nhà nghe nói tinh tường
Vâng lời, đi đến Tăng đường Kỳ Viên
Rồi đến liền tịnh thất an trú
Của Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha (1)
(Tức là A-Nậu-Lâu-Đà
Hay A-Na-Luật cũng là ngài đây).
Đảnh lễ ngài rồi thưa tất cả
Lời của chủ – Panh-Chá-Kan-Ga.
Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà
Im lặng, là cách tỏ ra nhận lời.
Đến hôm sau, lúc trời hừng sáng,
Đêm đã mãn, Tôn-giả đắp y
Mang bát, cùng với ba vì
Tỷ Kheo, rảo bước uy nghi đến nhà
Của thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá
Sau khi đến, an tọa nghiêm trang
Chỗ đã được soạn sẵn sàng.
Rồi vị thợ mộc cúng dàng thức ăn,
Món quý trân loại mềm và cứng,
Gia chủ đứng phục vụ hết lòng.
Sau khi các vị ăn xong,
Tay rời bình bát, rồi đồng đọc kinh
Phúc chúc cho gia đình tín chủ.
____________________________
( ) : Anuruddha (còn có tên A-Nậu-Lâu-Đà, A-Nậu-Đà-La hay
A-Na-Luật ), một trong 7 vị vương-tử giòng Thích Ca xuất gia
theo Phật khi Ngài đã thành đạo và trở về Kapilavatthu .
Tôn-giả có tật hay ngủ gật khi nghe Phật thuyết pháp, bị Phật
quở trách, nên ngài phát nguyện không ngủ cho tới khi nào đắc
quả. Do sự cố gắng quá sức, nên hai mắt ngài bị mù . Sau đó
ngài đắc quả A-La-Hán và được liệt vào Thập Đại Đệ Tử của
Phật, bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất.
Rồi Gia chủ thợ mộc nói trên
Lấy ghế thấp ngồi một bên
Hướng về Tôn-giả, thưa lên như vầy :
– “ Bạch Tôn-giả ! Ở đây một dạo
Các Tỷ Kheo Trưởng Lão nói rằng :
‘Này Gia chủ ! Hãy tinh cần
Vô-lượng-tâm giải-thoát năng tu trì’.
Cũng có một số vì Trưởng Lão
Thì lại bảo : ‘Hãy tu hằng ngày
Đại-hành-tâm giải-thoát này’.
Kính bạch Tôn-giả ! Như vầy phải chăng
Hai pháp vừa khác văn, khác nghĩa
Hay đồng nghĩa, khác biệt về văn ? ”.
– “ Này Gia chủ ! Chính từ tự thân
Thế nào ông nghĩ về căn bản này ?
Hãy nói ngay điều ông nghĩ ấy,
Vấn đề đấy xác thật cho ông ”.
– “ Thưa Tôn-giả ! Tự trong lòng
Con nghĩ : ‘Hai pháp này đồng nghĩa nhau
Nhưng khác văn. Thế nào tôn ý ? ”.
– “ Này Gia chủ ! Phải nghĩ như vầy :
‘Vô-lượng-tâm giải-thoát đây
Và đại-hành-tâm giải-thoát này, cả hai
Những pháp này chúng vừa khác nghĩa
Vừa khác văn, chặt chịa điều này’.
Gia chủ cần hiểu như vầy,
Hiểu đúng với pháp môn đây trình bày.
Cư Sĩ này ! Thế nào hiểu đạt
Vô-lượng-tâm giải-thoát thanh cao ?
Tự thân vị Tỷ Kheo nào
An trú biến mãn nhằm vào một phương,
Tâm an tường với Từ câu hữu.
Cũng như vậy, câu hữu phương hai
Phương thứ ba, thứ tư này
Cùng khắp thế giới, trong, ngoài, dưới, trên,
Cả bề ngang, mọi bên phương xứ
Khắp vô biên… an trú với Từ
Quảng đại, vô biên, an như,
Không sân, không hận, quảng từ, vô biên.
Này Cư Sĩ ! Gọi liền chẳng khác
Vô-lượng-tâm giải-thoát là đây.
Còn thế nào để hiểu ngay
Đại-hành-tâm giải-thoát này hành theo ?
Ở đây, vị Tỷ Kheo cho tới
Một gốc cây trú với lạc yên
Biến mãn, thấm nhuần vô biên
Cho đến vậy, khi tu Thiền trải qua
Được gọi là đại-hành-tâm ấy
Giải thoát vậy. Lại nữa xảy ra
Tỷ Kheo cho đến hai, ba
Gốc cây – trú, biến mãn qua, thấm nhuần
Cho đến luôn khi Thiền định vậy.
Hoặc vị ấy cho đến một làng,
Cho đến hai, ba ruộng, làng,
Một đại vương-quốc – trú an, biến đầy,
Thấm nhuần lớn, đến ngay như vậy
Khi vị ấy tu Thiền trải qua,
Tỷ Kheo cho đến hai, ba
Đại vương-quốc như vậy mà trú an,
Biến mãn toàn, thấm nhuần lớn đại,
Cho đến vậy, trong khi tu Thiền,
Vì thế, nó được gọi liền :
‘Đại-hành-tâm giải-thoát’ riêng như vầy.
Gia chủ này ! Phải nên hiểu rõ
Hai pháp đó – khác nghĩa, khác văn.
Gia chủ ! Có bốn hữu-sanh
(Bốn sự sanh khởi) là danh mọi thời
Cho một đời sống mới – nghĩa đó.
Sao mà có bốn hữu-sanh vầy ?
Này Cư Sĩ ! Như ở sđây
Một người với hào quang nay có chừng
(Có hạn lượng) và từng an trú
Biến mãn đủ, thấm nhuận muôn trùng,
Sau khi thân hoại mạng chung
Được sanh và cộng trú cùng Chư Thiên
Thiểu Quang Thiên. Rồi có vị khác
Hào quang đạt vô lượng, trú an
Biến mãn, thấm nhuần vô vàn
Sau khi thân hoại mạng chung, sinh liền
Cõi Vô Lượng Quang Thiên, cộng trú.
Này Gia chủ ! Lại nữa, có người
Hào quang tạp nhiễm chẳng rời
An trú, biến mãn mọi nơi, thấm nhuần,
Sau thân hoại mạng chung, sinh tới
Cộng trú với Tạp Nhiễm Quang Thiên.
Rồi lại có người thiện hiền
Hào quang thanh tịnh và liền trú an
Biến mãn toàn, thấm nhuần như vậy,
Khi vị ấy thân hoại mạng chung
Được sinh cộng trú ung dung
Chư Thiên Biến Tịnh Quang, cùng nơi đây.
Bốn loại hữu-sanh này là vậy.
Một thời ấy, Chư Thiên các vì
Tập họp tại một chỗ, thì
Thấy sự sai khác nhiều khi sắc màu,
Không sai khác thuộc vào ánh sáng
Của hào quang. Như dạng có người
Cần nhiều đèn dầu đồng thời
Ung dung đi thẳng vào nơi một nhà
Khi vào nhà, các cây đèn ấy
Ngọn lừa cháy được thấy khác nhau
Nhưng không có sai khác nào
Về ánh sang các đèn dầu nói trên.
Cũng vậy, nên hỡi này Cư Sĩ !
Có một thời các vị Chư Thiên
Tập họp tại một chỗ, liền
Thấy sự sai khác về duyên sắc màu
Cũng thấy mau có sự sai khác
Về hào quang của các vị Thiên.
Các vị ấy không phan duyên
Không nghĩ điều đó thường xuyên, thường còn,
Thường hằng và sắt son thường trú,
Nhưng Chư Thiên an trú chỗ nào
Thời tại chỗ ấy trước sau
Chư Thiên cùng sống với nhau thuận hòa,
Sống thoải mái, như là ví dụ
Các con ruồi trú ngụ la đà
Trên đòn gánh, trong giỏ hoa
Chúng không có nghĩ như là chính đây
Thường còn hay thường hằng, thường trú
Cho chúng tôi cư ngụ lâu nào !
Nhưng ruồi an trú nơi đâu
Chỗ ấy chúng thoải mái vào sống an ”.
Nghe nói vậy thì hàng Tôn-giả
A-Phi-Dá Kách-Chá-Na (1) đây
Cùng đi thọ trai với ngài
A-Nú-Rút-Thá. Vị này thưa ngay :
– “ Tốt lành thay ! Thật là xác thực
A-Na-Luật Tôn-giả trình bày
Ở đây, tôi có câu này
Cần phải hỏi rõ, xin ngài giảng thêm.
Thưa Tôn-giả ! Chư Thiên đây đó
Các vị có phát ra hào quang,
Đều có hạn lượng hào quang
Hay một số có hào quang vô lường ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Tùy trường hợp cả !
Ở đây đã có nhiều Chư Thiên
Hào quang vô lượng vô biên,
Nhưng một số vị do duyên không toàn
Có hào quang hạn lượng được tả ”.
– “ Thưa Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà !
Do nhân & duyên gì xảy ra
Nên dù các vị sinh qua cõi Trời
Một số thời hào quang hạn lượng,
Một số có vô lượng hào quang ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Hãy sẵn sàng !
Tôi hỏi Hiền-giả – nếu kham nhẫn, thời
Hiền-giả sẽ trả lời theo ý,
______________________
( ) : Vị Tôn-giả Abhiya Kaccana.
Hiền-giả nghĩ thế nào điều này ?
Tỷ Kheo cho đến một cây
Thấm nhuần, biến mãn đủ đầy, trú an
Trong khi đang tu Thiền tâm trụ.
Hay Phích-Khú cho đến hai, ba
Gốc cây – biến mãn đủ đầy
Thấm nhuần, an trú như vầy, trong khi
Đang tu Thiền, vậy thì căn cứ
Trong hai sự tu tập tâm này
Tu tập nào rộng lớn đây ? ”.
– “ Thưa Tôn-giả ! Tỷ Kheo đây như vầy
Cho đến hai gốc cây & ba, bốn
An trú, biến mãn lớn, thấm nhuần
Trong khi tu thiền tập huân
Sự tu tập đó đơn thuần hơn xa ”.
– “ Hiền-giả Kách-Cha-Na ! Như vậy
Tỷ Kheo ấy cho đến ruộng làng
Một, hai hay ba ruộng làng
Thấm nhuần, biến mãn, trú an như vầy,
Cho đến ngay một đại vương-quốc
Hai, ba đại vương-quốc – trú an
Biến mãn, thấm nhuần vô vàn
Cho đến như vậy khi đang tu thiền,
… Cho đến tận hải biên xa thẳm
Biến mãn và nhuần thấm, trú yên
Xảy đến khi đang tu thiền,
Như vậy tu tập tâm liền trước sau
Sự tu tập tâm nào hơn cả ? ”.
– “ Thưa Tôn-giả A-Nậu-Đà-La !
Tỷ Kheo cho đến rất xa
Giải đất tận hải biên mà trú an
Biến mãn toàn, thấm nhuần rộng rãi
Cho đến vậy khi đang tu thiền
Trong hai sự tu tập trên
Cho đến đất tận hải biên như vầy
Sự tu tập tâm này hơn cả ”.
– “ Hiền-giả Kách-Cha-Ná ! Đó là
Do nhân & duyên này xảy ra
Chư Thiên ấy tuy sinh ra Thiên đường
Một số thường hào quang hạn lượng,
Một số có vô lượng hào quang ”.
– “ Thưa Tôn-giả ! Tôi hiện đang
Có một câu nữa cầm mang hỏi ngài :
‘Về hào quang hiển bày Thiên-chúng
Có phải đúng tất cả hào quang
Là tạp nhiễm hay hào quang
Thanh tịnh của một số hàng Chư Thiên ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Tuy nhiên ở đó
Nhiều vị Thiên cũng có hào quang
Tạp nhiễm. Nhưng cũng có hàng
Chư Thiên có hào quang toàn tịnh thanh ”.
– “ Thưa Tôn-giả ! Phát sanh như vậy
Do nhân & duyên gì thấy rõ ràng
Chư Thiên hoặc có hào quang
Tạp nhiễm, hoặc có hào quang tịnh lành ? ”.
– “ Này Hiền-giả ! Có nhanh ví dụ
Nhờ ví dụ, người trí hiểu ngay
Ý nghĩa của lời nói này :
Như cây đèn cháy với đầy dầu dơ
Tim đèn cũng đen dơ như vậy,
Cây đèn ấy cháy rất mù mờ
Vì dầu, tim đèn đều dơ.
Cũng vậy, Phích-Khú xưa giờ trú an
Biến mãn, thấm nhuần toàn thất niệm
Với hào quang tạp nhiễm đêm ngày
Thân dâm hạnh của vị này
Không khéo chấm dứt, luôn hay hôn trầm,
Thụy miên không quyết tâm chấm dứt
Trạo cử, hối quá thực dẫy đầy
Không được khéo nhiếp phục ngay.
Vì những cớ ấy, vị này xem như
Đèn cháy lên lừ đừ, yếu mãi.
Khi thân hoại, sinh tới cõi Thiên
Cộng trú cùng với Chư Thiên
Có hào quang tạp nhiễm, duyên là vầy.
Hiền-giả này ! Khi ngọn đèn ấy
Được đốt cháy với cái tim đèn
Và dầu sạch sẽ không đen
Ngọn lửa tỏa sáng từ đèn dầu đây.
Hiền-giả này ! Tỷ Kheo an trú
Biến mãn, thấm nhuần đủ như vầy
Với hào quang thanh tịnh đây,
Khi thân dâm hạnh vị này dứt ngay,
Hôn trầm, thụy miên này dứt cả
Và trạo cử, hối quá ở đây
Được khéo nhiếp phục đêm ngày,
Chính do vì vậy, vị này được xem
Đã cháy lên ngọn lửa tỏ sáng,
Khi thân hoại, đã mãn trần duyên
Được sinh cộng tru Chư Thiên
Hào quang thanh tịnh lan truyền tỏa xa,.
Kách-Cha-Na ! Trả lời Hiền-giả
Do nhân này và cả duyên này
Giữa Chư Thiên kể ở đây
Cùng một Thiên-chúng, nhưng hay bất toàn
Một số có hàn quang tạp nhiễm,
Nhiều vị Thiên ưu điểm có ngay
Hào quang thanh tịnh như vầy ”.
Khi nghe nói vậy, thì ngài cùng đi
Là A-Phi-Dá Kách-Cha-Ná
Hướng Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha
Thưa rằng : “ Lời giảng sâu xa
Lành thay ! A-Nậu-Lâu-Đà Đại-sư !
Chính Đại Sư đã không khẳng định
‘Như vậy chính tôi nghe’ lời này
Hay ‘Sự việc đúng như vầy’.
Trái lại Tôn-giả ở đây nói là :
‘Chư Thiên này đã là như vậy’,
‘Chư Thiên kia như vậy’ nói ra.
Thưa Tôn-giả ! Tôi nghĩ là
Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha – vị này
Chắc chắn đã sống rày trước đó
Đã đàm thoại trước đó nhiều thời
Với Chư Thiên các cõi Trời ”.
– “ Kách-Cha-Na Hiền-giả ! Lời của Sư
Đến gần như là điều thách đố
Để ta phải tuyên bố ra lời.
Nhưng nay ta sẽ trả lời :
Từ trước ta đã có thời sống qua,
Đã đàm luận thật là tâm đắc
Với Chư Thiên ở khắp gần xa ”.
Sau khi đã được nghe qua
Lời vị Tôn-giả tại nhà Tín-gia
Là thợ mộc Panh-Cha-Kan-Gá
Thì Tôn-giả Kách-Chá-Na đây
Nói với người thợ mộc này :
– “ Thật là lợi ích tròn đầy cho ông !
Khiến cho ông đoạn trừ nghi hoặc
Những thắc mắc từ trước đến nay
Được dịp nghe pháp môn này
Từ A-Na-Luật là ngài Thánh Tăng ./-
* * *
( Chấm dứt Kinh số 127 : A-NA-LUẬT
– ANURUDDHA Sutta )